Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Thị trường tài chính Mỹ và bài học kinh nghiệm cho việc phát triển thị trường tài chính Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.57 KB, 105 trang )

Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
LỜI MỞ ĐẦU
Trong tiến trình đổi mới, cùng với việc tự do hoá giá cả và ngày càng hoàn
thiện thị trường hàng hoá - dịch vụ, nước ta cũng đã từng bước hình thành và
phát triển các thị trường nhân tố sản xuất như thị trường lao động, thị trường
đất đai và bất động sản, thị trường tài chính, thị trường công nghệ. Đây là
những tiền đề hết sức quan trọng tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các
thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng, đóng góp ngày càng lớn hơn cho
sự nghiệp phát triển đất nước.
Trong các thị trường nhân tố sản xuất, thị trường tài chính giữ một vai trò
đặc biệt. Thị trường tài chính có ý nghĩa quyết định đến việc điều tiết tiết kiệm
và phân bổ các nguồn vốn một cách hiệu quả. Thị trường tài chính phát triển và
lành mạnh là một nhân tố cần thiết đảm bảo khả năng cạnh tranh của nền kinh
tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển thì càng cần có
một thị trường tài chính hoàn chỉnh, hiện đại và an toàn.
Mỹ là một trong những nước có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới và
sớm đi tiên phong trong nhiều lĩnh vực, đặt biệt là lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Hoạt động trên thị trường tài chính Mỹ luôn diễn ra sôi động và được thể hiện
qua những phương tiện truyền tin tối tân hiện đại nhất. Không chỉ có các nhà
kinh doanh, nhà đầu tư, những người làm ăn lớn mà gần như tất cả người dân
Mỹ đều quan tâm tới những thông tin trên thị trường tài chính và tiếp cận với
các vấn đề về lãi suất, trái tức, cổ tức, giá cả cổ phiếu, tỷ giá hối đoái, hàng
ngày, hàng giờ.
Hòa cùng với sự phát triển của thế giới, Việt Nam cũng đang tập trung
tiến hành đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, trong đó
việc nghiên cứu để phát triển thị trường tài chính là một nhiệm vụ quan trọng.
Một nền kinh tế muốn phát triển thì các dòng vốn phải được lưu thông đều đặn
và liên tục. Chúng ta đã và đang còn bị tụt hậu rất nhiều so với trình độ phát
1


Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
triển của thế giới, nhưng chúng ta lại có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước
đi trước. Mặc dù có nhiều khác biệt về điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội giữa
Việt Nam và Mỹ nhưng chính những thành công trên thị trường tài chính Mỹ
và lịch sử phát triển lâu dài của nó cùng với rất nhiều những bài học kinh
nghiệm quý báu đã có sức thu hút lớn đối với những người đang quan tâm tìm
hiểu vấn đề này. Đề tài “Thị trường tài chính Mỹ và bài học kinh nghiệm cho việc
phát triển thị trường tài chính Việt Nam” đã lần theo những hướng đi ấy. Hy
vọng từ việc nghiên cứu và tìm hiểu thị trường tài chính Mỹ, chúng ta có thể
đúc kết ra những bài học kinh nghiệm bổ ích cho Việt Nam, tiếp tục đẩy mạnh
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Khóa luận bao gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về thị trường tài chính
Chương II: Thực trạng hoạt động thị trường tài chính Mỹ
Chương III: Những bài học kinh nghiệm cho việc phát triển thị
trường tài chính Việt Nam
Đây là một đề tài có phạm vi rộng lớn, nhưng trong giới hạn của một đề
tài khoá luận tốt nghiệp, tác giả chỉ đi sâu khai thác một số khía cạnh điển hình
trên thị trường tài chính Mỹ và đúc rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết
nhất cho việc phát triển thị trường tài chính Việt Nam.
Thông qua đây, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới
Th.S Đặng Thị Nhàn, người đã đưa ra nhiều ý kiến quý báu và tận tình hướng
dẫn để tác giả có thể hoàn thành một cách tốt nhất khóa luận này. Đồng thời tác
giả cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của TS Lê Quốc Lý, Vụ
Tài chính Tiền tệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Bài khóa luận này chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót vì vậy tác giả rất
mong nhận được sự góp ý, đánh giá của các thầy cô và bạn đọc về khóa luận để
2

Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
vấn đề thị trường tài chính và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam được mở
rộng hơn, và sớm có tác dụng thiết thực đối với nền kinh tế nước nhà.
3
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
I. KHÁI NIỆM THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
1. Khái niệm
Thị trường tài chính là thị trường trong đó vốn được chuyển từ
những người hiện có vốn dư thừa sang những người thiếu vốn.
Nền kinh tế nào cũng đều có nhu cầu to lớn về vận hành và phát triển kinh
tế. Vậy thì, vốn lấy từ đâu ra? Nói chung, vốn lấy từ ba nguồn: Nhà nước - chủ
nhân của doanh nghiệp quốc doanh cấp vốn cho các xí nghiệp của mình, cho
các doanh nghiệp đó vay tiền và đảm bảo sự tăng trưởng của chúng; Hệ thống
ngân hàng và các định chế tài chính - những cơ quan này chấp thuận cho các
doanh nghiệp vay với những điều kiện nhất định; Qua trung gian thị trường tài
chính - một công cụ hết sức quan trọng của nền kinh tế thị trường về phương
diện cấp vốn.
Một vấn đề được nhiều người thừa nhận là nền kinh tế của các nước công
nghiệp hóa đã “cất cánh và bay cao nhờ đôi cánh ngân hàng”. Thị trường tài
chính cấp vốn cho nền kinh tế bằng hai cách: tăng tư bản và cho vay vốn. Vậy
điều này diễn ra như thế nào?
Một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường bắt đầu vận hành được chủ
yếu nhờ số vốn đóng góp ban đầu của các “cổ đông” sáng lập. Dần dần doanh
nghiệp phát triển, ăn nên làm ra, doanh nghiệp cần thêm vốn để mở rộng sản
xuất kinh doanh. Có thể lúc đầu bằng tài sản của mình và các khoản lợi nhuận

thu được do doanh nghiệp trả, các cổ đông sáng lập có thể góp vốn thêm để
doanh nghiệp phát triển. Nhưng rồi đến một lúc nào đó khi nhu cầu vốn lớn
mãi lên họ sẽ không còn đủ khả năng theo kịp tốc độ tăng trưởng đó. Cơ cấu tài
chính doanh nghiệp sẽ mất cân đối nghĩa là hoặc các khoản tín dụng ngắn hạn
đã vượt quá xa nhu cầu cấp vốn lưu động, hoặc vốn tự có chỉ còn đủ cấp một
phần nhỏ cho kinh doanh, trong khi đó các khoản công ty cho vay không dễ gì
4
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
thu hồi về được. Doanh nghiệp có thể bị đe dọa phá sản! Trong tình huống này,
một khoản vốn nóng rót từ bên ngoài vào là tối cần thiết. Khoản tiền đó có thể
lấy từ Thị trường tài chính.
Cơ chế huy động vốn thông qua thị trường tài chính được hiểu như sau:
một số tác nhân kinh tế có nhu cầu đầu tư nhiều hơn phần mình tiết kiệm được
- và do đó cần đến vốn từ bên ngoài (số này đa số là các doanh nhiệp thuộc khu
vực sản xuất và Nhà nước). Trong khi đó, một số tác nhân kinh tế khác có
khoản tiết kiệm nhiều hơn khoản đầu tư - và do vậy có khả năng cấp vốn (số
này thông thường là các hộ gia đình). Một trong số các “công cụ” thực hiện
việc lưu chuyển vốn từ nơi này đến nơi khác chính là thị trường tài chính. Việc
lưu chuyển này có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, hoặc là các doanh
nghiệp trực tiếp mua khoản tiết kiệm này của các hộ gia đình trên thị trường tài
chính (thông thường tại thị trường chứng khoán), hoặc là các doanh nghiệp
mua lại khoản vốn đó gián tiếp tại các tổ chức tài chính trung gian. Thị trường
chứng khoán chỉ là một trong những công cụ cấp vốn, nhưng là một trong
những công cụ cấp vốn hợp lý và hiệu quả nhất.
2. Chức năng thị trường tài chính
2.1. Huy động và dẫn vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn
Thị trường tài chính có chức năng cơ bản là dẫn vốn từ những người dư
thừa vốn sang những người cần vốn. Với những người dư thừa vốn, thu nhập

lớn hơn chi tiêu, những người này có thể là Chính phủ, các tổ chức hoặc cá
nhân. Trong khi đó, do chi tiêu lớn hơn thu nhập, các đơn vị khác lại cần vốn.
Sự chuyển dịch vốn này được thực hiện theo sơ đồ sau:
5
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
Hình 1: Sơ đồ dịch chuyển vốn
Qua sơ đồ trên ta thấy, sự chuyển dịch vốn được thực hiện qua hai con
đường tài trợ trực tiếp và tài trợ gián tiếp. Trong tài trợ trực tiếp, những người
cần vốn huy động trực tiếp từ những người có vốn bằng cách bán các chứng
khoán cho họ. Các chứng khoán này là các công cụ tài chính, nó cung cấp
quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản và các quyền khác cho chủ sở hữu đối với
người phát hành. Các chứng khoán được mua bán rộng rãi trên thị trường cấp
một và thị trường cấp hai. Cách thức thứ hai để dẫn vốn là tài trợ gián tiếp
thông qua các trung gian tài chính. Các trung gian tài chính như các ngân hàng,
các tổ chức tín dụng, các tổ chức bảo hiểm và các trung gian khác có vai trò
cực kỳ quan trọng trong việc tích tụ, tập trung và phân phối vốn trong nền kinh
tế, đồng thời các tổ chức này cũng có vai trò quan trọng trong việc cấp vốn và
hỗ trợ cho dòng tài chính trực tiếp như thông qua các hoạt động đại lý, bảo
lãnh, thanh toán...
Như vậy, thông qua việc dẫn chuyển vốn, thị trường tài chính có vai trò
quan trọng trong việc tích tụ, tập trung và phân phối trong nền kinh tế, trên cơ
sở đó làm tăng năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Thị trường tài
chính trực tiếp cải thiện mức sống cho cả những người có vốn và những người
cần vốn.
TÀI TRỢ GIÁN TIẾP
TÀI TRỢ TRỰC TIẾP
6
Thị

trường
tài chính
Người cho vay vốn
1. Hộ gia đình
2. Doanh nghiệp
3. Chính phủ
Người đi vay vốn
1. Hộ gia đình
2. Doanh nghiệp
3. Chính phủ
Vốn Vốn
Vốn
Vốn
Trung
gian tài
chính
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
2.2. Xác định giá cả của các tài sản tài chính
Thông qua quan hệ giữa người mua và người bán (quan hệ cung cầu trên
thị trường) giá cả của các tài sản tài chính được xác định, hay nói cách khác,
lợi tức yêu cầu của tài sản tài chính được xác định. Vì vậy, thị trường tài chính
là nơi hình thành nên giá cả của các tài sản tài chính - các "hàng hoá" trên thị
trường.
2.3. Tạo tính thanh khoản cho tài sản tài chính
Thị trường tài chính cung cấp một cơ chế để các nhà đầu tư có thể trao
đổi, mua bán các tài sản tài chính của mình trên thị trường thứ cấp, như vậy thị
trường tài chính tạo ra tính thanh khoản cho các tài sản tài chính. Nếu thiếu
tính thanh khoản, người đầu tư sẽ buộc phải nắm giữ các công cụ nợ cho tới

khi đáo hạn, hoặc nắm giữ các công cụ vốn cho tới khi công ty phá sản hoặc
giải thể phải thanh lý tài sản. Mức độ thành khoản của các thị trường tài chính
là khác nhau, nó phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường.
2.4. Giảm thiểu chi phí cho các chủ thể tham gia trên thị trường
Để cho các giao dịch có thể diễn ra, những người mua và những người bán
cần phải bỏ ra các chi phí như chi phí tìm kiếm đối tác và tìm kiếm thông tin
trong quá trình trước, trong và sau khi ra các quyết định đầu tư. Nhờ tính tập
trung, các thông tin phục vụ quá trình đầu tư được cung cấp đầy đủ, chính xác
và nhanh chóng trên thị trường tài chính, từ đó cho phép giảm thiểu những chi
phí đối với các bên tham gia giao dịch và góp phần tăng hiệu quả đối với các
chủ thể trên thị trường cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế.
2.5. Khuyến khích cạnh tranh và phát triển hiệu quả kinh doanh
Thị trường tài chính là thị trường định giá các công cụ tài chính. Vì vậy,
sẽ khuyến khích quá trình phân phối vốn một cách có hiệu quả, góp phần tăng
tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và từ đó đặt ra cho các doanh nghiệp
phải tăng hiệu quả kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển.
7
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
2.6. Ổn định và điều hoà lưu thông tiền tệ
Thị trường tài chính có một chức năng quan trọng là ổn định và điều hoà
lưu thông tiền tệ, đảm bảo sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Chức năng
này được thể hiện thông qua việc mua bán các trái phiếu, tín phiếu và các giấy
tờ có giá khác của Ngân hàng Trung Ương trên thị trường tài chính là thị
trường tiền tệ. Thông qua đó, Chính phủ có thể huy động được nguồn vốn lớn
để bù đắp thâm hụt ngân sách và kiểm soát lạm phát. Ngoài ra, Ngân hàng
Trung Ương cũng có thể mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để điều
chỉnh lượng cung và cầu ngoại tệ nhằm giúp Chính phủ ổn định tỷ giá hối đoái.
Như vậy, thị trường tài chính có chức năng hết sức quan trọng không

những đối với nền kinh tế mà cả đối với từng các nhân, tổ chức kinh tế. Thị
trường tài chính tạo điều kiện cho phép vốn được chuyển từ người có tiền nhàn
rỗi và không có cơ hội đầu tư hiệu quả sang cho người có cơ hội đầu tư, có khả
năng sản xuất, giúp nâng cao năng suất và hiệu quả toàn bộ nền kinh tế. Ngoài
ra, thị trường tài chính cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu dùng
bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm tốt hơn. Thị trường tài
chính hoạt động hiệu quả sẽ trực tiếp cải thiện đời sống kinh tế xã hội.
II. CÁC THÀNH VIÊN THỊ TRƯỜNG
1. Các trung gian tài chính
Các trung gian tài chính hoạt động như là những người trung gian chuyển
vốn từ những người cho vay cuối cùng tới những người đi vay cuối cùng. Điểm
chung của tất cả các trung gian tài chính là huy động vốn bằng cách phát hành
các phiếu nợ của chính mình cho công chúng (tiền gửi tiết kiệm, tiền tiết kiệm
và các cổ phiếu) rồi sau đó sử dụng tiền (vay được) để mua các chứng khoán
như cổ phiếu, trái phiếu, cầm cố - mortage cho chính mình.
Các cơ quan tài chính có vị trí tốt hơn so với các cá nhân trong việc gánh
chịu và phân chia các rủi ro của sở hữu chứng khoán. Nhờ có quy mô lớn nên
8
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
các trung gian có thể đa dạng hoá các loại chứng khoán và giảm tới mức tổi
thiểu các rủi ro trong việc giữ các loại chứng khoán. Họ là các chuyên gia trong
việc đánh giá các thuộc tính của tín dụng vay. Họ thuê những vị quản lý chứng
khoán thành thạo và có thể chiếm được lợi thế của các nền kinh tế hành chính
trong việc mua và bán có quy mô lớn.
Vì những lý do này, họ có thể chịu đựng được việc nhận những khoản lãi
suất thấp hơn cho các tài sản của mình và họ sẽ chấp nhận các mức lãi suất
thấp hơn nếu tình thế bắt buộc. Sự cạnh tranh giữa các trung gian tài chính ép
các mức lãi suất xuống mức thấp nhất tương đương với sự đánh giá của họ về

những rủi ro trong việc sở hữu chứng khoán. Những mức lãi suất này thấp hơn
so với khi các chứng khoán khởi thuỷ ở trong tay các nhà đầu tư cá thể là
những người không thể tối thiểu hoá một cách có hiệu quả các rủi ro của mình.
Cần thấy rằng lãi suất thấp đã tạo ra nhiều thuận lợi cho mức tăng trưởng
kinh tế. Mức lãi suất mà những người đi vay cuối cùng phải trả càng thấp thì
khoản chi phí cho đầu tư thực càng thấp. Dưới giác độ gánh chịu mạo hiểm ta
cũng thấy được tác động thuận lợi của các trung gian tài chính tới tăng trưởng
kinh tế. Các trung gian có nhiều khả năng hơn so với các cá thể để gánh chịu
các rủi ro trong việc cho vay vốn. Đó là nhờ vào khả năng đa dạng hoá, các nền
kinh tế có quy mô và sự thành thạo trong việc tính toán tới việc cho vay của
các cơ quan tài chính hơn hẳn so với các cá thể. Do các trung gian tài chính
ngày càng nắm một phần lớn hơn của các chứng khoán lưu thông chưa được
thanh toán nên những rủi ro do nền kinh tế gây ra bị giảm xuống, các mức lãi
suất được hạ thấp và các đầu tư thực được thực hiện nhiều hơn. Các vốn được
chuyển từ những người cho vay cuối cùng, thông qua các trung gian tới những
người đi vay cuối cùng một cách hiệu quả hơn so với khi không có các trung
gian.
9
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
Các trung gian tài chính không phải ai khác mà chính là các cơ quan tài
chính - các ngân hàng thương mại, quỹ tiết kiệm, các hiệp hội tích luỹ và cho
vay, các liên đoàn tín dụng, các quỹ hưu trí, các công ty bảo hiểm…
2. Những người sử dụng cuối cùng trong hệ thống tài chính
Trong hệ thống tài chính có hai loại "người sử dụng cuối cùng" đó là
những người cho vay cuối cùng và những người đi vay cuối cùng.
Người cho vay cuối cùng thường là các cá nhân, hộ gia đình. Mục đích
cuối cùng của họ có thể nói là làm sao nâng tới mức tối đa lợi ích tiêu dùng
trong đời sống hàng ngày. Nếu như ở thời điểm hiện tại họ không chi tiêu hết

toàn bộ thu nhập vào tiêu dùng thì chắc chắn họ sẽ tìm một chỗ cất giữ nhất
thời và chỉ huy động để chừng nào cần tài trợ cho việc chi tiêu tiếp theo. Điều
này dẫn đến hoạt động mua tậu các tài sản tài chính. Mặc dù đôi khi các hãng
kinh doanh và các cơ quan chính phủ (của liên bang, bang và của địa phương)
cũng cho vay những khoản đáng kể.
Những người đi vay cuối cùng chủ yếu là các hãng kinh doanh và các cơ
quan chính phủ, mặc dù các hộ gia đình cũng là một bộ phận quan trọng – là
những người đi vay tín dụng tiêu dùng và những người đi vay cầm cố. Thị
trường tài chính mà tại đó các hoạt động được diễn ra nói chung mang tên do
những người đi vay đặt ra - chủ yếu mang tên của loại chứng khoán khởi thủy
được kinh doanh: thị trường chứng khoán chính phủ, thị trường chứng khoán
thành phố (Municipal Bond Market), thị trường chứng khoán công ty
(Corporate Bond Market), thị trường cầm cố gia đình (Home Mortage Market)
… Song đôi khi những người cho vay cũng đặt tên cho thị trường, ví dụ như,
thị trường đối với các khoản cho vay của các ngân hàng (Market For Bank
Loans).
3. Các nhà môi giới
10
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
Hoạt động môi giới là loại hoạt động trung gian thuần tuý. Các nhà môi
giới chứng khoán hoạt động như các đại lý cho các nhà đầu tư trong việc mua,
bán chứng khoán. Chức năng của họ là hoà hợp yêu cầu của người mua và bán
chứng khoán, qua đó, họ nhận được các khoản hoa hồng môi giới. Cơ chế tiền
hoa hồng môi giới được chia làm 2 loại:
- Cơ chế tiền hoa hồng định sẵn hay cơ chế tiền hoa hồng tối thiểu.
Trong trường hợp này, chi phí môi giới do từng Sở giao dịch chứng
khoán quy định.
- Cơ chế tiền hoa hồng thoả thuận. Chi phí môi giới được hình thành dựa

trên sự thoả thuận giữa nhà môi giới và khách hàng trong từng giao
dịch.
Đặc trưng của các nhà môi giới chứng khoán là họ không nắm giữ chứng
khoán trong khi tiến hành các hoạt động dịch vụ nên không bị đặt trước bất kỳ
một rủi ro nào có liên quan đến chứng khoán.
Căn cứ vào đặc điểm hoạt động trên thị trường chứng khoán, hoạt động
môi giới được chia ra làm các loại sau:
Các nhà môi giới của hãng dịch vụ hoa hồng: Các nhà môi giới của hãng
dịch vụ hoa hồng hầu hết là các thành viên của Sở giao dịch chứng khoán. Họ
là cổ đông có quyền bỏ phiếu và là các uỷ viên quản trị (hoặc các bên góp vốn)
của một công ty môi giới. Hoạt động của họ là thực hiện các lệnh cho khách
hàng của công ty trong phòng giao dịch trên Sở nên họ được gọi là nhà môi
giới của hàng dịch vụ hoa hồng hay nhà môi giới trong phòng giao dịch.
Nhà môi giới độc lập (hay nhà môi giới hai đô la): Nhà môi giới độc lập là
một thành viên của Sở giao dịch chứng khoán. Anh ta không thuộc một công ty
môi giới nào mà tự thuê hoặc sở hữu chỗ để hoạt động trên Sở. Anh ta thực
hiện các lệnh giao dịch do bất kỳ một công ty môi giới nào thuê anh ta với mức
định phí trước đây là 2 đô la/100 cổ phiếu (trong cả hai trường hợp mua và
11
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
bán). Hiện nay, mức định phí mà các nhà môi giới độc lập được trả thường lớn
hơn 2 đô la/100 cổ phiếu.
Nhà giao dịch chứng khoán có đăng ký: Một số người mua chỗ trên Sở
giao dịch chứng khoán chỉ nhằm mục đích mua và bán chứng khoán cho chính
họ. Những người đó được gọi là nhà giao dịch chứng khoán có đăng ký. Hiện
nay, do sự gia tăng các nguyên tắc, các quy định nên đặc quyền này bị hạn chế
nghiêm ngặt. Các nhà giao dịch chứng khoán có đăng ký chỉ được hoạt động
với tư cách là người tạo thị trường hoặc là một nhà môi giới hai đô la.

Nhà môi giới chuyên môn: Mỗi chứng khoán niêm yết tại Sở chỉ được
buôn bán trên một vị trí nhất định trong phòng giao dịch. Vị trí này được gọi là
khu. Trong mỗi khu có một số nhà môi giới được gọi là những nhà môi giới
chuyên môn. Mỗi nhà môi giới chuyên môn trong số này được Hội đồng quản
trị của Sở chứng khoán phân công vào một khu nhất định. Anh ta mua và bán
các chứng khoán đã được Hội đồng quản trị phân công.
III. PHÂN LOẠI THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
1. Căn cứ vào thời hạn luân chuyển của vốn
Căn cứ vào thời hạn luân chuyển của vốn thì thị trường tài chính có thể
phân chia thành thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
Thị trường tiền tệ là thị trường tài chính trong đó các công cụ ngắn hạn
(có kỳ hạn dưới một năm) được mua bán, còn thị trường vốn là thị trường giao
dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn (gồm các công cụ vay nợ
dài hạn và cổ phiếu). Vốn ngắn hạn chủ yếu do các ngân hàng cung cấp, còn
thị trường chứng khoán là đặc trưng cơ bản của thị trường vốn.
Các hàng hoá trên thị trường tiền tệ có đặc điểm là thời gian đáo hạn ngắn
hạn nên có tính lỏng cao, độ rủi ro thấp và ổn định. Thị trường tiền tệ bao gồm:
thị trường liên ngân hàng, thị trường tín dụng và thị trường ngoại hối.
12
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
2. Căn cứ vào tính chất của việc phát hành các công cụ tài
chính
Căn cứ vào tính chất của việc phát hành các công cụ tài chính thì thị
trường tài chính được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp hay còn gọi là thị trường phát hành, là thị trường trong
đó các công cụ tài chính được mua bán lần đầu tiên. Do là thị trường phát hành
lần đầu nên thị trường này còn được gọi là thị trường cấp một.
Thị trường sơ cấp ít quen thuộc với công chúng đầu tư vì việc bán chứng

khoán tới những người mua đầu tiên được tiến hành theo những phương thức
và đặc thù riêng, thông thường chỉ giới hạn ở một số thành viên nhất định.
Thị trường thứ cấp là thị trường giao dịch các công cụ tài chính sau khi
chúng đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp còn được
gọi là thị trường cấp hai.
Hoạt động trên thị trường thứ cấp diễn ra trong phạm vi rộng hơn với tổng
mức lưu chuyển vốn lớn hơn nhiều so với thị trường sơ cấp. Tuy nhiên, việc
mua bán chứng khoán trên thị trường này không làm thay đổi nguồn vốn của tổ
chức phát hành mà thực chất chỉ là quá trình chuyển vốn từ chủ thể này sang
chủ thể khác hay nói cách khác trên thị trường thứ cấp diễn ra việc trao đổi,
mua bán các "quyền sở hữu công cụ tài chính".
Thị trường thứ cấp làm cho các công cụ tài chính có tính lỏng và tính sinh
lợi cao hơn và do đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành trên thị trường
sơ cấp. Vì vậy, có thể nói là thị trường thứ cấp là động lực thúc đẩy sự phát
triển của thị trường sơ cấp.
Mối quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thứ cấp là mối quan hệ nội tại, hữu
cơ và biện chứng. Thị trường sơ cấp đóng vai trò là động lực, thúc đẩy thị
trường sơ cấp phát triển.
13
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
3. Căn cứ theo cách thức tổ chức thị trường
Căn cứ theo cách thức tổ chức thị trường thì thị trường tài chính được
phân thành thị trường sàn giao dịch (thị trường tập trung) và thị trường OTC
(thị trường vi tính hoá, thị trường phi tập trung).
Thị trường sàn giao dịch (exchange market) là một thị trường được tổ
chức tập trung có địa điểm giao dịch cố định như một toà nhà vì vậy thường
hay gọi là thị trường tập trung.
Thị trường OTC là một thị trường chứng khoán phi tổ chức. Các công ty

chứng khoán giao dịch mua bán chứng khoán trực tiếp tại quầy giao dịch của
các ngân hàng hoặc qua điện thoại, mạng lưới internet... chứ không phải trực
tiếp gặp nhau trên sàn giao dịch hoặc thông qua trung gian, nếu họ là người bán
và người mua chứng khoán. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường OTC
được tiến hành trên nhiều địa điểm khác nhau và danh mục chứng khoán cũng
rất đa dạng. Vì chứng khoán giao dịch trên thị trường OTC không phải đăng
ký, do đó, các chứng khoán đã được đăng ký tại Sở giao dịch chứng khoán
cũng có thể được mua bán tại đây. Ở Mỹ vào năm 1939, một Hiệp hội các nhà
kinh doanh chứng khoán (National Association of Securities Dealer - NASD)
được thành lập và là tổ chức điều chỉnh hoạt động thị trường OTC.
4. Căn cứ vào phương thức huy động vốn của tổ chức phát
hành
Căn cứ vào phương thức huy động vốn của tổ chức phát hành, thị trường
tài chính được phân thành thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần.
Thị trường nợ là thị trường mà hàng hoá được mua bán tại đó là các công
cụ nợ. Thực chất của việc phát hành các công cụ nợ này là nhà phát hành đứng
ra đi vay theo phương thức có hoàn trả cả gốc và lãi. Người cho vay không
chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của người vay
và trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải có trách nhiệm hoàn trả theo các
14
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
cam kết đã được xác định trong hợp đồng vay. Các công cụ nợ có thời hạn xác
định, có thể là ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn. Tín phiếu và trái phiếu là hai ví
dụ điển hình của các công cụ nợ.
Khác với thị trường nợ, thị trường vốn cổ phần là nơi mua bán các cổ
phiếu, giấy xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông. Cổ đông là chủ sở hữu
của công ty và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của mình. Cổ phiếu
sẽ cho phép họ có quyền yêu cầu đối với lợi nhuận sau thuế của công ty cũng

như đối với tài sản của công ty. Cổ phiếu là vô thời hạn vì chúng không xác
định cụ thể ngày mãn hạn. Người sở hữu cổ phiếu chỉ có thể lấy lại tiền bằng
cách bán lại cổ phiếu đó trên thị trường thứ cấp hoặc khi công ty tuyên bố phá
sản.
IV. CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Dựa theo kỳ hạn thanh toán của chứng khoán thì thị trường tài chính được
phân thành thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Song ở nhiều nước phát triển
thị trường tài chính còn có thể phân ra thêm một loại nữa là thị trường ngoại tệ
hay còn gọi là thị trường hối đoái. Ở Việt Nam thị trường này còn sơ khai và
được đặt trong thị trường ngoại tệ liên ngân hàng - tức là một thành phần của
thị trường tiền tệ.
1. Thị trường tiền tệ
Theo nghĩa rộng thì thị trường tiền tệ là thị trường vay vốn ngắn hạn giữa
các tổ chức tài chính và khách hàng của họ. Trước đây, thị trường tiền tệ được
hình thành do nhu cầu của các ngân hàng với những khoản vốn thiếu ở một số
ngân hàng khác. Do đó, việc tham gia thị trường tiền tệ chỉ hạn chế trong một
số tổ chức tài chính nhất định như các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín
dụng, các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư.
Những năm gần đây, khái niệm thị trường tiền tệ được mở rộng bao hàm
không chỉ ngân hàng và các tổ chức tài chính mà còn cả các doanh nghiệp
15
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
không phải ngân hàng. Ngân hàng và các tổ chức tài chính này mua và bán trên
thị trường số vốn tạm thời dư thừa nhằm duy trì khả năng thanh toán của mình,
cho vay để kiếm lãi, vay vốn để hoạt động.
Thị trường tiền tệ kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt là “tiền tệ”. Sự
biến động về số lượng, tỷ giá, lãi suất của loại hàng hoá này không chỉ ảnh
hưởng tới việc kinh doanh của mỗi cá nhân mà còn tác động tới sự ổn định và

tăng trưởng của cả một nền kinh tế. Chính vì vậy, Thị trường tiền tệ luôn được
Nhà nước quan tâm và kiểm soát chặt chẽ bằng hệ thống pháp luật.
Đối tượng tham gia Thị trường tiền tệ là các Ngân hàng thương mại và các
tổ chức tín dụng thực hiện chức năng vay để cho vay với lãi suất cao hơn. Với
chức năng này, các ngân hàng thương mại hoạt động trong giới hạn quy định
của NHTƯ về khoản dự trữ bắt buộc (khoản này không được trả lãi) và về các
khoản vốn vay cho hoạt động tín dụng (NHTƯ khống chế bằng lãi suất chiết
khấu).
Căn cứ vào nhu cầu ngắn hạn, người ta phân biệt các loại tín dụng của Thị
trường tiền tệ như sau:
- Tín dụng hàng ngày: cho vay từ ngày hôm trước đến ngày hôm sau với
mục đích cho vay để cân đối việc chi trả hàng ngày.
- Tín dụng theo yêu cầu: về nguyên tắc, loại tín dụng này được cung cấp
vô thời hạn, nghĩa là không quy định thời gian trả nợ, nhưng các chủ
nợ có thể yêu cầu trả nợ vào bất cứ lúc nào.
- Tín dụng cuối kỳ: loại tín dụng này có thể được cấp theo một trong hai
loại nêu trên với sự khác biệt là nó chỉ được cấp vào cuối tháng hay
cuối năm.
- Tín dụng có kỳ hạn: là hình thức tín dụng được cấp với thời hạn trả nợ
đã được quy định trước.
16
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
Trong nền kinh tế, một số cá nhân, doanh nghiệp thường có lượng tiền tệ
nhàn rỗi, ngược lại một số cá nhân, doanh nghiệp khác lại cần tiền để mua sắm
đầu tư. Cũng như sự vận động của bất kỳ hàng hoá nào, tiền vận động từ nơi có
tiền đến nơi cần tiền thông qua thị trường tiền tệ. Ở đây, các cá nhân, doanh
nghiệp này thường tác động lẫn nhau sao cho người cho vay và người đi vay
đều có lợi nhất. Lãi suất trên thị trường tiền tệ cũng giống như giá cả thị trường

của hàng hoá khác phụ thuộc vào cung cầu tiền tệ trên thị trường.
Cung tiền tệ trên thị trường là khả năng có thể đáp ứng các nhu cầu về tiền
tệ bao gồm các khối lượng tiền tệ sẵn có và tiền tệ có thể cho vay được. Trong
nền kinh tế, số tiền đang lưu hành ngoài Ngân hàng, các khoản tiền gửi ở Ngân
hàng và các tổ chức tài chính tín dụng khác có thể rút ra được đã hình thành
nên tổng mức cung. Thông thường, Chính phủ có thể kiểm soát được tổng mức
cung tiền tệ trong nền kinh tế.
Cầu tiền tệ trên thị trường là nhu cầu về tiền tệ của các cá nhân, doanh
nghiệp để mua sắm, đầu tư... Cầu tiền tệ là đại lượng nhạy cảm với lãi suất.
Khi lãi suất tăng lên, trong các điều kiện không đổi, cầu thường giảm xuống và
ngược lại. Và tác động của cung cầu tiền tệ đến lãi suất diễn ra như sau: do giá
cả hàng hoá tăng lên, nhu cầu về đầu tư sản xuất, mua sắm cũng tăng lên... cầu
tiền tệ cũng tăng lên và làm cho lãi suất cũng tăng theo. Tuy nhiên, mức tăng
này của lãi suất cũng có một giới hạn nhất định. Sự tăng lên của lãi suất đến
một mức độ nào đó, người vay sẽ thấy sử dụng tiền vay không có hiệu quả
bằng cho vay, nói cách khác lợi nhuận thu được do sử dụng đồng vốn đi vay
nhỏ hơn lãi suất vay, các doanh nghiệp sẽ không vay được nữa hoặc chuyển từ
đi vay sang cho vay, kết quả là kéo lãi suất xuống. Tình hình cũng sẽ diễn ra
như vậy nếu cung tiền tệ bị giảm đi do các chính sách thắt chặt tiền tệ. Ngược
lại, khi cung tiền tệ tăng lên, lãi suất trên thị trường sẽ giảm xuống.
Thị trường tiền tệ không phải là moo địa điểm "hữu hình" để người mua
và người bán đến gặp nhau và thực hiện các giao dịch, mà chỉ là một khái niệm
17
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
nói lên sự tiếp xúc giữa hai yếu tố cơ bản của thị trường là cung và cầu để hình
thành nên các hoạt động cũng như hình thành giá cả tín dụng (lãi suất). Đối
tượng của thị trường tiền tệ là các chứng khoán ngắn hạn thông thường dưới
một năm, các kỳ phiếu thương mại, các kỳ phiếu ngân hàng, các khế ước giao

hàng, các tín phiếu kho bạc ngắn hạn... Nhưng đây là các công cụ tài chính có
khả năng thanh toán cao và ít rủi ro, đặc biệt đối với những người cần một
khoản tiền mặt thì họ có thể dễ dàng bán các loại phiếu ghi nợ ngắn hạn hơn là
bán các loại phiếu ghi nợ dài hạn và chịu phí tổn ít hơn. Hơn nữa, các chứng
khoán ngắn hạn ít bị rủi ro, vì thời gian hoàn vốn ngắn và người chủ nợ có thể
tính toán được ngay giá cả và mức lãi suất của nó bằng phép tính đơn giản. Giá
cả của các loại phiếu ghi nợ này cũng lên xuống linh hoạt theo quy luật cung
cầu.
Hoạt động kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại, các tổ chức
tín dụng bị khống chế bởi lãi suất và chịu sự điều tiết của NHTƯ. Mức tăng,
giảm lãi suất phụ thuộc vào quan hệ cung cầu về tiền tệ, vào chính sách tiền tệ
của NHTƯ và các chính sách của Chính phủ. NHTƯ giữ tiền dự trữ bắt buộc
của các tổ chức tín dụng để đảm bảo cho sự hoạt động an toàn của chúng và
các hoạt động tiền tệ, tín dụng nói chung trong nền kinh tế. Do số lượng các tổ
chức tín dụng này rất lớn nên NHTƯ chỉ cần sử dụng một phần số tiền dự trữ
bắt buộc để dự trữ là đủ. Số còn lại có thể cho các tổ chức tín dụng vay.
Như vậy, thị trường tiền tệ đã thực hiện 2 chức năng cơ bản, đó là cân đối,
điều hoà khả năng chi trả giữa các Ngân hàng và cân đối các nguồn vốn vay và
cho vay giữa các tổ chức tín dụng với NHTƯ.
Có thể phân loại hai loại nghiệp vụ thực hiện trên Thị trường tiền tệ. Một
là, Nghiệp vụ cho vay ngắn hạn của NHTƯ cho các ngân hàng thương mại vay
để thực hiện chức cung ứng, cân bằng tiền tệ hay người cho vay cứu cánh cuối
cùng, hoặc của các tổ chức tín dụng có số dư tạm thời về khả năng chi trả đối
18
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
với các tổ chức tín dụng đang gặp khó khăn về nguồn vốn huy động. Hai là,
nghiệp vụ mua bán các chứng khoán ngắn hạn.
Trong nghiệp vụ thứ nhất, đối tượng của thị trường tiền tệ là hoạt động

cho vay và giá cả của khoản tiền cho vay là lãi suất. Các ngân hàng và các tổ
chức tín dụng đang thiếu vốn cố gắng huy động được chúng với lãi suất càng
thấp càng tốt, còn các ngân hàng cho vay lại cố gắng tìm kiếm lãi suất cho vay
cao. Đây là thị trường dành cho các công cụ nợ ngắn hạn: chứng chỉ tiền gửi có
khả năng chuyển nhượng (negotiable certificates of deposit), thương phiếu, tín
phiếu ngân hàng, trái phiếu kho bạc ngắn hạn, giấy nợ khấu trừ trước (Discount
note), số tiền vay mượn giữa các ngân hàng. Nơi đây những nhà đầu tư như
ngân hàng, công ty ủy thác, công ty bảo hiểm có số thặng dư tiền mặt tạm thời
sẽ cố gắng khai thác số tiền này trong một thời gian rất ngắn, thậm chí chỉ cách
một đêm bằng cách cho những người khác vay như kho bạc Nhà nước, NHTM,
các công ty cổ phần, thương gia (dealer) chính quyền địa phương, các công cụ
thị trường tiền tệ ngắn hạn để thanh toán nợ ngắn hạn hay để hội đủ các quy
định về tiền mặt tạm thời.
Những người mua bán ở thị trường tiền tệ liên tục liên lạc với nhau, với
những người đi vay và với nhà đầu tư (người cho vay) để kiếm lợi nhuận trong
các cơ hội mua bán song hành. Việc này làm cho giá cả được thống nhất trên
thị trường.
Những đối tượng tham gia trên thị trường tiền tệ ngoài lý do lợi nhuận hấp
dẫn còn vì 3 lý do cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, đây là thị trường có tính linh hoạt cao (dễ chuyển đổi ra tiền
mặt).
- Thứ hai, mức độ an toàn vốn cao vì người phát hành (người đi vay)
thông thường được đánh giá có khả năng tín dụng cao. Tuy nhiên, nhà
19
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
đầu tư phải lưu ý rằng có một số loại công cụ tín dụng không thể xem
là hoàn toàn không có rủi ro.
- Thứ ba, thời gian đáo hạn trong thị trường tiền tệ là rất ngắn do đó ít bị

rủi ro hơn.
2. Thị trường vốn
Thị trường vốn (hay còn gọi là thị trường tư bản) là nơi diễn ra hoạt động
mua bán các chứng khoán và các giấy ghi nợ trung và dài hạn.
Liên quan đến quan hệ giữa thị trường vốn và thị trường chứng khoán.
hiện nay đang có hai quan điểm chủ yếu sau đây:
Quan điểm thứ nhất cho rằng thị trường vốn và thị trường chứng khoán
là khác nhau vì công cụ của thị trường vốn ngoài các chứng khoán dài hạn còn
có các giấy ghi nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Quan điểm thứ hai, xuất phát từ định nghĩa chứng khoán là một công cụ
tài chính có thể mua bán chuyển nhượng được, cho rằng thị trường vốn và thị
trường chứng khoán chỉ là một.
Nhưng đứng trên góc độ của một người đang tìm hiểu và nghiên cứu thị
trường tài chính quốc tế, không chỉ trong phạm vi quốc gia mình, tác giả ủng
hộ quan điểm cho rằng thị trường chứng khoán và thị trường vốn chỉ là một.
Bởi lẽ, nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản
chất bên trong của quá trình mua và bán các sản phẩm tài chính. Thị trường
chứng khoán là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó,
các thị trường này không thể phân biệt tách rời nhau, mà nó là thực thể thống
nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư
bản. Thực tế, trên thế giới, người ta hay nói đến thị trường chứng khoán - hình
thức giao dịch vốn, mà ít nói đến thị trường vốn - quan hệ mua, bán, chuyển
nhượng các giấy tờ có giá. Sở dĩ ở Việt Nam thường hay tách riêng hai khái
niệm này là bởi vì thị trường chứng khoán ở Việt Nam còn chưa thực sự phát
20
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
triển, các hình thức ghi nợ nhiều hơn là hình thức mua bán lại các chứng khoán
có giá.

Xét về bề ngoài, hoạt động trên thị trường chứng khoán không chỉ là các
sự việc mua đi bán lại hay chuyển đổi các giấy tờ có giá từ tay chủ thể này
sang tay chủ thể khác một cách đơn thuần. Về thực chất, đây chính là quá trình
chuyển dịch vốn ở hình thái tiền tệ, hay nói cách khác, nó là quá trình chuyển
tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Vì vậy, thị trường chứng khoán xét về
mặt bản chất, phản ánh các quan hệ mua bán không phải một số lượng nhất
định các tư liệu sản xuất, các khoản tiền mặt, mà là quyền sở hữu về tư liệu sản
xuất và vốn tiền mặt.
Nếu dựa vào nguồn gốc ra đời chứng khoán thì thị trường chứng khoán
được phân chia thành hai loại thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường chứng khoán sơ cấp (Primary market) là thị trường nơi phát
hành ra những chứng khoán vốn và chứng khoán nợ, tức là thị trường sản sinh
ra hàng hoá của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán sơ cấp có tác
dụng huy động vốn hoặc tăng vốn cho các doanh nghiệp và là thị trường phát
hành trái phiếu chính phủ để Nhà nước vay tiền của tất cả các thành phần kinh
tế quốc dân. Chính vì thế, thị trường này còn được gọi là thị trường phát hành.
Các doanh nghiệp được quyền phát hành chứng khoán để huy động vốn
hoặc tăng vốn và có thể có nhiều phương thức phát hành, trong các phương
thức đó thì việc phát hành thông qua thị trường chứng khoán chiếm một tỷ
trọng đáng kể.
Do vậy, chức năng của thị trường chứng khoán sơ cấp là góp phần huy
động vốn cho các doanh nghiệp và huy động tiền vay cho Chính phủ và cơ
quan chính phủ.
Khi huy động vốn bằng tiền cho doanh nghiệp hay Chính phủ, các doanh
nghiệp và Chính phủ phải phát hành "giấy chứng nhận góp vốn hoặc vay tiền"
21
Mai Thị Thanh Thuỷ

Khoá luận tốt nghiệp 2003
cho người đầu tư và người cho vay, các giấy này được gọi là chứng khoán vốn

hay chứng khoán nợ. Các chứng khoán này có thể dùng để mua bán, chuyển
nhượng, trao đổi... trên thị trường, chúng được gọi là chứng khoán có giá. Vì
vậy, thị trường chứng khoán sơ cấp còn có thêm một chức năng thứ hai là tạo
ra "hàng hoá" cho thị trường chứng khoán. Công ty cổ phần là doanh nghiệp
phát hành chứng khoán vốn và chứng khoán nợ chủ yếu trên thị trường sơ cấp.
Có ba phương thức phát hành chứng khoán như sau:
- Một là phát hành trực tiếp tại doanh nghiệp: là phương thức phát hành
khá phổ biến với ưu điểm là bán thẳng tận gốc cho các nhà đầu tư cuối
cùng, do đó giảm được chi phí phát hành.
- Hai là phương thức phát hành qua các trung gian tài chính, họ có tư
cách như là người đại lý như Ngân hàng thương mại, công ty tài chính,
công ty bảo hiểm. quỹ tương hỗ đầu tư... Theo phương thức phát hành
này, các doanh nghiệp có thể tiêu thụ một khối lượng lớn chứng khoán,
do đó, doanh nghiệp có khả năng huy động vốn tương đối nhanh. Tuy
nhiên, chi phí của phương thức phát hành này lại rất cao.
- Ba là phương thức phát hành trực tiếp ra công chúng. Theo phương
thức này, các doanh nghiệp phát hành trực tiếp chứng khoán ra công
chúng dưới hình thức bảo lãnh (underwriting). Người đứng ra ký hợp
đồng bảo lãnh chứng khoán gọi là Nhà bảo lãnh. Nhà bảo lãnh có thể là
Ngân hàng, Công ty chứng khoán hoặc là những thể nhân chuyên kinh
doanh trong lĩnh vực này.
Sau khi được phát hành ở thị trường sơ cấp, chứng khoán đó đã trở thành
một loại hàng hoá đặc biệt, được gọi là chứng khoán có giá (securities). Chứng
khoán có giá sẽ được mua đi bán lại trên thị trường khác, thị trường này gọi là
thị trường chứng khoán thứ cấp (secondary market). Nguồn thu nhập từ việc
mua bán chứng khoán này sẽ thuộc về các nhà đầu tư, các nhà kinh doanh chứ
không thuộc về các đơn vị phát hành ra chứng khoán đó.
22
Mai Thị Thanh Thuỷ


Khoá luận tốt nghiệp 2003
Trung tâm của thị trường chứng khoán thứ cấp là Sở giao dịch chứng
khoán (Stock Exchange) và thị trường giao dịch qua quầy OTC (Over The
Counter). Đặc trưng kinh doanh của Sở giao dịch chứng khoán là đấu giá giữa
những người mua cạnh tranh và giữa người bán cạnh tranh thông qua người
trung gian. Còn đặc trưng của thị trường OTC là giao dịch trên cơ sở thương
lượng trực tiếp giữa người bán và người mua chứng khoán.
Công việc hàng ngày của bất kỳ thị trường chứng khoán thứ cấp nào đều
là việc mua bán các chứng khoán đã phát hành, gồm có cổ phiếu và cổ phần
giữa những người đầu tư mà vì một nguyên nhân hoặc mong muốn nào đó,
thay đổi quyết định đầu tư của mình. Đây là một thị trường thu hút sự chú ý
của dân chúng và nó là nơi giao dịch hàng ngày giữa các nhà môi giới chứng
khoán. Một thị trường thứ cấp với bất kỳ một quy mô nào đều có một chỉ số
theo dõi giá cả được nhiều người biết đến như là “phong vũ biểu của thị
trường".
Thị trường chứng khoán sơ cấp và thị trường chứng khoán thứ cấp tồn tại
phụ thuộc lẫn nhau. Hiển nhiên, thị trường chứng khoán thứ cấp sẽ không tồn
tại nếu không có sự phát hành chứng khoán có thể chuyển nhượng tại thị
trường sơ cấp. Sự thành công của thị trường thứ cấp còn chi phối sự thành công
của thị trường sơ cấp. Thị trường sơ cấp huy động vốn nhà rỗi và vốn tiết kiệm
để đầu vào sản xuất làm cho quy mô vốn quốc gia tăng lên, góp phần tạo ra các
lượng giá trị mới cho xã hội. Thị trường chứng khoán thứ cấp góp phần phân
phối lại vốn giữa các ngành để tạo ra động lực cho sự phát triển.
3. Thị trường ngoại hối
Ngoài hai thị trường cơ bản nói trên còn có thị trường ngoại hối hay còn
gọi là thị trường hối đoái. Thị trường ngoại hối là nơi mà ở đó xảy ra việc mua
và bán, trao đổi ngoại hối, trong đó chủ yếu là trao đổi, mua bán ngoại tệ và
các phương tiện thanh toán quốc tế.
23
Mai Thị Thanh Thuỷ


Khoá luận tốt nghiệp 2003
Do tính chất riêng biệt chuyên mua bán ngoại tệ nên ở nhiều quốc gia:
Nhật, Mỹ... thị trường này hoạt động như một bộ phận thị trường tài chính
tương đối độc lập. Tại Việt Nam, thị trường này còn ở dạng sơ khai và được
đặt trong thị trường tiền tệ.
Quá trình hình thành và phát triển của thị trường ngoại hối đã hình thành
hai hệ thống tổ chức khác nhau đó là hệ thống hối đoái Anh - Mỹ và hệ thống
hối đoái châu Âu. Theo hệ thống Anh - Mỹ, thị trường ngoại hối có tính chất
biểu tượng, chỉ giao dịch ngoại hối thường xuyên giữa một số ngân hàng và
người môi giới, quan hệ này có thể là trực tiếp, song chủ yếu là thông qua điện
thoại, telex. Ngược lại, theo hệ thống của lục địa (Pháp, Tây Đức, Ý...) thị
trường ngoại hối có địa điểm nhất định. Hàng ngày, những người mua cỡ lớn
có các chi nhánh, đại lý ở nước ngoài giữ vai trò quan trọng trong thị trường
ngoại hối. Các ngân hàng này kinh doanh ngoại hối là chủ yếu, còn các ngân
hàng khác đóng vai trò phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh dưới sự chỉ đạo
của các ngân hàng thương mại cỡ lớn này.
Các thành viên tham gia vào thị trường ngoại hối gồm có:
- Các Ngân hàng thương mại (NHTM): các ngân hàng này được phép
tiến hành kinh doanh, giao dịch ngoại hối với tư cách là trung gian
được uỷ quyền. Các ngân hàng tiến hành giao dịch giữa các Ngân
hàng với nhau và với các khách hàng khác.
- Các nhà môi giới là những trung gian được uỷ quyền giữa các Ngân
hàng. Họ là những thành phần đóng góp tích cực vào hoạt động của thị
trường hối đoái bằng cách làm cho cung và cầu tiếp cận nhau theo từng
giao dịch. Nhờ vào những mối quan hệ của mình, họ thường xuyên đưa
lại những thông tin và khả năng tìm thấy bạn hàng nhanh chóng và
kịp thời.
24
Mai Thị Thanh Thuỷ


Khoá luận tốt nghiệp 2003
- Các doanh nghiệp: các doanh nghiệp tham gia thị trường hối đoái
thường là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, thực hiện việc
bán lại ngoại tệ cho ngân hàng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu và
mua ngoại tệ của ngân hàng đối với các doanh nghiệp nhập khẩu hàng
hoá nước ngoài.
- Ngân hàng Trung ương (NHTƯ): sự tham gia vào thị trường hối đoái
của NHTƯ là rất cần thiết. Một mặt để phục vụ cho khách hàng của
ngân hàng (các cơ quan hành chính, các tổ chức quốc tế...), mặt khác,
NHTƯ là cơ quan giám sát hoạt động của thị trường theo quy định của
Luật ngân hàng. Thông qua diễn biến giá trị của đồng tiền trong nước,
NHTƯ có thể can thiệp vào thị trường để quản lý tỷ giá hối đoái, hạn
chế sự dao động của giá trị đồng tiền.
Có hai giao dịch chủ yếu trên thị trường hối đoái, đó là: mua bán ngoại tệ
và cho vay ngoại tệ. Hai loại giao dịch này làm phát sinh hai bộ phận thị
trường tương ứng của thị trường hối đoái là thị trường giao ngay (Spot market)
và thị trường giao dịch có kỳ hạn (forward market).
Các nghiệp vụ cơ bản trên thị trường ngoại hối gồm có:
- Giao dịch giao ngay: là loại giao dịch trong đó việc mua, bán, thanh
toán, giao nhận ngoại hối xảy ra đồng thời.
- Giao dịch mua bán ngoại hối có kỳ hạn: là một giao dịch trong đó mọi
điều khoản của hợp đồng mua bán được định ra trong hiện tại, song
việc thực hiện các điều khoản đó sẽ xảy ra trong tương lai, hay nói
cách khác, đó là nghiệp vụ mua bán ngoại hối mà việc giao nhận sẽ
tiến hành sau một thời gian nhất định, theo một tỷ giá thoả thuận lúc ký
kết hợp đồng.
- Giao dịch Arbitrate: là một dạng biến tướng của nghiệp vụ kinh doanh
ngoại hối giao ngay. Nghiệp vụ Arbitrate theo ý nguyên thuỷ của nó là
25

×