Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

việt nam hội nhập kinh tế thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.58 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và đang
là xu thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại. Phù hợp với xu thế đó, từ năm
1986 đến nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội nhập
kinh tế quốc tế với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại.
Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu
vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại
rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực.
Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia
tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.


I - KHÁI QUÁT ( khái niệm, đặc điểm ) :
Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới :

Đây chính là đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thế giới (KTTG) hiện nay. Chính
đặc điểm này tạo ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng cao giữa các quốc
gia và khu vực. Các định chế và tổ chức kinh tế - thương mại khu vực và quốc tế
đã được hình thành để phục vụ cho quá trình HNKTQT, tạo lập hành lang pháp
luật chung và để các nước cùng tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề lớn
của KTTG mà không một quốc gia nào có thể thực hiện một cách đơn lẻ.

-

KN : Hội nhập Kinh tế quốc tế là việc gắn kết nền kinh tế nước ta với nền
kinh tế khác trên thế giới. Xây dựng một kinh tế mở, hội nhập với khu vực và
thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những

-



sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
Đặc điểm cơ bản của toàn cầu hoá và HNKTQT trên thế giới hiện nay thể
hiện qua một số xu hướng chính như sau:
1. Xu hướng tăng cường hợp tác đa phương

2. Xu bướng tự do hoá và khu vực hoá
3. Thương mại dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong thương mại thế giới
4. Sự tăng cường chính sách bảo hộ với các rào cản thương mại hiện đại
a)

b)

Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế :
Nguyên nhân khách quan
+ Do sự phát triển mạnh mẽ về KHCN đòi hỏi mỗi nước cần khai thác có hiệu quả
để khai thác kinh tế quốc gia
+ Do tác động xu hướng toàn cầu hóa,quốc tế hóa
+ Do xu hướng hòa bình hợp tác buộc các quốc gia trên thế giới chuyển từ đối đầu
sang đối thoại
Nguyên nhân chủ quan


+ Không có quốc gia nào có đủ nguồn lực để phát triển kinh tế quốc gia mình
+ Không có quốc gia nào muốn tụt hậu so với các quốc gia khác

II- NỘI DUNG :
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay được hiểu là việc một quốc gia thực hiện chính
sách kinh tế mở, tham gia các định chế kinh tế-tài chính quốc tế, thực hiện tự do
hoá và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư bao gồm các lĩnh vực:

- Về thương mại hàng hóa: Các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như
QUOTA, giấy phép xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện hành và giảm
dần theo lịch trình thỏa thuận…
- Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với các bốn
phương thức: cung cấp qua biến giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, thông qua
liên doanh.
- Về thị trường đầu tư: Không áp dụng đối đầu với đầu tư nước ngoài yêu cầu về tỉ
lệ nội địa hóa, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ khuyết
khích
tự
do
hóa
đầu
tư…
- Đàm phán cắt giảm thuế quan, tiến tới thực hiện thuế suất bằng 0 đối với hàng
hoá xuất nhập khẩu ;
- Giảm thiểu, tiến tới loại bỏ các hàng rào phi thuế quan gây cản trở đối với hoạt
động thương mại. Những biện pháp phi thuế phổ thông (như giấy phép, tiêu chuẩn
chất lượng, vệ sinh kiểm dịch...) cần được chuẩn mực hoá theo các quy định
chung của WTO hoặc các thông lệ quốc tế và khu vực khác;
- Giảm thiểu các hạn chế đối với thương mại, dịch vụ, tức là tự do hoá hiện nay có
khoảng 12 nhóm dịch vụ được đưa vào đàm phán, từ dịch vụ tư vấn giáo dục, tin
học đến các dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông, giao thông vận tải...
- Giảm thiểu các hạn chế đối với đầu tư để mở đường hơn nữa cho tự do hoá
thương mại ;
- Điều chỉnh chính sách quản lý thương mại theo những quy tắc và luật chơi
chung quốc tế, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến giao dịch thương mại , như thủ
tục hải quan, quyền sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh ...Tại các diễn đàn quốc
tế và khu vực hiện nay, việc điều chỉnh và hài hoà các thủ tục hành chính liên
quan đến giao dịch thương mại được gọi là hoạt động thuận lợi hoá thương mại;

- Triển khai các hoạt động hợp tác kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm nâng cao năng
lực của các nước trong quá trình hội nhập.
Như vậy, có thể thấy vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay
không chỉ đơn thuần là giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được


mở rộng cho tất cả các lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế-thương mại,
nhằm mục tiêu mở rộng thị trường cho hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào
cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại quốc tế.
Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, đất nước chúng ta đã
từng bước chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Những kết quả đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần
quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao vị thế, vai trò của
Việt Nam trên trường quốc tế.
- Tháng 7/1995, VN trở thành thành viên chính thưc của Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á ( ASEAN) đã mở đầu cho tiến trình hội nhập KTQT ở VN.
- Ngày 1/1/1996 VN tham gia khu vực thương mại tự do ASEAN ( AFTA)
- Tháng 3/1996, VN tham gia diễn đàn hợp tác Á – ÂU ( ASEM)
- Tháng 11/1998, VN đã gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình
Dương (APEC)
- Ngày 7/11/2006 , VN đã được công nhận là thành viên của Tổ chức Thương
mại thế giới ( WTO)
- Ngoài ra còn hợp tác song phương và kí kết nhiều hiệp định về kinh tế với
các nước trên thế giới như Mỹ, Nhật, Đức, Hàn, Úc,Trung Quốc,...
Tình hình Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có
một số điểm nổi bật sau:
1. Việt Nam đang tích cực tham gia và phát huy vai trò thành viên trong các
tổ chức kinh tế quốc tế.
Với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế: WTO, ASEAN,
APEC,.. Việt Nam đã nỗ lực thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết và tích

cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các tổ chức này. Cụ thể như sau:
* Trong khuôn khổ WTO:
- Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách
thương mại theo hướng minh bạch và tự do hóa hơn, việc cải cách này thể
hiện ở các cam kết đa phương về pháp luật và thể chế cũng như các cam kết
mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ.
- Việt Nam đã thực hiện đúng các cam kết đa phương và các cam kết mở cửa
thị trường hàng hoá, dịch vụ cũng như các biện pháp cải cách đồng bộ nhằm


tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua thách thức trong giai đoạn ta hội nhập sâu
hơn vào nền kinh tế toàn cầu.
- Là thành viên của WTO, ta đã cố gắng tham gia tích cực các cuộc đàm
phán trong khuôn khổ WTO ở các nội dung có liên quan đến Việt Nam có
liên quan đến Việt Nam như nông nghiệp, công nghiệp, sở hữu trí tuệ, trợ cấp
thủy sản và chương trình hỗ trợ thương mại của WTO…..
* Trong khuôn khổ ASEAN
- Sau 22 năm tham gia Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN, 19952017), mối quan hệ hợp tác khu vực giữa Việt Nam với ASEAN ngày càng
phát triển toàn diện và có tác động sâu sắc tới đời sống kinh tế, xã hội và
chính trị của Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên các diễn
đàn hợp tác khu vực và thế giới. Đối với Việt Nam, ASEAN luôn là đối tác
thương mại và đầu tư lớn nhất (riêng năm 2009, ASEAN là nhà đầu tư lớn
thứ 2 của Việt Nam, sau Hoa Kỳ).
- Việc thực hiện các cam kết hội nhập sâu rộng nhằm xây dựng Cộng đồng
ASEAN vào năm 2015 đã đóng góp thiết thực cho việc cải thiện môi trường
luật pháp trong nước, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài, cũng như làm cơ sở, làm tiền đề giúp Việt Nam tham
gia các khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương khác.
- Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Chủ tịch luân phiên của ASEAN
vào năm 2010, trong năm 2011, Việt Nam đã tích cực tham gia các chương

trình hợp tác nhằm thực hiện Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Cho tới nay,
Việt Nam là một trong số các nước có tỷ lệ thực hiện cao các biện pháp và
sáng kiến đề ra trong Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng kinh tế
ASEAN.
* Trong khuôn khổ APEC
- Đối với Việt Nam, Diễn đàn APEC có ý nghĩa hết sức quan trọng. APEC là
khu vực dành viện trợ phát triển lớn nhất, chiếm tới 65% tổng số vốn đầu tư
nước ngoài, 60% giá trị xuất khẩu, 80% giá trị nhập khẩu, và 75% tổng số
khách du lịch quốc tế tới Việt Nam. Hầu hết các đối tác chiến lược quan


trọng và các đối tác kinh tế - thương mại hàng đầu của ta là các nền kinh tế
thành viên của APEC.
- Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn APEC năm 1998,
Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc các cam kết hợp tác của APEC như Báo
cáo về Chương trình Hành động Quốc gia hàng năm, thực hiện Chương trình
Hành động tập thể, các kế hoạch hợp tác về thuận lợi hoá thương mại, đầu
tư... Ta cũng đảm nhận vị trí Chủ tịch và điều hành nhiều Nhóm công
tác quan trọng như Nhóm Công tác Y tế nhiệm kỳ 2009 - 2010, Nhóm công
tác về Đối phó với tình trạng khẩn cấp, Nhóm công tác về thương mại điện
tử… Việt Nam đã triển khai thành công hơn 60 sáng kiến, đồng bảo trợ hàng
trăm sáng kiến trên hầu hết các lĩnh vực thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế
kỹ thuật, y tế, đối phó với thiên tai, chống khủng bố... Việt Nam đã được
đánh giá là một trong những thành viên năng động, đã có nhiều sự đóng góp
tích cực cho Diễn đàn APEC.
* Trong khuôn khổ ASEM
- Là diễn đàn đại diện hơn 60% dân số thế giới và đóng góp hơn 50% tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, ASEM không chỉ là cầu nối cho quan hệ
đối tác mới giữa hai châu lục Á-Âu mà còn hướng tới mục tiêu đem lại
những đóng góp thiết thực cho hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.


III- THÀNH TỰU :
-

Việt Nam ra khỏi tình trạng bị bao vây cấm vận, cô lập tạo dựng được môi
trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, nâng cao vị thế nước ta trên chính trường và thương trường thế giới.
Cho đến nay, Việt Nam đã ký 86 hiệp định thương mại song phương, 46 hiệp
định khuyến khích và bảo hộ đầu tư và 40 hiệp định chống đánh thuế hai lần
với các nước và vùng lãnh thổ; có quan hệ thương mại với trên 160 nước và
nền kinh tế: thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế; là
thành viên của ASEAN, ASEM, APEC...

-

Từ chỗ thiếu lương thực (năm 1988 còn phải nhập khẩu 45 vạn tấn) đến năm
1990 Việt Nam đã đáp ứng đủ nhu cầu lương thực cho nhân dân, có dự trữ và


bắt đầu xuất khẩu. Đến nay trung bình mỗi năm nước ta xuất khẩu khoảng 4
triệu tấn gạo, đứng thứ nhì thế giới, sau Thái Lan.
Từ chỗ khan hiếm hàng hóa, hầu như mọi thứ phải mua theo tem phiếu hay
hạn mức cung cấp của Nhà nước đến chỗ trên thị trường mọi thứ hàng hóa
được mua bán tự do, đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán của nhân dân
và các doanh nghiệp.
Từ chỗ siêu lạm phát (năm 1986 mức lạm phát là trên 700%) mà chỉ sau vài
năm lạm phát giảm xuống 2 con số, rồi 1 con số.
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI:
GDP do khu vực có vốn đầu tư nước ngoài/tổng GDP của cả nước từ chỗ
chưa có gì, đến năm 2005 đạt 15,16%, năm 2010 đạt 17,69% và năm 2013

đạt 19,55%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)/tổng vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội đạt khá cao (bình quân của thời kỳ 2006-2010 là 25,3%, của thời
kỳ 2011-2013 là 22,6%).

-

-

-

XUẤT KHẨU:
Nếu như năm 2007, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam là 111,3 tỷ
USD (trong đó xuất khẩu là 48,5 tỷ USD và nhập khẩu là 62,7 tỷ USD), thì tới
năm 2015 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã tăng khoảng 3 lần
đạt 328 tỷ USD (trong đó nhập khẩu là 165,6 tỷ USD và xuất khẩu là 162,4 tỷ
USD).
-Năm 2015, tỷ trọng xuất khẩu các nhóm hàng sản phẩm dệt may, giày dép,
nông sản có xu hướng giảm xuống trong khi đó tỷ trọng của các nhóm sản
phẩm như máy vi tính, linh kiện điện tử, điện thoại tăng lên, chiếm tới 27,7%
tổng giá trị kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.









Có cơ hội lớn hơn trong tiếp cận tri thức tiên tiên của nhân loại.

Khắc phục lạm phát, nạn thiếu lương thực trước đây và hiện nay kinh tế phát
triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực, Việt Nam trở thành một nước
xuất khẩu gạo thứ hai, thứ ba trên thế giới.
Kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trưởng và năm sau luôn cao hơn năm
trước. Nhiều loại hình dịch vụ mới được mở mang. Một số ngành công nghệ
mới, công nghệ cao đã được đầu tư và phát triển.
Thực hiện chính sách công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo.
Về quan hệ hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại
giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất


khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ[1], ký
kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến
khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp
định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế
 Việt Nam đã và đang gặt hái được những thành tựu trong việc tự do hoá
thương mại và mở cửa thị trường:
- Thời kỳ 2001-2010, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân
17,42%, cao hơn 2,42% so với chỉ tiêu đề ra tại Chiến lược phát triển xuất
khẩu 2001-2010.
Tính riêng trong giai đoạn 2007-2010, là giai đoạn sau khi gia nhập WTO,
xuất khẩu tăng bình quân 14% năm, nhập khẩu tăng bình quân 11% năm.
Đến năm 2011, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hóa
xuất khẩu đạt 96,3 tỷ USD là là mức cao nhất từ trước tới nay, tăng 33,3% so
với kỷ lục đạt được trong năm 2010. Đồng thời, mức nhập siêu của năm
2011 là mức thấp nhất trong vòng 5 năm qua.
- Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 đã có sự
chuyển dịch khá tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến
và giảm dần hàng xuất khẩu thô. Trong đó, tỷ trọng của nhóm hàng nông,
lâm, thuỷ sản giảm dần từ 29,37% năm 2001 xuống còn 23,3% vào năm

2010; nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đã tăng mạnh từ
35,72% vào năm 2001, lên 48,9% năm 2010; nhóm hàng nhiên liệu khoáng
sản giảm từ 34,92% năm 2001 xuống còn 27,8% năm 2010.
- Thị trường ngoài nước ngày càng mở rộng, đa dạng. Số lượng thị trường
xuất khẩu đã tăng gấp hơn 1,4 lần sau 10 năm, từ 160 thị trường lên trên 230
thị trường. Cơ cấu thị trường xuất, nhập khẩu đã có sự chuyển dịch theo
hướng giảm dần lệ thuộc vào thị trường Châu Á
Từ quan điểm, chủ trương của Đảng, quá trình mở cửa, tích cực và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam.
Thể hiện trên những mặt chính sau:
Thứ nhất, về hoạt động xuất, nhập khẩu
Về xuất khẩu, quá trình tích cực, chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế
trong thời gian qua đã giúp Việt Nam có điều kiện mở rộng thị trường xuất
khẩu dựa trên những lợi thế cạnh tranh: nguồn tài nguyên phong phú, nguồn
lực lao động dồi dào, giá rẻ và sự ổn định chính trị và kinh tế - xã hội… Nhờ
đó, hoạt động xuất khẩu đã không ngừng tăng trưởng cả về quy mô và tốc độ,


cũng như mặt hàng xuất khẩu chủ lực và trở thành động lực chính, quan trọng
cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Về quy mô, kim ngạch xuất khẩu không ngừng được tăng lên, đóng góp một
phần quan trọng vào sự tăng trưởng GDP. Nếu năm 1986, tổng kim ngạch
xuất khẩu mới đạt 789 triệu USD, thì năm 2013 đã cao gấp 167,5 lần, trong
đó thủy sản gấp 63,4 lần; hạt tiêu gấp 42,9 lần; hạt điều gấp 200,8 lần; rau
quả gấp 23,8 lần. Một số mặt hàng tuy vào các thời kỳ sau mới xuất khẩu,
nhưng năm 2013 đã đạt quy mô lớn, trong đó có 22 mặt hàng đạt kim ngạch
trên 1 tỷ USD. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong giai đoạn
tăng trung bình trên 15%/năm. Đặc biệt là thời kỳ từ sau khi gia nhập WTO
đến nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt quy mô lớn và tốc độ tăng trưởng
cao (trừ năm 2009 tốc độ tăng trưởng âm). Xuất khẩu hàng hóa/GDP vào

năm 1988 mới đạt 18,9%, thì năm 2013 đã đạt 77,6%, cao gấp 4,1 lần năm
1988 và thuộc loại khá cao trên thế giới. Nếu tính cả xuất và nhập khẩu/GDP
đã đạt 155,2%; nếu tính cả xuất khẩu dịch vụ thì đạt 169,1%, nằm trong tốp 5
nước có tỷ lệ cao nhất thế giới. Điều đó chứng tỏ độ mở của nền kinh tế Việt
Nam thuộc loại khá rộng.
Về cơ cấu, mặt hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, đa dạng, có nhiều
nhóm hàng “chủ lực” đạt kim ngạch lớn. Cơ cấu mặt hàng mấy năm nay đã
có sự chuyển dịch theo hướng tích cực: tỷ trọng hàng thô hoặc mới sơ chế
giảm (từ 55,8% năm 2000 xuống còn khoảng 34% năm 2013), tỷ trọng hàng
chế biến hoặc đã tinh chế tăng (tương ứng từ 44,2% lên 66%); trong nhóm
hàng chế biến, hoặc đã tinh chế, hàng có kỹ thuật, công nghệ cao hơn (như
điện thoại, máy vi tính, máy ảnh, máy quay phim, máy móc thiết bị, phương
tiện vận tải…) tăng cao hơn.
Về hàng hóa của Việt Nam, nếu năm 1986 hàng Việt Nam mới có mặt ở 33
nước và vùng lãnh thổ, thì đến nay, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có
mặt trên thị trường 220 nước và vùng lãnh thổ, hầu hết các châu lục, chủ yếu
là châu Á. Các thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn của Việt Nam là Hoa Kỳ,
EU, ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Năm 2013, có 27 nước và
vùng lãnh thổ đạt từ 1 tỷ USD trở lên (Hoa Kỳ 23,87 tỷ USD, Nhật Bản
13,65 tỷ USD, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 13,26 tỷ USD, Hàn Quốc 6,63
tỷ USD…).
Trong quan hệ với nước ngoài, Việt Nam đã chuyển vị thế từ nước nhập siêu
lớn sang xuất siêu. Năm 1976, Việt Nam nhập siêu 801,4 triệu USD; tỷ lệ
nhập siêu so với xuất khẩu lên đến 360%. Từ năm 2012 đến nay, Việt Nam đã
xuất siêu hàng hóa (năm 2012 là 749 triệu USD, năm 2013 là 9 triệu USD).


Năm 2014 sẽ xuất siêu tiếp ở quy mô cao hơn 2 năm trước. Cán cân thương
mại được cải thiện, cùng một số yếu tố khác đã góp phần cải thiện cán cân
thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối, tăng an toàn tài chính và thanh khoản của

quốc gia.
Xuất khẩu dịch vụ năm 2013 đạt 10,5 tỷ USD, cao gấp gần 2,5 lần năm 2005,
bình quân 1 năm tăng 12,1%, là tốc độ khá cao. Khả năng, quy mô xuất khẩu
dịch vụ sẽ tiếp tục tăng tốc do Việt Nam mở cửa, hội nhập nói chung và mở
cửa, hội nhập về dịch vụ ngày một sâu rộng hơn. Hiện nay, Việt Nam đã
nhanh chóng phát triển một số ngành dịch vụ, như: Bưu chính, viễn thông,
hàng không, hàng hải, tài chính, ngân hàng, du lịch… Phát triển xuất khẩu đã
góp phần tạo thêm việc làm(1), tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, nhất là
đối với khu vực nông thôn. Phát triển xuất khẩu cũng có tác dụng tích cực
trong việc nâng cao trình độ của người lao động và thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Về hoạt động nhập khẩu hàng hóa, cũng gia tăng mạnh mẽ. Năm 1995 so với
1985, kim ngạch nhập khẩu tăng gấp gần 5 lần (8.155,4 triệu USD/1.857,4
triệu USD); năm 1996 kim ngạch nhập khẩu là 11.143,6 triệu USD, đến năm
2006 là 44.981,1 triệu USD, tăng gấp khoảng gần 4 lần so với năm 1996.
Năm 2012 so với năm 2006, kim ngạch nhập khẩu tăng gấp hơn 2,5 lần
(113.792,7 triệu USD/44.891,1 triệu USD).
Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, chiếm đến
trên 80%/kim ngạch nhập khẩu; hàng tiêu dùng khoảng 10%/kim ngạch nhập
khẩu, còn lại các hàng hóa khác. Trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
nhập khẩu nhiều hơn khu vực kinh tế trong nước.
Thứ hai, về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), ODA
Kể từ khi Luật Đầu tư trước tiếp nước ngoài có hiệu lực (năm 1988), FDI vào
Việt Nam ngày càng tăng cả về dự án, vốn đăng ký và số nước, vùng lãnh
thổ. Tính đến hết năm 2013, đã có khoảng 100 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu
tư vào Việt Nam với 17.434 dự án, tổng số vốn đăng ký hơn 268 tỷ USD, vốn
thực hiện đạt xấp xỉ 112 tỷ USD. Xét tỷ lệ trên GDP, Việt Nam thu hút đầu tư
trực tiếp từ nước ngoài lớn hơn 5 lần so với Trung Quốc hay Ấn Độ trong 5
năm qua.
Khu vực doanh nghiệp FDI là khu vực luôn năng động và có đóng góp đáng

kể trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. FDI đang tăng dần tỷ
trọng trong GDP. Báo cáo tổng kết 25 năm FDI của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
đã phân tích, tỷ lệ đóng góp của FDI vào GDP đã tăng từ 2% GDP năm 1992
lên 12,7% năm 2000; 16,98% (năm 2006); 18,97% (năm 2011) và nay là
20%. Thu ngân sách trong khối doanh nghiệp FDI tăng bình quân trên


20%/năm. Theo số liệu tại Bảng xếp hạng V1000 - Top 1000 doanh nghiệp
đóng thuế thu nhập lớn nhất Việt Nam, có tới hơn 30% trong bảng này là các
doanh nghiệp FDI với 20.000 tỷ đồng thuế thu nhập.
Các dự án FDI đã tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, góp phần làm giảm đáng kể
nạn thất nghiệp. Tính đến nay, khu vực FDI tạo ra gần 3 triệu việc làm và tiền
lương lao động của khu vực này luôn cao hơn mức trung bình cả nước.
Trong hoạt động xuất khẩu, từ năm 2003, xuất khẩu của khu vực FDI bắt đầu
vượt khu vực trong nước và dần trở thành nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu,
đóng góp tới 66,87% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước vào năm 2013.
Mười tháng đầu năm 2014, khu vực FDI xuất khẩu 82,5 tỷ USD, tăng 13,6%,
đóng góp 67% vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và vẫn liên tục
xuất siêu.
Về thu hút ODA, tính từ năm 1993 đến hết năm 2013, tổng vốn ODA cam kết
đạt 80.776 triệu USD, giải ngân đạt 40.367 triệu USD, tương đương với
3,36% GDP.
FDI và ODA vào Việt Nam đã góp phần thúc đẩy tăng GDP, tăng vốn đầu tư
phát triển xã hội, tăng kim ngạch xuất khẩu, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội …
Thứ ba, thông qua việc mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trong khu
vực và thế giới, Việt Nam đã tiếp thu được khoa học - công nghệ mới và cách
quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, kỹ thuật, văn hóa - xã hội… góp
phần tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động
sản xuất, kinh doanh… Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế cũng đã góp phần đào

tạo cho Việt Nam có được đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ và năng lực cả
về chuyên môn lẫn quản lý. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần thúc đẩy
cải cách hành chính, cải cách thể chế kinh tế thị trường, góp phần nâng cao vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tóm lại, sau gần 30 năm đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế đã tác động mạnh
đến sự tăng trưởng, phát triển kinh tế của Việt Nam. Nhờ tăng trưởng kinh tế
cao và ổn định mà quy mô của nền kinh tế được mở rộng nhiều lần, do đó thu
nhập bình quân đầu người cũng tăng lên đáng kể: Năm 2013, GDP đầu người
đạt 1.940 USD so với 86 USD vào năm 1988. Chúng ta không những thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, mà còn bước vào nhóm các nước có thu
nhập trung bình.


IV – TÁC ĐỘNG :
1)

CƠ HỘI :

Khẳng định hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế giới cũng đồng thời
chỉ ra con đường phát triển không thể nào khác đối với các nước trong thời đại
toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế. Sự lựa chọn tất yếu này còn được quyết
định bởi rất nhiều lợi ích mà hội nhập quốc tế tạo ra cho các nước. Dưới đây, xin
nêu những lợi ích chủ yếu của hội nhập quốc tế mà các nước có thể tận dụng được:
Thứ nhất, quá trình hội nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và
các quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tếxã hội.
Thứ hai, hội nhập cũng tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện
môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp; đồng thời, làm tăng khả năng thu
hút đầu tư vào nền kinh tế.
Thứ ba, hội nhập giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học công

nghệ quốc gia, nhờ hợp tác giáo dục-đào tạo và nghiên cứu khoa học với các nước
và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao
công nghệ từ các nước tiên tiến.
Thứ tư, hội nhập làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị
trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế.
Thứ năm, hội nhập tạo cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được
tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội phát triển và
tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
Thứ sáu, hội nhập tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn
tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách phát triển
phù hợp cho đất nước và không bị lề hóa.
Thứ bảy, hội nhập giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của
thế giới, làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Thứ tám, hội nhập tạo động lực và điều kiện để cải cách toàn diện hướng tới xây
dựng một xã hội mở, dân chủ hơn, và một nhà nước pháp quyền.


Thứ chín, hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp
trong trật tự quốc tế, giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế, cũng như khả năng
duy trì an ninh, hòa bình và ổn định để phát triển.
Thứ mười, hội nhập giúp duy trì hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các
nước tập trung cho phát triển; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và
nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung của khu vực
và thế giới .


2)

THÁCH THỨC :


Trước hết, thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ chỗ nước ta là một
nước đang phát triển có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém
và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của
hàng hóa, dịch vụ nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn
chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh... Cho nên, nước ta
sẽ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh cả ở trong nước cả trên trường quốc tế, cạnh
tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng
hơn
Thứ hai, trong quá trình hội nhập quốc tế, cũng như các nước đang phát triển khác,
nước ta phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính - tiền
tệ, đầu tư... chủ yếu do các nước phát triển áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất
bình đẳng và sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý của các nước phát triển hàng đầu.
Thứ ba, trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá
đặt ra một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng
trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Sở dĩ vậy là vì lợi ích của toàn cầu hoá được phân phối một cách không đồng
đều, những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Trong phạm
vi mỗi quốc gia cũng vậy, một bộ phận dân cư được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí
còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ thất nghiệp và sự phân hoá giàu
nghèo sẽ tăng lên mạnh mẽ.
Thứ tư, quá trình hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề mới về bảo vệ an ninh quốc
gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trên lĩnh vực an
ninh quốc gia, các nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp hơn, bên cạnh các
hiểm hoạ mang tính truyền thống, đã xuất hiện các nguy cơ phi truyền thống (an
ninh môi trường, dịch bệnh, khủng bố...); cục diện an ninh luôn thay đổi; công cụ,
biện pháp, hình thức, cơ chế bảo đảm an ninh cũng cần phải đổi mới thường xuyên.
Vấn đề gắn an ninh, quốc phòng với kinh tế và an ninh, quốc phòng với đối ngoại
trở thành nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách hiện nay của nước ta.
Thứ năm,Sự cạnh tranh, đặc biệt là cả các sản phẩm công nghiệp còn quá thấp do

đó việt nam gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố và phát triển các thị trường mới
trong điều kiện nhiều nước đang phát triển cùng chung chiến lược tăng cường
hướng về xuất khẩu nên việt nam sẽ bị áp lực cạnh tranh ngay tại thị trường nội


địa; việc mở rộng thị trường nội địa theo afta, wto có thể biến việt nam thành thị
trường tiêu thụ sản phẩm nước ngoài. hàng hoá nước ngoài chất lượng cao lại được
cắt giảm thuế, điều này khiến cho hàng hoá của các dnvn bị cạnh tranh gay gắt.
Thứ sáu, Do tri thức và trình độ kinh doanh của các goanh nghiệp còn thấp, cộng
với hệ thống tài chính và ngân hàng còn yếu kém nên dễ bị tổn thương và bị thao
túng nếu tự do hoá thị trường vốn sớm; từ kinh nghiệm của các nước ngoài và quốc
tế ngày càng tăng.
Thứ bảy,Hệ thống thông tin viễn thông toàn cầu hoá với tư cách là một thứ quyền
lực siêu hạng đang phát triển nhanh có thể gây ra tác động tiêu cức trực tiếp đến an
ninh kinh tế, văn hoá, xã hội theo hướng gây rối loạn và làm lợi cho các thế lực
bên ngoài. vấn đề là kiểm soát việc tự do hoá thông tin, truyền thông như thế nào
để không từ bỏ lợi ích tận dụng khai thác nó mà vẫn hạn chế tối đa nguy cơ gây
thiệt hại sảy ra.
Thứ tám, Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ yếu là với các quốc gia có tiềm lực
mạnh có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực như muốn kìm hãm thậm chí gây
sức ép buộc việt nam phải thay đổi định hướng, mục đích phát triển.


Có thể nói, hội nhập quốc tế ở nước ta là một quá trình với cơ hội và thách
thức đan xen tồn tại dưới dạng tiềm năng và có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ
hội và thách thức chỉ trở thành hiện thực trong những điều kiện cụ thể, mà ở
đó vai trò của nhân tố chủ quan có tính quyết định rất lớn, trước hết đó là
hiệu quả hoạt động lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước
và tinh thần tự lực tự cường, đoàn kết của toàn dân tộc. Thực tế đã chứng tỏ
việc kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp

tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế là sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu đối với nước ta trong bối cảnh toàn
cầu hoá sôi động hiện nay. Những thành tựu quan trọng giành được trong
quá trình hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là cơ sở để
đất nước ta vững bước trên đường hội nhập và phát triển.


V- BIỆN PHÁP :
Đốí với cơ quan quản lý Nhà nước:
Tăng cường tuyên truyền cho các doanh nghiệp các thông tin về lộ trình và
các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Nâng cao năng lực giám sát thị trường tài chính nhằm kịp thời đối phó với
những biến động của dòng vốn, những ảnh hưởng lây lan từ khủng hoảng tài
chính của một nước trong khu vực.
Đối với hiệp hội ngành nghề:
Tiếp tục đẩy mạnh vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản
lý, tạo điều kiện kết nối giao lưu giữa các doanh nghiệp hội viên; tăng
cường phổ biến thông tin hội nhập về pháp luật của các nước, sở hữu trí tuệ,
sở hữu công nghiệp, quản lý chất lượng, các quy tắc xuất xứ... cho doanh
nghiệp hội viên; hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu.
Tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại - đầu tư theo thị trường,
ngành hàng, lĩnh vực kinh doanh cụ thể để nâng cao khả năng tiếp cận thị
trường trong và ngoài nước cũng như hỗ trợ doanh nghiệp tiếp thị thương
hiệu của sản phẩm, doanh nghiệp tới các thị trường xuất khẩu trọng điểm.
Triển khai các hoạt động cung cấp và tư vấn cho các doanh nghiệp về pháp
luật kinh doanh, các kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế cũng như kinh
nghiệm đối phó với các vụ kiện quốc tế, các rào cản thương mại của các thị
trường xuất khẩu.
Đối với doanh nghiệp:

Chủ động tìm hiểu và nghiên cứu về thông tin, kiến thức về hội nhập kinh tế
quốc tế, pháp luật quốc tế. Mặc dù Việt Nam đã ký kết không ít các hiệp
định thương mại tự do với các nước và khu vực, song sự hiểu biết của doanh
nghiệp trong nước về các FTAs là khá hạn chế, trong khi đó các doanh
nghiệp FDI lại rất chủ động và chuẩn bị khá kỹ để đón đầu và tận dụng ưu
đãi từ các FTAs.
Do vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về TPP cũng như các FTAs là việc cần
thiết các doanh nghiệp nếu muốn đứng vững trong cạnh tra-nh. Bên cạnh đó
cũng cần có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ và các hiệp hội để doanh nghiệp có
thể tiếp cận các thông tin từ TPP, FTAs một cách nhanh nhất và đầy đủ nhất.
Chủ động đầu tư và đổi mới trạng thiết bị công nghệ theo chiều sâu nhằm
nâng cao chất lượng sản phẩm, bởi nếu không đáp ứng được các tiêu chuẩn
quốc tế thì sản phẩm của doanh nghiệp không thể cạnh tranh với các nước


khác. Như vậy, dù hiệp định có mở ra cơ hội, doanh nghiệp cũng không thể
tiếp cận thị trường và tham gia vào chuỗi cung ứng.
Chủ động lựa chọn và thay đổi nguồn nguyên liệu đầu vào. Việc loại bỏ thuế
quan cho các đối tác trong TPP chỉ áp dụng đối với các sản phẩm hàng hóa
có nguồn gốc xuất xứ nội khối. Trên thực tế, với các FTA đã ký kết, cũng chỉ
có khoảng 30% doanh nghiệp đã tận dụng được các ưu đãi thuế quan.
Do đó, doanh nghiệp cần phải chủ động trong việc lựa chọn nguồn gốc của
các nguyên phụ liệu, đáp ứng các tiêu chuẩn về nguồn gốc xuất xứ. Đồng
thời phải thực hiện tốt như các yêu cầu khác (vệ sinh, kiểm dịch động thực
vật, hàng rào kỹ thuật…).
Trên cơ sở những phân tích nêu trên về bối cảnh quốc tế và thực trạng HNKTQT
của Việt Nam, kiến nghị một số nhóm giải pháp nhằm đẩy mạnh tiến trình
HNKTQT như sau:
1. Nâng cao nhận thức về HNKTQT, chống tư tưởng ỷ lại trông chờ vào bảo hộ
của Nhà nước.

2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bằng cách tăng cường đổi mới
kinh tế trong nước hướng vào XK, đầu tư thiết bị và công nghệ tiên tiến, khai
thác các ngành mà Việt Nam có lợi thế trước mắt và lâu dài, tăng cường cải cách
hành chính, đặc biệt là tổ chức thực hiện. Tăng cường năng lực và sự phối hợp
của các bộ ngành trong tiến trình HNKTQT.
3. Đẩy mạnh cải cách các DNNN theo hướng nâng cao tính chủ động, hiệu quả
và khả năng cạnh tranh đi đôi với việc giải quyết vấn đề việc làm và thay đổi
ngành nghề của người lao động.
4. Coi trọng phát triển thị trường trong nước đi đôi với mở rộng thị trường XK,
quản lý tốt NK. Đẩy mạnh và phát triển thương mại dịch vụ.
5. Xây dựng Chiến lược tổng thể về HNKTQT.
6. Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hệ thống văn bản pháp luật phục vụ phát
triển kinh tế và HNKTQT.
7. Tập trung đàm phán WTO để có thể gia nhập càng sớm càng tốt. Chuẩn bị sẵn
sàng chấp nhận thách thức mở cửa thị trường để các ngành kinh tế phối vươn lên
không trông chờ mãi vào bảo hộ của Nhà nước.
8. Đào tạo nguồn nhân lực cho tiến trình hội nhập


Kết Luận:
Ngày nay hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu, khách quan trong quá trình
toàn cầu hóa, quốc tế hóa. Hội nhập quốc tế không những có mối liên hệ chặt
chẽ với tăng trưởng và phát triển kinh tế mà nó còn vừa là kết quả, vừa là yếu tố
cực kỳ quan trọng để thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nước nâng lên một trình
độ mới. Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong hội nhập,
đã trở thành quốc gia có vị trí cao trong khu vực, đã tham gia vào tất cả các tổ
chức quốc tế lớn: Liên Hợp Quốc và các định chế của nó; WTO; ASEAN,
ASEM, APEC và tham gia ký kết hàng hoạt các Hiệp định thương mại tự do
song phương với các đối tác trong khu vực và trên thế giới. Trong từng lĩnh vực
cụ thể của kinh tế đối ngoại như thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, v.v… cũng

đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế phải
khắc phục. Trong xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng trong thời gian tới, Việt Nam
xác định quan điểm tiếp tục thực hiện chính sách nhằm chủ động hội nhập một
cách có hiệu quả nhất. Trong quá trình chủ động hội nhập, Việt Nam sẽ phải tận
dụng mọi lợi thế do hội nhập tạo ra và hạn chế đến mức thấp nhất các thách
thức mà hội nhập quốc tế đặt ra, nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam
trên các lĩnh vực hoạt động, tập trung phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng
xã hội, tập trung thực hiện các chương trình thích nghi với hội nhập, cần đổi
mới môi trường kinh doanh, đầu tư theo hướng đẩy mạnh cải cách hành chính,
pháp lý, tăng cường sự hợp tác và hỗ trợ giữa chính quyền và doanh nghiệp,
nhất là hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong xu thế hội
nhập, Việt Nam cũng cần tạo thế chủ động, tự tin hội nhập cho tất cả các tầng
lớp dân cư và các giới doanh nhân bằng cách tích cực thực hiện các chương
trình tuyên truyền hội nhập, tạo sự thích ứng hội nhập của các quan chức chính
quyền các cấp, tạo những quy tắc ứng xử phù hợp thông lệ quốc tế trong các
hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội.



×