Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Đánh giá tác động vốn vay thuộc chương trình khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đến thu nhập của người nông dân, huyện bình chánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 104 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bình Chánh là một trong 05 huyện ngoại thành, có tổng diện tích tự nhiên là
25.255,29 ha. Tính đến năm 2013 dân số trung bình của huyện đạt 446.084 người.
Trong đó, hơn 70% dân số chủ yếu sinh sống bằng nghề nông. Theo quy hoạch sản
xuất nông nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm
2025, Huyện Bình Chánh được xác định phải duy trì quỹ đất sản xuất nông nghiệp
và phát triển nông nghiệp theo hướng đô thị, sản xuất hàng hóa tập trung, mang tính
cạnh tranh, hiện đại, bền vững.
Chương trình khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai đoạn
2008-2013 nhằm thực hiện chủ trương của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hình thành nền nông
nghiệp đô thị năng suất cao, sản xuất tập trung, phát triển bền vững. Đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ sinh học, từng bước hình thành trung tâm giống cây trồng, vật nuôi
cho cả khu vực
Mục tiêu của chương trình này là trong giai đoạn 2008-2013, Thành phố sẽ
xoá bỏ những mô hình sản xuất nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp và thay vào đó
là cơ cấu mới, được áp dụng nhiều phương thức kỹ thuật sản xuất tiên tiến, đem đến
kết quả cao hơn. Cụ thể là tại các địa bàn trọng điểm của chương trình khuyến khích
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến năm 2013 sẽ phấn đấu đạt giá trị sản xuất nông
nghiệp bình quân 100 triệu đồng/ha/năm.
Nhằm để hỗ trợ kịp thời cho bà con nông dân trong việc hỗ trợ lãi suất để
chuyển đổi cây trồng vật nuôi và nâng cao thu nhập đời sống tốt hơn. Ủy ban nhân
dân Thành phố đã ban hành Quyết định số 105/2006/QĐ-UBND ngày 17 tháng 7
năm 2006 “về việc ban hành quy định về khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp giai đoạn 2008-2013”.


2



Xuất phát từ lý do trên, việc triển khai các chính sách của Nhà nước nhằm hỗ
trợ lãi suất kịp thời cho người dân chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp là một
nhiệm vụ hết sức cần thiết và cấp bách. Do đó, giải quyết nhu cầu vay vốn có hỗ trợ
lãi suất là một chính sách thiết thực và đạt hiệu quả cao trong hỗ trợ giúp người dân
phát triển sản xuất nông nghiệp.
Từ những nhận định trên, việc nghiên cứu về chính sách hỗ trợ lãi suất cho
người nông dân vay để khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai
đoạn 2008-2013 trên địa bàn huyện Bình Chánh là một vấn đề hết sức quan trọng,
nên tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá tác động vốn vay thuộc chương
trình khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đến thu nhập của
người nông dân, huyện Bình Chánh”.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
2.1. Mục tiêu chung
Phân tích tình hình cho vay vốn đối với hộ sản xuất qua 5 năm từ năm 20082013, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay ở địa bàn huyện
Bình Chánh.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân tích tình hình cho vay vốn thuộc Chương trình khuyến khích dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp;
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đối với tình hình cho vay vốn thuộc
Chương trình khuyến khích dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp;
- Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay vốn đối với thuộc Chương trình
khuyến khích dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu


3

Đối tượng nghiên cứu là các hộ dân vay vốn Chương trình khuyến khích

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai đoạn 2008-2013 trên địa bàn huyện
Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Nghiên cứu, đánh giá quá trình vay vốn của các hộ dân theo
Chương trình khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn
huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Về thời gian: Các số liệu, tài liệu phục vụ đánh giá thực trạng địa bàn được thu
thập chủ yếu từ năm 2008 đến năm 2013 tại huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí
Minh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện bằng cách tiếp cận các khung lý thiết và mô hình về
vay vốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phân tích thực trạng chương trình
vay vốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện Bình Chánh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Bên cạnh vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong
nghiên cứu, luận văn cũng kết hợp sử dụng phương pháp thống kê, so sánh và phân
tích.


4

CHƯƠNG 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG VỐN VAY THUỘC CHƯƠNG TRÌNH
KHUYẾN KHÍCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP ĐẾN
THU NHẬP CỦA HỘ NÔNG DÂN
Cơ sở lý luận
1.1.1. Khung sinh kế bền vững

Đề tài nghiên cứu dựa trên ứng dụng khung sinh kế bền vững của Bộ phát triển

Toàn cầu Vương quốc Anh (DFID) để phân tích tiếp cận đất đai (trích từ Nguyễn
Huỳnh Sơn Vũ, 2011), thu hồi quyền sử dụng đất và tác động của nó đối với các hộ
gia đình nông dân bị thu hồi đất theo dự án. Khung sinh kế bền vững là một phương
pháp tiếp cận toàn diện về các vấn đề phát triển thông qua việc nhấn mạnh đến thảo
luận sinh kế của con người;
(xem Sơ Đồ 1.1)
Chính sách và tổ
chức:

Tình huống dễ bị
tổn thương:
Quá trình công nghiệp
hóa và đô thị hóa

Mất

đất

nông

nghiệp
- Sinh kế thay đổi
- Văn hóa sống thay đổi
- Mật độ dân số
tăng

Chính sách về
bồi thường, trợ
cấp và tái định


Ảnh
hưởng
và khả
năng
tiếp
cận

Chiến
lược sinh
kế:

Tài sản sinh kế:
Nhân
lực

Tự
nhiên

- Nông
nghiệp
- Phi
nông
nghiệp.

Con
người

Vật chất

Tài chính


Hình 1.1 khung phân tích sinh kế bền vững

(Nguồn: Nguyễn Huỳnh Sơn Vũ, 2011).

Kết quả sinh
kế:
- Tăng thu nhập.
- Tăng sự ổn định
- Giảm rủi ro.


5

Khái niệm sinh kế có thể được hiểu và sử dụng theo nhiều cách khác nhau.
Theo một định nghĩa được chấp nhận rộng rãi thì “Sinh kế bao gồm các khả năng,
các tài sản (bao gồm cả các nguồn lực vật chất và xã hội) và các hoạt động cần thiết
để kiếm sống” (DFID’s Sustainable Livelihoods Guidance Sheets). Một sinh kế bền
vững khi nó có khả năng ứng phó và phục hồi khi bị tác động hay có thể thúc đẩy
các khả năng và tài sản ở cả thời điểm hiện tại và trong tương lai trong khi không
làm xói mòn nền tảng nguồn lực tự nhiên (Thái Thanh Phong 2009).
Khung sinh kế bền vững là một lý thuyết cho rằng con người dựa vào năm
loại tài sản vốn, hay hình thức vốn, để giảm nghèo và đảm bảo an ninh bảo sinh kế
của mình, bao gồm: vốn vật chất, vốn tài chính, vốn xã hội, vốn con người và vốn tự
nhiên (DFID 1999). Khung sinh kế bền vững coi đất đai là một tài sản tự nhiên rất
quan trọng đối với sinh kế nông thôn. Vì vậy, khi thu hồi đất sẽ ảnh hưởng đến cuộc
sống và sinh kế của người dân. Trong nghiên cứu này, việc thu hồi quyền sử dụng đất
nông nghiệp của nhà nước sẽ tạo ra những ảnh hưởng đến: nguồn lực đất đai, hoạt động
sản xuất nông nghiệp, công ăn việc làm, hoạt động tín dụng, khuyến nông và thu nhập và
của người nông dân bị thu hồi đất.

1.1.2. Những yếu tố cấu thành tổng thu nhập của hộ gia đình
Theo Strauss (1986), thu nhập của hộ gia đình gồm thu nhập từ nông nghiệp
và thu nhập từ phi nông nghiệp.
Thu nhập nông nghiệp là thu nhập từ việc đầu tư đất đai, lao động và vốn các
hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Lợi nhuận từ nông nghiệp có thể tính vào hàm số sản xuất, giá trị thu về từ
sản xuất, giá trị thu về từ sản xuất nông nghiệp là một hàm số của đất, lao động và
những yếu tố đầu vào khác, lao động hay nguồn lực của gia đình phụ thuộc vào
những đặc điểm của gia đình. Jolliffe (1998) đã đề nghị mô hình sau để tính thu nhập
từ nông nghiệp.
π f = π (AF, XF, PF)
AF: giá trị đất canh tác và những thiết bị dành cho sản xuất nông nghiệp


6

XF: đặc điểm của nông hộ (trình độ học vấn, tuổi, giới tính…)
PF: giá cả của yếu tố đầu vào và đầu ra
Thu nhập từ những hoạt động phi nông nghiệp gồm từ việc làm công ăn lương
là những thu nhập có được từ việc làm các ngành nghề thủ công, các nghề khác như
làm thuê, làm mướn cho các xí nghiệp, nhà máy…
Cũng theo Jolliffe (1998), các khoản thu nhập này cũng có thể biểu diễn qua
mô hình sau:
π f = π (A0, X0, P0)
A0: vốn, tài sản mà gia đình đầu tư vào sản xuất
X0: đặc điểm của nông hộ (trình độ học vấn, tuổi, giới tính…)
P0: giá cả của yếu tố đầu vào và đầu ra
Theo từ điển Tiếng Việt, “hộ” đơn vị quản lý dân số ở Việt Nam, bao gồm
những người có mối quan hệ về gia đình cùng ở chung một nhà, được cơ quan quản
lý cấp cho một sổ hộ khẩu ghi rõ tên, ngày sinh, nghề nghiệp của từng người.

Hộ gia đình gồm những người có mối quan hệ như ông, bà, bố mẹ, vợ chồng,
con, anh chị và những người khác được chủ hộ đồng ý cho nhập vào ở chung một
nhà.
Dựa vào tính chất chủ hộ có thể chia ra 2 loại hộ gia đình: Hộ gia đình làm
nông nghiệp (nông hộ) và hộ gia đình phi nông nghiệp, hộ gia đình nông nghiệp là
những hộ gia đình có toàn bộ hoặc phần lớn lao động tham gia sản xuất nông nghiệp,
nguồn sống chính là các thành viên trong hộ dựa vào kết quả sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp của họ.
Hộ gia đình phi nông nghiệp là những hộ có toàn bộ hoặc phần lớn lao động
bao gồm các thành viên trong hộ cũng như lao động thuê ngoài tham gia các ngành
nghề phi nông nghiệp dưới bất cứ hình thức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nào, tự tạo
việc làm hay làm công hưởng lương, nguồn thu nhập chủ yếu của hộ là các ngành
nghề phi nông nghiệp.


7

1.1.3. Nông nghiệp và vai trò của nông nghiệp
1.1.3.1. Khái niệm nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất đai để
trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao
động chủ yếu để tạo ra lương thực, thực phẩm và một số nguyên liệu cho công
nghiệp.
- Ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng) là: tổ hợp các ngành gắn liền với quá
trình sinh học gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp, khi phân tích đánh giá
cơ cấu kinh tế thì tiêu chí, cơ cấu ngành được xem trọng nhất bởi vì nó phản ánh
trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, lực lượng sản xuất càng phát triển,
phân công lao động xã hội càng sâu sắc, tỷ mỉ thì càng có nhiều ngành kinh tế hình
thành và phát triển đa dạng khác nhau. Ở nước ta cho đến nay, về cơ bản vẫn là một
nước nông nghiệp cho nên sự phát triển của nó giữ vai trò quyết định trong kinh tế

nông thôn, đồng thời là một trong những ngành cơ bản của nên kinh tế quốc dân. Vì
vậy, nó vừa chịu sự chi phối của nền kinh tế quốc dân vừa gắn bó chặt chẽ với các
ngành khác, vừa phản ánh những nét riêng biệt mang tính đặc thù của một ngành mà
đối tượng sản xuất là những cơ thể sống.
- Ngành nông nghiệp (theo nghĩa hẹp): bao gồm trồng trọt và chăn nuôi, trong
trồng trọt được phân ra trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả…ngành
chăn nuôi gồm có chăn nuôi gia súc, gia cầm…những ngành trên có thể phân ra
thành các ngành nhỏ hơn, chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình
phát triển và tạo thành cơ cấu nông nghiệp.
1.1.3.2. Vai trò của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân theo hướng
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Vai trò của nông nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân được thể hiện ở một số
điểm sau:


8

Nông nghiệp là ngành sản xuất quan trọng trong quá trình sản xuất tư liệu tiêu
dùng thiết yếu cho con người như lương thực, thực phẩm và nguyên liệu cho công
nghiệp mà không một ngành nào có thể thay thế được.
Nông nghiệp có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng, góp phần đáng kể vào tích lũy
ban đầu cho sự nghiệp phát triển đất nước, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các
nước đang phát triển như nước ta hiện nay.
Nông nghiệp có ảnh hưởng đến nhiều ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt là
ngành công nghiệp, sự phát triển ổn định, vững chắc của nông nghiệp có ý nghĩa
quyết định đối với ngành công nghiệp, dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế quốc dân, việc
giải quyết đủ lương thực cho nhu cầu trong nước và để xuất khẩu được coi là nền
tảng quan trọng nhất cho sự ổn định nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Ngoài lương thực và thực phẩm, nông nghiệp còn cung cấp nhiều loại
nguyên liệu cho các ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến

nông sản, sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến, ở mức độ rất lớn phụ thuộc
vào quy mô của sản xuất nông nghiệp, tính phụ thuộc này sẽ càng tăng lên khi nhu
cầu sản xuất và xuất khẩu nông sản với kỹ thuật cao tăng lên.
Nông nghiệp, nông thôn là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm cho nền kinh
tế quốc dân.
Nông nghiệp phát triển tạo điều kiện để chuyển các yếu tố sản xuất sang khu
vực phi nông nghiệp.
1.1.3.3. Những đặc điểm cơ bản của nông nghiệp Việt Nam và quá trình đẩy mạnh
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
So với các ngành kinh tế khác, sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm cơ
bản sau:
Sản xuất nông nghiệp chịu tác động và chi phối mạnh mẽ của quy luật tự
nhiên và các điều kiện cụ thể như đất đai, khí hậu, thời tiết.


9

Lao động nông nghiệp của con người phụ thuộc vào quá trình tăng trưởng của
sinh vật, cây con trong nông nghiệp có quy luật vận động riêng, đặc điểm đó có vai
trò quyết định đến năng suất lao động trong nông nghiệp.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản thực hiện trên một không gian
rộng lớn và thời gian dài.
Thời gian lao động và thời gian sản xuất không ăn khớp, tính thời vụ cao,
tiềm năng lao động trong nông ngiệp còn rất lớn, nhất là những vùng chậm phát
triển.
Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng, đặc biệt không thể thay thế được trong
hoạt động nông nghiệp. Tuy nhiên, diện tích đất sản xuất nông nghiệp có xu hướng
giảm do tác động của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa.
Chủ thể chính của sản xuất nông nghiệp là nông dân với trình độ văn hóa,
khoa học và kỹ thuật còn thấp.

Ngoài những đặc điểm trên, thì sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam còn có đặc
điểm riêng như sau:
Việt Nam là một nước đất hẹp, người đông, bình quân diện tích đất canh tác
đầu người thấp, chỉ khoảng 0.11ha/ người.
Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm quanh năm,
tạo điều kiện thuận lợi cho các loại cây con phát triển, khí hậu Việt Nam lại có sự
phân hóa theo hướng Bắc – Nam tạo cơ hội để phát triển nhiều loại cây trồng, vật
nuôi khác nhau, kể cả những loại cây ôn đới. Tuy nhiên, bên cạnh đó Việt Nam cũng
là nơi gánh chịu nhiều thiên tai, bão, lũ,…điều đó cũng tác động không nhỏ đến sản
xuất nông nghiệp.
Sản xuất nông nghiệp mang nặng thế độc canh lúa nước và trồng trọt vẫn
chiếm ưu thế trong sản xuất nông nghiệp, cơ cấu kinh tế nông nghiệp tồn tại bất hợp
lý trong thời gian dài.


10

Nền nông nghiệp Việt Nam đang chuyển dần từ nền kinh tế tự cấp, tự túc
sang nền nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn gắn với thị trường theo xu hướng hội
nhập Quốc tế.
1.1.4. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp
1.1.4.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế nông nghiệp
- Cơ cấu kinh tế
Sự phát triển sản xuất dẫn đến quá trình phân công lao động, tùy vào tính chất
sản phẩm, chuyên môn kỹ thuật mà chia thành từng ngành, lĩnh vực khác nhau,
nhưng trong nền sản xuất, các ngành, các lĩnh vực này không thể hoạt động một cách
độc lập mà phải có sự tương tác qua lại lẫn nhau, hỗ trợ nhau, tùy thuộc vào nhau,
thúc đẩy nhau cùng phát triển. Từ đó, đòi hỏi nhận thức đầy đủ về mối quan hệ giữa
các bộ phận, sự phân công và mối quan hệ hợp tác trong hệ thống thống nhất là tiền
đề cho quá trình hình thành cơ cấu kinh tế.

Có nhiều các tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ cấu kinh tế, một cách khái
quát, cơ cấu kinh tế thường được hiểu là tổng thể các ngành, các lĩnh vực, các bộ
phận của hệ thống kinh tế với vị trí, tỷ trọng tương ứng của chúng trong mối quan hệ
hữu cơ tương đối ổn định.
+ Cơ cấu kinh tế được phân chia thành.
Cơ cấu kinh tế ngành: Phản ánh tỷ trọng mối quan hệ giữa các ngành kinh tế
trong nền kinh tế quốc dân, thông thường khi xác định cơ cấu kinh tế ngành người ta
phân chia thành 3 ngành chính là nông nghiệp, công nghiệp – xây dựng và dịch vụ.
Mỗi ngành lại phân chia thành những phân hệ nhỏ khác nhau, sự biến đổi tỷ trọng
của 3 ngành này tạo nên cơ cấu kinh tế trong những thời kỳ phát triển nhất định.
Cơ cấu phân theo thành phần kinh tế: Phản ánh mối quan hệ, tỷ trọng giá trị
đóng góp của các thành phần kinh tế, có thể phân chia các thành phần kinh tế thành 2
khu vực lớn là khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, hoặc cũng có thể phân
chia một cách cụ thể hơn. Ở nước ta, nếu xét theo thành phần kinh tế thì cơ cấu kinh


11

tế hiện nay bao gồm: Thành phần kinh tế nhà nước; thành phần kinh tế tập thể; thành
phần kinh tế tư nhân; thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; thành phần kinh
tế sở hữu hỗn hợp liên doanh, liên kết.
Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ: Phản ánh khả năng kết hợp, khai thác tài
nguyên, tiềm lực kinh tế xã hội của các vùng phục vụ cho mục tiêu phát triển nền
kinh tế quốc dân thống nhất. Ở nước ta, cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ được phân
chia dựa vào điều kiện tự nhiên, tập quán sản xuất và trình độ phát triển của các
vùng.
Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan phản ánh trình độ phát triển của xã hội
và các điều kiện phát triển của một quốc gia, sự tác động từ chiến lược phát triển
kinh tế hay sự quan lý của Nhà nước có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong một thời gian nhất định chứ không thể làm thay đổi được

hoàn toàn nó.
Mặt khác, mỗi cơ cấu kinh tế lại mang tính lịch sử xã hội nhất định, cơ cấu
kinh tế được hình thành khi quan hệ giữa các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế được
thiết lập một cách cân đối và sự phân công lao động diễn ra một cách hợp lý.
+ Xu hướng vận động của cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế luôn vận động nhưng là sự vận động trong mối quan hệ cân
đối ổn định, các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế luôn biến đổi, phá vỡ thế cân bằng
và lại được điều chỉnh để tạo ra sự cân đối ổn định.
Xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới là tăng tỷ trọng của các ngành
công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong nên kinh tế quốc
dân, nói như vậy có nghĩa là về giá trị sản lượng tất cả các ngành đều phải tăng lên
để đáp ứng nhu cầu của con người và sự gia tăng dân số, song về cơ cấu tỷ trọng
giữa các bộ phận phải có sự thay đổi nghĩa là sự phát triển của ngành công nghiệp và
dịch vụ sẽ nhanh hơn sự phát triển của ngành nông nghiệp.


12

Hiện nay ở nhiều nước trên thế giới, quá trình CNH, HĐH đã giúp các nước
này sản xuất ra một khối lượng hàng hóa tương đối lớn vì vậy trong cơ cấu kinh tế
của họ các ngành sản xuất như nông nghiệp và công nghiệp có xu hướng giảm mạnh,
trong khi đó các ngành dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân lại tăng lên nhanh chóng.
Còn ở nước ta, do đang trong quá trình CNH, HĐH nên các ngành công
nghiệp – xây dựng, dịch vụ cần phải tăng nhanh hơn nữa để xây dựng nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Riêng trong ngành nông nghiệp, vừa phải giảm tỷ trọng của ngành trong nền
kinh tế, vừa thay đổi cơ cấu bên trong của ngành theo hướng giảm tỷ trọng ngành
trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, thủy sản.
1.1.4.2. Đặc trưng cơ bản của cơ cấu kinh tế nông nghiệp
- Mang tính khách quan

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tồn tại và phát triển phụ thuộc vào trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.
Vì vậy, trong mỗi ngành, mỗi vùng đều có cơ cấu riêng của mình tùy theo
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội cụ thể, trong phạm vi cả nước cơ cấu kinh tế hợp
lý phải phản ánh sự tác động của các quy luật phát triển khách quan, bởi nó hình
thành do sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động chi phối ở trong
một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất sẽ có một cơ cấu kinh tế cụ
thể tương ứng.
- Mang tính lịch sử và xã hội nhất định
Nó phản ánh quy luật chung của quá trình phát triển kinh tế xã hội, cơ cấu này
ở mỗi nơi lại khác nhau, trong một nước thì ở mỗi vùng, địa phương lại có một cơ
cấu khác nhau, do đó ta thấy cơ cấu kinh tế mang tính “vùng” rõ rệt, xuất phát từ
việc tôn trọng tính chất này để xây dựng cơ cấu kinh tế, nhất thiết không thể theo
một khuôn mẫu chung mà phải có tính linh hoạt thì mới đảm bảo được hiệu quả kinh
tế, phát huy tính vùng.


13

- Luôn luôn vận động và là cả một quá trình.
Thực tiễn lịch sử của sự vận động và tồn tại của xã hội, cơ cấu kinh tế nói
chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng không thể cố định mà phải có sự biến
đổi, điều chỉnh thích hợp với sự thay đổi của các điều kiện kinh tế xã hội và tiến bộ
khoa học, công nghệ, để đảm bảo quy mô và nhịp độ phát triển kinh tế, cơ cấu kinh
tế, làm thay đổi cấu trúc và mối liên hệ của một nền kinh tế theo một mục đích và
phương hướng nhất định, cũng có nghĩa là sự vận động biến đổi của cơ cấu kinh tế
từ giản đơn đến phức tạp, sự chuyển dịch phải là một quá trình, nhưng không phải là
tự phát mà con người có thể và nhất thiết phải tác động, thúc đẩy, thậm chí can thiệp
nhằm thúc đẩy sự phát triển của quá trình này. Tất nhiên phải trên cơ sở nhận thức
được quy luật khách quan của chúng để tác động đúng mục tiêu đã hoạch định, quan

trọng ở chỗ phải bắt đầu từ đâu, với những biện pháp nào, khâu nào để có thể gây
phản ứng dây chuyền tạo ra bước phát triển mới tổng thể nền kinh tế quốc dân.
1.1.4.3. Nội dung của cơ cấu kinh tế nông nghiệp
- Một là theo cơ cấu ngành
+ Ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng: Là tổ hợp các ngành gắn liền với quá
trình sinh học gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp, khi phân tích đãnh giá
cơ cấu kinh tế thì tiêu chí, cơ cấu ngành thường được coi trọng nhất bởi vì nó phản
ánh trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, lực lượng sản xuất càng phát
triển, phân công lao động xã hội càng sâu sắc thì càng có nhiều ngành kinh tế hình
thành và phát triển đa dạng khác nhau. Ở nước ta cho đến nay, về cơ bản vẫn là một
nước nông nghiệp cho nên sự phát triển của nông nghiệp giữ vai trò quyết định trong
kinh tế nông thôn, đồng thời là một trong những ngành cơ bản của nền kinh tế quốc
dân. Vì vậy, nó vừa chịu sự chi phối của nền kinh tế quốc dân vừa gắn bó chặt chẽ
với các ngành khác, vừa phản ánh những nét riêng biệt mang tính đặc thù của một
ngành mà đối tượng sản xuất là những cơ thể sống.
+ Ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp: Bao gồm trồng trọt và chăn nuôi, trong
trồng trọt được phân ra trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả…Ngành


14

chăn nuôi gồm có chăn nuôi đại gia súc, gia súc, gia cầm…Những ngành trên có thể
phân ra thành các ngành nhỏ hơn, chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong
quá trình phát triển và tạo thành cơ cấu nông nghiệp. Hiện nay, trong cơ cấu nông
nghiệp có hay vấn đề quan trọng là cơ cấu hợp lý giữa trồng trọt và chăn nuôi, giữa
trồng cây lương thực và cây công nghiệp, cây ăn quả, cây thực phẩm, chuyển từ
trạng thái độc canh cây lương thực sang đa canh cây trồng là xu hướng khách quan
nhằm sử dụng hợp lý các điều kiện và các nguồn lực như đất đai, lao động, tăng thu
nhập cho người lao động, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội cũng như phát huy
được một cách triệt để tiềm năng, lợi thế của từng địa phương trong quá trình phát

triển.
+ Ngành lâm nghiệp: Bao gồm nhiều chủng loại thực vật và động vật rừng,
đây là nguồn tài nguyên vô cùng phong phú và đa dạng. Rừng là một nguồn lợi to
lớn về kinh tế và có vai trò quan trọng trong việc phòng hộ, hạn chế lũ lụt, phát triển
du lịch, cơ cấu kinh tế lâm nghiệp bao gồm các nội dung là bảo tồn rừng tự nhiên,
phát triển và trồng rừng, khai thác tài nguyên rừng, chế biến lâm sản.
+ Ngành ngư nghiệp: Là một trong những ngành kinh tế quan trọng cấu thành
kinh tế nông nghiệp ở nước ta, cơ cấu kinh tế ngư nghiệp bao gồm các nội dung chủ
yếu là nuôi trồng thủy sản, khai thác thủy hải sản, chế biến thủy hải sản.
- Hai là, cơ cấu vùng lãnh thổ
Nếu cơ cấu ngành kinh tế hình thành từ quá trình phân công lao động xã hội
và chuyên môn hóa sản xuất thì cơ cấy kinh tế vùng lại được hình thành chủ yếu từ
việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý, cơ cấu vùng và cơ cấu ngành kinh tế thực
chất là hai mặt của một thể thống nhất và đều là biểu hiện của sự phân công lao động
xã hội, cơ cấu lãnh thổ hình thành gắn liền với cơ cấu ngành và thống nhất trong
vùng kinh tế. Ở nước ta, trong các năm qua các vùng kinh tế sinh thái đã được hình
thành và phát triển từng bước tạo nên vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa có trình
độ chuyên môn hóa cao cũng như vùng trồng lúa, cây công nghiệp, cây ăn quả, vùng
nuôi trồng thủy sản.


15

- Ba là, cơ cấu thành phần kinh tế.
Cơ cấu kinh tế được hình thành từ chế độ sở hữu: Một thành phần kinh tế hợp
lý phải dựa trên cơ sở hệ thống, tổ chức kinh tế với chế độ sở hữu có khả năng thúc
đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội.
Ở Nước ta, cơ cấu thành phần kinh tế tham gia trong lĩnh vực nông nghiệp
bao gồm: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế có hình thức sở hữu hỗn hợp.

Trong đó, kinh tế hộ gia đình nông dân là chủ yếu và đang chiếm vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế nông nghiệp.
Ngoài 03 loại cơ cấu chính nêu trên, trong sản xuất nông nghiệp còn có các
loại cơ cấu khác như cơ cấu vụ mùa, cơ cấu kỹ thuật, cơ cấu công nghệ sử dụng
trong nông nghiệp…
- Cơ cấu vụ mùa, nói lên thời điểm gieo trồng các loại cây, chu kỳ sinh trưởng
và thu hoạch chúng, việc bố trí mùa vụ cho từng loại cây phụ thuộc vào các yếu tố
chính như thời tiết, đất đai, đặc điểm sinh học của giống cây trồng, tiến bộ khoa học
kỹ thuật…Trong sản xuất nông nghiệp, sự thay đổi cơ cấu mùa vụ cũng bao hàm sự
thay đổi cơ cấu cây trồng và góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp.
- Cơ cấu kỹ thuật, trong thời hạn dài cũng giống như cơ cấu thành phần kinh
tế, cơ cấu kỹ thuật trong nông nghiệp nước ta mang nặng tính chất cổ truyền, nông
nghiệp truyền thống lạc hậu, phân tán, manh mún và có tính bảo thủ, kỹ thuật mang
tính cha truyền con nối, tự đào tạo và truyền khẩu những kinh nghiệm trong phạm vi
từng gia đình. Vì vậy, sản xuất nông nghiệp lệ thuộc vào tự nhiên, cơ cấu kỹ thuật
chậm chuyển biến, đứng trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, sự phát triển
mạnh mẽ của công nghiệp tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ đã tác động vào nông
nghiệp làm phá vỡ tính cổ truyền, lạc hậu và trì trệ, làm cho tính truyền thống giảm
mạnh, công nghiệp hòa nhập vào nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp có sự kết hợp


16

của kỹ thuật truyền thống đang xen với kỹ thuật tiến tiến hiện đại. Từ đó, làm cho cơ
cấu kỹ thuật trong nông nghiệp nước ta trong những năm qua chuyển biến mạnh mẽ.
- Cơ cấu công nghệ, nói lên tỷ trọng và mức độ áp dụng các loại công nghệ
trong sản xuất nông nghiệp như công nghệ lạc hậu, tiên tiến và hiện đại. Ngày nay,
dưới sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ nói chung và trong lĩnh vực

nông nghiệp nói riêng thì việc thay đổi từ công nghệ sản xuất cũ, lạc hậu sang công
nghệ tiên tiến, hiện đại là một yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm việc nâng cao chất
lượng và khả năng cạnh tranh của các loại nông sản của mỗi quốc gia.
1.1.5. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
1.1.5.1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng không phải
là bất biến mà sẽ vận động phát triển và chuyển hóa từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu
kinh tế mới, sự chuyển dịch đó đồi hỏi phải có thời gian và phải trải qua những bậc
thang nhất định của sự phát triển, đầu tiên là sự thay đổi về lượng, khi lượng đã thay
đổi tiến nhất định tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất, đó là quá trình chuyển hóa dẩn
từ cơ cấu kinh tế cũ thành cơ cấu kinh tế mới phù hợp và có hiệu quả hơn, tất nhiên
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào
nhiều yếu tố trong đó sự tác động của con người có yếu tố quan trọng. Do vậy,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là quá trình thay đổi cấu trúc và các mối
quan hệ của hệ thống kinh tế nông nghiệp theo một chủ định và định hướng nhất
định, nghĩa là đưa hệ thống nông nghiệp đến trạng thái phát triển tối ưu đạt hiệu quả,
thông qua các tác động điều kiện có ý thức, định hướng của con người, trên cơ sở
nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan.
Vai trò, vị trí của chuyển dịch kinh tế nông nghiệp nhằm đáp ứng sự phát
triển của nền kinh tế thị trường, đáp ứng nhu cầu về nông sản phẩm của xã hội, nhu
cầu tiêu dùng của người dân, là điều kiện và nhu cầu để mở rộng thị trường, tạo cơ
sở cho việc thay đổi bộ mặt nông thôn nói chung và bộ mặt nông nghiệp nói riêng,
đồng thời tạo ra một nền sản xuất chuyên môn hóa cao, thâm canh tiên tiến.


17

1.1.5.2. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu nông nghiệp nói riêng luôn thay đổi theo
từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế không cố định, đó là

sự thay đổi số lượng các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, hoặc mối quan hệ tỷ lệ giữa
các ngành, các vùng, các thành phần do sự xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành
và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế là không đồng đều.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải dựa trên cơ sở một cơ cấu
hiện có, do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế mới tiên tiến, hoàn thiện và
bổ sung cơ cấu kinh tế cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Như vậy,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực chất là sự điều chỉnh cơ cấu trên các mặt biểu hiện
của cơ cấu, nhằm hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế theo các mục tiêu kinh
tế – xã hội đã xác định cho từng thời kỳ phát triển.
- Mục đích của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần được tiến hành khẩn
trương, mục đích của chuyển dịch là tạo ra sự cân đối giữa nông nghiệp và các ngành
kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân, đồng thời tạo dựng một ngành nông nghiệp
có cơ cấu hợp lý, qua đó phát huy mọi tiềm năng sản xuất, lợi thế so sánh của từng
vùng, từng miền và trên cả nước nhằm phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa
lớn, giải quyết công ăn việc làm cho nông dân, nâng cao thu nhập và mức sống cho
người nông dân ở nông thôn.
- Các điều kiện đảm bảo cơ cấu kinh tế hợp lý.
Cơ cấu kinh tế phải phù hợp với quy luật khách quan.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải phù hợp với xu thế kinh tế chính trị của khu
vực và trên thế giới. Bối cảnh thế giới và trong nước hiện nay đòi hỏi nền nông
nghiệp Việt Nam phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm thích ứng sự
biến động của quan hệ cung – cầu nông sản hàng hóa ở cả thị trường trong nước và
thế giới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.


18

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải phán ánh khả năng khai thác các điều kiện tự
nhiên và lợi thế so sánh của từng vùng, từng miền và trong cả nước đáp ứng được

yêu cầu hội nhập với quốc tế và khu vực nhằm tạo ra sự cân đối, phát triển bền vững.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một yếu tố khách quan bởi nông
nghiệp có một vị trí quan trọng, là ngành sản xuất ra những sản phẩm thiết yếu cho
nhu cầu tồn tại và phát triển xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp sẽ có sự
tác động rất mạnh đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Vấn đề đặt ra bằng nhận thức và hành động của các nhà quản lý, các cơ quan
hoạch định chính sách phải có giải pháp điều chỉnh thông qua hệ thống các chính
sách kinh tế, định hướng cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiệu quả cao nhất.
Chúng ta không thể phó mặc để cơ chế thị trường tự phát điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Những vấn đề có một cơ cấu kinh tế có hiệu quả trong nên kinh tế thị trường thì cơ
cấu đó phải thỏa mãn được những yêu cầu của thị trường đặt ra. Như vậy, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải xuất phát từ những căn cứ mà thị trường đòi
hỏi và thỏa mãn tốt mọi nhu cầu của thị trường.
- Những nhân tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp.
Cơ cấu kinh tế, cơ cấu nông nghiệp, nông thôn luôn luôn biến đổi, chuyển
dịch dưới tác động của nhiều nhân tố: Nhân tố bên trong – bên ngoài, nhân tố khách
quan – chủ quan...trong những nhân tố tác động, có những nhân tố tích cực thúc đẩy
phát triển, song cũng có những nhân tố hạn chế, kìm hãm sự dịch chuyển và phát
triển.
1.1.5.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
- Công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, phù hợp với quy
luật khách quan của nền kinh tế thị trường được quán triệt xuyên suốt trong các Văn
kiện của Đảng và chính sách của Nhà nước.


19

Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng đã xác định:

“Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Sự nghiệp CNH, HĐH ngày nay mà Đảng ta đã chỉ ra là: “Quá trình chuyển đổi căn
bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế – xã
hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động với công nghệ, phương tiện tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghệ
và khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Với mục tiêu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp, có sơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất, Đảng ta đặc biệt coi trọng vấn đề CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn đồng thời xác định rõ: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nông
nghiệp nông thôn là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, là nhiệm vụ trực tiếp của
giai cấp nông dân liên minh với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước”.
Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định nước ta muốn phát triển
nhất thiết phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đại hội nhấn mạnh nội dung
cơ bản của CNH, HĐH giai đoạn hiện nay là: Đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn. Vì nó tạo tiền đề và cơ sở vững chắc thúc đẩy toàn bộ quá trình
CNH, HĐH nền kinh tế đất nước là mũi đột phá quan trọng nhằm giải phóng sức lao
động trong nông nghiệp hiện chiếm trên 70% lao động cả nước, tạo điều kiện khai
thác tốt tiềm năng dồi dào về lao động đất đai, CNH, HĐH nông nghiệp tạo điều
kiện giải quyết vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn, tạo điều kiện để phát triển
năng lực sản xuất khuyến khích mọi lực lượng lao động trong các thành phần kinh tế
hướng vào sản xuất trong từng thời kỳ, chính việc tạo điều kiện giải quyết các mối
quan hệ trên là việc tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vì chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nhằm thực hiện giải quyết các mối quan hệ trên. Do đó CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn là cơ sở để thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu,
chính tại văn kiện Đại hội IX của Đảng trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế
xã hội giai đoạn 2008 – 2013 đã lại tiếp tục khẳng định:



20

Một là: đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn
theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn phù hợp với nhu cầu thị trường
và điều kiện sinh thái của từng vùng...
Hai là: Xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp...
Ba là: Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp...
Bốn là: Tiếp tục phát triển và hoàn thiện về cơ bản hệ thống thủy lợi ngăn
mặn giữ ngọt, kiểm soát lũ...
Năm là: Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn...
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: “Thúc đẩy nhanh quá
trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh sang sản
xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao; đẩy mạnh thâm canh
các loại cây trồng trên cơ sở áp dụng các loại quy trình sản xuất đồng bộ và tiên tiến;
quy hoạch diện tích sản xuất lương thực ổn định; phát triển chăn nuôi theo hướng
quy mô lớn, an toàn dịch bệnh và bền vững về môi trường, xây dựng các vùng sản
xuất nông sản hàng hóa tập trung gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất và
chế biến khác phục vụ tình trạng sản xuất manh mún và tự phát”.
Theo đó, Đảng và Nhà nước ta sẽ tập trung thực hiện các giải pháp đồng bộ
để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn,
nhất là đưa nhanh khoa học và công nghệ vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; có
chính sách đủ mạnh để khuyến khích phát triển nhanh các doanh nghiệp và hoạt
động dịch vụ ở nông thôn; tiếp tục đầu tư phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế –
xã hội ở nông thôn; tập trung giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc và xây dựng
nông thôn mới.
Qua những vấn đề trên có thể thấy theo quan điểm của Đảng ta CNH, HĐH
cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn bó chặt chẽ với nhau, quá trình thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH cần chú ý những vấn đề sau:
Một là: chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn bộ, bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu



21

vùng và cơ cấu các thành phần kinh tế; huy động đồng bộ mọi điều kiện, mọi biện
pháp, mọi yếu tố để phát triển kinh tế.
Hai là, chú trọng cải tạo, nâng cao trình độ hiện đại của trang thiết bị hiện có,
đồng thời đổi mới quy trình công nghệ trong sản xuất và quản lý ở mọi ngành, mọi
lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội.
Nói cách khác, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu
thành phần kinh tế theo hướng hợp lý và hiệu quả cao hơn đòi hỏi nền kinh tế phải
được CNH, HĐH. Ngược lại CNH, HĐH làm cho nền kinh tế tăng trưởng và thúc
đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước ta là giảm tỷ
trọng nông nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế song vẫn coi trọng phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn: “Phát triển nông – lâm – ngư nghiệp gắn với công nghiệp
chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định
tình hình kinh tế – xã hội”


22

CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VỐN VAY THUỘC CHƯƠNG TRÌNH KHUYẾN
KHÍCH CHUYỂN DICH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN BÌNH CHÁNH GIAI ĐOẠN 2008-2013
2.1. Tình hình nghiên cứu, giải quyết vấn đề nghiên cứu
2.1.1. Trên thế giới
Cơ cấu sản xuât ngành nông nghiệp ở mỗi nước thường là không giống nhau
nó phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của mỗi nước, ở các nước đang
phát triển, do lịch sử để lại cơ cấu nông nghiệp mang tính thuần nông độc canh là

chủ yếu, nhưng xu hướng chung của thế giới thì cơ cấu kinh tế sẽ chuyển dịch từ
thuần nông độc canh sang phát triển toàn diện. Nhiều nước trên thế giới đều chú
trọng và đã thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, các nước
trên thế giới từ chỗ chỉ tập chung phát triển cây lương thực, đến khi cơ bản bảo đảm
an toàn lương thực, thì đều chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp từ nền sản xuất lương
thực tự cung tự cấp truyền thông sang sản xuất hàng hóa theo định hướng thị trường
với việc sản xuất các loại rau đậu cao cấp, cây ăn quả, cây nông nghiệp, các sản
phẩm chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp có giá trị kinh tế cao phục vụ cho tiêu dùng
trong nước và đặc biệt là xuất khẩu.
Ở nước Pháp, năm 1995 chính phủ phê chuẩn thực thi Luật Hiện đại hóa nông
nghiệp, năm 1999 ban hành Luật Chỉ đạo nông nghiệp, khuyến khích phát triển sản
xuất kinh doanh, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp.
Ở Hà Lan để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, đã đẩy mạnh các
chính sách như xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn tập trung vào
những ngành có nhiều lợi thế. Chăn nuôi là ngành sản xuất quan trọng nhất của nông
nghiệp Hà Lan trong đó đặc biệt là ngành chăn nuôi bò sữa. Hà Lan tập trung phát
triển các hợp tác xã chăn nuôi và ngành công nghiệp chế biến sữa. Hà Lan là nước
sản xuất sữa và chế phẩm sữa bò lớn nhất thế giới. Ngành trồng hoa cũng là thế


23

mạnh của Hà Lan với nhiều chủng loại đa dạng như hoa cắt, cây cảnh, củ hoa các
loại...Hà Lan là một trong 8 nước sản xuất lớn về thủy sản ở Châu Âu. Kim ngạch
xuất khẩu thủy sản của Hà Lan đứng thứ 11 thế giới. Cơ sở nông nghiệp của Hà Lan
là các trang trại gia đình, tỷ lệ lao động làm thuê rất ít, các hộ gia đình tiểu nông tự
cấp, tự túc trước đây được khuyến khích tích tụ chuyển thành trang trại lớn hiện đại
theo mô hình kinh tế tổ hợp sản xuất hàng hóa.
Ở Hàn Quốc từ năm 1974 Chính phủ đề ra chính sách hỗ trợ phát triển sản
xuất để tăng thu nhập cho người nông dân, chủ trương xây dựng các vùng chuyên

canh phát triển chăn nuôi, trồng rừng, đa canh; tạo cho cư dân nông thôn cơ hội việc
làm và tăng thu nhập phi nông nghiệp. Quá trình phát triển kinh tế ở Hàn Quốc luôn
đi cùng với việc phát triển công nghiệp quy mô nhỏ theo hình thức vệ tinh ở nông
thôn phục vụ cho các tập đoàn công nghiệp lớn ở đô thị, phát triển công nghiệp đã
thu hút một lượng lớn lao động nông thôn ra thành thị, giải quyết cơ bản tình trạng
thất nghiệp nông thôn. Chính sách chuyển dịch lao động nông thôn Hàn Quốc tập
chung vào phát triển hạ tầng nông thôn đẩy mạnh công nghiệp hóa, đô thị hóa nông
thôn; ngay những năm đầu của thập kỷ 60, Hàn Quốc đã có chính sách khuyến khích
phát triển các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn để thu hút lao động nông nhàn,
trong đó chính sách tập trung vào khuyến khích các hoạt động chế biến nông sản.
Chính phủ cung cấp vốn và hỗ trợ kĩ thuật đối với các hoạt động tạo việc làm phi
nông nghiệp và việc tổ chức sản xuất theo hình thức hợp tác.
Ở Đài Loan, từ năm 1952 đã đẩy mạnh chính sách công nghiệp hóa nông
nghiệp thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp để tạo thêm việc làm cho
người lao động. Từ đầu năm 1980 Đài Loan mở rộng quy mô trang trại, đồng thời
loại bỏ những ngành sản xuất làm tốn tài nguyên gây ô nhiễm môi trường, chuyển
sang các sản phẩm chất lượng cao như rau sạch, hoa, quả, nấm cao cấp, đánh bắt
cá...trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, nông nghiệp Đài Loan tăng trưởng
với mức trung bình nặng 4.4% /năm chủ yếu nhờ thâm canh tăng năng xuất bằng áp
dụng kỹ thuật mới mà không tăng thêm vật tư nông nghiệp. Để tạo việc làm và thu
nhập cho lao động, Đài Loan thực hiện chính sách chuyển đổi cơ cấu sản trong


24

ngành nông nghiệp để tạo thêm việc làm cho người lao động, Đài Loan tập trung
phát triển ngành nghề nông thôn và chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp để giải quyết
việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Ở Trung Quốc năm 2008 đã ban hành Nghị quyết về Tam nông nhấn mạnh
tăng cường địa vị nền tảng của nông nghiệp, tăng cường sức phát triển kinh tế nông

nghiệp và nông thôn đối với sản phẩm lương thực, Trung Quốc vừa là nước nhập
khẩu vừa là nước xuất khẩu và có khả năng cạnh tranh tương đối thấp so với nhiều
nước. Trung Quốc nhập tiểu mạch từ Mỹ và Canada, Trung Quốc có chương trình
trọng điểm nhằm chỉ sản xuất gạo chất lượng cao để xuất khẩu.
Qua thực tiễn chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở một số nước, chúng ta
có thể rút ra một số kinh nghiêm sau: Phải chú trọng ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp,
nông thôn. Đối với Việt Nam, nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu kinh tế,
vì thế nông nghiệp, nông thôn cần được coi trọng và được đặt nên vị trí quan tâm
hàng đầu không chỉ vì giá trị kinh tế và còn vì các giá trị văn hóa truyền thống cần
được lưu giữ bảo vệ, nông nghiệp còn có vai trò trong đảm bảo an ninh lương thực,
cân bằng sinh thái, môi trường quốc gia. Ngoài ra, nông nghiệp vẫn là ngành tạo
nhiều việc làm và mang lại nguồn thu nhập ổn đỉnh cho một bộ phận lao động ở khu
vực nông thôn, xác định rõ phương hướng phát triển nông nghiệp nông thôn theo
từng giai đoạn, trong đó cần tăng dần tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp,
Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn thông qua phát triển dịch vụ và các ngành
mới. Xu hướng chuyển dịch những năm gần đây cho thấy khuyến khích phát triển
ngành dịch vụ, ở khu vực nông thôn đã được nhiều nước đưa vào chương trình mục
tiêu và ưu tiên để khai thác các giá trị truyền thống, văn hóa ở nông thôn, phát triển
nông nghiệp thông qua nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, lao động có
trình độ tay nghề và kinh nghiệm nghề nghiệp thường có nhiều cơ hội về việc làm và
thu nhập và ngược lại, tăng quy mô đất nông nghiệp thông qua tích tụ tập trung, thực
tế cho thấy để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp thì tăng quy mô đất nông
nghiệp có một vai trò hết sức quan trọng mà Việt Nam cần đặc biệt chú ý.


25

2.1.2. Ở Việt Nam
a) Các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp

Trong giai đoạn từ năm 1986 đến nay các Nghị Quyết đại hội
VI,VII,VIII,IX,X,XI Đảng ta luôn nhấn mạnh thực hiện nhất quán, lâu dài chủ
trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành, phần kinh tế thị trường có sự quản lý
kinh tế của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ trương đó trong nông
nghiệp được cụ thể và hoàn thiện trong các văn bản quan trọng mang tính lịch sử
như: Nghị quyết 10 của bộ chính trị khóa VI (5/4/1988) Nghị quyết 6 trung ương
khóa VI (3/1989), luật đất đai năm 1993, Nghị quyết 5 trung ương khóa VII
(6/1993), luật hợp tác xã (4/1996), đặc biệt là Nghị quyết số 26-NQ/TW của BCHTU
Đảng về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn(8/2008), chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới...
Văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế chuyển đổi mô hình tăng trường, phát triển nông, lâm, ngư
nghiệp toàn diện theo hướng CNH, HĐH gắn với giải quyết vấn đề nông dân, nông
thôn, khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới để phát triển sản xuất hàng hóa
lớn với năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao.
Với mục đích cao nhất mà Đảng và Nhà nước là phải hướng tới, đó là công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta vì:
Nông nghiệp, nông thôn, nông dân là vấn đề có vị trí chiến lược, có vai trò to
lớn trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn là giải pháp cơ bản để khắc phục
tình trạng tự cung tự cấp, đẩy mạnh được phân công lao động, giải quyết việc làm
nâng cao thu nhập cho người lao động.
Kinh tế nông nghiệp nông thôn vẫn còn nhiều mặt yếu kém, gây khó khăn, trở
ngại lớn cho CNH,HĐH đất nước đòi hỏi phải được khắc phục, giải quyết.


×