Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế ở xã duy phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.22 KB, 32 trang )

Lời nói đầu
Trong lịch sử loài người từ trước đến nay, phụ nữ bao giờ cũng là một bộ
phận quan trọng trong đội ngũ đông đảo những người lao động trong xã hội. Bằng
lao động sáng tạo của mình, phụ nữ đã góp phần làm giàu cho xã hội, làm phong
phú cuộc sống con người. Phụ nữ luôn thể hiện vai trò không thể thiếu của mình
trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong lĩnh vực hoạt động vật chất, phụ nữ là
một lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải để nuôi sống con người. Không chỉ tái
sản xuất ra của cải vật chất, phụ nữ còn tái sản xuất ra bản thân con người để duy
trì và phát triển xã hội. Trong lĩnh vực hoạt động tinh thần, phụ nữ có vai trò sáng
tạo nền văn hoá nhân loại. Nền văn hóa dân gian của bất cứ nước nào, dân tộc nào
cũng có sự tham gia bằng nhiều hình thức của đông đảo phụ nữ. Song song với
những hoạt động góp phần sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần, phụ nữ
còn tích cực tham gia đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, vì sự tiến bộ
của nhân loại. Đó là vai trò của người phụ nữ nói chung trên toàn thế giới và ngay
tại Việt Nam vai trò của người phụ nữ cũng rất quan trọng. Phụ nữ và trẻ em gái
Việt Nam tham gia tích cực vào việc giảm nghèo và phát triển gia đình, cộng đồng
và đất nước. Từ xưa đến nay, dù ở vị trí nào người phụ nữ cũng luôn có những vai
trò đặc biệt quan trọng. Trong gia đình, họ là người mẹ, người vợ đảm đang; ngoài
xã hội họ là người giỏi dang, tháo vát. Thực tế cho thấy, có không ít những phụ nữ
thành đạt trong cuộc sống, trong số đó có một bộ phận không nhỏ những phụ nữ
nắm giữ những vị trí quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã
hội… Tuy nhiên, với “thiên chức” làm mẹ, người phụ nữ phải mất khá nhiều thời
gian cho việc sinh con và nuôi dạy con. Bên cạnh đó, họ còn phải gánh vác các
công việc nội trợ của gia đình, chính vì thế thời gian để họ tiếp cận cơ hội phát
triển còn hạn chế. Hiện nay, với xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam đang đứng trước cơ
1


hội hội nhập và phát triển nhưng điều đó cũng đặt ra nhiều thách thức. Những rủi
ro của cơ chế kinh tế thị trường có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của đại bộ phận
nhân dân. Trong đó, phụ nữ là bộ phận chịu ảnh hưởng nhiều nhất, đặt biệt là phụ


nữ nông thôn. Để giúp phụ nữ đối phó những khó khăn này; Nhà nước đã có một
số chính sách nhằm hỗ trợ, khuyến khích phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, ổn
định cuộc sống và tham gia hoạt động xã hội.
Huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam thuộc khu vực duyên hải Nam trung bộ
có điều kiện kinh tế – xã hội về cơ bản còn khó khăn. Trong 14 xã, thì Duy Phước
là một trong những xã có điều kiện kinh tế chậm phát triển, đời sống của người dân
trong nhiều năm trở lại đây gặp nhiều khó khăn, đời sống của nhân dân nhìn chung
còn thấp. Mặt khác, do điều kiện tự nhiên không được ưu đãi, hàng năm còn chịu
nhiều ảnh hưởng của bão lũ, thời tiết bất thường nên hoạt động kinh tế của nhân
dân còn gặp nhiều trở ngại. Chính vì lẽ đó, nhu cầu được quan tâm, hỗ trợ để phát
triển kinh tế gia đình của người dân nói chung và của phụ nữ nói riêng là rất lớn.
Trong những năm qua, chính quyền xã và trực tiếp là Hội liên hiệp phụ nữ xã đã
triển khai thực hiện một số chính sách của Nhà nước nhằm hỗ trợ, khuyến khích
phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, ổn định cuộc sống và tham gia hoạt động xã hội.
Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện một số chính sách hỗ trợ phụ nữ vẫn chưa đem
lại kết quả như mong muốn.
Với tất cả những lý do trên, tôi tiến hành tìm hiểu đề tài: “Hiệu quả của một
số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế ở xã Duy Phước”
nhằm tìm hiểu về thực trạng của việc thực hiện chính sách, qua đó chỉ ra một số
nguyên nhân dẫn đến thực trạng và đề xuất một số khuyến nghị góp phần nâng cao
hiệu quả của các chính sách này.

2


A.CƠ SỞ LÝ LUẬN
I.Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Khi nói về phụ nữ, người ta thường nhắc đến cuốn sách “Vai trò của phụ nữ
trong phát triển kinh tế” của Ester Boserup (1970). Theo nhà khoa học nữ này thì
cho đến những năm 1970, những nghiên cứu chỉ ra rằng mặc dù phụ nữ thường là

những người có đóng góp chính vào năng suất chủ yếu của cộng đồng, nhất là
trong nông nghiệp, nhưng những đóng góp của họ không được tính đến trong
thống kê quốc dân cũng như trong kế hoạch hoá và thực hiện các dự án phát triển.
Cuốn sách của E. Boserup đã được coi là lần đầu tiên đặt lại vấn đề trong cách
đánh giá về vai trò của phụ nữ, qua cuốn sách của mình, bà đã chứng minh vai trò
kinh tế của phụ nữ thông qua nghiên cứu phụ nữ nông dân vùng Tây Sahara, châu
Phi. Một điều mà trước đây, các nhà tạo lập chính sách và trong giới nghiên cứu kể
cả những nhà khoa học nữ đã không thấy hết và do vậy không công nhận một cách
đúng đắn vai trò kinh tế rất quan trọng của phụ nữ.
Ở Việt Nam, công trình nghiên cứu về phụ nữ đầu tiên xuất bản được phát
hành rộng rãi và dịch ra nhiều thứ tiếng là cuốn “Phụ nữ Việt Nam qua các thời
đại” của Lê Thị Nhâm Tuyết (1973, 1975). Trong cuốn sách, tác giả đã phân tích
những nét cơ bản về các truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong mọi lĩnh vực đời
sống xã hội. Đặc biệt về vai trò truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong sản xuất
nông nghiệp. Cuốn sách đã trình bày nhiều tư liệu có giá trị khoa học, gây tiếng
vang trong giới nghiên cứu. Sau gần một phần tư thế kỷ, tác giả cuốn sách “Phụ nữ
Việt Nam qua các thời đại” lại cho xuất bản cuốn “Hình ảnh Phụ nữ Việt Nam
trước thềm thế kỷ XXI”. Như lời giới thiệu cuốn sách của GS. Vũ Khiêu: Cuốn
sách này đã thu thập những ý kiến khác nhau xung quanh những vấn đề lớn của
người phụ nữ Việt Nam và đặc biệt là giới thiệu các kết quả thu được qua các cuộc
điều tra khoa học. Cuốn sách tập trung vào những đặc trưng của người phụ nữ Việt
Nam trong lịch sử, trong lao động nghề nghiệp, trong gia đình, trong quản lý xã
hội.
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, có nhiều cuốn sách xuất bản với
nội dung đề cập đến vấn đề phụ nữ với phát triển kinh tế hoặc bàn về phụ nữ với
phát triển nông nghiệp, nông thôn. Để tiện theo dõi, chúng tôi chia theo một số chủ
đề như sau: Phụ nữ và phân công lao động theo giới: Phân công lao động theo giới
3



trong gia đình nông dân (Lê Ngọc Văn, 1999); Phân công lao động trong kinh tế hộ
gia đình nông thôn - vấn đề giới trong cơ chế thị trường (Vũ Tuấn Huy, 1997);
Phân công lao động nội trợ trong gia đình (Vũ Tuấn Huy và Deborah Carr, 2000).
Phụ nữ với phát triển ngành, nghề: Tìm hiểu cơ cấu kinh tế và khả năng phát triển
ngành nghề của phụ nữ nông thôn (Lê Ngọc Lân, 1997); Vấn đề ngành, nghề của
phụ nữ nông thôn với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn (Lê Thi, 1999); Phụ nữ nghèo nông thôn trong cơ chế thị trường (Đỗ Thị Bình
và Lê Ngọc Lân, 1996); Vấn đề tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao địa vị người
phụ nữ hiện nay (Lê Thi, 1991); Lao động nữ di cư từ nông thôn ra thành phố (Hà
Thị Phương Tiến - Hà Ngọc Quang, 2000) Trang 6 Những công trình trên, tập
trung nghiên cứu khá sâu sắc những vấn đề về phụ nữ nhưng chưa có công trình
nào thực sự tập trung vào nghiên cứu về hiệu quả của những chính sách hỗ trợ cho
phụ nữ ở nông thôn phát triển kinh tế.
II. Các khái niệm liên quan:
1. An sinh xã hội
Trên cơ sở những khái niệm của các tổ chức quốc tế, của chuyên gia Việt Nam
trong các tài liệu hội thảo; Kinh nghiệm thực tiễn của các nước trong quá trình phát
triển hệ thống an sinh xã hội, kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam có thể đúc kết
đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh, phù hợp hơn về an sinh xã hội, nó bao gồm được
cái phổ biến của thế giới và cái đặc thù của Việt Nam, như sau: An sinh xã hội là
một hệ thống các cơ chế, chính sách, các giải pháp của Nhà nước và cộng đồng
nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội đối phó với các rủi ro, các cú sốc về
kinh tế – xã hội làm cho họ suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập do bị ốm đau, thai
sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không còn sức lao động hoặc vì các nguyên
nhân khách quan khác rơi vào hoàn cảnh nghèo khổ, bần cùng hoá và cung cấp
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng, thông qua các hệ thống chính sách về
Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội và trợ giúp đặc b
2. Chính sách xã hội:
Từ những định nghĩa và phân tích khái niệm về xã hội và chính sách như
trên ta có thể đi đến cách tiếp cận sau về chính sách xã hội. “Cái xã hội” dùng

trong chính sách xã hội là “cái xã hội” theo nghĩa hẹp. Nó đang được nhiều nhà
4


nghiên cứu thống nhất hiểu như mối quan hệ của con người, của các cộng đồng
người thể hiện trên nhiều mặt của đời sống xã hội từ chính trị, kinh tế, văn hóa, tư
tưởng.
Đứng trên nhiều góc độ khác nhau, nhiều nhà nghiên cứu có sự nhìn nhận
khác nhau về chính sách xã hội, cụ thể như sau:
+ Chính sách xã hội là công cụ quan trọng của Đảng và Nhà nước để thực
hiện và điều chỉnh những vấn đề xã hội đang được đặt ra đối với con người (con
người ở đây được xét theo góc độ con người xã hội, chứ không phải là con người
kinh tế, hay con người kỹ thuật…) để thỏa mãn hoặc phần nào đáp ứng các nhu cầu
cuộc sống chính đáng của con người, phù hợp với các đối tượng khác nhau, trong
những trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội của các thời kỳ nhất định, nhằm bảo đảm sự
ổn định và phát triển của xã hội…( Phạm Tất Dong - Chính sách xã hội)
+ “Hiểu theo ý nghĩa khái quát nhất, chính sách xã hội là hệ thống các quan
điểm, cơ chế, giải pháp và biện pháp mà Đảng cầm quyền và Nhà nước đề ra tổ
chức thực hiện trong thực tiễn đời sống nhằm kiểm soát, điều tiết và giải quyết các
vấn đề xã hội đặt ra trước xã hội” (PGS.TS Phạm Hữu Nghị).
+ Chính sách xã hội là loại chính sách được thể chế bằng pháp luật của Nhà
Nước thành một hệ thống quan điểm, chủ trương, phương hướng và biện pháp để
giải quyết những vấn đề xã hội nhất định, trước hết là những vấn đề xã hội liên
quan đến công bằng xã hội và phát triển an sinh xã hội, nhằm góp phần ổn định,
phát triển và tiến bộ xã hội. (PGS.TS.Lê Trung Nguyệt).
+ Chính sách xã hội trước hết là một khoa học, chính sách xã hội phải là
thành tựu của những sự nghiên cứu nghiêm túc của khoa học xã hội, trả lời những
câu hỏi của cuộc sống, ở dạng hoạt động thực tiễn của đặc thù này. Chính sách xã
hội cần được xem xét như một lĩnh vực khoa học đặc thù, bám chắc vào sự vận
5



động của thực tiễn, khoa học nghiên cứu về chính sách xã hội cần phải mạnh dạn
trả lời những câu hỏi đặt ra từ thực trạng kinh tế xã hội nước ta hiện nay. (GS.
Phạm Như Cương).
Từ định nghĩa về chính sách xã hội nêu trên có thể thấy rằng khái niệm
chính sách xã hội bao gồm những yếu tố cơ bản hợp thành sau đây:


Thứ nhất, chủ thể đặt ra chính sách xã hội: tổ chức chính trị lãnh đạo. Ở
nước ta là Đảng Cộng sản, Nhà nước và các tổ chức hoạt động xã hội.



Thứ hai, nội dung các chính sách xã hội dựa trên những quan điểm, tư tưởng
chỉ đạo và thể chế nào?



Thứ ba, các đối tượng của các chính sách xã hội (chung, riêng, đặc biệt).



Thứ tư, những mục tiêu nhằm đạt tới.
Như vậy, có thể coi chính sách xã hội là sự tổng hợp các phương thức, các

biện pháp của Nhà nước, của các đảng phái và những tổ chức chính trị khác, nhằm
thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, phù hợp với trình độ phát
triển của đất nước về kinh tế, văn hoá, xã hội … Chính sách xã hội là sự cụ thể hoá
và thể chế hoá bằng pháp luật những chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.

Hiệu quả của chính sách xã hội là ổn định xã hội, nâng cao chất lượng cuộc
sống, bảo đảm công bằng xã hội. Để thực hiện chính sách xã hội đạt đúng các mục
tiêu, đối tượng và hiệu quả phải có những điều kiện đảm bảo ở mức cần thiết để
chính sách đi vào cuộc sống. Chính sách xã hội phải được kế hoạch hóa bằng các
chương trình, dự án có mục tiêu, hình thành các quỹ xã hội, phát triển hệ thống sự
nghiệp hoặc dịch vụ xã hội, tăng cường lực lượng cán sự xã hội. Chính sách xã hội
còn có đặt trưng quan trọng là tính kế thừa lịch sử.
Ở Việt Nam, một chính sách xã hội đi vào được lòng người, sát với dân là một
chính sách mang bản sắc dân tộc Việt Nam, kế thừa và phát huy được tryền thống
đạo đức, nhân văn sâu sắc của dân tộc ta. Đặc biệt là lòng yêu nước, cần cù chịu
khó, tính cộng đồng cao, đùm bọc lẫn nhau, uống nước nhớ nguồn…
6


- Phân loại chính sách xã hội:
Có thể phân chia chính sách xã hội theo những cách khác nhau, về cơ bản có
hai loại như sau:
* Hệ thống các chính sách tác động vào các nhóm xã hội đặt thù:
• Theo tuổi tác: có chính sách xã hội với người già, trẻ em, thanh niên;
• Theo giới tính: có chính sách đối với phụ nữ;
• Theo nghề nghiệp: có chính sách đối với thợ mỏ, giáo viên, công nhân, thợ thủ
công…
• Theo sắc tộc: có chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài;
• Theo tôn giáo: có chính sách đối với đồng bào theo đạo Thiên chúa, Tin lành,
Phật giáo, Cao đài, Hòa hảo…
• Theo trình độ học vấn: có chính sách xã hội đối với những người có trình độ học
vấn cao, những tài năng khoa học và những người còn đang ở trình độ học vấn
thấp.
* Hệ thống chính sách xã hội tác động vào quá trình sản xuất và tái sản xuất:

Đây là những công cụ trực tiếp điều chỉnh quan hệ lợi ích giữa người với
người, giữa các nhóm, các tập đoàn xã hội với nhau, bao gồm:
• Chính sách dân số: có tính quốc gia và tính toàn cầu vì mức tăng trưởng dân số,
cơ cấu và phân bố của dân cư có ảnh hưởng đến phát triển kinh tế và mức sống của
nhân dân. Do vậy, chính sách xã hội phải tác động vào cả ba quá trình này. Ví dụ
như chính sách kế hoạch hóa gia đình, chính sách di dân và phát triển vùng kinh tế
mới, chính sách định canh - định cư…
• Chính sách việc làm: liên quan và quyết định đời sống của tất cả dân cư, là một
trong những yếu tố cơ bản tạo ra ổn định hay bất ổn định của xã hội. Thông
thường, nếu tỷ lệ thất nghiệp ở mức 4 - 5% thì được coi là xã hội ổn định; từ 6 9% có nguy cơ khủng hoảng; nếu trên 10% thì xã hội đang có nhiều cấp bách cần
7


phải giải quyết. Ví dụ chính sách cho vay vốn giải quyết việc làm, chính sách dạy
nghề, chính sách đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài…
• Chính sách bảo hộ lao động: nhằm đề phòng và giải quyết bớt hậu quả rủi ro do
tai nạn xãy ra, bao gồm các chính sách bảo đảm an toàn như giảm độc hại, giảm
tiếng ồn, chống nóng, …và các chính sách đối với người lao động bị mắc các bệnh
nghề nghiệp, bị thương tật hay bị chết.
• Chính sách tiền lương: nhằm đảm bảo mức thu nhập hợp lý và bảo đảm nguyên
tắc phân phối theo lao động. Việc quy định mức lương tối thiểu như thế nào để vừa
có thể tái sản xuất sức lao động, vừa bảo đảm cho người lao động sống bằng nghề
nghiệp của mình, đồng thời có sự đãi ngộ thỏa đáng đối với những người có
chuyên môn giỏi, tay nghề cao. Ngoài ra, cần có chính sách hợp lý để điều tiết thu
nhập, không để mức thu nhập chênh lệch quá lớn nếu chỉ dựa vào cơ may nghề
nghiệp hay địa vị xã hội ( Chính sách thuế đối với những người có thu nhập cao).
• Chính sách phúc lợi xã hội: là phần bổ sung quan trọng nhằm nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của người dân, đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội. Các
chính sách này tạo ra những điều kiện chung, thuận lợi cho việc nghĩ nghơi, vui
chơi, giải trí bằng hoạt động văn hóa, thể thao của các tầng lớp nhân dân ( các khu

công viên, các tổ hợp văn hóa thể thao, nhà trẻ, mẫu giáo, các nhà an dưỡng…).
• Chính sách bảo hiểm xã hội: nhằm đảm bảo sự công bằng thu nhập cho người lao
động và gia đình họ trong các trường hợp người lao động bị đau ốm, thai sản, hết
tuổi lao động, bị chết hoặc bị tai nạn lao động, bị bệnh nghề nghiệp, mất việc làm,
gặp rủi ro hoặc các khó khăn khác. Ví dụ bảo hiểm lao động, bảo hiểm nghề
nghiệp; bảo hiểm kinh doanh; bảo hiểm y tế; bảo hiểm tài sản và phương tiện…
• Chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công: là truyền thống và đạo lý “ uống
nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.
• Chính sách cứu trợ xã hội: hướng vào việc trợ giúp những người gặp phải rủi ro,
bất hạnh, thiệt thòi trong cuộc sống, đặc biệt là người già cô đơn, trẻ mồ côi, người
khuyết tật, người bị bệnh tâm thần, người gặp phải thiên tai bất trắc. Mục đích của
chính sách này là giúp họ khôi phục sản xuất, ổn định đời sống, giữ được mức sinh
hoạt tối thiểu cần thiết để vượt qua những khó khăn.
8


• Chính sách giáo dục: Giáo dục là ngành đặc biệt cung cấp nguồn nhân lực cho sự
phát triển kinh tế xã hội, nhất là trong giai đoạn cách mạng khoa học công nghệ
hiện nay. Vì vậy, chính sách xã hội không thể không ưu tiên cho giáo dục. Chính
sách đầu tư phát triển giáo dục (xây dựng trường sở, phòng nghiên cứu, thí
nghiệm…); chính sách tiền lương cho giáo viên, cấp học bổng cho sinh viên, học
sinh tài năng, trợ giúp học sinh nghèo vượt khó, chính sách giáo dục miền núi,…
3. Một số chính sách hỗ trợ phụ nữ nông thôn trong phát triển kinh tế:
Hiện nay, quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đang được tiến hành
trên cả nước không những trong lĩnh vực công nghiệp mà cả trong lĩnh vực nông
nghiệp, từ thành thị đến nông thôn. Nhằm thực hiện đồng bộ quá trình này, Đảng
và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách hỗ trợ cho nông dân nói chung cũng như
cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế nói riêng.Trong phạm vi bài luận này, tôi
tìm hiểu một số chính sách có tác động lớn nhất đến phụ nữ nông thôn trong phát
triển kinh tế.

3.1. Chính sách vay vốn
Theo NHNN Việt Nam - Thời gian qua, cùng với việc tăng cường đầu tư tín
dụng cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, cơ hội và mức độ tiếp cận tín dụng
ngân hàng của phụ nữ nông thôn cũng được tăng lên đáng kể, góp phần tích cực
vào công cuộc xóa đói giảm nghèo và phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Tính đến 30/6/2010, dư nợ cho vay hộ gia đình và cá nhân ở nông thôn của
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ước đạt khoảng 200.000 tỷ đồng,
tăng khoảng 16.528 tỷ đồng so với thời điểm 31/12/2009. Dư nợ cho vay hộ nghèo
tại Ngân hàng chính sách xã hội đến 30/6/2010 đã đạt 33.568 tỷ đồng, tăng 1.166
tỷ đồng so với thời điểm 31/12/2009.

9


Bên cạnh đó, thông qua việc ký nghị quyết liên tịch với tổ chức Hội, Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng CSXH đã thành lập các tổ
vay vốn tại địa phương để cung cấp vốn tín dụng cho chị em phụ nữ nông thôn
phát triển kinh tế gia đình. Tính đến 30/6/2010, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn cho vay 255.020 khách hàng là phụ nữ với tổng dư nợ 3.903, 679
tỷ đồng. Dư nợ cho vay ủy thác qua Hội Liên hiệp phụ nữ của Ngân hàng chính
sách xã hội đến 30/6/2010, là 34.355 tỷ đồng (tăng 4.402 tỷ đồng so với
31/12/2009). Tỷ trọng dư nợ ủy thác cho vay qua Hội Liên hiệp phụ nữ trên tổng
dư nợ cho vay là 41,22%.
3.2. Chính sách dạy nghề, hỗ trợ giải quyết việc làm
Chính sách dạy nghề được thể hiện rõ tại Nghị định số 139/2006/NĐ - CP
ngày 20/11/2006 do Chính phủ ban hành, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Giáo dục và Bộ luật Lao động về mục tiêu, chương trình dạy
nghề; tổ chức, hoạt động dạy nghề; doanh nghiệp với hoạt động dạy nghề; tuyển
sinh và hợp đồng học nghề; thi, kiểm tra và thẩm quyền cấp bằng, chứng chỉ nghề;
chính sách đối với dạy nghề; trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về dạy

nghề.
Trong đề án “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010-2015" (số
295/QĐ-TTg, ngày 26/2/2010). Theo đó, lao động nữ sẽ được hỗ trợ chi phí học
nghề ngắn hạn với mức tối đa 3 triệu đồng/người/khóa và được vay vốn để tự tạo
việc làm nhằm tăng tỷ lệ lao động nữ được đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm có thu
nhập ổn định, giúp xóa đói, giảm nghèo và nâng cao vị thế cho phụ nữ, đặc biệt
phụ nữ khu vực nông thôn. Đề án đặt ra mục tiêu đến năm 2015, trên 70% lao động
nữ được tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, pháp luật, chính sách của
Nhà nước về dạy nghề và việc làm; tỷ lệ lao động nữ trong tổng số chỉ tiêu tuyển
10


sinh học nghề đạt 40%, trong đó tăng nhanh tỷ lệ lao động nữ được đào tạo trung
cấp nghề, cao đẳng nghề; tỷ lệ lao động nữ có việc làm sau khi học nghề tối thiểu
đạt 70%.
Các cơ sở dạy nghề, giới thiệu việc làm thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam và các cấp Hội phụ nữ thực hiện tư vấn học nghề, giới thiệu việc làm và tạo
việc làm cho khoảng 100.000 phụ nữ hàng năm, trong đó khoảng 50.000 lao động
nữ được đào tạo nghề.
Đối tượng được hỗ trợ học nghề, tạo việc làm là lao động nữ trong độ tuổi
lao động, ưu tiên dạy nghề cho các đối tượng là người thuộc diện hưởng chính sách
ưu đãi, người có công với cách mạng, hộ nghèo, hộ có thu nhập tối đa bằng 150%
thu nhập của hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người trong diện thu
hồi đất canh tác, phụ nữ bị mất việc làm trong các doanh nghiệp.
Lao động nữ thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi, người có công với
cách mạng, hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người bị thu hồi đất
canh tác, lao động nữ bị mất việc làm trong các doanh nghiệp được hỗ trợ chi phí
học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa
3 triệu đồng/người/khóa học (mức hỗ trợ cụ thể theo từng nghề và thời gian học
nghề thực tế). Ngoài hỗ trợ chi phí học, các đối tượng này còn được hỗ trợ tiền ăn

với mức 15.000đ/ngày thực học/người, hỗ trợ tiền đi lại theo giá vé giao thông
công cộng với mức tối đa không quá 200.000đ/người/khóa học đối với người học
nghề xa nơi cư trú từ 15 km trở lên.
Trường hợp lao động nữ thuộc diện hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu
nhập của hộ nghèo thì được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn với mức tối đa 2,5
triệu đồng/người/khóa học; đối với lao động nữ khác thì mức hỗ trợ là 2 triệu
đồng/người/khóa học.
11


Ngoài ra, lao động nữ học nghề được vay vốn để học theo quy định hiện
hành về tín dụng đối với học sinh, sinh viên. Lao động nữ làm việc ổn định tại chỗ
(nơi cư trú) sau khi học nghề được ngân sách hỗ trợ 100% lãi suất đối với khoản
vay học nghề.
Ngoài hỗ trợ học nghề, Đề án nêu rõ, lao động nữ sau khi học nghề được vay
vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm
để tự tạo việc làm. Đồng thời, sau khi học nghề tham gia sản xuất kinh doanh, tự
tạo việc làm, lao động nữ còn được ưu tiên hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại,
giới thiệu sản phẩm.
Mỗi lao động nữ chỉ được hỗ trợ học nghề 1 lần theo chính sách của Đề án
này. Những người đã được hỗ trợ học nghề theo các chính sách khác của Nhà nước
thì không được tiếp tục hỗ trợ học nghề theo chính sách của Đề án. Riêng những
người đã được hỗ trợ học nghề nhưng bị mất việc làm do nguyên nhân khách quan
thì UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xem xét, quyết định tiếp tục
hỗ trợ học nghề để chuyển đổi việc làm theo chính sách của Đề án này nhưng tối
đa không quá 3 lần.
3.3. Chính sách hỗ trợ trong đào tạo, bồi dưỡng, tiếp cận thông tin, ứng
dụng tiến bộ khoa học – kỹ thật, công nghệ mới
Trong nghị quyết số 11 - NQ/TW, ngày 27 tháng 4 năm 2007, của Bộ Chính
trị, Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

xác định rõ Ðảng, Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo công tác phụ nữ và thực
hiện mục tiêu bình đẳng giới. Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương của Ðảng về công
tác phụ nữ và bình đẳng giới được thể hiện xuyên suốt trong Nghị quyết Ðại hội
Ðảng, các nghị quyết và chỉ thị của Trung ương Ðảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về
công tác quần chúng, công tác vận động phụ nữ, công tác cán bộ nữ. Nhà nước đã
12


ban hành nhiều chính sách cụ thể nhằm tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và thúc
đẩy bình đẳng giới.
Nghị quyết thể hiện rõ, do trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp còn
thấp, phụ nữ bị hạn chế hơn nam giới về cơ hội có việc làm và thu nhập. Trong
nhiều doanh nghiệp, trong các khu công nghiệp tập trung, việc làm của lao động nữ
thiếu ổn định, điều kiện lao động, điều kiện sống không được bảo đảm; chính sách
tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động chưa được thực hiện đầy đủ. Số phụ
nữ nông thôn thiếu việc làm, di cư tự phát ra thành phố ngày càng tăng. Ở miền
núi, vùng sâu, vùng xa, tỷ lệ phụ nữ mù chữ, nghèo còn cao, còn bị ràng buộc bởi
phong tục, tập quán lạc hậu. Phụ nữ cao tuổi, phụ nữ đơn thân, phụ nữ tàn tật có
hoàn cảnh khó khăn chưa được quan tâm đúng mức.
Cơ chế thị trường và quá trình công nghiệp hóa một mặt có tác động tích
cực, nhưng mặt khác đã và đang làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội liên quan trực
tiếp tới phụ nữ. Phụ nữ gặp nhiều khó khăn, thách thức khi thực hiện vai trò người
mẹ, người thầy đầu tiên của con người trong điều kiện xã hội và gia đình Việt Nam
có nhiều thay đổi. Phẩm chất đạo đức và một số giá trị truyền thống tốt đẹp có
phần bị mai một, lối sống thực dụng có xu hướng phát triển trong một bộ phận phụ
nữ.
Trước những thách thức đó, Đảng và Nhà nước ta không ngừng quan tâm
sâu sát, ban hành một số chính sách đặc thù nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển
của phụ nữ. Cụ thể là:
+ Chính sách hỗ trợ phụ nữ trong đào tạo, bồi dưỡng, tiếp cận thông tin, ứng

dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới; chính sách khuyến khích đào tạo
nghề cho lao động nữ đáp ứng yêu cầu thị trường lao động và phát huy được thế

13


mạnh của phụ nữ. Có các giải pháp cụ thể để tăng nhanh tỷ lệ phụ nữ được đào tạo
trung cấp nghề, cao đẳng nghề, đại học, sau đại học.
+ Chính sách khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nữ dôi dư khi cổ
phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, phụ nữ nông thôn không còn đất canh tác,
phụ nữ nghèo, phụ nữ tàn tật. Chính sách về nhà ở, chăm lo đời sống văn hóa, tinh
thần cho lao động nữ làm việc tại các khu công nghiệp tập trung.
3.4. Chính sách khuyến nông - lâm - ngư
Nhằm hỗ trợ, khuyến khích người dân có được lợi nhuận từ những lĩnh vực
nông – lâm – ngư nghiệp để phát triển kinh tế ổn định cuộc sống. Đảng, Nhà nước
ta ban hành nhiều chính sách thiết thực tạo điều kiện cho người dân nói chung cũng
như cho người phụ nữ nói riêng có cơ hội tiếp cận và khai thác triệt để những tiềm
năng thế mạnh ở ba lĩnh vực này, vươn lên thoát nghèo và làm giàu chính đáng.
Gần đây nhất, xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Chính phủ mới ban hành Nghị định số 02/2010/ NĐ – CP ngày 18/ 01/ 2010; Nghị
định quy định rõ phạm vi điều chỉnh là : Ngành nghề sản xuất, chế biến, bảo quản,
tiêu thụ trong nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, ngư nghiệp, thủy nông, cơ
điện nông nghiệp, ngành nghề nông thôn; dịch vụ nông nghiệp nông thôn bao gồm
giống, bảo vệ thực vật, thú y, vật tư nông nghiệp, thiết bị, máy cơ khí, công cụ
nông nghiệp, thủy nông, nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn;…
Về đối tượng áp dụng là người sản xuất, bao gồm: nông dân sản xuất nhỏ,
nông dân sản xuất hàng hóa, nông dân thuộc diện hộ nghèo; chủ trang trại, xã viên
tổ hợp tác và hợp tác xã; công nhân nông, lâm trường; doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Mục tiêu của khuyến nông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của

người sản xuất để tăng thu nhập, thoát đói nghèo, làm giàu thông qua các hoạt
14


động đào tạo nông dân về kiến thức, kỹ năng và các hoạt động cung ứng dịch vụ để
hỗ trợ nông dân sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, thích ứng các điều kiện sinh
thái, khí hậu và thị trường. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng phát triển sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng, an toàn vệ
sinh thực phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; thúc đẩy tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới, bảo
đảm an ninh lương thực quốc gia, ổn định kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường. Huy
động nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tham gia khuyến
nông.
III. Vai trò phụ nữ lao động trong phát triển kinh tế nông thôn:
Việt Nam là một nước nông nghiệp với 76,5% dân số sống ở nông thôn. Vì
vậy, trong quá trình phát triển đất nước thì phát triển nông nghiệp, nông thôn là
một nhiệm vụ rất quan trọng. Để có thể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, bên cạnh
các chủ trương, chính sách xã hội phù hợp, cần có những nguồn lực hỗ trợ cho quá
trình thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn như tài chính, kỹ thuật công nghệ... Đặc biệt phải kể đến một nguồn lực quan trọng, đó là nguồn nhân lực,
chủ thể của quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. Nói đến chủ thể
của quá trình này, không thể không nhấn mạnh đến nguồn nhân lực nữ ở nông
thôn.
Phụ nữ nông thôn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nông
nghiệp, nông thôn trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đất nước. Là một lực
lượng chủ yếu trong nông nghiệp và chiếm đông đảo trong nguồn nhân lực của đất
nước, nhưng phụ nữ nông thôn còn gặp nhiều khó khăn so với nam giới nông thôn
và phụ nữ đô thị. Theo số liệu từ Tổng điều tra dân số năm 2009, phụ nữ chiếm
50,5% số người hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp (năm 1989 tỷ lệ này là
15



60%). Trong tổng lực lượng lao động nữ, có 68% là hoạt động trong nông nghiệp,
tỷ lệ này đối với nam giới là 58%. Vai trò của phụ nữ trong sản xuất nông nghiệp
càng trở nên quan trọng hơn trong quá trình chuyển đổi kinh tế, với sự tham gia
của lao động nữ vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng trong khi lao
động nam giảm dần. Thời kỳ 1993 - 1998, số nam giới tham gia hoạt động nông
nghiệp mỗi năm giảm 0,9%. Trong giai đoạn hiện nay, 92% số người mới gia nhập
lĩnh vực nông nghiệp là phụ nữ, vì nam giới chuyển sang các hoạt động phi nông
nghiệp. Hiện tượng thay đổi này dẫn đến xu hướng là nữ giới tham gia nhiều hơn
trong hoạt động nông nghiệp. Họ đóng góp công sức trong việc thực hiện các hoạt
động kinh tế tạo ra thu nhập của gia đình, ổn định cuộc sống và góp phần vào sự
phát triển của xã hội.

16


B. NỘI DUNG:
Xã Duy Phước là một trong những xã nghèo nhất của tỉnh Quảng Nam. Với
nghề nghiệp chính của người dân ở đây là nghề nông, kinh tế phụ thuộc chủ yếu
vào nông nghiệp, lâm nghiệp, quanh năm chịu ảnh hưởng của thiên tai bão lũ. Vì
vậy, xã Duy Phước là địa phương thường xuyên nhận được sự quan tâm của Tỉnh
Quảng Nam. Đặc biệt là về những chính sách xã hội giành cho phụ nữ. Dưới đây là
thực trạng thực hiện, thực trạng kết quả cũng như những khó khăn trong quá trình
xã thực hiện những chính sách hỗ trợ đối với phụ nữ. Trong bài luận này, tôi đề cập
đến bốn chính sách có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của phụ nữ xã Duy Phước.
Đó là:





I.
1.

Chính sách vay vốn
Chính sách dạy nghề, hỗ trợ giải quyết việc làm
Chính sách hỗ trợ trong đào tạo, bồi dưỡng, tiếp cận thông tin, ứng

dụng tiến bộ khoa học – kỹ thật, công nghệ mới
• Chính sách khuyến nông - lâm – ngư
Thực trạng thực hiện chính sách:
Cách thức tổ chức thực hiện chính sách:
Để thực hiện được những chính sách trên, Uỷ Ban Nhân Dân xã Duy

Phước , Hội Liên hiệp phụ nữ xã Duy Phước đã phối hợp với Hội Phụ nữ
của từng thôn trong địa bàn xã, áp dụng những cách thức sau:
• Thực hiện chương trình cho phụ nữ vay vốn hộ nghèo, vốn giải quyết





việc làm theo điều kiện của Nhà nước.
Thực hiện kế hoạch xây dựng “ sổ tiết kiệm”
Thực hiện chương trình phụ nữ giúp nhau làm kinh tế
Mở lớp đào tạo nghề ngắn hạn cho phụ nữ.
Mở lớp tập huấn chuyển giao khoa học kĩ thuật cho phụ nữ.
Tất cả các chương trình trên đều được thực hiện đồng bộ ở các thôn

thuộc địa bàn xã. Áp dụng đối với tất cả phụ nữ có nguyện vọng và đủ yêu
cầu trên địa bàn xã.

17


2. Thuận lợi và khó khăn trong việc tiếp cận chính sách của phụ nữ xã
Duy Phước:
2.1 Thuận lợi
- Từ phía chính quyền địa phương: chính quyền xã Duy Phước quan tâm thu
hút các chính sách phát triển dành cho phụ nữ, đồng thời tạo điều kiện, động viên
về mọi mặt để chị em có điều kiện tham gia thực hiện các chính sách này. Chính vì
thế, đã thu hút được phần lớn các phụ nữ trong xã tham gia nhiệt tình và đem lại
hiệu quả tương đối. Mặt khác, Hội liên hiệp phụ nữ xã cũng đã phát huy được vai
trò của mình trong việc tập hợp và hỗ trợ cho phụ nữ về nhiều mặt.
- Từ phía phụ nữ: Do điều kiện kinh tế nông nghiệp, đời sống của phụ nữ
còn thấp nên nhu cầu được hỗ trợ các chính sách của phụ nữ là tương đối lớn. Mặt
khác, nguồn nhân lực nữ ở địa phương còn tương đối trẻ nên cũng thuận lợi trong
việc tiếp cận chính sách.
- Từ phía các chính sách: Các chính sách hiện nay đang được triển khai rất
thiết thực và tương đối phù hợp với tình hình phát triển của địa phương.
- Một số điều kiện khác: vị trí địa lý, giao thông đi lại thuận lợi và một số
nguồn lực của địa phương còn đang ở dạng tiềm năng nên có nhiều triển vọng phát

2.2. Khó khăn
- Mức độ quan tâm của chính quyền địa phương đối với phụ nữ chưa được
đồng đều, tính công bằng trong thực hiện chính sách còn có điểm hạn chế, còn
nặng yếu tố tình cảm. Năng lực của một số cán bộ thôn xã chưa đáp ứng yêu cầu
18


nhiệm vụ đặt ra, chưa có nhiều sáng kiến, còn thụ động, tinh thần trách nhiệm chưa
cao.

- Qua thực tế tôi tìm hiểu được cho thấy trình độ của phụ nữ địa phương còn
thấp, có đến 77% có trình độ từ tiểu học trở xuống. Đó là một trở ngại lớn của quá
trình tiếp cận chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong hỗ trợ cho họ.
Mặt khác, do đời sống của phụ nữ còn khó khăn, tập quán canh tác theo kinh
nghiệm truyền thống ít nhiều tác động đến tư duy, lối nghĩ, cách làm của phụ nữ.
Công việc của họ gắn liền với đồng ruộng, mảnh vườn ít va chạm xã hội chính vì
thế khoảng cách giữa họ với chính sách là khá lớn, họ thiếu tính chủ động trong
việc tham gia và thực hiện các chính sách, chưa nắm bắt kịp thời những thời cơ
thuận lợi để phát triển kinh tế cho mình.
- Các chính sách thường triển khai một chiều, vai trò của phụ nữ chưa được
đánh giá đúng. Thời điểm triển khai chính sách nhiều lúc không phù hợp với nhu
cầu của phụ nữ. Một số chính sách còn có những yêu cầu mà không phải phụ nữ
cũng đáp ứng được. Chẳng hạn như việc vay vốn, tuy đã khá thông thoáng song
vẫn còn nhiều trở ngại đối với phụ nữ, nhất là phụ nữ nghèo, cô đơn. Họ rất khó
được tiếp cận các nguồn vốn, với họ nó khá phức tạp, rườm rà và họ không có điều
kiện để thế chấp.
Ngoài ra, mặc dù phụ nữ đảm nhận đa phần các công việc liên quan đến sản
xuất nông nghiệp, nhưng họ lại ít có cơ hội tham gia các lớp tập huấn chuyển giao
kiến thức, khoa học kỹ thuật. Theo kết quả mà tôi được cung cấp, chỉ có khoảng
13% phụ nữ được tham gia tập huấn về trồng trọt, chăn nuôi song con số đó lại chủ
yếu tập trung vào những phụ nữ làm công tác Hội.
3. Hiệu quả và hạn chế của việc triển khai thực hiện một số chính sách
3.1. Hiệu quả
19


Trong những năm qua, được sự quan tâm của chính quyền các cấp, Hội liên
hiệp phụ nữ (LHPN) xã Duy Phước đã triển khai thực hiện một số chính sách hỗ
trợ cho phụ nữ địa phương phát triển kinh tế. Theo báo cáo hàng năm của Hội
LHPN xã, kết quả từ các chương trình tín dụng cho thấy số phụ nữ được hỗ trợ,

giúp đỡ cũng tương đối nhiều. Số chị em tham gia các chương trình tập huấn
chuyển giao khoa học – kỹ thuật cũng tăng lên đáng kể. Hiệu quả từ các chương
trình này theo báo cáo tương đối cao, cơ bản đời sống phụ nữ đã được cải thiện và
tăng lên rõ rệt. Nhiều phụ nữ vươn lên thoát nghèo và tiếp tục phát triển kinh tế.
Phụ nữ chia sẽ, quan tâm với nhau, cùng nhau phát triển và tham gia nhiều hạt
động xã hội khác. Cụ thể là:
Phong trào phụ nữ giúp nhau làm kinh tế: năm 2009, toàn xã có 24 tổ tiết
kiệm với số vốn huy động được là hơn 100 triệu đồng, đã cho nhiều phụ nữ mượn
làm kinh tế có hiệu quả. Ngoài ra, phụ nữ còn giúp nhau ngày công, cung cấp
giống heo,… Theo chương trình nuôi heo sinh sản, có 8 hộ nhận nuôi với mức vốn
hỗ trợ là 5 triệu đồng/hộ, thời gian nuôi là 24 tháng. Hội vận động phụ nữ tham gia
2 lớp tập huấn nuôi heo hướng nạc, có 120 chị tham gia.
Năm 2010, với 24 tổ tiết kiệm, hàng tháng chị em huy động được khoảng
hơn 13 triệu đồng và tiến hành cho mượn xoay vòng. Vận động phụ nữ tham gia
các lớp tập huấn chuyển giao KH – KT như: lớp làm thạch dừa, lớp trồng nấm, lớp
trồng bắp, lớp trồng rau sạch, lớp nuôi heo, bò và đã có 175 chị tham gia. Hưởng
ứng chương trình nuôi heo hướng nạc, có 537 hộ tham gia nuôi (trong đó có 507
hộ là hội viên và 30 hộ phụ nữ bình thường).
Năm 2011, trong chương trình vay vốn giải quyết việc là có 09 hộ vay chăn
nuôi heo với vốn vay 100 triệu đồng. Chương trình nuôi heo hướng nạc có 422 hộ
(344 hộ là HV, 78 hộ là PN bình thường). Vận động phụ nữ tham gia lớp tập huấn
20


nuôi heo, bò và có 101 chị tham gia, lớp hưỡng dẫn kiến thức về làm ăn, chăn nuôi
trồng trọt có 159 chị tham gia.
Năm 2012, chương trình vốn vay hộ nghèo đạt 800 triệu đồng với 79 hộ
vay; cộng với các chương trình cho vay khác tổng dư nợ đến tháng 10/2012 do Hội
phụ nữ quản lý là 6.528.000.000 gồm 12 tổ và 526hộ vay. Có 92 hộ tham gia tập
huấn chăn nuôi bò thuộc dự án hỗ trợ vốn chăn nuôi sản xuất cho hộ nghèo trong

đó có 49 hộ phụ nữ làm chủ hộ.
Với những kết quả đạt được như trên, nhiều phụ nữ đã có công ăn việc làm
tạo thu nhập, đời sống có nhiều chuyển biến, nhiều hộ phụ nữ nghèo đã vươn lên
thoát nghèo. Phụ nữ ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt động xã hội và ngày
càng khẳng định vị trí của mình trong sự phát triển chung của địa phương.
3.2. Hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì nhìn chung việc thực hiện
các chính sách nêu trên vẫn còn có những hạn chế nhất định:
- Về hiệu quả của các chính sách hỗ trợ: Chính sách đã được triển khai từ
lâu, tuy nhiên cho đến thời điểm hiện nay vẫn có một bộ phận phụ nữ trong xã
chưa biết về các chính sách này. Đời sống của phụ nữ địa phương đã có những
chuyển biến rõ rệt nhưng còn ở mức khá thấp. Một bộ phận phụ nữ được hưởng
chính sách nhưng khai thác chưa hiệu quả. Việc cung cấp chính sách chưa có sự
đồng bộ; có những phụ nữ được vay vốn nhưng thiếu phương pháp, kỹ thuật sản
xuất dẫn đến hiệu quả từ đồng vốn mang lại thấp.
- Quy mô thực hiện chính sách: chính sách chưa dành cho tất cả các phụ nữ
có nhu cầu, chưa đáp ứng được mong mỏi của họ. Mặt khác, việc triển khai thực

21


hiện chính sách trong phạm vi còn hạn chế, chưa đồng bộ, chưa rộng khắp trên cả
địa phương nên một số phụ nữ nắm bắt chưa đầy đủ các chính sách.
- Kinh phí thực hiện các chính sách: một số chính sách mang tầm quy mô
nhưng kinh phí chưa tương xứng dẫn đến việc phân phối chưa đồng đều. Nguồn
vốn hỗ trợ cho phụ nữ còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của
của họ.
II. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng:
1. Nguyên nhân hiệu quả:
- Trong suốt quá trình triển khai thực hiện chính sách, Hội Liên Hiệp phụ nữ

xã Duy Phước luôn nhận được sự quan tâm kịp thời và xuyên suốt của chính
quyền và Hội Liên Hiệp phụ nữ cấp trên, các cơ quan, ban ngành đoàn thể trong và
ngoài địa phương luôn hỗ trợ giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để Hội thực hiện
thắng lợi mục tiêu mà chính sách đề ra.
- Sự đoàn kết, thống nhất, chủ động, sáng tạo của cán bộ Hội xã, thôn cùng
với sự phấn đấu nỗ lực, khắc phục khó khăn để vươn lên của phụ nữ địa phương.
- Ngoài ra, với những thành tựu kinh tế xã hội nước ta đạt được trong những
năm vừa qua đã phần nào tạo điều kiện thuận lợi để Nhà nước có nhiều chính sách
quan tâm tới đời sống phụ nữ.
2. Nguyên nhân hạn chế:


Nguyên nhân khách quan

Do yếu tố lịch sử phát triển đất nước, điểm xuất phát đi lên chủ nghĩa xã hội
còn thấp, từ một nước nông nghiệp, chịu nhiều ảnh hưởng của chiến tranh để lại
nên nhìn chung chúng ta đang còn khó khăn về mọi mặt. Điều kiện kinh tế - xã hội
22


của địa phương còn yếu, phong tục tập quán canh tác cũ vẫn còn in đậm trong mỗi
người dân. Tuy chúng ta đã có những chủ trương, chính sách lớn hỗ trợ cho sự phát
triển của người dân nói chung, người phụ nữ nông thôn nói riêng nhưng những
chính sách này được ban hành không dựa trên kết quả nghiên cứu khoa học. Mặc
dù trong thời gian qua, rất nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà
nước, cấp bộ về nông nghiệp, nông thôn, nông dân, về phụ nữ nông thôn được thực
hiện, nghiệm thu, với kinh phí hàng trăm tỉ đồng. Song dường như quá trình ban
hành chính sách của bộ máy chính quyền và quá trình nghiên cứu khoa học của
giới học thuật là “2 đường thẳng song song”. Đứng ở tầm vĩ mô, những chính sách
thường được đánh giá là đúng đắn, tuy nhiên khi triển khai đi vào cuộc sống chính

sách đã bộc lộ những hạn chế.
Tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động: khủng hoảng kinh tế;
biến đổi khí hậu; dịch bệnh ở cây trồng, vật nuôi xảy ra thường xuyên; giá cả vật
chất tăng cao … đã gây trở ngại không nhỏ tới việc triển khai và thực hiện các
chính sách.
Điều kiện tự nhiên của địa phương nghèo nàn, đất đai cằn cỗi, thiếu nguồn
nước tưới tiêu, đất nông nghiệp bị chia cắt nhỏ lẻ … hiệu quả khai thác từ chính
sách còn thấp.



Nguyên nhân chủ quan:

Sự quan tâm chưa kịp thời của chính quyền địa phương trong công tác thu
hút, huy đông nguồn lực phục vụ cho viêc thực hiện chính sách.
Năng lực, trình độ của một số cán bộ Hội địa phương còn chưa đáp ứng yêu
cầu chính sách đặt ra, chưa có nhiều sáng kiến, trong công việc còn thụ động, tinh
23


thần trách nhiệm chưa cao. Chế độ đãi ngộ cho phụ nữ tham gia công tác quản lý
Hội còn thấp và có nhiều bất cập, nhiều cán bộ Hội có điều kiện kinh tế còn khó
khăn nên phải lo cho kinh tế gia đình chưa có điều kiện chuyên tâm đầu tư cho việc
thực thi chính sách.
Trình độ của phụ nữ địa phương còn thấp, có đến 77% có trình độ từ tiểu
học trở xuống. Đó là một trở ngại lớn của quá trình tiếp cận chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước trong hỗ trợ cho họ.
Mặt khác, do đời sống của phụ nữ còn khó khăn, tập quán canh tác theo kinh
nghiệm truyền thống ít nhiều tác động đến tư duy, lối nghĩ, cách làm của phụ nữ.
Công việc của họ gắn liền với đồng ruộng, mảnh vườn ít va chạm xã hội chính vì

thế khoảng cách giữa họ với chính sách là khá lớn, họ thiếu tính chủ động trong
việc tham gia và thực hiện các.
III. Giải pháp khắc phục:
Có thể nói rằng trong những năm vừa qua, nhờ sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước mà tình hình kinh tế, văn hóa xã hội của huyện Duy Xuyên nói chung
và xã Duy Phước nói riêng đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Nhiều chính sách dành
cho phụ nữ đã được triển khai thực hiện như chính sách: Chính sách vay vốn;
chính sách dạy nghề; chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm; chính sách hỗ trợ trong
đào tạo, bồi dưỡng, tiếp cận thông tin, ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thật, công
nghệ mới; chính sách khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư.
Tuy nhiên, từ thực trạng nêu trên cho thấy việc thực hiện các chính sách vẫn
đang còn găp nhiều khó khăn và hạn chế nhất định. Chính vì thế, mà tôi khuyến
nghị một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các
chính sách dành cho phụ nữ nông thôn tại xã Duy Phước như sau:

24


1. Nhóm giải pháp từ phía Nhà nước
Khi đưa ra một số giải pháp ở tầm “vĩ mô” tức là các giải pháp này sẽ là hệ
thống cơ chế, chính sách của Đảng và nhà nước tác động tới vấn đề phụ nữ nông
thôn nói chung và vấn đề phát triển kinh tế của phụ nữ xã Duy Phước – huyện Duy
Xuyên nói riêng.
Thứ nhất: Đảng và Nhà nước, nên xem xét xây dựng một cơ quan chuyên
trách về vấn đề phụ nữ nông thôn trên cả nước. Cơ quan này cần xây dựng dựa trên
một hệ thống tổ chức chặt chẽ từ trung ương đến cấp cơ sở, sẽ đảm trách các vấn
đề về phụ nữ nông thôn để khảo sát nắm chắc về thực trạng, nhu cầu về việc phát
triển kinh tế ổn định đời sống của phụ nữ. Từ đó, có những cơ sở khách quan nhất,
xây dựng những chính sách phù hợp đáp ứng được sự phát triển bền vững, góp
phần ổn định cuộc sống lâu dài cho người người phụ nữ.

Thứ hai : Cần có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng cấp, xây dựng hệ
thống khen thưởng – xử phạt nghiêm minh tránh tình trạng xấu xảy ra, thành lập bộ
phận giám sát trong đó có sự tham gia của người dân ( phụ nữ) trong quá trình triển
khai thực hiện chính sách.
Thứ ba: Để phụ nữ được hỗ trợ toàn diện về mọi mặt cần phải có nguồn kinh
phí rất lớn. Chính vì vậy, bên cạnh xây dựng cơ quan chuyên trách cần kết hợp xây
dựng một nguồn quỹ để sử dụng vào công tác hỗ trợ phụ nữ nông thôn. Nguồn
kinh phí này có thể huy động từ ngân sách nhà nước, các nguồn viện trợ từ các cá
nhân, tổ chức trong và ngoài nước.
2. Nhóm giải pháp từ chính quyền địa phương
Thứ nhất: Xây dựng cơ quan chuyên trách cấp vi mô ở xã Duy Phước để
tiến hành giúp phụ nữ giải quyết các vấn đề ngay tại địa phương. Cơ quan này cần
25


×