Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Vài nét về dân tộc chăm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.71 KB, 10 trang )

ĐẶC TRƯNG VỀ VĂN HÓA DÂN TỘC CHĂM
Vài nét về Dân Tộc Chăm
Người Chăm là dân tộc bản địa cư trú lâu đời ở khu vực miền Trung Việt Nam.
Trong quá trình tồn tại và phát triển tộc người, dân tộc Chăm đã sáng lập nên một
Nhà nước mang quốc hiệu Champa. Do trải qua nhiều biến cố trong lịch sử, dân
tộc Chăm ngày nay phân bố phân tán thành nhiều khu vực thuộc tỉnh thành khác
nhau như Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Định, Phú Yên, Châu Đốc, Tây Ninh,
Long Khánh, Bình Phước, Thành phố Hồ Chí Minh

I.

Trên lãnh thổ Việt Nam có khoảng 145.235 người Chăm sinh sống, sống rải
rác ở các tỉnh phía Nam như Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình
Thuận, Đồng Nai, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang,... Do đặc điểm
cư trú, tính chất tôn giáo và sắc thái văn hóa mang tính vùng miền, người Chăm ở
Việt Nam được chia thành 3 nhóm cộng đồng chính là: Chăm H'roi, Chăm Ninh
Thuận - Bình Thuận, và Chăm Nam Bộ.


Chăm H'roi bao gồm những người Chăm sống rải rác ở miền núi các tỉnh
Phú Yên, Bình Định; tổng số khoảng 20.500 người. Người Chăm Hroi có nguồn
gốc từ những người Chăm cổ là một bộ phận của cộng đồng Chăm Việt Nam và từ
lâu được gọi là Chăm Hroi. Người Chăm Hroi theo tín ngưỡng dân gian chịu ảnh
hưởng từ đạo Bàlamôn.



Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận hay Đông Chăm gồm những người
Chăm cư trú ở Ninh Thuận, Bình Thuận, có tên gọi là Campaduraga; tổng số
khoảng 98.000 người (Ninh Thuận: 66.000; Bình Thuận: 32.000), đây là nhóm
cộng đồng Chăm lớn nhất chiếm khoảng 67,60% tổng số người Chăm ở Việt


Nam. Người Chăm Ninh Thuận-Bình Thuận có hai nhóm chính phân theo tín
ngưỡng là Chăm Ahiêr (Chăm Bàlamôn) và Chăm Awal (Chăm Bàni). Ngoài ra
còn có một nhóm nhỏ người Chăm Bàni đã cải sang theo Hồi giáo chính thống
vào thập niên 1960 do tiếp xúc với người Chăm Nam Bộ.



Chăm Nam Bộ hay Tây Chăm bao gồm những người Chăm sinh sống
chủ yếu ở An Giang, thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh; tổng số khoảng 26.700
người. Cộng đồng này đến từ Campuchia, và có nguồn gốc xa hơn nữa lại từ Nam
Trung Bộ Việt Nam như hai cộng đồng trên.
Mặc dù là một dân tộc bản địa và đã từng là chủ thể của một quốc gia, nhưng theo
tổng điều tra dân số của Nhà nước Việt Nam vào năm 2009, người Chăm chỉ còn
161.729 người. Tuy là một trong 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam với dân số rất ít
ỏi, nhưng cho đến nay người Chăm đã đóng góp không nhỏ vào việc bảo tồn
những giá trị văn hóa truyền thống góp phần xây dựng và phát triển một quốc gia


Việt Nam thống nhất, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Trong đó, không thể không
kể đến sự sáng tạo của một nền văn minh chữ viết đặc sắc, phong phú và đa dạng
của dân tộc Chăm. Chính vì vậy, trong phạm vi bài viết này, chủ yếu tập trung
giới thiệu các loại chữ viết của người Chăm nhằm để tìm cội nguồn văn hóa của
người Chăm nói riêng, trình độ nền văn minh của một dân tộc ở khu vực Đông
Nam Á nói chung

II.

Đặc trưng kiến thức bản địa của dân tộc Chăm
1. Tiếngnói
Người Chăm là một trong các dân tộc ở Việt Nam thuộc loại hình nhân chủng

Indonesien. Tiếng nói của họ có quan hệ rất gần gủi với các ngôn ngữ của các dân
tộc Raglai, Churu, Jarai và Ê-đê, thuộc nhóm ngôn ngữ Mã lai – Đa đảo (Malayo
– Polynesian) được xếp chung trong một gia đình ngôn ngữ Nam Đảo
(Austronesian).
Trước đây, người Chăm chủ yếu tập trung cư trú trên địa bàn miền Trung Việt
Nam ngày nay, nên tiếng nói của họ đã từng có sự thống nhất toàn vùng. Ngày
nay, do sự xáo trộn của các giai đoạn lịch sử đã làm cho địa bàn cư trú của cộng
đồng người Chăm phân bố cách biệt nhau về điều kiện địa lý và môi trường xã
hội, cho nên đặc điểm lịch sử và văn hóa các nhóm cộng đồng tộc người Chăm
ngày nay không được đồng nhất mà mang tính đặc thù cho từng khu vực địa
phương khác nhau. Đặc biệt là ngôn ngữ đang có khuynh hướng biến đổi theo xu
thế địa phương hóa. Điều này đã dẫn đến sự phân hóa thành ba phương ngữ khác
nhau: phương ngữ cộng đồng người Chăm Hroi (tiêu biểu cho người Chăm ở
Bình Định, Phú Yên); phương ngữ cộng đồng người Chăm Klak (tiêu biểu cho
người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận); phương ngữ cộng đồng người Chăm
Birau (tiêu biểu cho người Chăm ở An Giang, Tây Ninh, Tp. Hồ Chí Minh). Sự
khác biệt chủ yếu của ba phương ngữ này là do cơ cấu ngữ âm (như cách phát âm,
giọng nói) theo vùng miền và du nhập một số từ vựng của các tộc người xung
quanh thông qua quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa.
2. Chữviết
Trong suốt quá trình phát triển lịch sử tộc người của mình, chữ viết của tộc người
Chăm cũng đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử. Lúc đầu, tộc người Chăm vay
mượn văn tự Ấn Độ cổ (chữ Sanskrit) để ghi chép và giao dịch hàng ngày. Dần
dần, dựa trên hệ thống chữ viết này, người Chăm đã sáng tạo nhiều loại hình chữ
viết ngày càng hoàn thiện hơn nhằm để ghi chép các sự kiện lịch sử, phục vụ nhu
cầu giáo dục, truyền dạy kiến thức và văn hóa cho thế hệ sau.
Mặc dù trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử, ngoài các văn khắc trên
các bia ký, người Chăm vẫn còn lưu giữ, tìm cách bảo quản các văn bản viết tay
bằng văn tự có nguồn gốc từ Sanskrit và Arabic như là một di sản văn hóa được



cha ông truyền lại từ bao đời nay. Về văn tự Chăm có nguồn gốc từ Sanskrit, từ
văn tự cổ xưa nhất cho đến văn tự

Sự ảnh hưởng của văn tự Sanskrit đối với chữ viết của người Chăm:
Trong suốt hành trình sáng tạo ra nền văn hóa phong phú, đặc sắc và đa dạng,
người Chăm đã sáng tạo ra nhiều dạng chữ viết để ghi chép ghi chép lại những
trang lịch sử, văn hoá và các sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc mình từ
những năm đầu công nguyên. Mặc dù, văn tự Chăm có sự biến đổi qua các thời kỳ
lịch sử khác nhau, nhưng vẫn luôn giữ những qui tắc cơ bản của cấu trúc và hệ
thống
của
văn
tự
Sankrit.
Trong quá trình giao lưu văn hóa, người Chăm đã sớm biết sử dụng văn tự
Sanskrit để ghi chép lại những trang lịch sử, văn hoá và các sinh hoạt tín ngưỡng
tôn giáo của dân tộc mình từ những năm đầu công nguyên. Trên cơ sở của hệ
thống văn tự Sanskrit này, người Chăm đã sáng tạo nên các chữ viết riêng nhằm
chuyển tải ngôn ngữ tộc người của họ một cách hoàn thiện hơn.
Mặc dù, văn tự Chăm có sự biến đổi qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, nhưng vẫn
luôn giữ những qui tắc cơ bản của cấu trúc và hệ thống của văn tự Sankrit. Điều
này, có thể nói rằng, văn hoá Ấn Độ và văn hoá Việt Nam nói chung, văn hoá
Chăm nói riêng là hai nền văn hoá đã có mối quan hệ giao lưu từ lâu đời.
3. Nghệ thuật
a)
-

Tháp Chàm
Tháp chàm là một dạng công trình thuộc thể loại kiến trúc đền tháp Champa,

thuộc kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc Chàm (còn gọi là dân tộc Chăm,
sinh sống ở miền Nam Trung Bộ Việt Nam ngày nay.Có thể thấy vị trí phân bố
các đền tháp là những nơi từng là nơi ở của người Champa, xa hơn nữa còn có
những ngôi tháp có thể coi là tháp Champa trên đất nước Campuchia như tháp
Damray Krap. Ngược lại, những yếu tố JAva hay khmer cũng được thấy trên các
tháp Champa như ở Khương Mỹ, Hưng Thanh, Dương Long, hay có cả những
ngôi tháp còn được người Champa gọi là "tháp Khmer" như tháp Champa Hoà
Lai..Những điều bí ẩn xung quanh vật liệu được người Chăm sử dụng để xây
dựng các công trình tôn giáo ở Việt Nam sau hơn 100 năm đã được giải mã. Trước
đó, một người thợ thủ công tên là Lê Văn Chỉnh (thuộc tỉnh Quảng Nam) cũng đã
bỏ nhiều thời gian để nghiên cứu phương pháp xây dựng tháp Chăm đã phát hiện
được hợp chất dầu rái trong gạch để xây tháp và chất dính

-

Về tổng thể, khu đền tháp Chăm nằm trên diện tích: 4000m2, bao gồm: Tháp
chính - tháp Kalan cao hơn 20m, tháp cổng - tháp Gopura cao hơn 8m và tháp hỏa
- tháp Kosaghra cao hơn 9m. Giá trị nghệ thuật tiêu biểu tập trung chủ yếu ở tháp
chính - tháp trung tâm.


-

Tháp trung tâm được xây bằng gạch, có bốn mặt hình vuông đối xứng nhau. Mặt
trước hướng về phía đông, có cửa ra vào, còn ba mặt còn lại ở 3 hướng và cả 3
hướng đều có 3 cửa giả. Tháp có 3 tầng được cấu trúc như nhau, mỗi tầng càng
lên cao càng thu nhỏ dần và kết thúc bằng một Linga bằng đá trên nóc tháp. Tất cả
thành phần kiến trúc đi vào mảng khối, vòm cửa thu vào và vút cao hình mũi giáo.
Trên mặt tường các trụ ốp được tạo với những đường gờ nổi chạy dọc thân tường
tháp, các góc được tạo những phiến đá điểm cách điệu.


-

Một điểm độc đáo khi nói đến tháp Chăm là chất liệu xây dựng nên chúng đó là
đất sét. Đất sét là một phần quan trọng trong việc làm nên sự tồn tại bền bỉ qua
hàng ngàn năm của các công trình tháp Chăm, bên cạnh đó, không chỉ độc đáo ở
đất sét mà ngay cả chất liệu kết dính những viên gạch với nhau cũng là một điểm
đặc biệt độc đáo, riêng có, bởi chất liệu kết dính này là tinh dầu được chiết xuất từ
cây Dầu Rái - một loại cây chỉ có thể tìm thấy ở xung quanh khu Thánh địa Mỹ
Sơn. Và một nét độc đáo nữa là phương pháp xây dựng Tháp. Tháp không phải
được dựng lên một cách thông thường mà sử dụng phương pháp mài chập, nghĩa
là dùng hai viên gạch mài nhẵn sau đó ghép gạch lại với nhau và việc ghép này
khá tỉ mỉ, tốn nhiều thời gian...Tháp Chăm thường có mặt bằng vuông, dùng gạch
làm vật liệu xây dựng chính, chỉ có một ít bộ phận bằng đá như mi cửa, trụ cửa,
bậc cửa. Mỗi tháp có ba tầng, nhỏ dần khi lên cao theo dạng núi Meru - nơi trú
ngụ cùa các thần Bà la môn, tháp chỉ mở một cửa chính hướng về phía Đông, 3
cửa còn lại đóng kín. Theo quan niệm của người Chăm thì hướng Đông là hướng
của thần linh, Bắc là hướng của ma quỷ, Tây Nam là hướng của dân chúng nên
nhà cửa của người Chăm thường mở cửa về hướng Tây Nam.

-

Tháp Chăm đặt trong sự gắn kết với cộng đồng dân cư luôn được coi như một
trung tâm chính trị, tôn giáo… là không gian đặc biệt linh thiêng đối với người
Chăm.

-

Các tháp Champa hầu hết ở trên những đồi cao hoặc núi thấp, được xây dựng
thành từng cụm, hướng Đông nhìn ra biển đón dương khí thì chùa, tháp Việt

Nam thời lý, thời Trần cũng thường xây dựng trên gò, đồi và sườn núi, tạo nên cả
một quần thể, hướng Nam hoặc Nam chếch Đông, đón dương khí. Tháp Việt Nam
cũng vươn cao với nhiều tầng như tháp Champa và có bình diện vuông gần với
các phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Tháp Champa cũng như tháp Lý - Trần về cơ
bản cũng xây bằng gạch hoặc phụ thêm một số thành phần bằng đá. Có điều, tháp
Champa được đục trực tiếp trên gạch sau khi xây, còn ở tháp Lý - Trần thì hình
trang trí được in, khắc trực tiếp trên gạch, rồi sau đó mới mang nung, xây đến đâu
là có hình trang trí cho chỗ đó rồi.

-

Người Chăm luôn tự hào về những ngôi tháp Chăm-pa cổ kính xây dựng bằng
đất nung độc đáo.Hình ảnh vũ nữ Chăm-pa cổ xưa đã được chạm khắc vào các
đền tháp, trong đó bức phù điêu Vũ nữ Trà Kiệu là một trong những tuyệt tác.Là
một bộ phận của nền văn hoá dân tộc, kiến trúc dân gian của người Chăm cũng có


một lịch sử và truyền thống lâu đời. Bàn tay và khối óc sáng tạo của dân tộc Chăm
làm sáng tỏ tính phong phú, đa dạng, giúp chúng ta thấy được sự giao lưu văn
hoá, quá trình phát triển của tộc người
Gốm
Nghề truyền thống khác của người Chăm là nghề làm đồ gốm.Làng Chăm Bầu
Trúc duy nhất có nghề làm đồ gốm từ lâu đời. Hầu như gia đình nào cũng làm,
phần lớn do phụ nữ đảm đang. Từ chiếc lu đựng nước, chiếc nồi đất, bộ khuôn đổ
bánh xèo đến siêu sắc thuốc, chiếc cà om đều rất dụng công với những hoa văn
độc đáo của dân tộc. Sản phẩm gốm Chăm còn được trao đổi rộng rãi với nhiều
vùng và nhiều tộc người khác nữa. Trong quá trình nghiên cứu, chúng ta thấy rằng
người Chăm đã có một nền văn hoá thật phong phú về nội dung, đa dạng về diện
mạo. Nền văn hoá ấy đã được thể hiện trong nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh vực kiến
trúc; đó là kết quả của quá trình hoạt động có định hướng trong một thời gian lịch

sử lâu dài
Làng gốm Bàu Trúc nằm ở ven quốc lộ 1A, thuộc thị trấn Phước Dân, huyện
Ninh Phước, cách thành phố Phan Rang - Tháp Chàm 10km về hướng nam. Đây
là một trong hai làng gốm cổ xưa nhất Đông Nam Á. Làng gốm Bàu Trúc còn
được coi như một bảo tàng mang đặc tính gốm truyền thống của dân tộc Chăm. Ở
nhiều nơi, người ta dùng bàn xoay để nặn gốm, còn các nghệ nhân gốm Chăm vẫn
dùng đôi tay khéo léo để tạo nên những tác phẩm tuyệt vời với mẫu mã phong
phú. Nghề làm gốm ở đây rất công phu, trong đó, vật liệu đóng một vai trò rất
quan trọng.Đó là một loại đất sét đặc biệt được lấy bên bờ sông Quao, đem về đó
đập nhỏ và trộn với cát mịn nhào nhuyễn. Lượng cát được trộn vào tuỳ thuộc theo
kích thước và công dụng của mỗi loại sản phẩm. Do đó gốm Bàu Trúc hoàn toàn
khác so với gốm của những nơi khác. Các hoa văn trang trí trên gốm Bàu Trúc là
những đường khắc vạch hình sông nước, chấm vỏ sò và hoa văn thực vật; có cả
hoa văn móng tay trên vai cổ gốm rất mộc mạc, gần gũi, nhẹ nhàng. Sản phẩm
gốm được nung lộ thiên ở nhiệt độ khoảng từ 500 - 6000C trong vòng 6 giờ, sau
đó được lấy ra để phun màu (loại màu này được chiết xuất từ trái dông, trái thị ở
trên rừng) rồi được tiếp tục nung lại trong vòng 2 giờ. Vì vậy, gốm Bầu Trúc có
màu đặc trưng vàng đỏ, đỏ hồng, đen xám, vệt nâu, tạo thành các sản phẩm gốm
độc đáo, mang theo vẻ "lung linh của nền văn hóa Chămpa".
b)
-

c)

Múa Chăm, Nhạc cụ truyền thống
- Không chỉ có một nền âm nhạc dân tộc độc đáo và đa dạng, người
Chăm có nền nghệ thuật múa dân gian đặc sắc, và là một bộ phận
quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Chăm. Tiếng
trống paranưng nổi lên hoà quyện với tiếng kèn saranai như cuốn hút
những bước chân của những chàng trai, cô gái Chăm bước vào những

điệu múa uyển chuyển nhịp nhàng, những điệu múa say cuốn, mê
hoặc lòng người mang đậm phong cách văn hoá Chăm.


Múa Dân gian Chăm, còn gọi là múa cộng đồng, thường diễn ra vào
các ngày lễ đầu năm, đầu mùa. Những điệu múa đặc trưng là đoá pụ
(có nghĩa là đội nước, khi múa, những cô gái đội một cái bình trên
đầu- đội đầu là một hình thức vận chuyển phổ biến của người Chăm),
múa quạt, múa khăn, múa trống paranưng, múa roi, múa chèo thuyền.
Múa chèo thuyền được coi là điệu múa lâu đời nhất của người Chăm,
thể hiện sinh hoạt lao động vùng biển của con người. Đa phần các
điệu múa của người Chăm đều gắn liền với lễ hội, mà hệ thống lễ hội
của người Chăm thì vô cùng phong phú. Mỗi điệu múa chứa đựng
những nội dung khác nhau, nhưng đều phản ánh ước vọng của người
Chăm trước thần linh, thân tộc, thiên nhiên và cộng đồng. Họ mong
sao cho mưa thuận gió hoà, mùa màng được bội thu, cây cối tươi tốt,
con cháu ấm no khoẻ mạnh, hạnh phúc, được sống yên ổn làm ăn và
thờ phụng tổ tiên.
- Vũ điệu múa Chăm thường bắt nguồn từ những động tác lao động,
sinh hoạt thường ngày và đều phản ánh những ước vọng của con
người trước thần linh, thiên nhiên và cuộc sống cộng đồng. Những
điệu múa thể hiện sự cầu mong cho mưa thuận gió hoà, con cháu khoẻ
mạnh, yên ổn làm ăn và thờ phụng tổ tiên, nhưng cũng có những điệu
múa thể hiện ý chí quật cường sẵn sàng đương đầu mọi khó khăn thử
thách trong cuộc sống (múa roi).
- Múa dân gian Chăm dựa trên bốn động tác cơ bản như: múa con công,
múa con gà tây, múa quí phái và múa hoàng tử. Các nghệ nhân đã phát
triển, biến hoá, kết hợp lại tạo thành những động tác múa hoàn
chỉnh.Có thể xuyên suốt bài múa chỉ có bốn động tác chính mang tính
chất qui nạp, chủ đạo nhưng vẫn tạo được ấn tượng độc đáo, cuốn hút

người xem vào không khí linh thiêng, sâu thẳm nhưng chứa đầy ẩn
vọng. Động tác tay có bốn động tác, còn động tác chân trong múa
Chăm truyền thống chỉ có một bước nhún nhưng không thể thiếu, đây
là yếu tố quan trọng tạo nên sự mềm mại, uyển chuyển của các điệu
múa Chăm. Động tác nhún êm dịu, bồng bềnh như những đợt sóng
nhẹ trên mặt biển mênh mông. Trong động tác chân có những nét phụ
tô điểm cho những nhịp chính gây cảm giác lạ thường.
- Múa dân gian Chăm, cùng với múa cung đình và múa tôn giáo, là một bộ
phận độc đáo trong di sản văn hóa Chăm. Mỗi điệu múa Chăm chứa đựng
trong đó những nội dung khác nhau, nhưng đều hướng đến các điểm chính là
-

thể hiện ước vọng của người Chăm trước thần linh, thân tộc, thiên nhiên và
cộng đồng. Họ mong sao cho mưa thuận gió hòa, mùa màng được bội thu,
cây cối tươi tốt, con cháu ấm no khỏe mạnh, hạnh phúc, được sống yên ổn
làm ăn và thờ phụng tổ tiên. Ngoài ra còn có động tác nhún êm dịu, bồng


-

-

-

-

-

-


bềnh như những đợt sóng nhẹ trên mặt biển mênh mông.Trong động tác chân
có những nét phụ như tô điểm cho những nhịp chính gây cảm giác lạ thường.
Múa Chăm là một kho tàng nghệ thuật quí báu không chỉ của dân tộc Chăm mà
còn của Việt Nam và nhân loại. Bên trong những điệu múa ấy, người ta có thể
phần nào cảm nhận được tâm hồn đầy chất văn hóa biển, dạt dào và sôi động,
không ít sự lãng mạn trong tâm hồn của dân tộc Chăm
Nhạc cụ là thành tố quan trọng để tạo nên phần hồn lễ hội Chăm. Nhạc cụ Chăm
không chỉ là sản phẩm vật chất đơn thuần mà còn là phương tiện biểu diễn nghệ
thuật mang lại biểu cảm thẩm mỹ trong đời sống tâm linh. Có thể nói lễ hội Chăm
là nơi bảo tồn, lưu giữ nhạc cụ Chăm.
Nhạc cụ của tộc người Chăm nhằm phục vụ cho lễ hội.Mỗi nhạc cụ, hoặc nhóm
nhạc cụ lại được gắn với từng lễ hội hoặc người hành lễ của một lễ hội cụ thể.Hệ
thống nhạc cụ truyền thống của người Chăm rất đa dạng và phong phú, bao gồm
bộ gõ hay còn gọi là họ màng rung, bộ hơi và bộ dây. Bộ gõ bao gồm các loại
trống: ghì nằng, paranưng...; bộ hơi có kèn saranai, tù và ốc biển; và bộ dây có
đàn ca nhi, nhị mu rùa... Nhạc cụ Chăm sử dụng trong lễ hội bao gồm: Đàn Kanhi,
trống Ghinăng, Paranưng, kèn Saranai, Hagar (trống nhỏ), Chiêng, Asăng (tù và),
Tăngek (nhạc gõ bằng 2 cây gỗ). Ngoài ra còn có Mã la do người Ra glai biểu
diễn.
Trong số các loại nhạc cụ trên thì saranai, paranưng, ginăng, kanhi, hagăr, asăng
và cheng được người Chăm xem như loại nhạc khí thiêng nên trước khi mang ra
sử dụng đều phải làm lễ cúng, xin phép thần linh và được diễn tấu trong lễ nghi
cúng tế, thỉnh mời và nghênh đón thần linh. Riêng ba bộ nhạc cụ gồm saranai,
baranưng, ginăng tượng trưng cho bản thể con người (đầu, mình và tứ chi) được
người Chăm xem như là nhạc cụ chỉ đạo.
Kèn saranai là nhạc cụ định âm duy nhất hiện hữu trong đời sống tín ngưỡng và
sinh hoạt của người Chăm. Kèn gồm ba phần: thân, loa và chuôi kèn với bảy lỗ ở
trên và một lỗ ở dưới. Theo quan niệm của người Chăm, bảy lỗ trên biểu thị thính
giác, vị giác, thị giác và khứu giác.Lỗ bên dưới là đường thoát của hồn khi rời
khỏi xác. Nghệ nhân Chăm ví cây kèn saranai là phần đầu của bộ ba nhạc cụ

Chăm: Kèn saranai, trống ghinằng và trống paranưng. Kèn saranai có chức năng
thổi phần giai điệu dựa theo tiết tấu trống ghinằng và còn có vai trò biểu diễn mở
đầu cho mỗi một điệu thức mới hay chuyển tiếp từ điệu thức này sang điệu thức
khác theo hiệu lệnh của thầy vỗ. Với âm thanh to, vang xa thích hợp để hoà tấu
với trống ghinằng và paranưng nên kèn saranai là nhạc cụ không thể thiếu trong
các dàn nhạc lễ của người Chăm.
Trống paranưng là bộ phận để tăng hay giảm cường độ cao thấp, có 3 âm chính:
tắc, tăm, tầm được người Chăm xem như một bộ phận của lồng ngực “lục phủ ngũ
tạng” (aphik ala agôl). Thân trống làm bằng gỗ đục rỗng, mặt trống bằng da mang
hay da dê và căng bằng hệ thống dây mây với 12 con nêm bằng gỗ. Trống
paranưng vừa là nhạc cụ, vừa là vật tổ của Mưduôn, môn phái thờ Pô băl Gana,
một chức sắc đảm nhiệm việc cúng tế, lễ hội tín ngưỡng dân gian cho cả Chăm
Bàlamôn và Bàni. Khi sử dụng paranưng phải mặc lễ phục trong tư thế ngồi, đặt


trống vào đùi, ôm sát vào ngực, vỗ hai tay vào trống. Với thủ pháp rung ngón và
đôi khi dùng cả bàn tay trái bịt mặt trống tạo thành âm thanh ngắt, tay phải vỗ vào
mặt trống với thủ pháp vỗ trọn bàn để tạo âm thanh trầm, đánh nửa bàn tay tạo âm
thanh bổng... Tuỳ theo điệu nhạc mà nghệ nhân phối hợp các thủ pháp trên một
cách thích hợp để tạo sắc thái âm điệu trầm bổng khác nhau.
Trống ginăng có hình dạng tương tự như trống cơm của người Việt nhưng lớn
hơn. Trống có tang trống làm bằng gỗ trắc hay bằng lăng khoét rỗng, một mặt
bằng da nai, một mặt bằng da trâu. Thân trống bào láng cả trong lẫn ngoài hơi
phình ở giữa, 2 mặt căng da. Mặt nhỏ căng da dê hay da mang, có 2 âm chính: tớ,
tìn. Mặt lớn căng da trâu, có 2 âm chính: dit, gleng, đánh bằng dùi. Như một
nguyên tắc bất di bất dịch, trống ghinằng bao giờ cũng đi một cặp, (họ quan niệm
như âm với dương) và khi chơi được đặt chéo với nhau, một mặt tiếp đất, một mặt
hướng lên trời. Nghệ nhân diễn tấu trong tư thế ngồi với trạng thái tĩnh, hai chiếc
đặt chéo nghiêng áp sát nhau trên mặt đất, do nghệ nhân dân gian sử dụng. Trống
ghinằng tham gia vào tất cả các lễ hội của người Chăm từ lễ hội thiêng cho đến

hội vui.Trống ghinằng tham gia vào đệm cho những điệu múa truyền thống của
người Chăm, tạo những tiết tấu rất sôi động, giúp cho không khí của buổi lễ thêm
vui vẻ, rộn rã.
Theo quan niệm của người Chăm, 3 nhạc khí kèn saranai, trống baranưng và
trống ginăng tượng trưng: trời, đất, con người nên luôn được diễn tấu với nhau,
thể hiện sự hòa nhập “thiên, địa, nhân”.
Nhạc cụ truyền thống là biểu hiện tập trung những thành tựu âm nhạc đã được
kết tinh trong suốt chiều dài phát triển của lịch sử cộng đồng người Chăm và được
người Chăm coi là nhạc khí thiêng.Chúng không những có giá trị về mặt thẩm mỹ
mà còn có giá trị về mặt âm nhạc.Hệ thống nhạc cụ của người Chăm đã góp một
phần không nhỏ tạo nên nét văn hóa độc đáo cho nền âm nhạc của người Chăm,
cũng như hệ thống âm nhạc cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
d) Dệt vải
Người chăm vốn được biết đến với rất nhiều nghề truyền thống. Tuy nhiên trải
qua thời gian, nghề truyền thống cũng dần mai một. Cho tới nay chỉ còn một vài
làng nghề truyền thống nổi tiếng, trong đó nghề dệt vải đã tạo nên điểm đặc sắc,
phong phú cho nền văn hóa truyền thống dân tộc Chăm
Nghề dệt của người Chăm được ra đời khá sớm. Theo truyền thuyết, mẹ xứ sở
Pôlnư NaGar dạy cho phụ nữ Chăm nghề dệt để mặc và tôn vinh sắc đẹp. Sách
“Vân đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn viết: “Ở Lâm Ấp có cây cát bối hoa nở giống
như lông ngỗng, rút lấy sợi làm chỉ thêu khăn, xiêm áo, có hình rồng Chăm, chim
thần Garuda phục vụ vua chúa, cung đình”. Ngày nay, nghề dệt thổ cẩm vẫn còn
giữ nhiều nét truyền thống như: những hoa văn, màu sắc đặc trưng được dệt trên
loại khung dệt dài (Jih Dalah) chỉ có ở người Chăm, dệt ra những sản phẩm khổ
hẹp dùng trong lễ nghi, tôn giáo. Hoa văn và hoa văn thổ cẩm Chăm là một đề tài
phong phú thể hiện bản sắc văn hóa tộc người rõ rệt. Đó là một nền nghệ thuật dân



gian độc đáo với óc thẩm mỹ, tư duy đơn giản mà khúc chiết, giàu có, liên quan

đến yếu tố tín ngưỡng dân gian và dấu ấn tôn giáo của người Chăm.
Các sản phẩm dệt của người Chăm thường có hoa văn, họa tiết: ô vuông, hình
học, kẻ sọc, sóng nước, vân mây, bông dâu, lồng đèn… Phụ nữ Chăm thường dùng
khăn đội đầu hình chữ nhật dài bằng vải mịn, mỏng, màu trắng thêu viền quanh
bằng chỉ màu với nhiều họa tiết. Váy của phụ nữ Chăm thường có màu nền là màu
tím đỏ, kết hợp hài hòa với các màu khác như: xanh biếc, vàng mơ và trắng… Xà
rông nam thường có các màu nâu, đỏ, tím, xanh lá cây, xanh dương… Đặc biệt trên
mảnh vải xà rông của nam giới thường được dệt theo chiều dọc một dãy hoa văn
có màu sắc khác biệt so với màu nền của chiếc xà rông, khi quấn vào thì dãy hoa
văn này sẽ nằm ở phần giữa thân phía sau của người mặc. Bên cạnh đó các sản
phẩm dệt đậm bản sắc văn hóa Chăm, mềm mại, duyên dáng, tinh xảo từ sự phối
màu đến kỹ thuật dệt, tạo hình hoa văn, đòi hỏi phải trải qua nhiều công đoạn, thời
gian với nhiều công cụ trong một quy trình sản xuất đòi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn thận và
cầu kì
Điểm đặc sắc trong kỹ thuật dệt của người Chăm là làm cho hoa văn nổi lên
giữa nền vải và đường chỉ ngang mà không bị che khuất giữa các màu. Sản phẩm
nơi đây thường sử dụng những kiểu hoa văn truyền thống như con thoi, hoa dâu,
mắc võng, cánh quạt, răng cưa… đôi khi họ cũng tiếp thu những kiểu hoa văn mới
lạ, đẹp từ nơi khác và kết hợp với kiểu hoa văn truyền thống để làm cho sản phẩm
sinh động, mới mẻ hơn đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng nhưng vẫn giữ
được nét truyền thống văn hóa của dân tộc mình.
Những giá trị đặc trưng cơ bản vốn có của nghề dệt truyền thống Chăm được thể
hiện đầy đủ trên mọi phương diện, mọi lĩnh vực, gắn liền với đời sống tâm linh,
phong tục, tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, sinh hoạt lao động và sinh hoạt văn hóa,
góp phần tạo nên diện mạo, bản sắc riêng của của dân tộc Chăm
e) Văn Học
Dân tộc Chăm với một nền văn học đa dạng, phong phú,phát triển từ bao đời
nay
Sử thi là một dòng văn học viết quan trọng của người Chăm. Dù đa số là vay
mượn nhưng nhà thơ Chăm biết hoán cải chúng phù hợp với hoàn cảnh, thực tế

lịch sử- xã hôi của mình. Qua các ankayet này, thể thơ ariya lục bát Chăm phát
triển hoàn chỉnh và tồn tại đến nay.
Về văn học dân gian: Truyện kể dân gian gồm thần thoại, truyền thuyết, truyện
cổ tích được Thiên Sanh Cảnh, G.Moussay…sưu tập.
Thơ ca dân gian gồm tục ngữ, câu đố, ca dao, đồng dao, tụng ca…
Văn bia ký sự được sáng tác từ thế kỷ III đến thế kỷ XV bằng cả ngữ là văn tự
Chăm cổ và Sanskrit có mặt khắp miền duyên hải Trung Bộ. Thời gian qua các
học giả Pháp phát hiện, dịch và công bố dịch gần 200 minh văn, đến năm 1995
Claude Tacques thu thập và in thành sách với tên gọi Etudes Epigraphiques
Surlepays Cham dày 330 trang, trong đó Lương Minh đã dịch sang Tiếng Việt 25
minh văn. Đây là các sáng tác vừa có giá trị sử học lẫn văn chương.


-

-

-



Văn học viết có mấy dòng như: Akayet Sử thi, Ariya Trường ca trữ tình, Ariya
patauw adat Gia huấn ca, thơ thế sự, thơ triết lý…
Akayet Dewa Mumo với 471 câu thơ ariya cổ điển xuất hiện ở Champa vào thế
kỷ XVI
Thơ thể sự có Ariya Glong Ariak nổi tiếng gồm 116 câu được Thiên Sanh Cảnh
dịch đăng trên nội San Panrang ( 1972)
Bộ ba văn học Chăm, khái luận- văn tuyến của Inrasara ra đời năm 1994-1995
thì nền văn học Chăm mới xuất hiện tương đối đầy đủ và có hệ thống về di sản
văn học của dân tộc này mà trước đó chưa từng có.

Không kể thể loại truyện cổ hay truyền thuyết, ca dao hay tục ngữ dân tộc nào
cũng có; cũng chưa kể tới các trường ca triết lí như Ariya Nau Ikak (Thơ đi buôn)
hay các trường ca thế sự như Ariya Ppo Parơng... rất độc đáo; riêng về hình thức:
Ariya - lục bát Chăm chẳng hạn. Đây là thể thơ như lục bát Việt, nhưng nó linh
hoạt trong cấu trúc hơn, nên khả năng sáng tạo lớn hơn. Đến hôm nay vẫn chưa có
nghiên cứu nào có thể xác minh ai có trước ai hay dân tộc nào vay mượn dân tộc
nào. Chỉ biết rằng ariya - lục bát có đó, làm phong phú nền văn học Chăm và Việt
xưa và nền văn học đa dân tộc Việt Nam hôm nay. Bởi cấu trúc ngôn ngữ khác
nhau, nên lối phát triển hai dòng thơ đã có khác biệt nhất định.
Về nội dung và đề tài: 250 minh văn Champa được sáng tác từ thế kỉ III đến thế
kỉ thứ XV bằng cả tiếng Phạn lẫn tiếng Chăm cổ là cái được kể đầu tiên. Đây là
điều mà lịch sử văn học Việt Nam chưa hề có, nhưng chỉ chưa đầy 10% minh văn
đó được dịch sang tiếng Việt, chủ yếu là để phục vụ cho nghiên cứu chứ chưa là
chọn lọc mang tính văn chương. 5 sử thi - Akayet Chăm có xuất xứ từ/ mang âm
hưởng Mã Lai/ Ấn Độ được viết vào thế kỉ XVI - XVIII, là sáng tác thành văn đặc
trưng Chăm, một hiện tượng không có trong văn học sử Việt Nam. Nữa, Chăm sở
hữu 4 sử thi nổi tiếng; nhưng khác với các dân tộc anh em ở Tây nguyên như Êđê
hay Bana… sử thi Chăm đã được văn bản hóa từ thế kỉ XVI. Cuối cùng, 3 trường
ca - Ariya trữ tình nổi tiếng mà nội dung mang chở sự đối kháng quyết liệt giữa
Hồi giáo
Học biết và tiếp nhận vốn văn hóa ông bà để sáng tạo cái mới, là vấn đề đặt ra
cấp bách hôm nay. Chỉ khám phá mình thì chưa đủ; nếu chỉ biết để bảo tồn, chúng
ta sẽ làm kẻ giữ kho của cha ông, không hơn. Tiếp thu và sáng tạo. Tiếp thu mình
và thiên hạ để làm ra cái mới. Bởi nếu nhìn truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc
như là cái gì bất di bất dịch thì vẫn chưa đủ. Bởi ngay cái gọi là bản sắc hay
truyền thống cũng là một sáng tạo trầm tích qua nhiều thế hệ. Có thể nói đấy là
tiếp thu và sáng tạo được ông cha ta chia ở thì quá khứ. Thế hệ đến sau cũng sẽ
gọi là bản sắc cái chúng ta đang dốc sức sáng tạo hôm nay. Bản sắc và truyền
thống không chịu dừng lại ở những gì đã có, không cứ mãi vuốt ve lòng kiêu hãnh
qua những gì cha ông để lại mà phải dám sáng tạo cái mới, có những đóng góp

mới vào kho tàng văn học Việt Nam đa dân tộc ngày mai.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×