Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.4 KB, 2 trang )
Dân tộc Tày
Tên dân tộc: Tày.
Địa bàn cư trú: Vùng giữa: Cẩm Phả, Uông Bí, Hải Hà, Ba Chẽ, Vân Đồn, Hoành Bồ, Đông Triều.
Phong tục tập quán: Cư trú theo đơn vị làng, bản, tập trung ở ven suối hoặc những thung lũng bằng và
rộng. Nhà ở trước đây là nhà sàn, ngày nay đã có sự thay đổi ở nhiều địa phương, như vùng giáp biên giới
là nhà phòng thủ được xây dựng theo kiểu pháo đài đề phòng hoả hoạn. Thờ cúng tổ tiên, không kể các dịp
lễ tết, người ta phải dâng hương, hoa, lễ vật mỗi tháng hai lần vào ngày mùng một và rằm. Đây là nhiệm vụ
của gia trưởng, bắt nguồn từ thờ cúng gia tộc, thờ các vị thánh.
Văn hoá: Họ có kho tàng truyện cổ tích, thơ ca, hò vè về các đề tài đấu tranh với thiên nhiên; về lao động
sản xuất, về quan hệ xã hội và gia đình, thể hiện ước vọng có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tiêu biểu
là truyện “Nùng Trí Cao”, “Nàng Khuấy”, “Pú Luông - Già Cải”; nhạc cụ có “Đàn tính”.
Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày- Nùng.
Trang phục: Gồm có áo cánh ngắn, áo dài, váy, quần, thắt lưng, khăn đội đầu, giầy vải và các đồ trang sức
khác. Quần áo, váy đều mầu chàm hoặc mầu đen.
Kinh tế: Nguồn sống chính là trồng mầu trên đất bãi, trồng lúa nước và chăn nuôi.
lễ hội
Những năm gần đây, khi thực hiện cuộc vận động xây dựng bản làng văn hoá, phát huy đậm đà bản
sắc văn hoá dân tộc, hằng năm người dân tộc Tày-Nùng ở các xã miền núi Thái Nguyên đã khơi dậy
lễ hội Oóc pò (hay lễ hội ra đồng). Lễ hội này cũng giống như lễ hội Lồng tồng (lễ hội xuống đồng).
Đây là loại hình văn hoá đã gắn bó lâu đời với các dân tộc Việt Nam.
Sinh hoạt văn hoá văn nghệ là nếp sống không thể thiếu của đồng bào các dân tộc, lễ hội Oóc pò là một
sinh hoạt văn hoá, giúp cho người dân vui tươi thoải mái về tư tưởng; cầu cho con cái mạnh khoẻ, chăm
ngoan, học giỏi; cầu cho cái xấu, cái ác ra khỏi nhà, cái may, cái hạnh phúc luôn vào nhà; cầu cho mùa
màng tốt tươi chăn nuôi phát triển, trâu đầy đàn, lợn nhiều con năng suất cao.
Lễ hội Oóc pò tổ chức thành 2 phần, phần lễ và phần hội. Phần lễ tổ chức trong hội trường hay trong đình,
gồm có các mâm xôi, thịt, hương hoa để các già làng và thầy mo, thầy tào khấn vái. Phần hội tổ chức ở
ngoài sân làng hay trên các bãi rộng. Phụ nữ thì thi nhau thêu thùa, làm các mặt hàng thủ công, mỹ nghệ.
Nam giới thì làm ná (nỏ), vót tên, làm bẫy bắt thú rừng. Tất cả tạo nên không khí vui tươi, sôi nổi. Đàn ông
mặc áo chàm đen, phụ nữ mặc váy áo chàm, quàng khăn đen hoặc khăn chàm, cổ đeo vòng bạc duyên
dáng. Mở đầu cho khai hội là múa lân, tung còn, đây là trò chơi có nhiều người tham gia. Cây còn làm cao
12 mét thể hiện 12 tháng trong năm. Trên sân khấu tổ chức múa hát văn nghệ đến khuya, đó là các làn điệu