PGS. TS. Xuõn ỡnh
NHữNG BàI HọC KINH NGHIệM XÂY DựNG,
PHáT TRIểN QUAN Hệ ĐốI NGOạI
SONG PHƯƠNG Và ĐA PHƯƠNG
TRONG THờI Kỳ ĐổI MớI ở VIệT NAM
NH XUT BN I HC QUC GIA H NI
1
2
MỤC LỤC
Chương I
CHỦ TRƯƠNG XÂY DỰNG,
PHÁT TRIỂN QUAN HỆ SONG PHƯƠNG
VÀ ĐA PHƯƠNG CỦA VIỆT NAM (1986-2012) .............................7
I.1. Chủ trương đối ngoại rộng mở, xây dựng, phát triển quan hệ song
phương và đa phương (1986-1995).................................................7
I.1.1. Sự chuyển biến của tình hình khu vực, thế giới và yêu cầu
đổi mới về đối ngoại của Việt Nam .......................................7
I.1.2. Chủ trương đối ngoại rộng mở, xây dựng, phát triển quan hệ
song phương và đa phương .................................................23
I.2. Chủ trương đối ngoại đa dạng hoá, đa phương hoá - tích cực, chủ động
phát triển quan hệ song phương và đa phương (1996-2012) ........49
I.2.1. Những động thái mới của tình hình khu vực và thế giới ....49
I.2.2. Chủ trương đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa
phương hoá, tích cực, chủ động phát triển quan hệ song
phương và đa phương .........................................................56
Chương II
TIẾN TRÌNH VIỆT NAM THIẾT LẬP, PHÁT TRIỂN ...................77
QUAN HỆ SONG PHƯƠNG VÀ ĐA PHƯƠNG (1986-2012).........77
II.1. Thiết lập, phát triển quan hệ song phương với một số nước lớn
II.1.1. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc........................................77
II.1.2. Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ...............................................83
II.1.3. Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản............................................93
II.1.4. Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga .................................102
II.1.5. Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ...............................................107
3
II.2. Thiết lập, phát triển quan hệ đa phương với một số tổ chức khu
vực, quốc tế .......................................................................................
II.2.1. Thiết lập, phát triển quan hệ đa phương Việt Nam - ASEAN.
II.2.2. Thiết lập, phát triển quan hệ đa phương Việt Nam - APEC...
II.2.3. Thiết lập, phát triển quan hệ đa phương Việt Nam - EU .......
II.2.4. Hội nhập thương mại toàn cầu - Gia nhập WTO ..................
II.2.5. Mở rộng, phát triển quan hệ Việt Nam - Liên hợp quốc ........
Chương 3
NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN
QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI SONG PHƯƠNG VÀ ĐA PHƯƠNG
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
III.1. Ý nghĩa của việc thực hiện đường lối đối ngoại xây dựng, phát
triển quan hệ song phương và đa phương .........................................
III.2. Hạn chế và những vấn đề đặt ra .....................................................
III.3. Bài học kinh nghiệm từ quá trình xây dựng, phát triển quan hệ
song phương và đa phương (1986-2012) ..........................................
Kết luận ...................................................................................................
Danh mục tài liệu tam khảo ....................................................................
4
LỜI MỞ ĐẦU
Thời kỳ đổi mới, qua mỗi nhiệm kỳ Đại hội đánh dấu sự chuyển
biến nhận thức của Đảng về quan hệ chính trị quốc tế; về yêu cầu,
nhiệm vụ trong nước. Từ đó dẫn tới đổi mới tư duy trên các lĩnh vực
đối ngoại, mà nổi bật là sự chuyển biến từ tư duy đối ngoại thời kỳ
chiến tranh lạnh sang tư duy chính trị thực tế - từ nhận thức về thế giới
và xu thế quốc tế dưới lăng kính ý thức hệ, duy ý chí trước đó, được
thay bằng thái độ khách quan, tôn trọng sự thật; từ quan niệm cũ về
“bạn, thù” sang quan niệm “đối tác, đối tượng”; từ quan hệ “theo phe”
sang đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế phục vụ thiết thực
cho lợi ích quốc gia Việt Nam. Trên cơ sở nhận thức mới, tư duy mới,
Đảng đề ra chủ trương, đối sách đối ngoại rộng mở, phát triển mạnh
mẽ quan hệ đối ngoại song phương và đa phương, chủ động, tích cực
tham gia vào đời sống quốc tế. Kết quả đối ngoại trên nền tảng đổi
mới tư duy là nhân tố quan trọng đưa đất nước thoát khỏi thế bị bao
vây, cấm vận; ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nâng cao vị thế
của nước Việt Nam trên trường quốc tế.
Nội dung cuốn sách làm rõ các vấn đề cơ bản như: 1) Hệ thống chủ
trương, chính sách đối ngoại của Việt Nam trong tiến trình mở rộng
quan hệ quốc tế, thời kỳ đổi mới; 2) Trình bày tiến trình bình thường
hóa quan hệ và xây dựng, phát triển quan hệ đối ngoại song phương với
các nước lớn có quan hệ không bình thường trong lịch sử với Việt Nam,
như: Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ,
Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản, Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga…;
3) Trình bày tiến trình Việt Nam xây dựng, phát triển quan hệ đối ngoại
đa phương, như: Việt Nam gia nhập ASEAN, Việt Nam gia nhập
APEC, Việt Nam gia nhập WTO…; 4) Đúc kết một số bài học kinh
nghiệm từ tiến trình Việt Nam xây dựng, phát triển quan hệ đối ngoại
song phương và đa phương trong thời kỳ đổi mới.
5
Cuốn sách là tài liệu tham khảo cho sinh viên các học viện, các
trường đại học, cao đẳng trong học tập các môn Quan hệ quốc tế,
Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam; tài liệu tham khảo
cho học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành quan hệ quốc
tế, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi
sai sót. Tác giả xin chân thành tiếp thu ý kiến góp ý của Quý độc giả.
Xin trân trọng cảm ơn.
Hà Nội, tháng 11 năm 2013
Tác giả
PGS. TS. Xuân Đình
6
Chương I
CHỦ TRƯƠNG XÂY DỰNG,
PHÁT TRIỂN QUAN HỆ SONG PHƯƠNG
VÀ ĐA PHƯƠNG CỦA VIỆT NAM (1986-2012)
I.1. Chủ trương đối ngoại rộng mở, xây dựng, phát triển quan hệ
song phương và đa phương (1986-1995)
I.1.1. Sự chuyển biến của tình hình khu vực, thế giới và yêu cầu đổi mới
về đối ngoại của Việt Nam
Từ giữa thập kỷ 80, thế kỷ XX, trong khu vực và trên thế giới
diễn ra sự chuyển biến sâu sắc. Quan hệ chính trị quốc tế có những
thay đổi và tác động mạnh mẽ đến chiến lược đối ngoại của các quốc
gia dân tộc, trong đó có Việt Nam.
Trước hết, sự tiến bộ nhanh chóng với những thành tựu to lớn của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới thúc đẩy lực lượng
sản xuất toàn cầu phát triển vượt bậc. Yếu tố kinh tế và tiềm lực khoa
học công nghệ trở thành nhân tố quyết định sức mạnh tổng hợp và vị
thế của các quốc gia trên trường quốc tế.
Thứ hai, sự kiện chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở các nước Đông Âu
cuối thập kỷ 80; tiếp đến, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ
(tháng 12-1991). Từ các sự kiện này dẫn đến những biến đổi cơ bản
nền chính trị thế giới và quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình
thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trên cơ sở hai khối đối lập do
Liên Xô và Mỹ đứng đầu (trật tự hai cực) tan rã, mở ra thời kỳ quá độ
hình thành một trật tự thế giới mới.
Thời kỳ chiến tranh lạnh, sự phân biệt, đối đầu, thù địch về ý thức
hệ, về chế độ chính trị - xã hội là cơ sở cho sự tồn tại của thế giới hai
cực và là nhân tố chi phối lớn đến quan hệ quốc tế, đặc biệt là quan hệ
7
Bắc - Nam. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, việc tập hợp lực lượng
không còn cơ bản dựa trên lăng kính ý thức hệ tư tưởng, chính trị mà chủ
yếu dựa trên lợi ích chung của các quốc gia, của khu vực và toàn cầu.
Một đặc điểm lớn trên chính trường quốc tế sau khi Liên Xô tan
rã, là Mỹ với vị trí siêu cường duy nhất về kinh tế, chính trị và quân
sự, có ý đồ muốn thiết lập một trật tự thế giới mới dưới sự chi phối
của họ (thế giới một cực). Các nước lớn (kể cả những đồng minh của
Mỹ) đấu tranh mạnh mẽ nhằm xác lập vai trò, vị thế của mình đối với
khu vực và thế giới, nhằm ngăn cản Mỹ thực hiện ý đồ xây dựng trật
tự thế giới đơn cực. Xu hướng đa cực hoá chính trị trở thành phổ biến
của thế giới đương đại.
Để thích ứng với tình hình mới, các nước thực hiện điều chỉnh
chiến lược, chính sách đối nội, đối ngoại nhằm tăng cường sức mạnh
đất nước và khẳng định vai trò, vị thế của quốc gia trên trường quốc tế.
Tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương
Các nước lớn đặc biệt là Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc đi vào hoà
hoãn và cải thiện quan hệ với nhau; dành sự tập trung cao nhất cho
giải quyết các vấn đề trong nước, nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc
gia, tạo thế cho tương lai; cuộc chạy đua vũ trang giảm mạnh, xu thế
hoà hoãn phát triển.
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, châu Á - Thái Bình Dương là nơi
hội tụ các mâu thuẫn lớn của thế giới, là khu vực nóng bỏng và xung
đột vũ trang kéo dài. Sau sự kiện Hoa Kỳ thất bại trong cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam và buộc phải rút quân khỏi Đông Nam Á,
tình hình khu vực có những chuyển biến sâu sắc.
Vào giữa thập kỷ 80, khu vực châu Á - Thái Bình Dương đi dần
vào trạng thái hoà bình, ổn định, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Trên cơ sở đó vai trò, vị trí của khu vực châu Á - Thái Bình Dương
ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Bước vào thập kỷ 90, tình hình khu vực châu Á - Thái Bình
Dương có những diễn biến mới:
Trước hết là sự nổi lên của tam giác chiến lược mới Mỹ - Trung Nhật trở thành nhân tố chủ yếu chi phối an ninh, chính trị của khu vực.
8
Hai là, trong khu vực này tuy vẫn tồn tại nhiều nguy cơ bùng nổ
xung đột như vấn đề hạt nhân ở Bán đảo Triều Tiên; vấn đề Đài Loan;
vấn đề tranh chấp lãnh hải ở biển Đông và việc các nước trong khu vực
tăng cường vũ trang, nhưng châu Á - Thái Bình Dương sau chiến tranh
lạnh vẫn được đánh giá là khu vực yên tĩnh và ổn định của thế giới.
Ba là, châu Á - Thái Bình Dương trở thành khu vực có tiềm lực
lớn và năng động về phát triển kinh tế. Xu thế hoà bình và hợp tác
trong khu vực phát triển mạnh, sự tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng gia
tăng. Tuy nhiên, quá trình hợp tác phát triển kinh tế của khu vực cũng
đang gặp những khó khăn trở ngại. Đó là, sự chênh lệch về trình độ và
tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa các nền kinh tế trong khu vực; xuất
hiện những nhân tố mới có thể gây mất ổn định khu vực, trong đó có
nhân tố xuất phát từ sự tranh giành lợi ích kinh tế, ảnh hưởng chính trị
giữa một số nước lớn.
Tình hình một số nước tư bản chủ nghĩa thuộc khu vực châu Á Thái Bình Dương
Về Hoa Kỳ: Để khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng trên
nhiều lĩnh vực diễn ra từ giữa thập kỷ 70, Hoa Kỳ buộc phải điều
chỉnh chiến lược đối nội và đối ngoại của mình. Cụ thể: tập trung ưu
tiên giải quyết các vấn đề bên trong như, cắt giảm thuế, cắt giảm các
chi phí một số hoạt động của Chính phủ; tập trung xây dựng phát triển
kinh tế, củng cố, gia tăng vị thế của Hoa Kỳ trong các nước đồng
minh thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, bước vào giữa thập
kỷ 80, nước Mỹ tiếp tục lún sâu vào khó khăn, Tổng thống Mỹ đã phải
kêu gọi tiến hành cuộc “Cách mạng nước Mỹ lần thứ 2”, với nội dung
chủ yếu là tập trung nguồn lực cho phát triển kinh tế. Đồng thời, Mỹ
buộc phải thực hiện giảm cam kết với bên ngoài, rút quân đội khỏi
Đông Nam Á...; đàm phán với Liên Xô về các vấn đề vũ khí chiến
lược và bình thường hoá quan hệ với Liên Xô. Trong hoàn cảnh đó,
các đồng minh của Mỹ có những bước phát triển vượt bậc, Tây Âu và
Nhật Bản vươn lên trở thành các nền kinh tế hùng mạnh, hình thành 3
trung tâm kinh tế của thế giới, xác lập vị thế cạnh tranh với Mỹ. Trong
hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa, xuất hiện xu hướng giảm sự phụ
thuộc vào Mỹ, thậm chí là độc lập với Mỹ, nhất là trên lĩnh vực quan
hệ chính trị quốc tế.
9
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc và đặc biệt là sau sự thất bại của
Irắc trong chiến tranh vùng Vịnh, Tổng thống Mỹ George Bush tuyên
bố về trật tự thế giới một cực (cực đó là Mỹ). Tuy nhiên, mong muốn
về thế giới một cực của Tổng thống Bush đã không trở thành hiện
thực, bởi Mỹ không còn đủ sức mạnh để các nước, kể cả các nước
đồng minh chịu sự chỉ huy của Mỹ như trong thời kỳ chiến tranh lạnh.
Về kinh tế, vào thập kỷ 90, tổng sản phẩm quốc dân của Mỹ chỉ còn
chiếm từ 23-25% GDP thế giới (so với 40%, sau chiến tranh thế giới
lần thứ 2). Mặt khác, sau khi chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Liên Xô và
Đông Âu, các đồng minh Mỹ đều cho rằng mối đe dọa cộng sản đã
không còn nặng nề như trước, vì vậy, sự hấp dẫn về sức mạnh quân
sự, sức mạnh hạt nhân và sự bảo hộ của Mỹ cũng bị suy giảm đáng kể.
Tuy nhiên, tham vọng xác lập địa vị lãnh đạo thế giới của Mỹ vẫn rất
lớn. Trong tuyên bố nhậm chức ngày 20-1-1993, tân Tổng thống
B.Clintơn khẳng định lại mục tiêu nhất quán của nước Mỹ là sẵn sàng
lãnh đạo một thế giới đang bị thách thức ở khắp mọi nơi1.
Về quân sự, Mỹ bố trí một lực lượng lớn nhằm bảo đảm sẵn sàng
chiến đấu và tiếp tục gia hạn các hiệp ước an ninh với Nhật Bản, Hàn
Quốc, Philippin, Thái Lan, Ôxtrâylia và Niu Dilân.
Về kinh tế, Mỹ chủ trương thúc đẩy việc thành lập các tổ chức
kinh tế, thương mại như: NAFTA ở Bắc Mỹ, FTAA cho toàn châu Mỹ
và APEC cho châu Á - Thái Bình Dương. Thông qua các tổ chức này,
Mỹ muốn mở rộng thị trường khu vực cho hàng hoá và dịch vụ và
tăng cường ảnh hưởng của họ trong khu vực.
Khi tái đắc cử nhiệm kỳ hai, Tổng thống Mỹ B. Clintơn thực hiện
chuyến công du ra nước ngoài đầu tiên là châu Á - Thái Bình Dương.
Tại đó, Tổng thống Mỹ khẳng định, khu vực châu Á - Thái Bình
Dương có tầm quan trọng ngày càng tăng về chiến lược và kinh tế. Mỹ
1
Trong tuyên bố nhậm chức ngày 20-1-1993, B.Clintơn khẳng định lại mục tiêu
nhất quán của nước Mỹ là "Mỹ vẫn có trách nhiệm trên khắp thế giới... Dân tộc
chúng ta (Mỹ) sẵn sàng lãnh đạo một thế giới đang bị thách thức ở khắp mọi nơi"
(Viện Nghiên cứu bảo vệ hoà bình và an ninh vùng biển: Vấn đề an ninh ở khu
vực Đông Nam Á, Nxb Chính trị Quốc gia, H.1994, tr 35)
10
cam kết sẽ tiếp tục là một lực lượng duy trì hoà bình và ổn định tại
khu vực và duy trì khoảng 100.000 quân tại đây2.
Về Nhật Bản, vào những năm 80, Nhật Bản trở thành cường quốc
kinh tế đứng sau Mỹ. Năm 1992, kinh tế Nhật Bản bằng 60% tổng sản
phẩm kinh tế quốc dân của Mỹ; thu nhập quốc dân tính theo đầu người
của Nhật Bản khoảng 38.750 USD (Mỹ khoảng 25.900 USD); tài sản
nước ngoài của Nhật hơn 600 tỷ USD; Nhật là nước xuất khẩu tư bản,
và là chủ nợ lớn nhất thế giới; năm 1993, viện trợ phát triển (ODA)
của Nhật là 13 tỷ USD; Nhật là nước cung cấp viện trợ phát triển lớn
nhất thế giới. Thủ tướng Thái Lan cho rằng, Nhật Bản đã chiến thắng
trong cuộc chiến tranh kinh tế3.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, vai trò của Mỹ đối với khu vực bị suy
giảm, Nhật Bản tận dụng cơ hội này để thể hiện vị trí, vai trò độc lập
hơn với Mỹ và phương Tây trong việc giải quyết các vấn đề của khu
vực và quốc tế, như tham gia giải quyết vấn đề Campuchia; tham gia
chiến tranh vùng Vịnh; tích cực tham gia các hoạt động của Liên hợp
quốc và muốn giành chiếc ghế Uỷ viên Thường trực ở Hội đồng Bảo
an của tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới này.
Để thực hiện mục tiêu về chính trị và an ninh, Nhật Bản đặc biệt
chú ý tăng cường ảnh hưởng của họ đối với khu vực châu Á - Thái
Bình Dương thông qua quan hệ kinh tế thương mại, đầu tư và tăng
cường cải thiện quan hệ với các nước trong khu vực.
Tình hình một số nước khác, như: Ôxtrâylia, Canađa, Hàn Quốc
và các quốc gia thuộc tổ chức ASEAN,... trong chiến tranh lạnh, các
nước này bị lôi kéo vào cuộc đối đầu về ý thức hệ, và một số nước trở
thành đồng minh của Mỹ. Sau chiến tranh lạnh, cục diện thế giới thay
đổi tạo điều kiện thuận lợi cho các nước có nền kinh tế phát triển với
trình độ cao ngày càng có vị trí và vai trò lớn hơn trong quan hệ quốc
tế. Nhận thức được điều đó, các quốc gia tầm trung ở châu Á - Thái
Bình Dương tìm cách phát huy ảnh hưởng của mình trong công việc
của khu vực và tìm chỗ đứng độc lập hơn trong chính sách đối ngoại
2
3
Hoàng Anh: “Chiến lược của Mỹ đối với châu Á - Thái Bình Dương từ nay đến
năm 2000 và đầu thế kỷ XXI”, Nghiên cứu Quốc tế, (15), 12/1996, tr 24.
Lê Linh Lan: “Vai trò an ninh của Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh lạnh”, Nghiên
cứu Quốc tế, (4), 12/1995, tr 31.
11
với các nước lớn, đặc biệt là với Mỹ. Vai trò tích cực và quan trọng
của các nước tầm trung ở châu Á - Thái Bình Dương sau chiến tranh
lạnh thể hiện qua các sự kiện: Canađa, Ôxtrâylia nối lại viện trợ cho
Việt Nam trong năm 1990-1991, ngay cả khi Mỹ đang thi hành cấm
vận đối với Việt Nam; việc Ôxtrâylia đưa ra những sáng kiến cho giải
pháp về Campuchia; việc các nước đều tham gia ARF do ASEAN chủ
đạo bàn về an ninh châu Á - Thái Bình Dương...
Tình hình các nước xã hội chủ nghĩa
Về Liên Xô: Từ cuối thập kỷ 70, Liên Xô ngày càng gặp nhiều
khó khăn. Nền kinh tế Liên Xô lún sâu vào trì trệ, khủng hoảng và tụt
hậu về kinh tế, kỹ thuật so với các nước tư bản chủ nghĩa (Liên Xô lạc
hậu hơn các nước Phương Tây 15-20 năm). Trong khi đó, cuộc chạy
đua vũ trang và các chi phí quốc phòng mấy thập kỷ trước đó tiêu tốn
của Liên Xô hàng trăm tỉ đô la, càng làm cho kinh tế Liên Xô thêm
kiệt quệ.
Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (4-1985)
đề xướng “Cải tổ”, coi đây là quá trình cải tạo toàn diện, triệt để xã
hội Xô Viết trên cơ sở đường lối đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội.
Để cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đề ra chiến lược tăng tốc kinh tế
trên cơ sở khoa học kỹ thuật nhằm tăng gấp đôi GDP trong vòng
15 năm. Chiến lược này không thành công, vì tăng tốc kinh tế mà
không thay đổi mô hình, cơ cấu và cơ chế quản lý kinh tế, nên sản
xuất tiếp tục sa sút. Theo đề nghị của Goócbachốp, Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản Liên Xô, Hội nghị lần thứ 19, Uỷ ban Trung ương Đảng
Cộng sản Liên Xô (7-1988) thông qua phương án tổng thể cải tổ chính
trị với những nội dung căn bản như: công khai phê bình và tự phê bình
trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội; đẩy mạnh dân chủ hoá đời
sống xã hội... Trong thực tế, càng về sau chủ trương “công khai” trở
thành “những mưu đồ phủ nhận thành tựu lý luận và thực tiễn của 70
năm xây dựng chủ nghĩa xã hội; “Phê bình và tự phê bình” trở thành
phê phán những thế hệ tiền bối một cách không thương xót; “Đẩy
mạnh dân chủ hoá toàn diện” trở thành sự thoán quyền của một số
người trong giới chính trị; trong xã hội thì phát triển thành đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập... “Cải tổ để có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn”
đã làm tan rã Liên bang Xô Viết, sự biến mất của chủ nghĩa xã hội ở
12
Đông Âu”4. Đây là sự kiện đặc biệt của tình hình thế giới trong những
thập kỷ cuối của thế kỷ XX.
Về Trung Quốc, từ năm 1978, Trung Quốc thực hiện cải cách, mở
cửa. Trọng tâm của chính sách cải cách được xác định: phát triển kinh
tế là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân. Phục vụ cho chiến
lược phát triển kinh tế, trên lĩnh vực đối ngoại, Trung Quốc thực hiện
chính sách tranh thủ vốn, kỹ thuật của các nước phát triển, trong đó
đặc biệt là tranh thủ Mỹ, Nhật Bản và phương Tây. Từ năm 1983,
Trung Quốc thi hành chính sách đối ngoại mở cửa mạnh mẽ sang
phương Tây và coi trọng hơn việc quan hệ với các nước thuộc “Thế
giới thứ ba”, trong đó chú trọng cải thiện quan hệ với các nước Đông
Nam Á.
Tình hình thế giới từ cuối thập kỷ 80, tạo cơ hội quốc tế thuận lợi
để Trung Quốc đẩy mạnh thực hiện kế hoạch 4 hiện đại hoá. Đại hội
14 của Đảng Cộng sản Trung Quốc (1992) quyết định thực hiện chiến
lược "tăng tốc" do Đặng Tiểu Bình đề xướng, trong 5 năm sẽ đưa
Trung Quốc phát triển lên giai đoạn mới, phát huy vai trò nước lớn
của Trung Quốc đối với thế giới.
Điều đáng chú ý là cùng với sự phát triển nhanh chóng về kinh tế,
Trung Quốc tiến hành hiện đại hoá quốc phòng. Từ năm 1988-1993,
ngân sách quân sự của Trung Quốc tăng 98% và "chi phí quốc phòng
của Trung Quốc trong năm 1995 là 7,48 tỷ đô la, tăng 21% so với năm
1994, mức tăng này gấp hơn hai lần so với mức tăng chi ngân sách
nhà nước"5.
Trung Quốc rất coi trọng khu vực châu Á - Thái Bình Dương và
tích cực tham gia hội nhập các diễn đàn chính trị, kinh tế, an ninh khu
vực, bởi lẽ sự nghiệp mở cửa và 4 hiện đại hoá của Trung Quốc phụ
thuộc rất lớn vào vốn, khoa học - công nghệ, đầu tư và thị trường của
khu vực, trong đó đặc biệt là của Mỹ và Nhật Bản.
4
5
Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên): Đổi mới và phát triển ở Việt Nam-Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2008, tr17-18
Phạm Cao Phong: “Vài tư liệu về tình hình Trung Quốc năm 1995”, Nghiên cứu
Quốc tế, (4), 12/1995, tr 45.
13
Tình hình các nước xã hội chủ nghĩa khác: Vào thập kỷ 80, các
nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa (ngoài Liên Xô và Trung Quốc)
đều lâm vào khủng hoảng: nền kinh tế lạc hậu, trì trệ, năng suất lao
động thấp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, tình hình chính trị xã hội mất ổn định; các thế lực đối lập tăng cường hoạt động; quan hệ
giữa các nước xã hội chủ nghĩa phát sinh nhiều phức tạp, bất đồng. Từ
cuối thập kỷ 80, cuộc khủng hoảng trở nên sâu sắc, dẫn đến sự tan rã
chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu (Ba Lan: tháng 6-1989; Tiệp
Khắc: tháng 12-1989; Bun ga ri: tháng 2-1990; Cộng hoà Dân chủ
Đức: tháng 3-1990; Rumani: tháng 12-1990). Đến đầu thập kỷ 90, chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ (tháng 12-1991).
Từ những khó khăn dẫn đến tan rã của hệ thống các nước xã hội
chủ nghĩa, trong phong trào cộng sản quốc tế nảy sinh các ý kiến khác
nhau, thậm chí mâu thuẫn về phương hướng và mục tiêu đấu tranh.
Đặc biệt, một số Đảng cộng sản ở Tây Bắc Âu có xu hướng muốn xây
dựng mô hình riêng là “chủ nghĩa cộng sản châu Âu”.
Tình hình ASEAN
Từ cuối thập kỷ 80, trước xu thế khu vực hoá, quốc tế hoá và
chạy đua về phát triển kinh tế, ASEAN trong khi vẫn coi trọng hợp tác
an ninh, chính trị đã chú trọng hơn đến hợp tác kinh tế. ASEAN
khuyến khích tìm đối tác bên ngoài, nhất là đối với các cường quốc
kinh tế và những tổ chức kinh tế lớn của thế giới. Sự hợp tác của
ASEAN ngày càng thoát ra khỏi mặc cảm về ý thức hệ.
Hội nghị cấp cao lần thứ tư của ASEAN tổ chức tại Singapore
(1-1992), đánh dấu bước ngoặt quan trọng về hợp tác của Hiệp hội các
nước Đông Nam Á, với việc chuyển mạnh sang hợp tác kinh tế trong
nội bộ ASEAN và với bên ngoài. Hội nghị quyết định thành lập Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và ký Hiệp định khung về hợp
tác kinh tế... Trong quan hệ với khu vực, ASEAN kêu gọi các nước
Đông Nam Á tham dự và ký kết Hiệp ước Bali. Đối với ngoài khu
vực, các nước ASEAN chủ trương tăng cường hợp tác với các nước
đối thoại và các tổ chức quốc tế, phát triển cơ chế mới thúc đẩy hơn
nữa quan hệ kinh tế với bên ngoài. Sự nỗ lực phấn đấu của khối
ASEAN đưa đến những kết quả to lớn: "Kim ngạch thương mại giữa
các nước ASEAN tăng từ 10 tỷ đô la Mỹ năm 1967 lên tới 620 tỷ đô la
14
Mỹ vào năm 1995... nền kinh tế của các nước thành viên có sự chuyển
đổi. Một số nước đang thực hiện công nghiệp hoá với tốc độ cao trong
hoàn cảnh Đông Nam Á là một khu vực có tốc độ phát triển cao của
thế giới6.
Cùng với việc tăng cường hợp tác khu vực, ASEAN cũng rất coi
trọng việc mở rộng quan hệ với các tổ chức ngoài khu vực. Năm 1989,
ASEAN tham gia thành lập Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương (APEC) và là một trong những thành viên trụ cột của tổ
chức này; ngày 25-7-1994, theo sáng kiến của ASEAN, tại Băng Cốc
diễn ra cuộc đối thoại đầu tiên của Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN
(ARF) với sự tham gia của đại biểu 17 nước và liên minh châu Âu,
nhằm trao đổi ý kiến về tình hình an ninh ở châu Á - Thái Bình
Dương; tháng 3-1996, ASEAN tham gia cuộc gặp gỡ lần thứ nhất
Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM). Sự chủ động tham gia vào các tổ
chức trên đã nâng cao vị thế của Hiệp hội các nước Đông Nam Á
trong cộng đồng quốc tế.
Các xu thế quốc tế
Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá: Dưới những góc độ tiếp cận
khác nhau, có nhiều quan niệm về toàn cầu hoá*. Dưới góc độ kinh tế,
toàn cầu hoá là quá trình phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ kinh
tế quốc tế vượt khỏi biên giới quốc gia và phạm vi từng khu vực, lan
toả ra phạm vi toàn cầu, trong đó hàng hoá, vốn, tiền tệ, thông tin, lao
động... vận động thông thoáng; sự phân công lao động mang tính quốc
tế; mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đan xen nhau, hình
thành mạng lưới quan hệ đa tuyến, vận hành theo các “luật chơi”
chung được hình thành qua hợp tác và đấu tranh giữa các thành viên
của cộng đồng quốc tế7. Toàn cầu hoá kinh tế, xét về bản chất, là quá
trình gia tăng mạnh mẽ của những mối liên hệ, sự phụ thuộc lẫn nhau,
tác động qua lại của các quốc gia, khu vực trên lĩnh vực kinh tế.
6
*
7
Phạm Cao Phong: “ASEAN hướng về tương lai”, Nghiên cứu quốc tế, (4), 8/1997, tr19
Dưới góc độ triết học có thể coi toàn cầu hoá là xu thế quốc tế nhằm liên kết, hợp
tác, trao đổi những giá trị, những hoạt động, về chính trị, kinh tế, thương mại,
khoa học kỹ thuật và văn hoá trên phạm vi khu vực, thế giới.
Ban chỉ đạo các lớp nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX:
Đề cương các bài giảng: Nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
IX, H. 2001, tr102.
15
Tính khách quan của toàn cầu hoá bắt nguồn từ sự phát triển của
lực lượng sản xuất, của hàng hoá và dịch vụ đòi hỏi phải phá bỏ các
rào cản về thị trường; sự phát triển của khoa học và công nghệ làm
cho nền sản xuất vật chất có điều kiện vượt biên giới quốc gia và khu
vực; sự phát triển sản xuất đòi hỏi phân công lao động sâu rộng, gia
tăng hợp tác phát triển giữa các nền kinh tế; nhiều vấn đề toàn cầu
xuất hiện như, tội phạm, ma tuý, dịch bệnh... đòi hỏi phải hợp tác toàn
cầu mới giải quyết được.
Toàn cầu hoá, khu vực hoá về kinh tế phản ánh bản chất của nền
kinh tế thị trường yêu cầu ngày càng cao về độ mở cửa trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh, không bị giới hạn bởi các biên giới quốc
gia, chủng tộc, tôn giáo và không phân biệt các nước có chế độ chính
trị - xã hội khác nhau. Trên cơ sở đó thúc đẩy hình thái quan hệ liên
kết, hợp tác và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia dân tộc.
Từ giữa thập kỷ 80, có hai nhân tố rất quan trọng tác động trực
tiếp, mạnh mẽ đến sự gia tăng tốc độ và chiều sâu của quá trình toàn
cầu hoá và khu vực hoá.
Trước hết, sự đổi mới tư duy về lợi ích dân tộc, quan hệ quốc tế,
an ninh và phát triển của các quốc gia, về nhận thức vai trò, vị trí của
kinh tế trong việc xác lập vị thế của các quốc gia dân tộc. Tiềm lực và
sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia có vai trò quan trọng trong việc
giữ vững nền độc lập dân tộc và ảnh hưởng trực tiếp đến vị thế mỗi
nước trong cộng đồng quốc tế. Các nước đều coi chiến lược mở cửa
với bên ngoài là một trong những động lực chủ yếu để phát triển kinh
tế. Nhu cầu liên kết, hợp tác để phát triển ngày càng gia tăng.
Thứ hai, cục diện chiến tranh lạnh kết thúc, các nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung tan vỡ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu, chuyển sang nền kinh tế thị trường mở cửa, hướng ngoại.
Các nước xã hội chủ nghĩa khác như Trung Quốc, Việt Nam... tiến
hành cải cách, đổi mới, chuyển từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang
xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (Trung Quốc) và nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (Việt Nam). Như vậy,
phạm vi của kinh tế thị trường được mở rộng hơn so với thời kỳ chiến
tranh lạnh, đã đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá.
16
Thời kỳ chiến tranh lạnh, liên kết hợp tác khu vực chủ yếu giữa
các nước có cùng chế độ chính trị dưới hình thức liên minh chính trị quân sự. Từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, xu hướng hợp tác khu
vực không phân biệt chế độ chính trị - xã hội ngày càng nổi trội. Nội
dung của hợp tác khu vực được mở rộng toàn diện hơn, trong đó hợp
tác kinh tế, kỹ thuật, giao lưu văn hoá trở thành xu hướng chủ đạo.
Đến thập kỷ 90, thế kỷ XX, toàn cầu hoá và khu vực hoá phát
triển rất đa dạng, với các loại hình quy mô khác nhau, từ liên kết hợp
tác tiểu khu vực, liên châu lục, cho đến các tổ chức kinh tế, thương
mại toàn cầu.
Hội nhập khu vực và quốc tế là sự tham gia của một quốc gia hoặc
vùng lãnh thổ vào các tổ chức khu vực hoặc quốc tế. Các nước lớn, nhỏ,
giàu, nghèo; các nước phát triển, đang phát triển... ở những mức độ
khác nhau đều tìm thấy lợi ích của quốc gia mình khi tham gia vào quá
trình hội nhập khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh lợi ích, các
quốc gia cũng phải đối mặt với những khó khăn, thách thức to lớn.
Những tác động tích cực của toàn cầu hoá được thể hiện: Trên cơ
sở thị trường mở rộng, hàng rào thuế quan và phi thuế quan thuyên
giảm, giao lưu hàng hoá thông thoáng hơn, trao đổi hàng hoá tăng
mạnh, thúc đẩy sản xuất của các nước phát triển; nguồn vốn, khoa học
công nghệ, kinh nghiệm quản lý cùng các hình thức đầu tư, hợp tác
khác mang lại lợi ích cho các bên tham gia hợp tác; về chính trị, toàn
cầu hoá làm tăng tính tuỳ thuộc lẫn nhau, nâng cao sự hiểu biết lẫn
nhau, thuận lợi cho việc xây dựng môi trường hoà bình, hợp tác song
phương và đa phương. Nhìn chung, toàn cầu hoá tạo điều kiện phát
huy hiệu quả nguồn lực trong nước và khai thác, tận dụng các nguồn
lực bên ngoài phục vụ cho phát triển của các quốc gia.
Những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá, xuất phát từ nguyên
nhân các nước công nghiệp phát triển thao túng quá trình toàn cầu hoá
tạo nên sự phân cực giữa nước giàu và nước nghèo. Theo Báo cáo về
sự phát triển nhân loại 1999 của Chương trình phát triển Liên hợp
quốc (UNDP) thì, dân số ở 85 quốc gia trên thế giới có mức sống thấp
hơn cách đây 10 năm... Trong khi các nước công nghiệp phát triển với
khoảng 1,2 tỷ người chiếm 1/5 dân số thế giới, hiện đang chiếm 86%
GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/3 đầu tư trực tiếp nước
17
ngoài8; nền kinh tế toàn cầu hoá là nền kinh tế rất dễ bị biến động. Sự
biến động, nhất là những biến động tiêu cực có thể lây lan rất nhanh ra
phạm vi toàn cầu, gây thiệt hại lớn cho các nước đang phát triển; việc
tự do hoá thương mại đem lại lợi ích lớn hơn cho các nước phát triển
vì hàng hoá của họ chất lượng cao, giá thành hạ, từ đó tạo thua thiệt
cho những nước mà nền kinh tế khả năng cạnh tranh yếu; toàn cầu hoá
kéo theo các tệ nạn như, tội phạm xuyên quốc gia, truyền bá văn hoá
không lành mạnh...
Toàn cầu hoá tác động sâu sắc đến quan hệ chính trị quốc tế, chiến
lược và chính sách đối ngoại của các nước, trên các khía cạnh như:
- Thúc đẩy xu hướng thực hiện chính sách mở cửa với bên ngoài
để tăng cường xuất, nhập khẩu, tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý để phát triển.
- Thúc đẩy các nước mở rộng quan hệ song phương và đa phương
trên nhiều tầng nấc: tiểu khu vực, khu vực, liên châu lục và toàn cầu.
- Gia tăng tính “tuỳ thuộc lẫn nhau” giữa các quốc gia và nền
kinh tế, tăng cường sự hiểu biết giữa các quốc gia, dân tộc trên nhiều
lĩnh vực.
Trước xu thế toàn cầu hoá, ở các nước đang phát triển diễn ra ba
xu hướng:
Một là, cường điệu hoá mặt tích cực của toàn cầu hoá, coi đây là
liều thuốc vạn năng cho sự phát triển của quốc gia;
Hai là, chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực, khó khăn, thách thức, từ đó tìm
cách né tránh, quay lưng lại với toàn cầu hoá.
Ba là, “chủ động hội nhập” trên cơ sở nhận thức sâu sắc những
tác động tích cực của xu thế khách quan này cùng những tác động tiêu
cực của nó để tìm cách hạn chế.
Thực tế cho thấy, các nước muốn tránh khỏi nguy cơ bị biệt lập,
tụt hậu, kém phát triển thì phải tích cực, chủ động tham gia hội nhập
khu vực và quốc tế, đồng thời phải có bản lĩnh cân nhắc một cách cẩn
trọng các yếu tố bất lợi để vượt qua.
8
Ban chỉ đạo các lớp nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX:
Đề cương các bài giảng: Nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
IX, H. 2001, tr107.
18
Các xu thế quốc tế khác: Trước những diễn biến mới của tình hình
thế giới, các quốc gia thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại,
trong đó nổi bật là nâng cao ý thức độc lập, tự chủ và tự lực tự cường,
chủ động trong tìm kiếm con đường phát triển của quốc gia mình.
Thời kỳ chiến tranh lạnh, thế giới tồn tại những điểm nóng,
những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp... Sau chiến tranh
lạnh tình trạng này vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hoà
bình, hợp tác và phát triển. Những vấn đề như ô nhiễm môi trường,
buôn bán ma tuý, hiểm hoạ AIDS và khủng bố quốc tế, đều ảnh hưởng
đến an ninh, phát triển của các nước, không kể là nước lớn hay nhỏ.
Để giải quyết những vấn đề toàn cầu, các quốc gia phải nỗ lực hợp tác
cùng hành động; các nước phải đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện
chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế; mở rộng và
tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát triển để tranh thủ vốn,
kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ chức,
quản lý sản xuất kinh doanh.
Sau chiến tranh lạnh, các nước đổi mới tư duy về quan niệm sức
mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào sức
mạnh quân sự bằng các tiêu chí tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế
và khoa học công nghệ được đặt ở vị trí quan trọng nổi bật. Vì vậy,
cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia chuyển dần từ hình thức chạy đua
vũ trang, tăng cường sức mạnh quân sự trong chiến tranh lạnh sang
hình thức cạnh tranh sức mạnh tổng hợp quốc gia. Quan hệ quốc tế từ
thế đối đầu chuyển dần sang đối thoại, hợp tác và cạnh tranh.
Các quốc gia ưu tiên phát triển kinh tế, chạy đua về kinh tế. Kinh
tế trở thành nhân tố có ý nghĩa quyết định sức mạnh tổng hợp của mỗi
nước. Các nước đang phát triển (nước vừa và nhỏ) tăng cường thực
hiện chính sách đối ngoại theo hướng độc lập, đa phương hóa, đa dạng
hoá, coi trọng việc cải thiện và phát triển quan hệ với các nước láng
giềng, khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước lớn và các
trung tâm chính trị - kinh tế quốc tế.
Đặc điểm và xu thế quốc tế nêu trên đã tác động đến chính sách
đối nội và đối ngoại của các nước, trong đó có Việt Nam.
19
Yêu cầu đổi mới về đối ngoại của Việt Nam
- Yêu cầu phá thế bị bao vây cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị
Từ sau năm 1975, đặc biệt từ khi xảy ra sự kiện Campuchia (năm
1979), Việt Nam bị nhiều nước bao vây, phong tỏa về kinh tế, về
chính trị, gần như bị cô lập trong quan hệ với khu vực và quốc tế.
Ông Furuta Motoo, giáo sư người Nhật Bản, nhận xét về thời kỳ
này là: “Sau khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam rơi vào “thời kỳ lạnh
giá”... hình ảnh Việt Nam phần nào bị phai mờ đi, và lúc bấy giờ chỉ
có rất ít người còn giữ được mối quan tâm đến Việt Nam. Ngay cả
trong giới khoa học, nếu có ai đề nghị tổ chức một hội nghị về Việt
Nam cũng thường bị coi là “thích Việt Nam”9.
Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) nhận định, các thế lực thù
địch “tiến hành một kiểu chiến tranh phá hoại đối với Việt Nam trên
các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá bằng nhiều lực lượng
khác nhau và nhiều thủ đoạn rất thâm độc... Bằng chiến tranh tâm lý,
chiến tranh gián điệp, chúng ra sức phá hoại ta về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, âm mưu chia rẽ các dân tộc, chia rẽ nhân dân với Đảng,
ngấm ngầm nhen nhóm các lực lượng phản động, tổ chức các hoạt
động chống đối hòng gây bạo loạn và lật đổ… Chúng tìm mọi cách
bôi nhọ hình ảnh của Việt Nam hòng cô lập nước ta trên trường quốc
tế... Như vậy, đất nước ta đang ở trong tình thế vừa có hoà bình vừa
phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt... đồng
thời, phải sẵn sàng đối phó với tình huống địch có thể gây chiến tranh
xâm lược quy mô lớn”10
Trong hoàn cảnh đó, vấn đề giải toả tình trạng căng thẳng, đối
đầu, thù địch, nhằm tiến tới bình thường hóa quan hệ với các nước, tạo
môi trường khu vực thuận lợi để xây dựng đất nước là yêu cầu cấp
bách đối với Việt Nam.
- Yêu cầu chống tụt hậu về kinh tế
Sau năm 1975, do sự tàn phá nặng nề của chiến tranh, nền kinh tế
Việt Nam vốn đã nghèo nàn, lạc hậu lại càng thêm khó khăn. Trong
khi chưa khắc phục hết hậu quả chiến tranh chống Mỹ, lại xảy ra hai
9
10
Furuta Motoo, "Thời đại mới của quan hệ Việt - Nhật", Tạp chí Nghiên cứu Nhật
Bản, (1), 1998, tr9.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 43, Nxb Chính trị Quốc
gia, H 2006, tr 53.
20
cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và phía Tây Nam. Những khó
khăn khách quan cùng với khuyết điểm chủ quan do duy trì quá lâu
cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu làm cho nền kinh tế Việt
Nam lâm vào khủng hoảng “Giai đoạn 1976-1980, tốc độ tăng
trưởng bình quân hàng năm của tổng sản phẩm xã hội chỉ đạt 1,4%,
thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,4%, trong khi đó dân số tăng với tốc độ
bình quân 2,24%/năm. Tình hình đó đã khiến cho đời sống dân cư
thuộc mọi tầng lớp trong xã hội đều hết sức khó khăn (vào những
năm 80, thế kỷ XX, cứ 10 dân Việt Nam thì có 7 người sống trong
tình trạng nghèo đói)”11.
Theo đánh giá của Đại hội Đảng lần thứ V (3-1982), thu nhập
quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng xã hội, một phần tiêu dùng xã
hội phải dựa vào vay và viện trợ12.
Trong những năm đầu đổi mới, mặc dù đã đạt được những thành
tựu quan trọng trên lĩnh vực kinh tế, nhưng kinh tế Việt Nam vẫn là
nền kinh tế có trình độ phát triển thấp; cơ sở hạ tầng và dịch vụ ở
dưới mức trung bình của các nước đang phát triển; trong các doanh
nghiệp, trình độ thiết bị, công nghệ phần lớn lạc hậu, năng suất lao
động thấp, chi phí sản xuất cao, chất lượng sản phẩm không đủ sức
cạnh tranh ngay tại thị trường trong nước; việc sử dụng các nguồn
lực như đất đai, tài nguyên và lao động kém hiệu quả. Khoảng cách
về trình độ phát triển của Việt Nam so với các nước trong khu vực
chậm được thu hẹp.
Tác giả bài viết “Việt Nam - Nửa chặng đường từ đói nghèo đến
giàu mạnh” đăng trên tạp chí “The Economist” số 24-4-2008 nhận xét
rằng: “Trong giữa những năm 1980, với chính sách tập thể hoá nông
nghiệp sai lầm khủng khiếp, Việt Nam đã ở bên bờ vực của nghèo
đói”13. Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Việt Nam đã diễn ra vào
cuối thập niên 70, và lâm vào mức độ trầm trọng giữa thập niên 80 của
thế kỷ trước.
11
12
13
Lê Thị Quế: “Từ tư duy đến thực tiễn 15 năm “lột xác” của nền kinh tế Việt Nam
(1986-2001)”, Nghiên cứu kinh tế, số 354, (11-2007), tr60.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, tập 1,
Nxb Sự thật, H1982, tr35
Thông tấn xã Việt Nam: tài liệu tham khảo, ngày 7/5/2008, tr1.
21
Báo cáo Chính trị tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá
VII của Đảng (1-1994) coi “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới” là một trong bốn thách
thức lớn nhất đối với cách mạng Việt Nam. Đại hội Đảng lần thứ VIII
(6-1996) tiếp tục nhấn mạnh “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm
xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh
quyết liệt”14.
Theo “World Development Indicators (các chỉ số phát triển của
thế giới) của WB, thì: Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP tính theo đầu
người năm 1997 so với năm 1991 của một số nước như: Singapore
2,58 lần và 2,48 lần; Trung Quốc 2,48 lần và 2,32 lần; Malaysia 2,14 lần
và 1,81 lần; Indonesia 1,99 lần và 1,80 lần; Philippin 1,91 lần và 1,62 lần;
Thái Lan 1,85 lần và 1,73 lần; Việt Nam 1,60 lần và 1,44 lần.
Năm 1997 trong gần 200 nước trên thế giới, Việt Nam đứng thứ
62 về GDP và 186 về GDP tính theo đầu người (nếu tính theo phương
pháp so sánh giá cả thì đứng thứ 167).
Kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người (bằng USD) năm 1997
của Việt Nam là 149, của Indonesia là 316; của Philippin là 545, của
Thái Lan là 1.087, của Malaysia là 4.222 và của Singapore là
52.484”15.
Để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam với các quốc
gia khác, ngoài việc phát huy tối đa các nguồn lực trong nước, cần
phải tranh thủ các nguồn lực bên ngoài thông qua hợp tác quốc tế song
và đa phương.
Tóm lại, sự chuyển biến của tình hình thế giới, xu thế quốc tế, và
những nhiệm vụ đặt ra từ thực tiễn Việt Nam trong nửa đầu thập kỷ
80, thế kỷ XX, đặt ra hai yêu cầu cấp bách cần phải giải quyết:
Một là, phải giải toả tình trạng bị bao vây, cấm vận, thiết lập và
mở rộng quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước, tạo môi trường
khu vực thuận lợi để xây dựng, phát triển đất nước.
14
15
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb
Chính trị Quốc gia, H.1996.
Nguyễn Mại: "Hội nhập kinh tế với thế giới: vấn đề và giải pháp", Tạp chí Cộng
sản, số 5, 3-2000, tr21.
22
Hai là, phải đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam với các quốc gia khu
vực, trong hoàn cảnh các nguồn viện trợ, đầu tư từ các nước xã hội
chủ nghĩa không còn.
Để giải quyết hai yêu cầu trên, cần thực hiện hệ thống giải pháp
đồng bộ, toàn diện, trong đó có những vấn đề thuộc lĩnh vực đối
ngoại, như: 1) cần đổi mới nhận thức về quan hệ chính trị quốc tế, để
có những giải pháp chính trị đối ngoại phù hợp, nhằm giải tỏa tình
trạng bị bao vây, cô lập, mở cửa hợp tác với bên ngoài; 2) phải mở
rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước, không phân biệt về ý thức
hệ và thể chế chính trị - xã hội, để tranh thủ các nguồn lực từ bên
ngoài phục vụ xây dựng, phát triển nền kinh tế nước nhà.
Đó là những yêu cầu khách quan và chủ quan đòi hỏi Việt Nam
phải đổi mới chủ trương, điều chỉnh chiến lược và hoạt động đối ngoại
thích ứng với tình hình trong nước và quốc tế.
I.1.2. Chủ trương đối ngoại rộng mở, xây dựng, phát triển quan hệ song
phương và đa phương
Từ tư duy đối ngoại nặng về ý thức hệ, sang tư duy đối ngoại
rộng mở (1986-1990)
Tháng 12-1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
họp. Đây là thời điểm Việt Nam đang đối mặt với những khó khăn to
lớn cả về đối nội và đối ngoại. Nhận định về tình hình thế giới và xu
thế quốc tế, Báo cáo chính trị tại Đại hội cho rằng: Các lực lượng cách
mạng của thời đại đang không ngừng mạnh lên và ở thế chủ động, tiến
công. Lực lượng mọi mặt của hệ thống xã hội chủ nghĩa, do Liên Xô
làm trụ cột, ngày càng được tăng cường. Hệ thống xã hội chủ nghĩa
tiến vào giai đoạn phát triển mới với chất lượng mới. Những thành tựu
mọi mặt của cộng đồng xã hội chủ nghĩa, là nhân tố quyết định thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội trong cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống chính
trị - xã hội đối lập trên thế giới16. Nhận thức trên đây chưa phản ánh
đúng diễn biến phức tạp của công cuộc cải cách và cải tổ ở các nước
xã hội chủ nghĩa (thực tế thì, công cuộc cải tổ, cải cách ở các nước xã
16
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb
Sự thật, H.1987, Tr33.
23
hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô đang đi vào bế tắc, khủng hoảng
kinh tế, chính trị ở các nước này ngày càng nghiêm trọng); đồng thời
cũng chưa lường hết những khó khăn của phong trào Cộng sản quốc tế
giữa thập kỷ 80.
Tuy nhiên, khi nhận định về tình hình thế giới và xu thế quốc tế,
Đại hội VI đã thể hiện quan điểm mới, như cho rằng: cuộc cách mạng
khoa học - kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy sự hình thành thị
trường thế giới, mà trong đó hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa và xã
hội chủ nghĩa vì yêu cầu phát triển nên phải hợp tác với nhau nhưng
trong trạng thái đấu tranh, cạnh tranh quyết liệt; cuộc đấu tranh trên
lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa chính trị ngày càng quan trọng đối với kết
cục của cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống; giữa các nước có chế độ xã
hội khác nhau, sự lựa chọn duy nhất đúng đắn là thi đua về kinh tế, về
lối sống17.
So với nhận định của Đại hội V18, thì ở Đại hội VI nhận thức của
Đảng đã phản ánh sát hơn với sự vận động của quan hệ chính trị quốc
tế đương đại. Sự đổi mới tư duy này đặt cơ sở cho việc hoạch định
đường lối, chủ trương đối ngoại phù hợp hơn, thích ứng hơn với tình
hình thế giới - có thể coi đây là bước khởi đầu đổi mới tư duy của
Đảng về quan hệ chính trị quốc tế.
Khi bàn về "bước khởi đầu" này, nhà nghiên cứu nước ngoài
Eero Palmujoki đưa ra nhận xét rằng, Việt Nam đã “xoá bỏ một số
khái niệm cũ, như “ai thắng ai” và “ba dòng thác cách mạng”, đưa
nhiều thuật ngữ mới... Những cụm từ then chốt mới này là “cách mạng
khoa học kỹ thuật thế giới”, “sự tuỳ thuộc” hay sự phụ thuộc lẫn nhau,
17
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb
Sự thật, H 1987, tr35-37.
18
Trước đó, nhận định của Đảng về tình hình thế giới ở Đại hội lần thứ V (1982) là
“sau thất bại của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, cách mạng thế giới bước vào một thời
kỳ phát triển mới. Ba dòng thác cách mạng của thời đại lớn mạnh vượt bậc, kết
thành một sức mạnh hết sức to lớn, đã giành được những thắng lợi rực rỡ trong
cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội…Với
Liên Xô là trụ cột, hệ thống xã hội chủ nhĩa ngày càng phát huy mạnh mẽ tác
dụng là nhân tố quyết định chiều hướng phát triển của xã hội loài người, là thành
trì vững chắc của hoà bình, là chỗ dựa tin cậy cho cuộc đấu tranh cách mạng của
nhân dân thế giới”.
24
“xu thế quốc tế hoá” và một trật tự quốc tế”19. Ý nghĩa sâu xa của
nhận xét trên không dừng lại ở "xoá bỏ một số khái niệm cũ", "đưa
nhiều thuật ngữ mới" mà phản ánh một vấn đề rất lớn - sự chuyển biến
từ nhận thức về thế giới trên nền tảng ý thức hệ sang tư duy dựa trên
nền tảng thực tiễn.
Nhiệm vụ và chính sách đối ngoại được Đại hội VI xác định là:
Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn
đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững
hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt
giữa ba nước Đông Dương, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác
toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa,
tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Tăng cường đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn
là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Phát triển và củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông
Dương, đoàn kết và tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi nước, hợp
tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là quy
luật sống còn và phát triển của cả ba dân tộc anh em.
Tiếp tục tăng cường quan hệ hữu nghị và sự hợp tác với các nước
thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế; mở rộng quan hệ với các nước
xã hội chủ nghĩa anh em khác.
Kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và hữu nghị; ủng
hộ chính sách cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị
và xã hội khác nhau.
Sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết
các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hoà bình, xây
dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và hợp tác.
Chủ trương tăng cường và mở rộng quan hệ hữu nghị với các
nước phương Tây trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi20.
19
20
Edited by, Carlyle A. Thayer, Ramses Amer: Vietnamese Foreign Policy in
Transition, Institute of Southeast Asian Studies, tr31.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb
Sự thật, H.1987, Tr99-108.
25