Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Môi trường học tập và thành tích của học sinh việt nam trong PISA 2012 (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.96 KB, 34 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN ĐẢM BẢO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC

HOÀNG THỊ MỸ DUNG

MÔI TRƢỜNG HỌC TẬP VÀ THÀNH TÍCH
CỦA HỌC SINH VIỆT NAM TRONG PISA 2012

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Hà Nội - Năm 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN ĐẢM BẢO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC

HOÀNG THỊ MỸ DUNG

MÔI TRƢỜNG HỌC TẬP VÀ THÀNH TÍCH
CỦA HỌC SINH VIỆT NAM TRONG PISA 2012

Chuyên ngành

: Đo lƣờng và Đánh giá trong giáo dục

Mã số

: 60140120

LUẬN VĂN THẠC SỸ


Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thị Xuân Hoa

Hà Nội - Năm 2016


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Môi trường học tập có tác động tích cực tỉ lệ thuận đối với kết quả học
tập của học sinh. “Môi trường học tập chất lượng cao có lợi cho tất cả học
sinh và đặc biệt có lợi cho những học sinh yếu kém “. Leadership Compass »
Vol. 5, No. 1, Fall 2007 by Alexandra Loukas.
Môi trường học tập và bầu không khí nhà trường (school climate) khác
nhau rất nhiều, có một số trường học mang lại cảm giác thân thiện, mời gọi và
hỗ trợ. Một số khác mang lại cảm giác loại trừ, không chào mời, và thậm chí
không an toàn. Tất cả những cảm xúc và thái độ có được là nhờ môi trường
của một trường học, được gọi là môi trường học tập. Mặc dù rất khó để đưa ra
một định nghĩa ngắn gọn về môi trường học tập, nhưng nhiều nhà nghiên cứu
đều đồng ý rằng nó là một cấu trúc đa chiều bao gồm các kích thước vật lý, xã
hội và học thuật.
Tất cả chúng ta ai cũng có và luôn nhớ về những khoảnh khắc tuổi thơ
khi chúng ta cảm thấy đặc biệt an toàn (hoặc không an toàn) ở trường học, khi
chúng ta cảm thấy đặc biệt kết nối với một người lớn chăm sóc cho chúng ta
(hoặc cảm giác đáng sợ khi chúng ta một mình). Đây là những kỷ niệm ở
trường mà tất cả chúng ta có xu hướng nhớ rất rõ: tốt / không tốt. Không có gì
ngạc nhiên rằng đây là một trong những loại hình kinh nghiệm học tập và
phát triển. Tuy nhiên, môi trường học tập lớn hơn bất cứ kinh nghiệm của một
người nào. Khi mọi người cùng nhau làm việc, sẽ hình thành một nhóm làm
việc tốt hơn là một cá nhân tự làm. Một đánh giá toàn diện về môi trường học
tập bao gồm các lĩnh vực chủ yếu của đời sống học đường như an toàn, các
mối quan hệ, giảng dạy và học tập, và môi trường cũng như các mô hình tổ

chức lớn hơn. Làm thế nào để chúng ta có thể cảm nhận về trường học và phát
triển xu hướng dạng học tập theo nhóm. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh


rằng môi trường học tập tích cực gắn liền với thành tích học tập, những nỗ lực
phòng ngừa rủi ro hiệu quả và phát triển tính tích cực học tập của học sinh.
PISA là Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (Programme for
International Student Assessment) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(Organisation for Economic Cooperation and Development), viết tắt là
OECD. Chương trình này nhằm đánh giá chất lượng giáo dục của học sinh
các trường cơ sở của các quốc gia thành viên của tổ chức này và một số nước
khác trên thế giới. Chương trình được thực hiện theo chu kỳ 3 năm một lần
với học sinh ở độ tuổi 15. Mục đích của PISA là đánh giá việc tiếp nhận kiến
thức và kỹ năng cần thiết cho việc hòa nhập vào xã hội của học sinh năm cuối
cùng của bậc học cơ sở. Nội dung khảo sát, đánh giá tập trung vào các lĩnh
vực như đọc hiểu, toán và khoa học. Đây là những lĩnh vực được coi là cần
thiết cho cuộc sống sau khi kết thúc việc học ở trường học cơ sở.
Tham gia PISA là cơ hội để Việt Nam học tập, trao đổi kinh nghiệm
đánh giá quốc tế, tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ đánh giá để có thể triển
khai thực hiện tốt các kỳ đánh giá quốc gia với tiêu chuẩn quốc tế, nhằm đổi
mới phương pháp dạy học, đổi mới thi, kiểm tra, đánh giá góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục, đồng thời là bước chuẩn bị tích cực cho lộ trình đổi mới
giáo dục sau năm 2015.
Tháng 12/2013, kết quả thi PISA 2012 đã được công bố. Việt Nam
đã đạt được các kết quả cao hơn nhiều so với mong đợi: Toán học (lĩnh vực
chính) đứng ở vị trí 17/65, Khoa học đứng ở vị trí 8/65 và Đọc hiểu đứng
vị trí 19/65. Tuy nhiên, hiện tại, chúng ta mới chỉ có báo cáo chung của
OECD về kết quả thi cũng như các nhân tố tác động tới kết quả đó của tất
cả các quốc gia tham gia, chứ chưa có một báo cáo cụ thể về từng quốc gia
riêng biệt.



Với mục đích góp phần vào việc phân tích các nhân tố tác động tới kết
quả thi của học sinh Việt nam, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “ Môi trường
học tập và thành tích của học sinh Việt Nam trong PISA 2012 ”.
Toán học là lĩnh vực trọng tâm trong PISA 2012, mọi câu hỏi trong
phiếu hỏi học sinh chủ yếu là hỏi về việc học toán, một số nhân tố trong
MTHT hỏi về tình hình lớp học trong giờ học toán. Vậy nên đề tài chọn
môn Toán học để phân tích.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu, đo lường và đánh giá một số yếu tố thuộc
về môi trường học tập ảnh hưởng đến thành tích của học sinh Việt Nam trong
Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA) năm 2012. Trên cơ sở đó đề
tài kiến nghị các giải pháp cải thiện môi trường học tập của học sinh Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế về lĩnh vực giáo dục từ kết quả nghiên
cứu thu được sau khi phân tích một số yếu tố ảnh hưởng.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
Đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về ảnh hưởng của các yếu
tố môi trường học tập đối với thành tích học tập của học sinh. Tuy nhiên, các
đề tài đó chưa đặt ra vấn đề đo lường và đánh giá các yếu tố môi trường và
ảnh hưởng của chúng đến thành tích học tập của học sinh Việt Nam trên cơ sở
phân tích dữ liệu có sẵn từ một chương trình đánh giá học sinh quốc tế. Báo
cáo quốc tế có thể đề cập chủ đề này nhưng không chuyên sâu về học sinh
Việt Nam. Các nghiên cứu trong nước có thể sử dụng PISA 2012 nhưng chưa
phân tích kỹ lưỡng và chi tiết các yếu tố môi trường học tập với đặc trưng
kinh tế - xã hội của Việt nam và chưa công bố. Do vậy, đề tài có tính mới về
nội dung và phương pháp nghiên cứu để có thể đóng góp cho khoa học đo
lường và đánh giá trong giáo dục.



3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đo lường, phân tích và đánh giá chi tiết, cụ thể theo vị trí
trường, loại trường, điều kiện kinh tế xã hội để làm rõ các yếu tố môi trường
và ảnh hưởng của các yếu tố đó đến thành tích học tập của học sinh qua dữ
liệu PISA 2012. Nhờ vậy luận văn có thể gợi mở suy nghĩ cho việc tìm kiếm
giải pháp phát huy những yếu tố có tác động thúc đẩy thành tích học tập và
kiểm soát những yếu tố có tác động cản trở đối với thành tích học tập của
học sinh Việt Nam. Luận văn có thể đóng góp những tri thức cần thiết cho
các bên tham gia giáo dục nhằm tìm cách đổi mới và và kiến tạo môi trường
học tập thân thiện, lành mạnh và tích cực để góp phần nâng cao thành tích
học tập của của học sinh Việt Nam.
4. Giới hạn nghiên cứu
Tìm hiểu, đo lường, đánh giá và phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới
việc học tập của học sinh là lĩnh vực rất rộng, vấn đề kết quả học tập của học
sinh cũng bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, trong khuôn khổ đề
tài này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu đánh giá sự ảnh hưởng của một số
yếu tố thuộc về môi trường học tập. Đó là năm yếu tố: (i) Cảm giác gắn kết
(Sense of Belonging to School), (ii) quan hệ thày trò (Student-Teacher
Relations), (iii) thái độ đối với nhà trường (Attitude towards School), (iv) sự
tham gia của phụ huynh học sinh (Parent participation), (v) những cản trở về
việc học (Learning Hindrance) tới thành tích của học sinh Việt Nam trong kỳ
đánh giá PISA 2012.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích tài liệu có sẵn để tổng quan
tình hình nghiên cứu và xây dựng cơ sở lý luận, thực tiễn của đề tài. Đồng
thời luận văn sử dụng các phương pháp đo lường và đánh giá để xác định các
tiêu chí, chỉ tiêu, chỉ báo cần đo lường, đánh giá. Đề tài sử dụng phương pháp
phân tích các dữ liệu có sẵn (PISA) để đánh giá yếu tố môi trường và ảnh



hưởng của yếu tố môi trường học tập đến thành tích học tập của học sinh. Tuy
đề tài không sử dụng phương pháp khảo sát thực tế nhưng toàn bộ quy trình
với các giai đoạn, các bước của một cuộc khảo sát đo lường, đánh giá đều
được thực hiện theo đúng các yêu cầu của phương pháp đo lường và đánh giá
trong giáo dục.
6. Cơ sở dữ liệu
Luận văn sử dụng cơ sở dữ liệu có sẵn bằng cách truy cập vào website
để triết xuất dữ liệu cần thiết cho
đề tài luận văn từ PISA 2012.
o PISA cung cấp các dữ liệu về học sinh cần được triết xuất để thực
hiện đề tài luận văn.
Đề tài luận văn tập trung vào các yếu tố môi trường, do vậy luận văn sử
dụng cả ba bảng hỏi học sinh để tìm hiểu các nội dung câu hỏi và nội dung
các phương án trả lời (xem phụ lục A, B, C).
7. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
7.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Môi trường học tập của học sinh Việt Nam như thế nào qua PISA 2012?
- Có mối liên hệ giữa môi trường học tập và thành tích PISA 2012
không?
- Mức độ tác động của các nhân tố môi trường đến thành tích PISA 2012
như thế nào?
7.2. Giả thuyết nghiên cứu
Việt Nam có một môi trường học tập khá tốt so với mức trung bình của
OECD. Các đặc điểm MTHT có một số khác biệt theo vị trí trường
đóng, loại hình trường, điều kiện KT-XH. Có ảnh hưởng, có ý nghĩa
thống kê của các nhân tố môi trường học tập đến kết quả PISA
- Mức độ gắn kết của học sinh với nhà trường càng cao thì kết quả học tập
càng cao?



- Quan hệ thày trò càng tốt thì kết quả học tập của học sinh đó càng được cải
thiện?
- Thái độ với nhà trường càng tích cực thì kết quả học tập của học sinh càng
tốt?
- Cha mẹ học sinh nào tham gia vào các hoạt động của nhà trường thì những
học sinh ấy đạt thành tích cao trong học tập?
- Những học sinh không có những hành vi như: nghỉ học, bỏ tiết, đi muộn,
không tham gia các hoạt động của nhà trường, không tôn trọng giáo viên, gây nhiễu
trong giờ học, uống rượu hoặc các chất cấm, có hành vi bạo lực thì kết quả học tập
càng cao?

8. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
8.1. Khách thể nghiên cứu
Toàn bộ 4959 học sinh 15 tuổi của Việt Nam đã tham gia kỳ đánh giá PISA
năm 2012 của OECD.

8.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn nhằm vào đối tượng nghiên cứu chính là ảnh hưởng của các
yếu tố môi trường học tập đến thành tích học toán của học sinh.
9. Cấu trúc của luận văn
Mở đầu
Chương 1. Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2. Thiết kế và tổ chức nghiên cứu
Chương 3. Thực trạng và mối quan hệ giữa môi trường học tập và
thành tích toán học của học sinh Việt Nam trong PISA 2012
Kết luận
Các phụ lục



Chƣơng 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu về các yếu tố của môi trường học tập
Các yếu tố gắn kết
Do tầm quan trọng của nhận thức cá nhân, trường học thường xuyên
đánh giá học sinh cảm thấy như thế nào về môi trường học tập của họ. Một số
công cụ đánh giá có sẵn để kiểm tra nhận thức của học sinh về môi trường
học tập, bao gồm: Elementary and Middle School Climate Survey - Khảo sát
về môi trường học tập trường Tiểu học và Trung học (Haynes, Emmons, &
Comer, 1993), the Quality of School Life Scale (Epstein & McPartland,
1976), and the Elementary School Environment Scale (Sinclair, 1970).
Trường học có thể sử dụng các công cụ này để khảo sát nhưng cũng có thể
thay đổi chúng để tạo ra các công cụ của riêng mình. Không có một công cụ
nào đánh giá được mọi khía cạnh của môi trường học tập. Tuy nhiên, kết quả
của các cuộc điều tra phát hiện học sinh cảm thấy thế nào về sự quan trọng
của môi trường học tập và nhà trường đã làm gì để thực hiện các bước ban
đầu để cải thiện chất lượng của họ.
Trong những năm gần đây, rất nhiều nghiên cứu đã tập trung vào việc
thu thập và điều tra các thông tin liên quan đến các yếu tố xã hội, kinh tế và
văn hóa được cho là có ảnh hưởng đến thành tích học tập. Nhiều kết quả
nghiên cứu đã xác định sự nỗ lực của bản thân học sinh, trình độ học vấn của
phụ huynh, thu nhập của gia đình (Devadoss & Foltz, 1996), tính tự giác, độ
tuổi của học sinh, sở thích học tập (Aripin, Mahmood, Rohaizad, Yeop, &
Anuar, 2008), đi học đầy đủ (Romer, 1993) là những yếu tố có ảnh hưởng
đáng kể tới kết quả học tập của học sinh ở nhiều bối cảnh khác nhau.


Khi nghiên cứu về sự gắn bó của học sinh, tác giả Jon Douglas Willms
cho biết thuật ngữ “sự gắn bó của học sinh” (student engagement) được dùng

để chỉ thái độ của học sinh với trường lớp và sự tham gia của các em vào các
hoạt động ở trường. Theo kết quả trong nghiên cứu Sự gắn bó của học sinh ở
trường - Cảm giác gắn kết trường lớp và sự tham gia vào trường lớp - những
kết quả từ PISA 2000, tác giả phát hiện thấy có sự khác biệt về giới tính (giữa
nam và nữ) trong kết quả tìm được giữa các nước. Thứ hai, những học sinh
được sinh ra ở nước ngoài thường có cảm giác gắn kết trường lớp thấp hơn so
với những học sinh khác. Thứ ba, những học sinh ở các gia đình có điều kiện
kinh tế xã hội thấp thường không cảm thấy thỏa mãn với trường lớp. Nghiên
cứu cũng phát hiện ra rằng trong số các nước OECD, có khoảng 25% học sinh
được ghi nhận là có cảm giác gắn kết trường lớp thấp, khoảng 20% thường
xuyên nghỉ học.
Tuy nhiên, theo nghiên cứu Thái độ của học sinh về việc học tập và nhà
trường của một nhóm tác giả ở Đại học Évora (Bồ Đào Nha), trải nghiệm văn
hóa lại cho thấy nhiều kiểu thái độ khác nhau về điểm, về nhà trường và việc
học tập. Ngoài ra, kinh nghiệm xã hội và mức độ quan tâm của cha mẹ cũng
là một yếu tố quan trọng trong thái độ đối với nhà trường và việc học tập của
học sinh.
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh
Trong nghiên cứu Các mối quan hệ giáo viên - học sinh và kết quả học
tập của học sinh, tác giả Ruby Larson (Đại học Nebraska ở Omaha - Hoa Kỳ)
đã tổng hợp được nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Những học sinh có mối
quan hệ tích cực với giáo viên cho thấy sự thích ứng tích cực đối với trường
lớp, không kể khối lớp hay giới tính, tính trên phạm vi độ tuổi tiểu học
(Baker, 2006). Ngoài ra, những học sinh là nữ, đến từ những gia đình có điều


kiện kinh tế cao thường mong muốn có mối quan hệ gần gũi và tích cực hơn
với giáo viên (Jerome và cộng sự, 2009). Nhiều nghiên cứu khác còn cho thấy
tác động tích cực của mối quan hệ giáo viên - học sinh tới việc học tập của
học sinh ở cả bậc tiểu học và mầm non.

Mối tương quan giữa sở thích học tập của học sinh và phong cách giảng
dạy của giảng viên đã được chứng minh là có ảnh hưởng tích cực về năng lực
của học sinh (Harb & El-Shaarawi, 2006). Theo Reid (1995), sở thích học tập
là “cách tự nhiên, quen thuộc và ưa thích” của một người để tiếp nhận những
thông tin mới. Điều này nghĩa là các cá nhân có sự khác biệt về phương thức
giảng dạy hoặc học tập nhằm đạt hiệu quả cao nhất cho mình. Richard M.
Felder, (1993) nhận định rằng sự liên kết giữa sở thích học tập của học sinh
và phong cách giảng dạy của giảng viên mang lại sự hồi tưởng về kiến thức
đã học và sự tiếp thu kiến thức mới tốt hơn.
Các tác giả Getinet Haile & Nguyễn Ngọc Anh trong đề tài Các yếu tố
ảnh hưởng đến kết quả học tập ở Hoa Kỳ: Phân tích hồi quy điểm phân vị cho
điểm kiểm tra đã khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh
viên ở các môn Toán học, Đọc hiểu và Khoa học ở Hoa Kỳ, đặc biệt chú
trọng tới các ảnh hưởng tiềm năng của các yếu tố chủng tộc, hoàn cảnh gia
đình đối với sự phân phối điểm thi của sinh viên. Từ đó tác giả đưa ra hai kết
luận quan trọng: thứ nhất, khoảng cách điểm thi được đo lường trong thứ
hạng phân vị của các môn Toán học, Đọc hiểu và Khoa học giữa các nhóm
dân tộc là khác nhau; thứ hai, ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về gia đình như
trình độ học vấn cha mẹ cũng tạo nên sự khác biệt trong phân phối điểm số.
Nghiên cứu về yếu tố môi trƣờng gia đình
Về mối tương quan giữa yếu tố gia đình với thành tích học tập của học
sinh, tác giả Nguyễn Thị Minh Phương (2008) đã tiến hành nghiên cứu điền


dã tại ba thôn là Tam Sơn (xã Tam Sơn), Đồng Kỵ (xã Đồng Quang) và Phù
Lưu (xã Tân Hồng) thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Theo nghiên cứu
này, sự quan tâm của bố mẹ nhất là sự định hướng của bố mẹ đối với việc học
tập của con cái đóng vai trò quyết định đến kết quả học tập của con cái ở
trường và các năng lực, kỹ năng khác của con cái. Cùng với yếu tố gia đình và
yếu tố nhà trường, các yếu tố ngoài nhà trường như điều kiện kinh tế, cơ sở hạ

tầng, sự quan tâm của cộng đồng, dòng họ bao gồm cả các hoạt động khuyến
học ở cộng đồng đều có tác động tích cực đến việc học tập và kết quả học tập
của học sinh các cấp bậc giáo dục. Truyền thống hiếu học ở cộng đồng có thể
trở thành động lực thúc đẩy trẻ em đến trường, những tấm gương học giỏi và
thành đạt trở thành động cơ cho học sinh nỗ lực, cố gắng đạt kết quả cao trong
học tập. Ngược lại những thói hư tật xấu ở cộng đồng kể cả lối sống lạc hậu
với những tệ nạn xã hội đều có thể cản trở cơ hội đến trường của trẻ em, ảnh
hưởng xấu đến thành tích học tập của học sinh.
Về mối tương quan giữa yếu tố nhà trường với thành tích học tập của
học sinh, trong nghiên cứu về Các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ học tập của
sinh viên trường Đại học Đà Lạt công bố trên Tạp chí phát triển KH&CN, tập
14, số Q2-2011, Phan Hữu Tín và Nguyễn Thúy Quỳnh Loan đã xác định
những yếu tố tác động đến thái độ học tập của sinh viên chính quy trường Đại
học Đà Lạt. Từ đó, hai tác giả đưa ra những hàm ý quản lý cho nhà trường
trong việc thúc đẩy thái độ học tập tích cực của sinh viên, từng bước nâng cao
chất lượng đào tạo đại học. Kết quả phân tích cho thấy có 7 yếu tố tác động
đến thái độ học tập của sinh viên, bao gồm: Giảng viên; Phương pháp giảng
dạy; Hệ thống cơ sở vật chất; Giáo trình, nội dung môn học; Thực hành, thực
tập thực tế; Động lực học tập; Điều kiện ăn ở, sinh hoạt. Trong đó, yếu tố
Động lực học tập và Giáo trình, nội dung môn học có tác động tích cực nhất.
Những kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo hữu ích cho nhà trường để


tiến hành những kế hoạch, chính sách chiến lược nhằm nâng cao thái độ học
tập tích cực cho sinh viên.
Một nghiên cứu của Nguyễn Quang Đông với đề tài Khảo sát về các
yếu tố ảnh hưởng đến việc tự học học phần Vật lý - lý sinh y học của sinh viên
chính quy trường Đại học Y - Dược Thái Nguyên, cụ thể như sau: việc xây
dựng mục tiêu cụ thể và xây dựng kế hoạch học tập, các yếu tố ảnh hưởng đến
chất lượng tự học, địa điểm tự học, thời gian giành cho tự học, việc ghi chép

khi tự học, việc sử dụng tài liệu tham khảo, việc tự kiểm tra đánh giá việc tự
học và hình thức tự kiểm tra đánh giá, việc học nhóm khi tự học, những khó
khăn khi tự học. Từ đó đề xuất một số biện pháp phát huy tính tích cực và
nâng cao hiệu quả tự học cho sinh viên.
Một nghiên cứu khác cũng về vấn đề này là của Nguyễn Công Khanh
(2009) đã chỉ rõ có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình học tập của sinh
viên. Mỗi sinh viên đến từ một môi trường văn hoá - xã hội khác nhau nên
hình thành những thói quen, cách suy nghĩ, các năng lực nhận thức khác nhau,
từ đó có phong cách học tập khác nhau. Qua nghiên cứu, điều tra, khảo sát,
tác giả kết luận: điểm phong cách học có quan hệ tuyến tính với điểm học lực
trung bình các môn học và lý giải cho khoảng 3% - 14% sự biến thiên điểm
thành tích học tập của những sinh viên được chọn mẫu nghiên cứu. Nhóm
sinh viên có điểm cao về phong cách học tập cũng chính là nhóm sinh viên có
điểm học lực trung bình cao ở các môn học.
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hƣởng đến kết quả học tập
Mối liên hệ giữa vấn đề nhân khẩu học và kết quả học tập cũng được
trình bày trong Luận văn Thạc sỹ Các yếu tố tác động đến kết quả học tập của
sinh viên chính quy trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Viện
Đảm bảo chất lượng giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả Võ Thị Tâm
đã đề cập đến tác động của đặc điểm sinh viên như động cơ học tập, kiên định


học tập, cạnh tranh học tập, ấn tượng trường học, phương pháp học tập với
kết quả học tập. Bên cạnh đó, tác giả còn chỉ ra sự khác biệt về các tác động
của các yếu tố thuộc đặc điểm sinh viên và kết quả học tập giữa nhóm sinh
viên nam và nhóm sinh viên nữ; giữa nhóm sinh viên thành phố và nhóm sinh
viên các tỉnh.
Ngoài ra, có thể kể đến nghiên cứu của Trần Lan Anh với Luận văn
Thạc sỹ Những yếu tố ảnh hưởng đến tính tích cực học tập của sinh viên đại
học, Trung tâm ĐBCLĐT & NCPTGD, ĐHQGHN đã hệ thống hóa cơ sở lý

luận về tính tích cực học tập của học sinh. Tác giả nghiên cứu sâu về những
nhân tố ảnh hưởng đến tính tích cực học tập của sinh viên đại học theo hai
nhóm: nhóm yếu tố liên quan đến cá nhân và nhóm yếu tố liên quan đến môi
trường. Từ đó, tác giả đề xuất nhiều giải pháp nhằm nâng cao tính tích cực
học tập của sinh viên. Bên cạnh đó, tác giả Phan Thị Quế Hương với Luận
văn Thạc sỹ Sự thích ứng với hoạt động học tập của học sinh lớp 6 người dân
tộc thiểu số huyện Đakrông - Quảng Trị, chuyên ngành Tâm lý học, Trường
Đại học Sư phạm - Đại học Huế đã tìm hiểu và đánh giá sự thích ứng với hoạt
động học tập của học sinh lớp 6 người dân tộc thiểu số ở huyện Đakrông, tỉnh
Quảng Trị. Từ việc đi sâu phân tích kết quả học tập của các học sinh dân tộc
thiểu số lớp 6 tại một địa bàn vùng cao tại tỉnh Quảng Trị, tác giả chỉ ra sự tác
động qua lại giữa kết quả học tập với các nhân tố như môi trường, nguồn gốc
xuất thân và điều kiện dạy và học hiện tại.
Tăng Thị Thuỳ (2014) đã nghiên cứu về “Những ẩn số đằng sau thành
tích của PISA Việt Nam”, tác giả đề cập đến những yếu tố về động cơ học tập,
sự tự tin vào khả năng của bản thân, sự lo lắng về điểm số của học sinh Việt
Nam có ảnh hưởng đến việc học môn Toán.


Về PISA tại Việt Nam, nhóm tác giả Nguyễn Thị Phương Hoa, Vũ
Thị Kim Chi, Nguyễn Thuỳ Linh (2009) đã tiến hành nghiên cứu về mục
đích, tiến trình thực hiện và các kết quả chính trong kỳ thi PISA. Ngoài
việc trình bày mục đích, phương pháp, tiến trình thực hiện, bài báo cũng đã
phân tích các kết quả chính của PISA qua các kỳ và nguyên nhân cơ bản
dẫn đến kết quả này. Sau khi Việt Nam tham gia Chương trình Đánh giá
học sinh quốc tế năm 2012, tác giả Nguyễn Thị Phương Hoa (2013) đã có
những trao đổi về PISA và những bài học rút ra cho giáo dục Việt Nam.
Nhìn chung, ở Việt Nam có khá nhiều công trình nghiên cứu các yếu tố
ảnh hưởng tới việc học tập của học sinh các bậc học. Tuy nhiên, những yếu tố
về cá nhân học sinh mà cụ thể là cảm quan trường học ảnh hưởng như thế

nào đến kết quả học tập môn Khoa học của học sinh 15 tuổi chưa được nghiên
cứu ở đề tài nào trước đây. Do vậy, đề tài luận văn tập trung vào xác định các
yếu tố môi trường học tập, đo lường và đánh giá mối quan hệ của các yếu tố
đó đối với thành tích học tập của học sinh. Như vậy, có thể nói, đây là một đề
tài mới để tác giả đi sâu tìm hiểu và khai thác.
1.1.2. Các nghiên cứu về đánh giá thành tích học tập của HS
Mục đích của nhà trường là tạo ra thành tích học tập (TTHT) của HS,
cụ thể là làm tăng kết quả học tập của HS. Do vậy, các nghiên cứu đánh giá
TTHT được xem là có vai trò đặc biệt quan trọng. Đó là quá trình thu thập và
xử lý thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của HS. Đó là
nghiên cứu đánh giá về tác động và các yếu tố ảnh hưởng đến TTHT của HS.
TTHT là mức độ thành tích mà một học sinh đã đạt vào cuối quá trình
học tập hoặc cuối một hoạt động học tập nhất định. TTHT được xem xét trong
mối quan hệ với công sức, thời gian mà HS bỏ ra để học tập, được tìm hiểu và
đánh giá so với mục tiêu xác định và rất có thể được xem xét so sánh với
TTHT của các HS khác. TTHT là mức độ đạt được kiến thức, thái độ và kĩ


năng mà HS đạt được trong một môn học, giờ học hay một năm học một môn
học nhất định hay một kỳ học, năm học xác định. Với từng môn học, TTHT
được cụ thể hóa và đo lường, đánh giá thông qua mức độ, trình độ về kiến
thức, thái độ và kỹ năng.
Thang phân loại quá trình học tập của Benjamin Bloom cho biết quá
trình học tập diễn ra theo từng bước, từng giai đoạn để đạt được những TTHT
nhất định được thể hiện dưới hình thức các thang đo lường trình độ kiến thức,
thái độ và hành vi. Thang đo của Bloom cho biết TTHT diễn ra trên từng
trình độ từ biết, hiểu, đến vận dụng, phân tích, tổng hợp và đánh giá.
Anderson & Krathwohl đã cải tiến thang đo của Bloom và nhấn mạnh
yếu tố khởi đầu là “ghi nhớ’ đến thông hiểu, vận dụng, phân tích, đánh giá và
cuối cùng đạt tới mức độ cao nhất là “sáng tạo”.

Các nghiên cứu về ảnh hƣởng của các yếu tố đến TTHT của HS
Tùy từng thời kỳ và từng hoàn cảnh kinh tế - xã hội cụ thể mà mục tiêu
giáo dục nhà trường nhấn mạnh trình độ nhất định của thang bậc TTHT. Thời
phong kiến khi xã hội còn nghèo nàn thì mục tiêu chính của giáo dục nahf
trường là bắt HS phải ghi nhớ những gì được giảng dạy. Khi đó TTHT của
HS được đo bằng các tiêu chí về số lượng của các tài liệu học tập được ghi
nhớ, được thuộc lòng với các mức độ chính xác nhất định.
Xã hội càng phát triển thì mục tiêu giáo dục nhà trường càng được nâng
cao. HS không chỉ học để biết, hiểu mà còn phải biết vận dụng, phân tích,
đánh giá và cao hơn nữa, HS phải biết sáng tạo ra những điều mới cho xã hội.
TTHT được đo lường thông qua tiêu chí kết quả học tập một môn học
nhất định, trong đó có môn toán.
TTHT nói chung và kết quả học tập môn học nhất định nào đó nói riêng
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau từ yếu tố đặc điểm cá nhân HS, đến yếu
tố gia đình, nhà trường và yếu tố môi trường học tập và cả yếu tố địa phương,


vùng miền. TTHT của học sinh không chỉ phụ thuộc vào khả năng tinh thần
và thể chất của đưa trẻ mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác của môi
trường xung quanh. Điều này đã được kiểm chứng bởi nhiều công trình
nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam.
TTHT của HS phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế xã hội. Những HS
nghèo, HS có hoàn cảnh khó khăn thiếu cơ hội đến trường và khi có cơ hội
đến trường cũng thường gặp phải nhiều khó khăn để đạt được TTHT cao.
Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường gồm gia
đình và cộng đồng với thành tích học tập đều cho thấy các yếu tố này có ảnh
hưởng lớn tới thành tích học tập của học sinh. Tuy nhiên, các nghiên cứu
cũng cho thấy mức độ ảnh hưởng của các yếu tố môi trường phụ thuộc vào
mức độ tương tác của các yếu tố và sự can thiệp của các điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể. Ví dụ, trình độ học vấn của phụ huynh học sinh có thể làm tăng mối

quan tâm, chú ý và đầu tư của gia đình đối với việc đến trường của học sinh.
Ảnh hưởng của các yếu tố quan hệ cha mẹ và con cái phụ thuộc vào lứa tuổi
học sinh, lứa tuổi của cha mẹ và cấp bậc giáo dục. Yếu tố dân tộc, tôn giáo,
văn hóa bản địa, văn hóa cộng đồng cũng có ảnh hưởng nhất định đến mối
quan hệ giữa cha mẹ và con cái và tác động đến thành tích học tập của học
sinh. Tuy nhiên các nghiên cứu này chưa làm rõ những yếu tố như cảm giác
gắn bó với cộng đồng, mối quan hệ thày trò, quan hệ cha mẹ và con cái trong
mối tương tác với nhau và ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh.
Một số nghiên cứu quốc tế về ảnh hưởng của các đặc điểm gia đình đối
với thành tích học tập của học sinh phát hiện thấy quy mô gia đình, thành
phần và cấu trúc gia đình có những tác động nhất định đến thành tích học tập
của học sinh. Ví dụ nghiên cứu về thành tích toán học và đọc hiểu của học
sinh ở 31 nước trên thế giới qua dữ liệu PISA cho biết thành tích học tập của
học sinh xuất thân từ những gia đình đơn thân thường thấp kém hơn so với
gia đình đầy đủ. Phân tích kỹ các biến can thiệp có thể thấy mức độ ảnh


hưởng này có thể bị giảm bớt do điều kiện kinh tế của gia đình: gia đình đầy
đủ mà điều kiện kinh tế khó khăn và bố mẹ không quan tâm đến con cái thì
kết quả học tập của con cái không cao.
Một số nghiên cứu về thuộc Chương trình Nghiên cứu xu hướng Toán
học và Khoa học quốc tế (TIMSS), cho thấy ảnh hưởng rõ rệt theo chiều tỉ lệ
thuận của yếu tố trình độ học vấn của cha mẹ đối với thành tích toán học của
học sinh: học vấn của bố mẹ càng cao thì càng có nhiều khả năng con cái họ
đạt được thành tích cao trong học tập. .
Nghiên cứu của Ali Reza Kiamanesh cho biết rõ sự phụ thuộc của
thành tích toán học của học sinh vào các yếu tố gia đình như trình độ học
vấn của cha mẹ, và các yếu tố thuộc về điều kiện học tập trong gia đình nhừ
số lượng sách, từ điển, máy vi tính và các trang thiết bị, đồ dùng học tập ở
gia đình. Cùng với các yếu tố môi trường, các yếu tố bên trong của cá nhân

học sinh như sự nỗ lực, và kiến thức, ky năng học tập của học sinh cũng
tương tác và làm tăng thành tích học tập của học sinh: ví dụ, học sinh nào
chăm chỉ, chịu khó, kỷ luật thường đạt thành tích cao trong học tập kể cả kết
quả môn toán.
Các nghiên cứu trong và ngoài nước đều cho thấy ảnh hưởng tích cực
của các điều kiện kinh tế - xã hội đối với việc học tập của học sinh. Trước hết,
các yếu tố kinh tế - xã hội thuận lợi có tác động làm tăng cơ hôi đến trường.
Tiếp đến do gia đình có điều kiện kinh tế nên học sinh cũng có thêm các điều
kiện học tập và nhất là được quan tâm đầu tư cho việc học tập. Nghề nghiệp
của phụ huynh học sinh có ảnh hưởng rõ rệt đến thành tích học tập. Gia đình
nông dân thường có ít điều kiện cho học tập hơn so với gia đình trí thức. Các
nghiên cứu cũng cho thấy mức độ ảnh hưởng của gia đinh đến việc học tập
của con cái phụ thuộc vào giới tính của học sinh: tỉ lệ đi học của trẻ em gái ở
một số nước thường ít hơn trẻ em trai. Tuy nhiên, ở Việt Nam điều này có lẽ


chỉ xảy ra ở những vùng khó khăn. Tính chung trong phạm vi cả nước, tỉ lệ đi
học của trẻ em gái ở bậc tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông gần
như đạt được sự bình đẳng so với tỉ lệ trẻ em trai. Nhưng đây là sự bình đẳng
ở cơ hội đến trường và điều này phụ thuộc chủ yếu vào yếu tố chính sách, cụ
thể là luật phổ cập giáo dục tiểu học và các quy định pháp lý thúc đẩy phổ cập
giáo dục trung học cơ sở. Yếu tố chính sách này có tác động nâng cao tỉ lệ
đến trường không phân biệt giới tính nhưng có thể không ảnh hưởng đáng kể
đến thành tích học tập của học sinh ở nhà trường.
Trên thế giới nghiên cứu của Femi Ogunshola & AM Adewale cho biết
các điều kiện kinh tế - xã hội không phải là những yếu tố quan trọng và do
vậy có tác động không lớn đến thành tích học tập của học sinh. Nghiên cứu
này phát hiện thấy trình độ học vấn của phụ huynh học sinh và tình trạng sức
khỏe của học sinh là hai yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến thành tích học
tập của học sinh.

Nghiên cứu về tình hình học tập của học sinh ở Nepal cũng cho thấy
các yếu tố gia đình gồm trình độ học vấn của các phụ huynh, các bậc ông bà
nội ngoại đều ảnh hưởng đến thành tích học tập cụ thể là kết quả học toán của
học sinh. Không chỉ đặc điểm gia đình mà các yếu tố của nhà trường với mối
quan hệ giữa thày cô giáo và học sinh cũng ảnh hưởng đến kết quả học tập
của học sinh.
Nghiên cứu phát hiện thấy sự quan tâm của cha mẹ, nhất là mức độ đầu
tư thời gian của người mẹ cho việc học tập của con cái có vai trò quyết định
đối với trình độ năng lực trí tuệ của trẻ em. Một số tác giả cho thấy có sự tác
động tỉ lệ thuận của sự quan tâm của người mẹ đối với kết quả học tập của
học sinh nhất là trong cấp bậc giáo dục trung học cơ sở. Tuy nhiên, mức độ
ảnh hưởng này phụ thuộc vào những yếu tố khác nữa như lứa tuổi của học


sinh, dân tộc, thành phần và cấu trúc gia đình và nghề nghiệp, điều kiện lao
động của các phụ huynh, cụ thể là của người mẹ.
Một nghiên cứu ở Canada cho biết: môi trường tâm lý gia đình, quan hệ
vợ chồng, tình trạng hôn nhân, gia đình cũng ảnh hưởng đến học tập của học
sinh. Tỉ lệ ly hôn cao của các cặp vợ chồng và những khó khăn trong giao tiếp
ngôn ngữ cũng đều là những yếu tố kìm hãm, cản trở sự tiến bộ trong học tập
của học sinh ở [2.14]. Tuy nhiên một phát hiện đặc biệt là trẻ em người dân
tộc thiểu số nếu được đến trường học thì kết quả học tập của các em dân tộc
thiểu số không thấp kém so với các em học sinh khác trong cùng độ tuổi và
cùng cấp bậc giáo dục. Rất có thể điều kinh kinh tế - xã hội ở những vùng này
là đồng đều giữa các dân tộc nên yếu tố dân tộc không ảnh hưởng nhiều đến
thành tích học tập.
Các nghiên cứu tình hình học tập của học sinh ở Hàn Quốc, Nhật Bản
và Phần Lan cho thấy các yếu tố kinh tế - xã hội của gia đình, động cơ học tập
của HS và môi trường học tập của nhà trường đều là những yếu tố có tác động
nhất định đến kết quả học toán của học sinh hai nước này. Trong khi đó,

nghiên cứu này cho biết, mối tương tác tích cực giữa thày và trò có ảnh hưởng
tiêu cực đến học sinh Phần Lan nhưng ảnh hưởng không đáng kể đến kêt quả
học tập của học sinh ở Hàn Quốc và Nhật Bản.
Nghiên cứu cho biết số lượng thành viên gia đình, trình độ học vấn của
phụ huynh, lứa tuổi của người mẹ khi sinh con, nghề nghiệp của người mẹ và
tình trạng thu nhập của gia đình đều là những yếu tố có ảnh hưởng nhất định
đến kết quả học tập của học sinh. Tuy nhiên, các yếu tố thuộc về cấu trúc gia
đình, hình thức gia đình như gia đình đơn thân lại không phải là yếu tố có ảnh
hưởng đáng kể đến thành tích học tập của học sinh.
Nghiên cứu sánh gia đình đơn thân với gia đình đầy đủ cho biết có sự
khác nhau về thành tích học tập của học sinh xuất thân từ hai loại gia đình


này. Tuy nhiên, sự khác nhau đó có thể do các yếu tố khác thuộc về điều kiện
kinh tế chứ không phải yếu tố cấu trúc gia đình. Điều đó chứng tỏ các yếu tố
kinh tế - xã hội mới thực sự là yếu tố ảnh hưởng đến học tập chứ không phải
yếu tố thuần túy cấu trúc gia đình.
Các nghiên cứu đều giống nhau ở chổ chỉ ra được những yếu tố quan
trọng thuộc về cá nhân học sinh như sự nỗ lực và thái độ tích cực học tập của
học sinh, yếu tố kinh tế của gia đình, sự quan tâm của phụ huynh học sinh đối
với thành tích học tập. Đồng thời các yếu tố nhà trường như sự quan tâm của
giáo viên, quan hệ bạn bè trong nhà trường và cả yếu tố chính sách cũng đều
là những yếu tố quan trọng đối với việc học tập của học sinh ở nhà trường.
Các nghiên cứu về tình hình học tập của học sinh ở Phần Lan trong giai đoạn
1999-2001 đều khẳng định kết quả như vậy.
Nghiên cứu của Bayaga và Wadesango cho thấy: kiến tưhcs của học
sinh về toán học, đặc điểm gia đình và tinh thần thái độ học tập của học sinh
đền ảnh hưởng đến kết quả học môn toán với hệ số tương quan tuong ứng lần
lượt là 0.353, 0.302 và 0.216. Đồng thời mối tương quan giữa thái độ học tập
và kiến thức của học sinh cũng được phát hiện là đạt mức cao với hệ số tương

quan là 0.452. Ngược lại, mối tương quan giữa bầu không khí trường học và
động lực bên ngoài với điểm toán là không đáng kể.
Nghên cứu cho biết các yếu tố như sở thích học tập và phương pháp
dạy học đều có ảnh hưởng tích cực đến kết quả học học tập của HS. Nghiên
cứu của Reid cho thấy sở thích học tập của học sinh là “cách tự nhiên, quen
thuộc và ưa thích” của học sinh để học hỏi những kiến thức mới ở nhà trường.
Nghiên cứu của Richard M. Felder cho thấy: mối tương quan của sở
thích học tập của HS và phương pháp dạy học của giảng viên có tác động hỗ
trợ HS nhớ lại các kiến thức đã học và nhanh chóng tiếp thu thông tin mới.


Nghiên cứu học sinh ở Thổ Nhĩ Kỳ qua PISA cho biết: yếu tố cá nhân
và sự hiểu biết về toán học, chiến lược học tập và bầu không khí tâm lý học
tập của nhà trường là những yếu tố có ảnh hưởng tích cực đến kết quả học tập
môn toán của học sinh nước này.
Nghiên cứu cho biết: HS nữ có thành tích học tập thấp hơn học sinh
nam ở trường hỗn hợp, nhưng ở trường đơn giới tính học sinh nữ có thái độ
học tập tích cực đối với môn toán hơn học sinh nam ở các trường khác. Trong
trường hợp có sự giúp đỡ, động viên của phụ huynh thì kết quả học tập của
học sinh kể cả học sinh nữ sẽ tăng lên rất nhiều.
Các yếu tố kinh tế - xã hội có ảnh hưởng tích cực đến kết quả học taons
của học sinh lớp tám. Học sinh xuất thân từ gia đình có điều kiện kinh tế xã
hội thấp thì thường đạt kết quả học toán thấp. Tuy nhiên sự hỗ trợ của phụ
huynh là yếu tố cải thiện đáng kể kết quả học tập của các học sinh. Trong gia
đình di cư, kết quả học tập của học sinh thấp hơn gia đình không di cư. Điều
này thấy rõ ở những gia đình người Mỹ gốc Phi và Tây Ban Nha khi so sánh
với với gia đình người Mỹ gốc châu Á.
Nghiên cứu của Getinet Haile và Nguyễn Ngọc Anh cũng đi đến những
kết quả tương tự. Cụ thể là có sự khác nhau về kết quả học tập môn toán, đọc
hiểu và khoa học giữa các nhóm học sinh thuộc các gia đình dân tộc khác

nhau. Đồng thời nghiên cứu này cho thấy các yếu tố như trình độ học vấn của
bố mẹ cũng làm cho kết quả học tập của học sinh khác nhau: thường con cái
của bố mẹ có trình độ học vấn cao thì kết quả học tập cũng cao.
Báo cáo quốc tế về kết quả PISA 2012 cho thấy thành tích toán học
không phải do năng lực hay năng khiếu bẩm sinh của học sinh mà chủ yếu là
do sự cần cù, chăm chỉ học tập của học sinh. Kết luận này có ý nghĩa thực tiễn
rất quan trọng để đổi mới phương pháp giảng dạy sao cho học sinh yêu thích


và nỗ lực học tập hơn là chỉ tập trung vào tìm kiếm tài năng bẩm sinh một
cách may rủi.
Để học sinh tích cực và nỗ lực học tập thì yếu tố môi trường học tập
của nhà trường, quan hệ thày - trò và sự quan tâm của phụ huynh học sinh là
rất quan trọng và cần thiết. Các nghiên cứu về học sinh ở Nhật Bản và Bồ
Đào Nha cho thấy việc cải tiến chương trình, nội dung và phương pháp giagnr
dạy đã góp phần thúc đẩy thái độ tích cực, sự tự tiên và nỗ lực của học sinh
trong việc học tập môn toán và các môn học khác trong nhà trường. Nhờ vậy
mà kết quả học tập của học sinh tăng lên.
Tóm lại các nghiên cứu quốc tế về học sinh các nước qua PISA và ácc
dữ liệu khác nhau đều phát hiện ra các yếu tố quan trọng từ môi trường xung
quanh trong đó nổi bật nhất là yếu tố nhà trường, quan hệ thày trò, yếu tố gia
đình và yếu tố cộng đồng. Ở đâu có điều kiện kinh tế thuận lợi, truyền thống
văn hóa hiếu học và sự ủng hộ của gia đình thì ở đó học sinh có nhiều cơ hội
đến trường và đạt được nhiều thành tích cao trong học tập. Ngược lại ở nơi
nào còn nghèo, gia đình có khó khăn, cộng đồng ít quan tâm tới giáo dục đào tạo và việc học được khoán cho nhà trường thì ở nơi đó thành tích học tập
của học sinh không cao.
Các nghiên cứu trong nước cũng đã phát hiện ra những yếu tố môi
trường gồm yếu tố gia đình, nhà trường và cộng đồng ảnh hưởng đến thành
tích học tập của học sinh. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu tập trung vào
năm nhóm yếu tố như luận văn này đã nêu ra và cũng chưa có nghiên cứu nào

sử dụng các dữ liệu PISA để đo lường, đánh giá ảnh hưởng của năm yếu tố
môi trường đến thành tích học toán của học sinh. Do vậy, luận văn vừa kế
thừa những kết quả nghiên cứu đã có ở trong nước và quốc tế vừa tập trung
tìm hiểu và đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến thành tích học
tập của học sinh Việt Nam qua PISA. Nhiều điều mới có thể phát hiện ở đây


liên quan đến đổi mới giáo dục ở Việt Nam từ mô hình quản lý quan liêu bao
cấp với một hệ thống giáo dục công lập sang mô hình quản lý theo kinh tế thị
trường với hệ thống giáo dục gồm nhiều thành phần công lập, ngoài công lập
gồm cả tư thục và quốc tế. Việt Nam vốn được coi là có nền văn hóa hiếu học
và gia đình luôn quan tâm đầu tư cho con cái học tập đến nơi đến chốn. Do
vậy, mặc dù sự phân hóa giàu nghèo của gia đình có thể ảnh hưởng đến việc
học tập nhưng mức độ ảnh hưởng có thể bị trung hòa bởi tinh thần khuyến
học của cả cộng đồng, gia đình, nhà trường đối với học sinh. Các yếu tố môi
trường và tương tác giữa các yếu tố đều có ảnh hưởng nhất định đến thành
tích học tập của học sinh nhưng theo những cách khác nhau, mức độ khác
nhau mà luận văn này muốn đo lường, đánh giá làm rõ.
1.1.3 Các khái niệm
* Môi trƣờng là gì?
Môi trường là toàn bộ các yếu tố tự nhiên và xã hội hiện hữu, ảnh
hưởng đến đời sống và nhân cách con người. Môi trường bao quanh con
người, gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường tự nhiên
gồm khí hậu, đất, nước, sinh thái... Môi trường xã hội là các điều kiện về
kinh tế, chính trị, văn hoá...
Hoàn cảnh sống được hiểu là một yếu tố hoặc là một môi trường
nhỏ hợp thành của môi trường lớn. Môi trường nhỏ tác động trục tiếp, mạnh
mẽ, trong một thời gian, không gian nhất định tạo nên hướng hình thành và
phát triển nhân cách, ví dụ: hoàn cảnh kinh tế khó khăn, hoàn cảnh bệnh tật
ốm đau... Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách thì môi trường

xã hội (trong đó có gia đình, bạn bè, tập thể lớp, trường...), thông qua các mỗi
quan hệ đa dạng, có ý nghĩa quan trọng đặc biệt.
Mỗi con người ngay từ khi mới sinh ra đã phải sống trong một môi
trường, hoàn cảnh nhất định, có thể gặp thuận lợi hoặc khó khăn đối với quá
trình phát triển thể chất, tinh thần của cá nhân. Môi trường tự nhiên và xã hội
với các điều kiện kinh tế, thể chế chính trị, hệ thống pháp luật, truyền thống
văn hoá, chuẩn mực đạo đức... tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành và
phát triển động cơ, mục đích, quan điểm, tình cảm, nhu cầu, húng thú, chiều
hướng phát triển của cá nhân... Thông qua hoạt động và giao lưu trong môi


trường mà cá nhân chiếm lĩnh được các kinh nghiệm, giá trị xã hội loài người,
từng bước điều chỉnh, hoàn thiện nhân cách của mình.
Tác động của môi trường đối với sự phát triển của cá nhân là rất
mạnh, phức tạp, có thể là tác động tích cực hoặc tiêu cực, có thể cùng chiều
hay ngược chiều, chủ yếu là theo con đường tự phát. Mức độ ảnh hưởng tích
cực hay tiêu cực như thế nào, có được chấp nhận hay không trong quá trình
phát triển nhân cách tùy thuộc phần lớn vào trình độ được giáo dục. Đó là ý
thức, niềm tin, quan điểm, ý chí và xu hướng, năng lực hoạt động, giao lưu
góp phần cải biến môi trường của cá nhân. C. Mác đã nói: “Hoàn cảnh sáng
tạo ra con người, trong một mức độ con người sáng tạo ra hoàn cảnh".
Ngay cả trong cùng môi trường sống, hoàn cảnh gia đình, nhưng
nhân cách của từng cá nhân cũng phát triển theo hướng khác nhau. Như vậy,
trong sự tác động qua lại giữa nhân cách và môi trường, càng chú ý đến hai
mặt của vấn đề: tác động của môi trường, hoàn cảnh vào quá trình hình
thành, phát triển nhân cách; và ngược lại, tác động của nhân cách vào môi
trường, hoàn cảnh để điều chỉnh, cải tạo nó nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích
của mình.
Có thể khẳng định ảnh hưởng to lớn của yếu tố môi trường đến quá
trình hình thành và phát triển nhân cách. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hoá vai trò

của môi trường là phủ nhận vai trò ý thức, sáng tạo của chủ thể, đó là sai lầm
về nhận thức luận. Ngược lại, việc hạ thấp hoặc phủ nhận vai trò yếu tố môi
trường cũng phạm sai lầm của thuyết “Giáo dục vạn năng”. Do đó, phải đặt
quá trình giáo dục, quá trình hình thành và phát triển nhân cách trong mối
quan hệ tương tác giữa các yếu tố để có sự đánh giá đúng đắng.
* Khái niệm môi trƣờng học tập (MTHT):
Với quan điểm coi môi trường như một tập hợp phức tạp các yếu tố khác nhau,
môi trường học tập gồm tập hợp các yếu tổ ảnh hưởng đến việc dạy và học.

Môi trường học tập là nơi diễn ra quá trình học tập của trẻ em, bao gồm môi
trường vật chất và môi trường tinh thần.

+ Môi trường vật chất là không gian diễn ra quá trình học tập của trẻ, có
thể ở trong hoặc ngoài phòng học, ở gia đình và cộng đồng. Là toàn bộ không
gian (cả trong hoặc ngoài phòng học), nơi diễn ra quá trình dạy - học, mà ở đó
có các yếu tố như bảng, bàn ghế, ánh sáng, âm thanh, không khí, cách sắp xếp
không gian phòng học...
Không gian lớp học là yếu tố tác động quyết định đến môi trường vật
chất. Nó có hai hình thái: vật chất và tâm lí. Không gian vật chất là vùng bao


×