BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------------------------
NGUYỄN VĂN HÀO
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN QUY HOẠCH
BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG XÃ QUẢNG SƠN
HUYỆN ĐẮK GLONG TỈNH ĐẮK NÔNG
GIAI ĐOẠN 2013 - 2020
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Đồng Nai, 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------------------------
NGUYỄN VĂN HÀO
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN QUY HOẠCH
BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG XÃ QUẢNG SƠN
HUYỆN ĐẮK GLONG TỈNH ĐẮK NÔNG
GIAI ĐOẠN 2013 - 2020
CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
Mã số: 60.62.02.01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ THẾ HỒNG
Đồng Nai, 2014
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa và trải dài theo nhiều vĩ độ, với
2/3 diện tích đất đồi núi, do đó tài nguyên rừng có vai trò đặc biệt trong công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường ở nước ta. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau như sức ép gia tăng dân số, du canh du cư, đốt nương làm
rẫy, khai thác rừng không kiểm soát, cháy rừng, chiến tranh,... nên diện tích và chất
lượng rừng nước ta bị suy giảm liên tục trong thời gian dài, đặc biệt trong giai đoạn
1980 - 1985 trung bình mỗi năm chúng ta mất đi khoảng 235.000 ha rừng.
Từ năm 1990 trở lại đây, diện tích và độ che phủ rừng đã tăng lên liên tục
nhờ công tác trồng rừng và phục hồi rừng tự nhiên, đặc biệt là chương trình 327
(phủ xanh đất trống đối núi trọc); Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng; Chỉ thị số
286/TTg ngày 02/5/1997 cấm khai thác rừng tự nhiên của Chính phủ,... cùng với sự
hỗ trợ của nhiều dự án quốc tế như PAM, KFW (Đức); JICA (Nhật Bản),.... Theo
thống kê đến 31/12/2012, diện tích rừng toàn quốc là 13.862.043 ha với tỷ lệ che
phủ của rừng đạt 40,7%.
Mặc dù, diện tích rừng tăng nhưng trữ lượng và chất lượng rừng chưa được
cải thiện rõ rệt, chủ yếu rừng tự nhiên hiện nay thuộc đối tượng rừng nghèo kiệt, giá
trị kinh tế, phòng hộ, đa dạng sinh học,... không cao. Rừng trồng sản xuất mới chỉ là
rừng trồng nguyên liệu, gỗ nhỏ. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng
phương án quy hoạch phát triển lâm nghiệp hợp lý cho từng vùng, địa phương cụ
thể đang được các nhà quản lý rất quan tâm đặc biệt từ khi thực hiện việc rà soát
quy hoạch lại 3 loại rừng theo Chỉ thị 38/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã là vấn đề cần thiết, được tiến
hành theo từng giai đoạn nhằm phát huy vai trò chỉ đạo, tổ chức sản xuất lâm
nghiệp trên địa bàn xã. Những năm qua, một số địa phương trong cả nước đã thực
hiện công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng song vẫn còn có những bất cập.
Việc đánh giá hiện trạng sử dụng đất đai, tài nguyên rừng và quy hoạch bảo vệ và
phát triển rừng cấp xã chưa được thực hiện kịp thời và toàn diện trên cơ sở nhìn
2
nhận cả 3 yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường và sự thu hút được sự tham gia của
người dân và cộng đồng còn hạn chế. Ngoài ra, mục tiêu và nội dung của quy hoạch
thường chưa quan tâm một cách thoả đáng tới những lợi thế và thách thức cũng như
tiềm năng cung cấp các nguồn lực và nhu cầu lâm sản đầu ra của các hoạt động sản
xuất nên vai trò của phương án quy hoạch còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, quá trình
đổi mới của nền kinh tế, phương thức quản lý sử dụng đối với các nguồn tài nguyên
trong đó có tài nguyên đất và rừng cũng có nhiều thay đổi.
Quảng Sơn là xã miền núi của huyện Đăk Glong, cách trung tâm huyện 55
km về phía Bắc với tổng diện tích tự nhiên là 45.176,3 ha, trong đó diện tích đất
quy hoạch cho Lâm nghiệp 37.985,78 ha, chiếm 84,08% tổng diện tích toàn xã.
Diện tích rừng của xã Quảng Sơn có nhiều kiểu loại khác nhau, có tính đa dạng sinh
học cao, giữ vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của xã nói
riêng và của huyện Đắk Glong nói chung, đồng thời đảm bảo năng lực phòng hộ
đầu nguồn, phòng hộ môi trường cảnh quan, điều hoà khí hậu, bảo vệ đất chống xói
mòn...
Sản xuất lâm nghiệp xã Quảng Sơn từng bước chuyển dịch theo hướng giảm
khai thác, tăng cường quản lý bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng kinh tế,
khai thác các tiềm năng giá trị môi trường rừng. Hoạt động lâm nghiệp có nhiều đổi
mới về cơ chế tổ chức quản lý để nâng cao trách nhiệm quản lý của các đơn vị chủ
rừng. Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng ngày càng được coi trọng đúng
mức hơn, góp phần tạo công ăn, việc làm, cải thiện đời sống và nâng cao ý thức bảo
vệ rừng của người dân địa phương, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ.
Tuy nhiên, hiện nay công tác lập quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng theo
Thông tư số 05/2008/TT-BNN ngày 14/01/2008 của Bộ Nông nghiệp & PTNT vẫn
chưa được triển khai thực hiện. Việc điều chỉnh lại địa giới hành chính theo Nghị
định 28/NĐ-CP ngày 06/7/2010 của Thủ tướng Chính Phủ đã làm thay đổi về quy
mô diện tích đất quy hoạch cho mục đích lâm nghiệp của xã Quảng Sơn. Tài
nguyên rừng của xã chưa phát huy hết tiềm năng, trong nhiều năm qua đời sống của
những người tham gia bảo vệ rừng và tái tạo rừng vẫn còn rất nghèo, thu nhập thấp
3
hơn rất nhiều so với các khu vực khác, do chưa được hưởng lợi thỏa đáng từ các giá
trị sử dụng của rừng. Chất lượng rừng tự nhiên chưa được nâng cao; Công nghệ
khai thác, chế biến gỗ chưa tiến triển kịp với các khu vực lân cận; Chưa tiếp cận
triệt để và có hiệu quả các cơ hội nguồn lợi đầu tư vào rừng thông qua các thành
phần kinh tế trong và ngoài nước...
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải xây dựng phương án quy hoạch bảo vệ và
phát triển rừng xã Quảng Sơn cho phù hợp với tình hình thực tế, tiếp cận các quan
điểm mới trong quy hoạch nhằm góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống của
người dân, thực hiện xoá đói giảm nghèo và đưa kinh tế xã hội miền núi phát triển
hoà nhập với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, để xây dựng luận văn tốt nghiệp chúng tôi
thực hiện đề tài: “Nghiên cứu xây dựng phương án quy hoạch bảo vệ và phát
triển rừng tại xã Quảng Sơn huyện Đắk Glong tỉnh Đắk Nông, giai đoạn 2013 2020”.
4
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nhận thức về quy hoạch
Thực chất của công tác quy hoạch nói chung là tổ chức không gian và thời
gian phát triển chung cho kinh tế - xã hội, môi trường hoặc một ngành, một lĩnh vực
sản xuất trong từng giai đoạn cụ thể. Mỗi ngành kinh tế muốn tồn tại, phát triển thì
nhất thiết phải tiến hành quy hoạch, sắp xếp một cách hợp lý, mà trong đó công tác
điều tra cơ bản phục vụ cho quy hoạch phát triển phải được đi trước một bước. Quy
hoạch bảo vệ và phát triển rừng là một bộ phận cấu thành của quy hoạch tổng thể
phát triển nông thôn và thuộc phạm trù của quy hoạch vùng.
1.1.1. Quy hoạch sử dụng đất đai
Quan niệm về QHSDĐĐ còn nhiều hướng khác nhau, tuy nhiên tựu chung
lại một số tác giả có nghiên cứu, như:
Theo Dent (1986) [28]: QHSDĐĐ như là phương tiện giúp cho lãnh đạo
quyết định sử dụng đất đai như thế nào thông qua việc đánh giá có hệ thống cho
việc chọn mẫu hình trong sử dụng đất đai, mà trong sự lựa chọn này sẽ đáp ứng với
những mục tiêu riêng biệt, và tự đó hình thành nên chính sách và chương trình cho
sử dụng đất đai.
Một định nghĩa khác của Fresco và ctv, (1993) [32], QHSDĐĐ như là dạng
hình của quy hoạch vùng, trực tiếp cho thấy việc sử dụng tốt nhất về đất đai trên
quan điểm chấp nhận những mục tiêu, và những cơ hội về môi trường, xã hội và
những vấn đề hạn chế khác.
Những từ vựng kết hợp với những định nghĩa về QHSDĐĐ là hầu hết đều
đồng ý chú trọng và giải đoán những hoạt động như là một tiến trình xây dựng
quyết định cấp cao. Do đó QHSDĐĐ, trong một thời gian dài với quyết định từ trên
xuống nên cho kết quả là nhà quy hoạch bảo người dân phải làm những gì. Trong
phương pháp tổng hợp và người sử dụng đất đai là trung tâm. [30] đã đổi lại định
nghĩa về QHSDĐĐ như sau QHSDĐĐ là một tiến trình xây dựng những quyết định
5
để đưa đến những hành động trong việc phân chia đất đai cho sử dụng để cung cấp
những cái có lợi bền vững nhất. Với cái nhìn về quan điểm khả năng bền vững thì
chức năng của QHSDĐĐ là hướng dẫn sự quyết định trong sử dụng đất đai để làm
sao trong nguồn tài nguyên đó được khai thác có lợi cho con người, nhưng đồng
thời cũng được bảo vệ cho tương lai.
Lê Quang Trí (2005) [22]: QHSDĐĐ là sự đánh giá tiềm năng đất nước có
hệ thống, tính thay đổi trong trong sử dụng đất đai và những điều kiện kinh tế xã hội
để chọn lọc và thực hiện các sự chọn lựa sử dụng đất đai tốt nhất. Đồng thời
QHSDĐĐ cũng là chọn lọc và đưa vào thực hành những sử dụng đất đai đó mà nó
phải phù hợp với yêu cầu cần thiết của con người về bảo vệ nguồn tài nguyên thiên
nhiên trong tương lai.
Do đó trong quy hoạch cho thấy: Những sự cần thiết phải thay đổi; Những
cần thiết cho việc cải thiện quản lý, hay những cần thiết cho kiểu sử dụng đất đai
hoàn toàn khác nhau trong các trường hợp cụ thể khác nhau.
Các loại sử dụng đất đai bao gồm: Đất ở, nông nghiệp (thuỷ sản, chăn nuôi
…) đồng cỏ, rừng, bảo vệ thiên nhiên và du lịch đều phải được phân chia một cách
cụ thể theo thời gian được quy định. Do đó trong QHSDĐĐ phải cung cấp những
hướng dẫn cụ thể để có thể giúp cho các nhà quyết định có thể chọn lựa trong các
trường hợp có sự mâu thuẫn giữa đất nông nghiệp và phát triển đo thị hay công
nghiệp hoá bằng cách chỉ ra các vùng đất đai nào có giá trị nhất cho đất nông
nghiệp và nông thôn mà không nên sử dụng cho các mục đích khác.
Quy hoạch sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và
pháp chế của Nhà nước về tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả cao
thông qua việc phân phối và tái phân phối quỹ đất (cả nước hoặc trong phạm vi một
đơn vị, đối tượng sử dụng đất cụ thể), tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất
cùng với các tư liệu sản xuất khác gắn liền với đất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
đất, hiệu quả sản xuất xã hội tạo điều kiện bảo vệ đất và bảo vệ môi trường [26]
6
1.1.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ
Theo Nguyễn Nhật Tân - Nguyễn Thị Vòng (1995)[18] Quy hoạch vùng lãnh
thổ là hệ thống các biện pháp xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý gắn liền với cơ
cấu đất đai và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, các công trình kinh tế văn hoá - xã hội, nguồn lao động, tăng cương xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển lực
lượng sản xuất để phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới và xã hội mới.
Quy hoạch vùng lãnh thổ là khoa học về quản lý tài nguyên mang cả 3 tính
chất: Kinh tế, kỹ thuật và pháp lý. Là cơ sở để lập dự án đầu tư phát triển kinh tế và
xây dựng nông thôn mới. Sự phát triển của khoa học quy hoạch vùng lãnh thổ liên
quan đến sự phát triển của các quản lý phát triển kinh tế và phân bổ lực lượng sản
xuất trên địa bàn lãnh thổ.
Đặc điểm của quy hoạch là quy hoạch thường mang tính định hướng về
tương lai, vì vậy quy hoạch phải có mục tiêu rõ rệt. Mục tiêu không thể hình thành
do ý nghĩ chủ quan của một số người làm quy hoạch, cũng không thể hình thành
chóng vánh trong ngày một ngày hai mà nó phải trải qua một quá trình tìm tòi, cân
nhắc lâu dài từ tổng quát đến chi tiết, từ cục bộ đến toàn diện. Mục tiêu phải có tính
khả thi, nếu quy hoạch không hướng về tương lai thì chỉ là một việc làm tốn kém,
một bức tranh không có lợi ích.
1.1.3. Quy hoạch phát triển lâm nghiệp
Lâm nghiệp là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù bao gồm tất cả các hoạt
động gắn liền với sản xuất hàng hoá và dịch vụ từ rừng như các hoạt động bảo vệ,
gây trồng, khai thác, vận chuyển, sản xuất, chế biến lâm sản và các dịch vụ môi
trường có liên quan đến rừng; đồng thời ngành lâm nghiệp có vai trò rất quan trọng
trong việc bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, xoá đói, giảm nghèo, đặc
biệt cho người dân miền núi, góp phần ổn định xã hội và an ninh quốc phòng.
Quy hoạch phát triển lâm nghiệp là một hoạt động vừa mang tính khoa học
vừa mang tính pháp lý của hệ thống các biện pháp kỹ thuật, kinh tế, xã hội. Thực
chất đó là quá trình ra quyết định sử dụng rừng và đất rừng như một tư liệu sản xuất
đặc biệt, nhằm mục tiêu sử dụng rừng và đất rừng một cách hiệu quả. Công tác quy
7
hoạch bảo vệ và phát triển lâm nghiệp luôn được trú trọng và coi là nhiệm vụ chiến
lược trong quản lý rừng và đất rừng.
Quy hoạch phát triển lâm nghiệp là một bộ phận cấu thành của quy hoạch
tổng thể phát triển nông thôn. Do đó công tác quy hoạch phát triển lâm nghiệp cần
có sự phối hợp chặt chẽ với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội nông thôn
nhằm tránh sự chồng chéo, hạn chế lẫn nhau giữa các ngành. Nếu công tác quy
hoạch phát triển lâm nghiệp được chú ý quan tâm đúng mức thì sự phát triển của
ngành lâm nghiệp sẽ mang lại tính bền vững, trong điều kiện ngược lại sẽ gặp
những trở ngại, khó khăn. Ngày nay khi nhu cầu của xã hội về lâm sản đáp ứng cho
nguyên liệu, gỗ, củi … ngày càng cao, tạo áp lực ngày càng lớn vào tài nguyên rừng
và đất rừng thì vấn đề quy hoạch bảo vệ và phát triển lâm nghiệp một cách bền
vững càng trở lên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết, và đã trở thành một
nguyên tắc hàng đầu trong chiến lược phát triển lâm nghiệp của mỗi quốc gia nói
riêng và trên toàn thế giới nói chung.
Những nội dung chủ yếu thường được chú ý là các yếu tố về mặt kinh tế, bảo
vệ môi trường, bảo vệ các hệ sinh thái đa dạng sinh học và các đặc điểm xã hội,
nhân văn. Quá trình phát triển của việc quản lý sử dụng đất trên thế giới luôn gắn
liền với lịch sử phát triển xã hội loài người.
1.2. Trên thế giới
Chúng ta biết rằng việc quản lý sử dụng tài nguyên thiên nhiên theo hướng
bền vững nói chung và tài nguyên rừng nói riêng đã và đang được các nhà khoa học
trong nước và trên thế giới quan tâm.
Tuỳ theo cách nhìn nhận về quy hoạch phát triển lâm nghiệp sao cho hợp lý
được nhiều tác giả đề cập tới ở những mức độ rộng hẹp khác nhau. Việc đưa ra một
khái niệm thống nhất là một điều rất khó thực hiện, song phân tích qua các khái
niệm cho thấy có những điểm giống nhau, đó là dựa trên quan điểm về sự phát triển
bền vững thì các hoạt động có liên quan đến tài nguyên rừng phải được xem xét một
cách toàn diện và đồng thời đảm bảo sử dụng nó theo hướng lâu dài và bền vững.
8
Những nội dung chủ yếu thường được chú ý là các yếu tố về mặt kinh tế, bảo
vệ môi trường, bảo vệ tính đa dạng sinh học, các đặc điểm xã hội và nhân văn. Quá
trình phát triển của việc quản lý sử dụng tài nguyên rừng trên thế giới luôn gắn liền
với lịch sử phát triển của xã hội loài người. Quy hoạch phát triển lâm nghiệp luôn
phụ thuộc vào Quy hoạch vùng và Quy hoạch cảnh quan trong quá trình xây dựng
phương án quy hoạch.
1.2.1. Quy hoạch vùng
Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp ở Liên Xô trước đây: Nguyễn Nhật
Tân - Nguyễn Thị Vòng (1995) [18]: Quy hoạch vùng nông nghiệp là một biện pháp
tổng hợp của Nhà nước về phân bố và phát triển lực lượng sản xuất trên lãnh thổ
các vùng hành chính - nông nghiệp nhằm đáp ứng các nhu cầu về phát triển tất cả
các ngành kinh tế quốc dân trong vùng. Quy hoạch vùng nông nghiệp là giai đoạn
kết thúc của kế hoạch hoá tương lai của Nhà nước một cách chi tiết sự phát triển và
phân bố lực lượng sản xuất theo lãnh thổ của vùng, là biện pháp xác định các xí
nghiệp chuyên môn hoá một cách hợp lý, là biện pháp thiết kế và đưa vào nề nếp
việc sử dụng đất đai trên từng khu vực cụ thể của vùng, là biện pháp xác định sự
phân bố đúng đắn các cơ quan y tế và phục vụ sinh hoạt văn hoá cho nhân dân, là
biện pháp xây dựng các tiền đề tổ chức lãnh thổ nhằm sử dụng hợp lý các của cải tự
nhiên, các thành tựu khoa học kỹ thuật, các nguồn lao động nhằm phát triển với tốc
độ nhanh kinh tế của tất cả các xí nghiệp đồng thời cải thiện đời sống vật chất và
văn hoá của nhân dân trong vùng lao động nông nghiệp đó.
Trần Hữu Viên (2005) [26]: Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp tuân theo
học thuyết Mác - Lê Nin về phân bố và phát triển lực lượng sản xuất theo lãnh thổ
và sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Các Mác và Ăng Ghen đã chỉ ra “Mức độ phát triển lực lượng sản xuất của
một dân tộc thể hiện rõ nét hơn hết ở sự phân công lao động của dân tộc đó được
phát triển đến mức độ nào”
Lê Nin đã chỉ ra “Sự nghiên cứu tổng hợp tất cả các đặc điểm tự nhiên kinh
tế xã hội của mỗi vùng là nguyên tắc quan trọng để phân bố sản xuất”. Vì vậy,
9
nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng cho sự phân bố lực lượng sản xuất cho một vùng
trong quá khứ và hiện tại để xác định khả năng và tương lai phát triển của vùng đó.
Dựa trên cơ sở học thuyết của Mác và Ăng Ghen, V.I. Lê Nin đã nghiên cứu
các hướng cụ thể về kế hoạch hoá phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội chủ
nghĩa.
Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari trước đây: Nhằm sử dụng hiệu quả nhất
lãnh thổ của đất nước. Bố trí hợp lý các hoạt động của con người nhằm đảm bảo tái
sản xuất mở rộng. Xây dựng đồng bộ môi trường sống.
Quy hoạch lãnh thổ đất nước được phân thành các vùng: Lãnh thổ là môi
trường thiên nhiên phải bảo vệ; Lãnh thổ thiên nhiên không có nông thôn, sự tác
động của con người vào đây rất ít; Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên có mạng lưới
nông thôn, có sự can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho nghỉ mát; Lãnh
thổ là môi trường nông nghiệp không có mạng lưới nông thôn nhưng có tác động
đặc biệt của con người; Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp có mạng lưới nông
thôn và có sự can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp;
Lãnh thổ là môi trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực của con người.
Trên cơ sở quy hoạch vùng lãnh thổ cả nước tiến hành quy hoạch lãnh thổ
vùng và quy hoạch lãnh thổ địa phương.
Quy hoạch vùng ở Pháp: Theo quan niệm chung của hệ thống các mô hình
quy hoạch vùng lãnh thổ M. Thénevin (M. Pierre Thénevin), một chuyên gia thống
kê đã giới thiệu một số mô hình quy hoạch vùng được áp dụng thành công ở miền
Tây nam nước Cộng hoà Côte D’ivoire. Trong mô hình quy hoạch vùng này, người
ta đã nghiên cứu hàm mục tiêu cực đại giá trị tăng thêm xã hội với các giàng buộc
trong nội vùng, có quan hệ với các vùng khác và với nước ngoài. Thực chất mô
hình là một bài toán quy hoạch tuyến tính có cấu trúc:
- Các hoạt động sản xuất:
+ Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình và trồng
trọt công nghiệp với các mức thâm canh cao độ, thâm canh trung bình và cổ điển
(truyền thống).
10
+ Hoạt động khai thác rừng
+ Hoạt động đô thị: Chế biến gỗ, bột giấy, vận chuyển, dịch vụ, thương mại..
- Nhân lực phân theo các dạng thuế thời vụ, các loại lao động nông nghiệp,
lâm nghiệp.
- Cân đối xuất nhập, thu chii và các cân đối khác vào giàng buộc về diện tích
đất, về nhân lực, về tiêu thụ lương thực …
Tóm lại: Quy hoạch vùng nhằm đạt mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng
tăng thêm giá trị sản phẩm của xã hội theo phương pháp mô hình hoá trong điều
kiện thực tiễn của vùng, so sánh với vùng xung quanh và nước ngoài.
Quy hoạch vùng lãnh thổ của Thái Lan: Công tác quy hoạch vùng lãnh thổ
được chú ý từ những năm 1970. Hệ thống quy hoạch được tiến hành theo 3 cấp:
(Quốc gia, vùng, á vùng hay địa phương).
Vùng (Region) được coi như một á miền (Subdivision) của đất nước. Đó là
điều cần thiết để phân chia quốc gia thành các á miền theo các phương diện khác
nhau như phân bố dân cư, khí hậu, địa hình… Đồng thời vì lý do quản lý hay chính
trị, đất nước được chia thành các miền như đơn vị hành chính hay đơn vị bầu cử.
Quy mô diện tích của một vùng phụ thuộc vào kích thước, diện tích của đất nước.
Thông thường vùng nằm trên một diện tích lớn hơn đơn vị hành chính lớn nhất. Sự
phân chia các vùng theo mục đích của quy hoạch, theo đặc điểm của lãnh thổ.
Quy hoạch phát triển vùng tiến hành ở cấp á miền được xây dựng theo 2
cách:
Thứ nhất: Sư bổ sung của kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng, những
mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng, sau đó kế hoạch vùng được
giải quyết trong kế hoạch quốc gia.
Thứ hai: Quy hoạch vùng được giải quyết căn cứ vào đặc điểm của vùng, các
kế hoạch vùng đóng góp vào việc xây dựng kế hoạch quốc gia.
Quy hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý Nhà nước, phải
phối hợp với Chính phủ và chính quyền địa phương.
11
Dự án phát triển của Hoàng gia Thái Lan đã xác định được vùng nông nghiệp
chiếm một vị trí quan trọng về kinh tế, xã hội và chính trị ở Thái Lan và tập trung
xây dựng ở 2 vùng: Trung tâm và Đông Bắc. Trong 30 năm (1961 - 1988 đến 1992
- 1996), tổng dân cư nông thôn trong các vùng nông nghiệp từ 80% giảm xuống
66,6%, các dự án tập trung vào mấy vấn đề quan trọng: Nước, đất đai, vốn đầu tư
kỹ thuật, nông nghiệp, thị trường.
1.2.2. Quy hoạch cảnh quan sinh thái
Thuật ngữ “cảnh quan - Landscape” là tổng thể lãnh thổ tự nhiên của bất kỳ
một quy mô nào, có sự đồng nhất tương đối về một số hợp phần tự nhiên nào đó,
chúng mang tính chất kiểu loại và được phân loại theo các chỉ tiêu dấu hiệu của sự
đồng nhất đó. Cảnh quan được các nhà cảnh quan học Trung Quốc lý giải 3 cách:
- Theo phương diện mỹ học, thì cảnh quan đồng nghĩa với từ “phong cảnh”.
Cảnh quan là đối tượng thẩm mỹ, mà rừng được xem là phong cảnh (rừng phong
cảnh)
- Theo phương diện địa lý thì cảnh quan là tổng hợp các thành phần sinh vật,
địa mạo, thổ nhưỡng, khí hậu trên bề mặt địa cầu. Khái niệm cảnh quan này rất gần
gũi với thuật ngữ hệ sinh thái hoặc quần lạc sinh địa.
- Cảnh quan sinh thái học. Cảnh quan là sự tổ hợp các hệ sinh thái khác nhau
trong một không gian. Một cảnh quan bao gồm sự tụ họp của một số hệ sinh thái ở
liền kề nhau có sự ảnh hưởng lẫn nhau, có chức năng liên quan hỗ trợ và phát sinh
đặc điểm nhất định trong một không gian.
- Cảnh quan có thể thay đổi phụ thuộc vào hình dáng vật lý và vị trí như đỉnh
núi, hồ, biển hay đất liền. Cảnh quan cũng có thể chia thành cảnh quan nông thôn
hay thành thị tùy thuộc vào mức độ “nhân tạo” của cảnh quan đó.
- Các nghiên cứu làm cơ sở cho quy hoạch cảnh quan sinh thái
Tính đa dạng sinh học đối với môi trường sống của con người có tầm quan
trọng đặc biệt, sự đa dạng sinh học có quan hệ chặt chẽ tới đa dạng cảnh quan, Vì
vậy, các nhà sinh học ở Mỹ (California), Nam phi, Chi lê, Australia (Mayer, Lugo,
Wilson) đã tiến hành nghiên cứu sự đa dạng sinh học để làm cơ sở cho quy hoạch
12
cảnh quan các khu vực rừng nguyên sinh. Duy trì tính đa dạng cảnh quan, đa dạng
loài và tính đa dạng di truyền là một trong những mục tiêu chủ yếu của quản lý tài
nguyên thiên nhiên nói chung, quản lý rừng nói riêng.
Để làm cơ sở quy hoạch cảnh quan sinh thái cho các khu bảo tồn, các nhà
khoa học gồm Simpson, Shannnon-Weiner, Richness đã tập trung nghiên cứu về chỉ
số đa dạng sinh học. Chỉ số đa dạng sinh học là cơ sở đánh giá đa dạng cảnh quan
sinh thái khi tiến hành quy hoạch cảnh quan.
1.2.3. Quy hoạch phát triển lâm nghiệp
Sau cách mạng công nghiệp, vào thế kỷ XIX phương thức kinh doanh rừng
chồi được thay thế bằng phương thức kinh doanh rừng hạt với chu kỳ khai thác dài.
Và phương thức “Khoanh khu chặt luân chuyển” nhường chỗ cho phương thức
“chia đều” của Hartig. Hartig đã chia chu kỳ khai thác thành nhiều thời kỳ lợi dụng
và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm. Đến năm 1816 xuất hiện phương
pháp phân kỳ lợi dụng của H.Cotta. Cotta chia chu kỳ khai thác thành 20 thời kỳ lợi
dụng và cũng lấy đó để khống chế lượng chặt hàng năm.
Sau đó phương pháp “Bình quân thu hoạch” ra đời. Quan điểm phương pháp
này là giữ đều mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại, đồng thời vẫn đảm
bảo thu hoạch được liên tục trong chu kỳ sau. Và đến cuối thế kỳ XIX xuất hiện
phương pháp “Lâm phần kinh tế” của Judeich, phương pháp này khác với phương
pháp “Bình quân thu hoạch” về căn bản. Judeich cho rằng những lâm phần nào đảm
bảo thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ đưa vào diện khai thác. Hai phương pháp
“Bình quân thu hoạch” và “Lâm phần kinh tế” chính là tiền đề của hai phương pháp
tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng khác nhau. Phương pháp “Bình quân thu hoạch”
và sau này là phương pháp “Cấp tuổi” chịu ảnh hưởng của “Lý luận rừng tiêu
chuẩn”, có nghĩa là rừng phải có kết cấu tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích,
trữ lượng, vị trí và đưa các cấp tuổi cao vào diện tích khai thác. Hiện nay, phương
pháp kinh doanh rừng này được dùng phổ biến ở các nước có tài nguyên rừng
phong phú. Còn phương pháp “Lâm phần kinh tế” và hiện nay là phương pháp
“Lâm phần” không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm
13
phần tiến hành phân tích, xác định sản lượng và biện pháp kinh doanh. Cũng từ
phương pháp này, còn phát triển thành “Phương pháp kinh doanh lô” và “Phương
pháp kiểm tra”.
Năm 1929 bang Wiscosin đã ra đạo luật sử dụng đất đai trong đó có quy định
nguyên tắc sử dụng đất lâm nghiệp, tiếp theo xây dựng kế hoạch sử dụng đất đầu
tiên cho vùng Oneide của Wiscosin, kế hoạch này đã xây định các diện tích cho sử
dụng đất lâm nghiệp, nông nghiệp và nghỉ ngơi giải trí.
Tại châu Âu, vào thập kỷ 30 và 40 thế kỷ XX, quy hoạch ngành giữ vai trò
lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm 1946, Jack
G.V. đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất đai với tên “phân loại đất
đai cho quy hoạch sử dụng đất”. Đây cũng là tài liệu đầu tiên đề cập đến đánh giá
khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất. Tại vùng Rhodesia trước đây, nay là
cộng hoà Zimbabwe, Bộ Nông nghiệp đã xuất bản cuốn sổ tay hướng dẫn quy
hoạch sử dụng đất hỗ trợ cho quy hoạch cơ sở hạ tầng cho trồng rừng. Vào đầu
những năm 60 của thế kỷ XX, Tạp chí “East African Journal for Agriculture
Forestry” đã xuất bản nhiều bài báo về quy hoạch cơ sở hạ tầng ở Nam châu Phi.
Năm 1966, Hội Đất học của Mỹ và Hội Nông học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về
hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng trong qui hoạch sử
dụng đất.
1.3. Ở Việt Nam
1.3.1. Quy hoạch vùng chuyên canh
1.3.1.1. Quy hoạch vùng chuyên canh cây trồng
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế, đã quy hoạch các vùng chuyên canh
lúa ở đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long, các vùng rau thực phẩm
cho các thành phố lớn, các vùng cây công nghiệp ngắn ngày (hàng năm): Vùng
bông Thuận Hải, vùng đay Hải Hưng, vùng thuốc lá Quảng An (Cao Bằng), Ba vì
(Hà Sơn Bình nay là Hà Nội), Hữu lũng (Lạng Sơn), Nho Quan (Hà Nam Ninh nay
là Ninh Bình), vùng mía Vạn Điểm, Việt Trì, Sông Lam, Quảng Ngãi,… Các vùng
cây công nghiệp dài ngày (lâu năm): Vùng cao su Sông Bé, Đồng Nai, Buôn Hồ
14
(Đắc Lắc), Chư Pả, Ninh Đức (Gia lai, Kon Tum), vùng chè ở Hoàng Liên Sơn,
Mộc Châu, Thái Nguyên, Lâm Đồng, Gia Lai Kon Tum, vùng dâu tằm Bảo Lộc
(Lâm Đồng),…
Quy hoạch vùng chuyên canh có tác dụng: Xác địng phương hướng sản xuất,
chỉ ra những vùng chuyên môn hoá và những vùng có khả năng hợp tác quốc tế;
Xác định và chọn những vùng trọng điểm giúp nhà nước tập trung đầu tư vốn đúng
đắn; Xây dựng được cơ cấu sản xuất, các chỉ tiêu sản xuất sản phẩm và sản phẩm
hàng hoá của vùng, yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ sản xuất, nhu
cầu lao động; Cơ sở để xây dựng kế hoạch phát triển, nghiên cứu tổ chức quản lý
kinh doanh theo ngành và theo lãnh thổ.
Quy hoạch vùng chuyên canh dã thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là bố trí cơ cấu
cây trồng được chọn với quy mô và chế độ canh tác hợp lý, theo hướng tập trung,
để ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, sản lượng và chất lượng sản
phẩm cây trồng, đồng thời phân bố các chỉ tiêu nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ sở sản
xuất, làm cơ sở cho công tác quy hoạch, kế hoạch của các cơ sở sản xuất.
Quy hoạch vùng chuyên canh có các nội dung chủ yếu sau: Xác định quy
mô, ranh giới vùng; Xác định phương hướng, chỉ tiêu nhiệm vụ sản xuất; Bố trí sử
dụng đất đai; Xác định quy mô, ranh giới nhiệm vụ chủ yếu cho các xí nghiệp trong
vùng và tổ chức sản xuất ngành nông nghiệp; Xác định hệ thống cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ sản xuất đời sống; Tổ chức và sử dụng lao động; Ước tính đầu tư và
hiệu quả kinh tế; Dự tính tiến độ thực hiện quy hoạch.
1.3.1.2. Quy hoạch cảnh quan sinh thái
Quy hoạch cảnh quan là một quá trình xây dựng kế hoạch quản lý đất đai cho
một vùng đất trên cơ sở nghiên cứu sinh thái cảnh quan, nghiên cứu đến thế giới
sinh vật, vật chất và năng lượng có thể tồn tại và lưu thông ngay trong Cảnh quan
đó.
Con người là một thành phần của thiên nhiên, tác động của con người tới
thiên nhiên là một yếu tố then chốt ảnh hưởng tới các chức năng của Cảnh quan.
Sinh thái cảnh quan giúp xác định những khiếm khuyết của chúng ta trong quá khứ,
15
và cũng như vậy giúp ta xác định cách tiếp cận tốt hơn để có thể đáp ứng nhu cầu
của con người mà không gây ảnh hưởng không bền vững tới các hệ sinh thái tự
nhiên. Mục tiêu của quy hoạch cảnh quan là để bảo vệ các thành phần chủ yếu của
hệ sinh thái cảnh quan và giữ lại các dòng chuyển động sống và … Một mục tiêu
khác là hướng các hoạt động của con người khỏi những nơi dễ bị tổn hại sinh thái.
Một Cảnh quan không có một kích thước cố định, do vậy quy hoạch cảnh
quan có thể thực hiện ở những quy mô khác nhau.
Thành phần chính của cảnh quan có thể chia thành 2 loại là tự nhiên/ sinh
thái, như rừng, sông hồ và nhân tạo như đất canh tác, thôn bản vv... Các yếu tố cảnh
quan nhân tạo lại có thể chia thành các yếu tố sản xuất, văn hóa, lịch sử vv...
Mối tương quan tỷ lệ về thành phần cùng quan hệ tương hỗ giữa hai thành
phần này luôn biến đổi theo thời gian, điều này làm cho cảnh quan kiến trúc luôn
vận động và phát triển.
Theo Nguyễn Thế Thôn “Cảnh quan sinh thái là tổng thể lãnh thổ hiện tại, có
cấu trúc cảnh quan địa lý và có chức năng sinh thái của các hệ sinh thái đang tồn tại
và phát triển trên đó. Các cảnh quan sinh thái được phân biệt với nhau theo cấu trúc
cảnh quan và theo chức năng sinh thái khác nhau trên các phần lãnh thổ khác nhau”
- Việc nghiên cứu cảnh quan trong lâm nghiệp đã được Nguyễn Văn Khánh
vận dụng trong đề tài “Góp phần nghiên cứu phân vùng lập địa lâm nghiệp Việt
Nam” (luận văn PTS). Tác giả xác lập cho toàn quốc theo 6 cấp phân vị: Miền - á
miền - vùng - tiểu vùng - dạng đất đai - dạng lập địa. Trong đó 4 cấp phân vị đầu áp
dụng cho vùng lớn, 2 cấp sau là đơn vị phân loại cơ bản (vi mô) thường được sử
dụng trong điều tra đánh giá ở phạm vi hẹp (xã, lâm trường, tiểu khu, khoảnh). Đề
tài mới dừng lại nghiên cứu ở 4 cấp phân vị đầu, căn cứ vào các yếu tố: chế độ nhiệt
mùa đông, chế độ mưa, địa mạo, kiểu khí hậu, kiểu địa hình và nhóm đất để chia
toàn quốc thành: 2 miền, 4 á miền, 12 vùng lập địa, 407 tiểu vùng lập địa. Dựa vào
kết quả đạt được, tác giả đề xuất những định hướng lớn trong sản xuất kinh doanh
lâm nghiệp như về chọn loài cây trồng rừng, xác định các tiểu vùng phòng hộ đầu
16
nguồn, lập kế hoạch sản xuất lâm nghiệp trong năm theo á miền, lập các trạm trại
nghiên cứu lâm nghiệp.
- Các tác giả Đỗ Đình Sâm và Nguyễn Ngọc Bình chủ biên công trình “Đánh
giá tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp Việt Nam” (2001). Trong công trình các tác
giả đã tiến hành đánh giá đất lâm nghiệp trong phạm vi toàn quốc trên 8 vùng kinh
tế sinh thái lâm nghiệp, ở trên 4 đối tượng chính: đất vùng đồi núi, đất cát biển, đất
ngập mặn sú vẹt, đất chua phèn. Qua nghiên cứu các tác giả đã đề xuất được các
vùng thích hợp đối với một số loài cây trồng [27].
- Trong Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam căn cứ vào phân vùng
kinh tế - sinh thái để xây dựng kế hoạch phát triển lâm nghiệp cho từng vùng: Tây
Bắc, Đông Bắc, Đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ, Duyên hải Nam Trung bộ, Tây
Nguyên, Đông Nam bộ, Nam bộ [21].
- Gần đây (tháng 10/2009), với sự tài trợ của Ngân hàng Thế giới (WB), tại
Thừa Thiên Huế đã tiến hành hội thảo quy hoạch cảnh quan cho 7 xã thuộc 3 huyện.
Các vấn đề nêu ra tại hội thảo đang còn là bước đi đầu tiên trong việc tiếp cận một
cách nhìn mới trong quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp (QHSDĐLN), thậm chí mới
dừng lại ở phương pháp QHSDĐLN có sự tham gia của cộng đồng dân cư và cấp
chính quyền sở tại....
Vì vậy, nghiên cứu và ứng dụng phương pháp quy hoạch cảnh quan vào
trong QHSDĐLN là vấn đề tương đối mới lạ, mặc dù công tác QHSDĐLN đã và
đang thực hiện đều trên cơ sở đề cập và phân tích đầy đủ các yếu tố tự nhiên, kinh
tế - xã hội.
1.3.2. Quy hoạch phát triển lâm nghiệp
Quy hoạch phát triển lâm nghiệp áp dụng ở nước ta từ thời kỳ pháp thuộc.
Như việc xây dựng phương án điều chế rừng chồi, sản xuất củi, điều chế rừng
Thông theo phương pháp hạt đều …
Lê Sỹ Việt, Trần Hữu Viên (1999) [23]: Đầu thế kỷ 18, phạm vi quy hoạch
lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc “khoanh khu chặt luân chuyển” có nghĩa là đem
trữ lượng hoặc diện tích tài nguyên rừng chia đều cho từng năm của chu kỳ khai
17
thác và tiến hành khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc diện tích.
Phương thức này phục vụ cho phương thức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai thác
ngắn.
Đến năm 1955 - 1957, tiến hành sơ thám mô tả để ước lượng tài nguyên
rừng. Năm 1958 - 1959 tiến hành thống kê trữ lượng rừng miền Bắc. Cho đến năm
1960-1964 công tác quy hoạch lâm nghiệp mới áp dụng ở Miền Bắc. Từ năm 1965
đến nay, lực lượng quy hoạch lâm nghiệp ngày càng được tăng cường và mở rộng.
Viện điều tra quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với lực lượng điều tra quy
hoạch của các sở Lâm nghiệp (nay là sở nông nghiệp và phát triển nông thôn) các
tỉnh, không ngừng cải tiến phương pháp điều tra, quy hoạch lâm nghiệp của các
nước cho phù hợp với điều kiện, trình độ tài nguyên rừng ở nước ta. Tuy nhiên, so
với lịch sử phát triển của các nước khác thì quy hoạch lâm nghiệp nước ta hình
thành và phát triển muộn hơn rất nhiều. Vì vậy, những nghiên cứu cơ bản về kinh
tế, xã hội, và tài nguyên rừng làm cơ sở cho công tác quy hoạch lâm nghiệp chưa
được giải quyết triệt để, nên công tác này ở nước ta đang trong giai đoạn vừa tiến
hành vừa nghiên cứu áp dụng [25].
Trong công trình “Đất rừng Việt Nam”, Nguyễn Ngọc Bình (1996) [1] đã
đưa ra những quan điểm nghiên cứu và phân loại đất rừng trên cơ sở những đặc
điểm cơ bản của đất rừng Việt Nam.
Năm 1997, Đặng Văn Phụ, Hà Quang Khải [16] trong chương trình tập huấn
hỗ trợ lâm nghiệp xã hội của Trường đại học lâm nghiệp đã đưa ra khái niệm về hệ
thống sử dụng đất và đề xuất một số hệ thống, kỹ thuật sử dụng đất bền vững trong
điều kiện Việt Nam. Trong đó các tác giả đã đi sâu phân tích về: Quan điểm về tính
bền vững; Khái niệm tính bền vững và phát triển bền vững; Hệ thống sử dụng đất
bền vững; Kỹ thuật sử dụng đất bền vững; Các chỉ tiêu đánh giá tính bền vững trong
các hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất.
Tài liệu tập huấn về quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự
tham gia của người dân, tác giả Trần Hữu Viên (1997) [24] đã kết hợp phương pháp
quy hoạch sử dụng đất trong nước và của một số dự án Quốc tế đang áp dụng tại
18
một số vùng có dự án ở Việt Nam. Trong đó tác giả đã trình bầy về khái niệm và
nguyên tắc chỉ đạo quy hoạch sử dụng đất và giao đất có người dân tham gia.
Theo Chiến lược phát triển lâm nghiệp quốc gia giai đoạn 2006-2020 một
trong những tồn tại mà Bộ NN&PTNT đánh giá là: “ Công tác quy hoạch nhất là
quy hoạch dài hạn còn yếu và chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ với quy hoạch
của các ngành khác, còn mang nặng tính bao cấp và thiếu tính khả thi. Chưa quy
hoạch 3 loại rừng hợp lý và chưa thiết lập được lâm phần ổn định trên thực địa…”.
Đây cũng là nhiệm vụ nặng nề và cấp bách đối với ngành lâm nghiệp ở nước ta hiện
nay [21].
Trong thời gian qua, công tác quy hoạch phát triển lâm nghiệp đã được triển
khai trên toàn quốc ở nhiều cấp độ với những quy mô khác nhau phục vụ cho mục
tiêu phát triển ngành. Song căn cứ vào yêu cầu trong mỗi giai đoạn cụ thể trong
từng thời điểm, nguồn vốn và yêu cầu về mức độ kỹ thuật khác nhau mà nội dung
các phương án quy hoạch dự án đầu tư được điều chỉnh cho phù hợp.
1.3.2.1. Đặc điểm của quy hoạch phát triển lâm nghiệp
Theo Lê Sỹ Việt, Trần Hữu Viên (1999) [23]: Địa bàn quy hoạch phát triển
lâm nghiệp rất đa dạng, phức tạp (bao gồm cả vùng ven biển, trung du, núi cao và
biên giới, hải đảo), thường có địa hình cao, dốc, chia cắt phức tạp, giao thông đi lại
khó khăn và có nhiều ngành kinh tế hoạt động.
Là địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc ít người, trình độ dân trí thấp,
kinh tế xã hội chậm phát triển, đời sống vật chất và tinh thần còn gặp nhiều khó
khăn.
Đối tượng của công tác quy hoạch phát triển lâm nghiệp là rừng và đất lâm
nghiệp, từ bao đời nay là “của chung” của đồng bào các dân tộc, nhưng thực chất là
vô chủ.
Cây lâm nghiệp có chu kỳ kinh doanh dài (ngắn 8-10 năm, dài từ 40-100
năm). Người dân chỉ tự giác bỏ vốn tham gia trồng rừng nếu biết chắc chắn sẽ có
lợi.
19
Mục tiêu của quy hoạch phát triển lâm nghiệp cũng rất đa dạng: Quy hoạch
rừng phòng hộ (phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, phòng hộ môi trường);
Quy hoạch rừng đặc dụng (các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu
di tích văn hoá - lịch sử - danh lam thắng cảnh) và quy hoạch phát triển các loại
rừng sản xuất.
Quy mô của công tác quy hoạch phát triển lâm nghiệp bao gồm cả tầm vĩ mô
và vi mô: Quy hoạch toàn quốc, từng vùng lãnh thổ, từng tỉnh, từng huyện, xí
nghiệp, lâm trường, quy hoạch phát triển lâm nghiệp xã và làng lâm nghiệp.
Lực lượng tham gia công tác quy hoạch phát triển lâm nghiệp thường luôn
phải lưu động, điều kiện sinh hoạt khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thổn về mọi mặt
… Đội ngũ cán bộ xây dựng phương án quy hoạch cũng rất đa dạng, bao gồm cả lực
lượng của trung ương và địa phương, thậm chí các ngành khác cũng tham gia làm
quy hoạch bảo vệ và phát triển lâm nghiệp (nông nghiệp, công an, quân đội …);
Trong đó, có một bộ phận được đào tạo bài bản qua các trường lớp, song phần lớn
chỉ dựa vào kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong ngành lâm nghiệp.
1.3.2.2. Đối tượng của quy hoạch phát triển lâm nghiệp
Theo Lê Sỹ Việt, Trần Hữu Viên (1999) [23]: Tuỳ theo phạm vi của công tác
quy hoạch mà đối tượng của công tác quy hoạch có thể lớn nhỏ khác nhau được
phân ra hai hệ thống tổ chức khác nhau.
* Quy hoạch cho các cấp quản lý lãnh thổ: Bao gồm diện tích quản lý theo
các đơn vị quản lý hành chính như quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng toàn quốc,
quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp tỉnh, quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng
cấp huyện và quy hoạch phát triển rừng cấp xã. Nội dung quy hoạch chủ yếu xuất
phát từ toàn bộ, chiếu cố mọi mặt phát triển kinh tế, đề ra phương hướng và nhiệm
vụ sản xuất, kinh doanh có tính nguyên tắc nhằm phát triển kinh tế lâm nghiệp trong
phạm vi cấp quản lý đó.
Ở nước ta, các cấp quản lý lãnh thổ bao gồm các cấp đơn vị quản lý hành
chính: Từ toàn quốc tới Tỉnh (Thành phố trực thuộc trung ương), huyện (Thành phố
thuộc tỉnh, thị xã, quận) và xã (phường). Để phát phát triển, mỗi đơn vị đều phải
20
xây dựng phương án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát
triển các ngành sản xuất và quy hoạch dân cư, phát triển văn hoá xã hội …
Ở những đối tượng có tiềm năng phát triển lâm nghiệp thì quy hoạch bảo vệ
và phát triển rừng là một vấn đề quan trọng, làm cơ sở cho việc phát triển sản xuất
nghề rừng nói riêng và góp phần phát triển kinh tế - xã hội nói chung trên địa bàn.
- Quy hoạch phát triển lâm nghiệp toàn quốc
Quy hoạch phát triển lâm nghiệp toàn quốc là quy hoạch phát triển sản xuất
lâm nghiệp trên phạm vi lãnh thổ quốc gia nhằm giải quyết một số vấn đề cơ bản,
bao gồm: Xác định phương hướng nhiệm vụ chiến lược phát triển lâm nghiệp toàn
quốc. Quy hoạch đất đai tài nguyên rừng theo các chức năng (sản xuất, phòng hộ và
đặc dụng). Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển tài nguyên rừng hiện có.
Quy hoạch tái sinh rừng (bao gồm tái sinh tự nhiên và trồng rừng), thực hiện nông
lâm kết hợp. Quy hoạch lợi dụng rừng, chế biến lâm sản gắn với thị trường tiêu thụ.
Quy hoạch tổ chức sản xuất, phát triển nghề rừng, phát triển lâm nghiệp xã hội. Quy
hoạch xây dung cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải. Xác định tiến độ thực hiện.
Do đặc thù khác với những nghành kinh tế khác, cho nên thời hạn quy hoạch
lâm nghiệp thường thực hiện trong thời gian 10 năm và các nội dung quy hoạch
được thực hiện tuỳ theo các vùng kinh tế lâm nghiệp.
- Quy hoạch phát triển lâm nghiệp cấp tỉnh
Quy hoạch phát triển lâm nghiệp cấp tỉnh giải quyết những vấn đề: Xác định
phương hướng nhiệm vụ phát triển lâm nghiệp trong phạm vi tỉnh, trên cơ sở căn cứ
vào phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, căn cứ quy hoạch
lâm nghiệp toàn quốc đồng thời căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của
tỉnh. Căn cứ vào phương hướng nhiệm vụ phát triển lâm nghiệp của tỉnh, điều kiện
đất đai tài nguyên rừng, nhu cầu phòng hộ và các nhu cầu đặc biệt khác tiến hành
quy hoạch đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh theo ba chức năng: Rừng sản xuất, rừng
phòng hộ và rừng đặc dụng. Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển tài nguyên
rừng hiện có. Quy hoạch tái sinh rừng (bao gồm trồng rừng và tái sinh tự nhiên) và
nông lâm kết hợp. Quy hoạch khai thác lợi dụng rừng, chế biến lâm sản gắn với thị
21
trường tiêu thụ. Quy hoạch tổ chức sản xuất lâm nghiệp cho các thành phần kinh tế,
phát triển lâm nghiệp xã hội. Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải
phục vụ sản xuất lâm nghiệp, lưu thông hàng hoá và đời sống. Xác định tiến độ thực
hiện.
- Quy hoạch phát triển lâm nghiệp cấp huyện
Quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện về cơ bản các nội dung quy hoạch lâm
nghiệp cũng tương tự như quy hoạch lâm nghiệp cấp tỉnh, tuy nhiên nó được triển
khai cụ thể, chi tiết hơn và được tiến hành trên phạm vi địa bàn huyện. Quy hoạch
lâm nghiệp huyện đề cập giải quyết các vấn đề sau:
+ Căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ phát triển tổng thể kinh tế xã hội của
huyện, căn cứ vào phương án phát triển lâm nghiệp của tỉnh và điều kiện tự nhiên
kinh tế - xã hội, đặc biệt là điều kiện tài nguyên rừng của huyện để xác định phương
hướng nhiệm vụ phát triển trên địa bàn huyện.
+ Căn cứ phương hướng phát triển lâm nghiệp huyện và điều kiện đất đai tài
nguyên rừng, nhu cầu phòng hộ và các nhu cầu đặc biệt khác, tiến hành quy hoạch
đất lâm nghiệp trong huyện theo 3 chức năng: Sản xuất, phòng hộ và đặc dụng.
+ Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng, phát triển rừng hiện có.
+ Quy hoạch các phát triển rừng: Trồng rừng, khoanh nuôi phục hồi rừng tự
nhiên. Quy hoạch thực hiện nông lâm kết hợp và sản xuất hỗ trợ trên đất lâm
nghiệp.
+ Quy hoạch khai thác lợi dụng lâm đặc sản, chế biến lâm sản gắn liền với
thị trường tiêu thụ.
+ Quy hoạch tổ chức sản xuất lâm nghiệp, quy hoạch đất lâm nghiệp cho các
thành phần kinh tế trong huyện, tổ chức phát triển lâm nghiệp xã hội.
+ Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải.
+ Xác định tiến độ thực hiện.
Thời gian quy hoạch cấp huyện thường 5 năm. Các quy hoạch lâm nghiệp
cũng cần phải phù hợp với phương hướng phát triển kinh tế, xã hội chung của từng
tiểu vùng trong huyện.
22
- Quy hoạch phát triển lâm nghiệp cấp xã
Xã được coi là đơn vị quản lý hành chính nhỏ nhất, là đơn vị cơ bản quản lý
và tổ chức sản xuất lâm nghiệp trong các thành phần kinh tế tập thể và tư nhân. Quy
hoạch phát triển lâm nghiệp xã thường tiến hành các nội dung sau: Điều tra các điều
kiện cơ bản của xã có liên quan đến sản xuất lâm nghiệp: Điều kiện tự nhiên, điều
kiện kinh tế xã hội, điều kiện tài nguyên rừng. Căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội xã, căn cứ vào quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện và các điều kiện
cơ bản của xã, xác định phương hướng nhiệm vụ phát triển lâm nghiệp trên địa bàn
xã. Quy hoạch đất đai trong xã theo ngành và theo đơn vị sử dụng, xác định rõ mối
quan hệ giữa các ngành sử dụng đất đai trên địa bàn xã. Căn cứ vào phương hướng
phát triển, các điều kiện cơ bản, nhu cầu phòng hộ và các nhu cầu đặc biệt khác
(nếu có) phân chia đất lâm nghiệp theo ba chức năng sử dụng: Sản xuất, phòng hộ
và đặc dụng. Quy hoạch các nội dung sản xuất kinh doanh lợi dụng rừng, bố trí
không gian và thời gian, tổ chức các biện pháp kinh doanh lợi dụng rừng: Bảo vệ
và nuôi dưỡng rừng hiện có, trồng rừng và tái sinh phục hồi rừng, nông lâm kết hợp,
khai thác, chế biến các loại lâm sản, đặc sản phục vụ nhu cầu của địa phương và thị
trường, quy hoạch các nội dung sản xuất hỗ trợ. Quy hoạch tổ chức sản xuất lâm
nghiệp cho các thành phần kinh tế trong xã gắn với phát triển lâm nghiệp xã hội.
Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng và giao thông vận tải, các công trình phục vụ sản
xuất và đời sống. Dự tính đầu tư lao động, tiền vốn, vật tư thiết bị. Hiệu quả đầu tư
cần được đánh giá đầy đủ trên các mặt: Kinh tế, xã hội và môi trường. Xác định tiến
độ thực hiện.
Về cơ bản nội dung quy hoạch phát triển lâm nghiệp cho các cấp quản lý
lãnh thổ từ toàn quốc đến tỉnh, huyện, xã là tương tự nhau. Tuy nhiên, mức độ giải
quyết khác nhau về chiều sâu và chiều rộng tuỳ theo các cấp.
* Quy hoạch phát triển lâm nghiệp cho các cấp quản lý sản xuất, kinh doanh.
Quy hoạch phát triển lâm nghiệp cho các cấp quản lý sản xuất, kinh doanh
bao gồm: Quy hoạch tổng công ty lâm nghiệp, công ty lâm nghiệp; Quy hoạch lâm
trường; Quy hoạch phát triển lâm nghiệp cho các đối tượng khác (quy hoạch cho
23
các khu rừng đặc dụng, quy hoạch cho các khu rừng phòng hộ và quy hoạch phát
triển sản xuất lâm nghiệp cho các cộng đồng làng bản và trang trại lâm nghiệp hộ
gia đình). Các nội dung quy hoạch phát triển lâm nghiệp cho các cấp quản lý sản
xuất kinh doanh là khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi đơn vị và thành
phần kinh tế tham gia vào sản xuất lâm nghiệp mà lựa chọn các nội dung quy hoạch
cho phù hợp.
1.3.3. Một số nhận xét rút ra từ nghiên cứu, kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam
và Thế giới
Tuy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, thử nghiệm về QHSDĐĐ, quy
hoạch nông lâm nghiệp nhưng trên thế giới và cả Việt Nam đều chưa có phương
pháp luận, lý thuyết hoàn chỉnh chính thống cho quy hoạch nông lâm nghiệp đặc
biệt là ở cấp cơ sở.
Trên thế giới cùng với sự phát triển đi lên của kinh tế xã hội thì quy hoạch
luôn phải đi trước một bước. Quy hoạch phát triển lâm nghiệp cũng vậy, nó luôn đi
theo phát triển kinh tế xã hội, nó đảm bảo và thể hiện được tầm nhìn của các nhà
lãnh đạo trong việc phân vùng kinh tế và sử dụng một cách tối đa có hiệu quả nhưng
hài hoà giữa các vùng trong chiến lược phát triển lâm nghiệp chung của đất nước.
Ở Việt Nam đã tiến hành quy hoạch phát triển lâm nghiệp cho các cấp quản
lý, kinh doanh và các cấp quản lý lãnh thổ ở tầm vĩ mô, vi mô. Trên cơ sở quy
hoạch phát triển lâm nghiệp trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia, xác định phương
hướng, nhiệm vụ phát triển lâm nghiệp trên toàn quốc, xác định tiến độ thực hiện
từng hạng mục làm cơ sở cho việc quy hoạch phát triển lâm nghiệp của các tỉnh.
Quy hoạch phát triển lâm nghiệp cấp huyện phải phù hợp với quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, huyện và định hướng quy hoạch phát triển lâm
nghiệp toàn tỉnh, vùng.
Trong những năm qua xã Quảng Sơn đã xây dựng được quy hoạch sử dụng
đất đai, hàng năm đều tiến hành thống kê, theo dõi biến động các loại đất. Đã có
một số dự án, chương trình lâm nghiệp được triển khai thực hiện trên địa bàn xã:
Dự án đầu tư sản xuất nông lâm nghiệp; Dự án hỗ trợ đầu tư trồng rừng sản xuất