Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Bai tieu luan quan tri cong ty

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.74 KB, 27 trang )

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, thực hiện
chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu, theo đó, các thành phần kinh tế
được mở rộng và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của
đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế như vậy, thông tin tài chính của doanh
nghiệp không chỉ báo cáo cho các cơ quan quản lý nhà nước để kiểm tra và xét
duyệt, mà các thông tin này còn cần cho nhiều người, được nhiều đối tượng
quan tâm, khai thác sử dụng cho các quyết định kinh tế. Tuy ở nhiều góc độ
khác nhau nhưng tất cả các đối tượng này đều có cùng nguyện vọng là có được
các thông tin với độ chính xác cao, tin cậy và trung thực.
Để đáp ứng yêu cầu đó của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hoạt động
kiểm toán độc lập ra đời, trở thành bộ phận cần thiết và quan trọng không thể
thiếu trong đời sống các hoạt động kinh tế. Kiểm toán độc lập cung cấp cho
những người sử dụng kết quả kiểm toán sự hiểu biết về những thông tin tài chính
mà họ được cung cấp dựa trên cơ sở các nguyên tắc và chuẩn mực theo qui định.
Vì vậy, nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động kiểm
toán độc lập ở Việt Nam, tác giả đã chọn đề tài “Các kiểm toán viên bên ngoài
có thực sự độc lập không?” để nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về
kiểm toán độc lập. Trên cơ sở đó, tác giả đi vào tìm hiểu thực trạng hoạt động
hiện nay, đồng thời đưa ra những giải pháp, phương hướng khắc phục những bất
cập, khó khăn còn tồn tại, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế và nâng
cao đời sống người dân, đáp ứng công cuộc cải cách đất nước.
1


2. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp


luật; quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; đồng
thời sử dụng phương pháp nghiên cứu truyền thống của Khoa học xã hội,
phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn cùng phương pháp phân tích tổng
hợp.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ về mặt lý luận những nội dung cơ bản của kiểm
toán độc lập, xác định những bất cập, vướng mắc trong thực trạng hoạt động để
đề xuất những giải pháp, hướng hoàn thiện nhằm thúc đẩy sự phát triển ngành
kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng.
Đối tượng nghiên cứu: tiểu luận tập trung nghiên cứu, phân tích những
khái niệm, yêu cầu của kiểm toán độc lập cùng các mô hình kiểm toán đang
được áp dụng tại nhiều quốc gia; đồng thời đánh giá thực trạng hoạt động của
kiểm toán độc lập và chất lượng báo cáo kiểm toán của kiểm toán viên tại Việt
Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: các quy định của Hiến pháp, Luật Kiểm toán độc
lập, các tạp chí tài chính, các yếu tố kinh tế - xã hội tác động đến tính độc lập
của kiểm toán viên hành nghề.
4. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của tiểu luận bao gồm 03 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận về kiểm toán độc lập
Chương II: Thực trạng hoạt động của kiểm toán độc lập ở Việt Nam hiện nay
Chương III: Những giải pháp đổi mới hoạt động kiểm toán độc lập và kiểm toán
viên

2


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
I .Sự tất yếu hình thành loại hình kiểm toán độc lập ở Việt Nam .

1.Sự ra đời loại hình kiểm toán độc lập ở Việt Nam .
Một vài nét về hoạt động kiểm tra kế toán ở Việt Nam.
Kiểm tra nói chung và kiểm tra kế toán nói riêng được quan tâm ngay từ thời kỳ
đầu xây dựng đất nước.Tuy nhiên trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, công tác
kiểm tra cũng được tổ chức phù hợp với cơ chế: Nhà nước với tư cách là người
quản lý vĩ mô, đồng thời là người chủ sở hữu nắm trong tay toàn bộ công tác kế
toán và kiểm tra nói chung.
Thể hiện sự phân biệt thông tin quản lý của kế toán so với các loại thông tin
khác trong hệ thống thông tin kinh tế. Phục vụ cho sự quản lý thống nhất của
Nhà nước về các lĩnh vực tài chính trong cơ chế mới, thể hiện tính chất thống
nhất và tiêu chuẩn hoá cao về thông tin kế toán, phần nào đã tiếp cận được ngôn
ngữ thông tin và những chuẩn mực quốc tế về kế toán.
Sự cần thiết của kiểm toán độc lập đối với nền kinh tế thị trường
Kiểm toán độc lập (Independent Audit), đây là một loại kiểm toán được phân
chia từ kiểm toán nói chung theo chức năng và chủ thể kiểm toán. Nó ra đời theo
yêu cầu của cơ chế thị trường đòi hỏi. Qua quá trình phát triển của kiểm toán nói
chung, kiểm toán độc lập được tách ra phát triển mạnh mẽ cùng với sự phát triển
của cơ chế thị trường (Công ty kiểm toán độc lập Price Waterhouse Cooper là
công ty kiểm toán độc lập đầu tiên được thành lập có trụ sở chính ở Anh quốc ).
Nếu nói rằng nền kinh tế thị trường có hiệu quả hơn so với nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung thì kiểm toán độc lập chính là một công cụ quản lý kinh tế ,tài
chính đắc lực góp phần nâng cao tính hiệu quả đó của nền kinh tế thị trường.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường là nhiều thành phần kinh tế ,là tự do sản
xuất, kinh doanh và cạnh tranh. Mỗi doanh nghiệp đều có những biện pháp hạn
chế mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường và tự thân vận động phù hợp với
3


những đòi hỏi có tính quy luật sống còn của nó. Tổ chức kiểm toán độc lập là
những doanh nghiệp không cạnh tranh với các doanh nghiệp (trừ doanh nghiệp

kiểm toán ) mà bạn hàng giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong cạnh
tranh.
Hơn thế nữa, nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế muốn quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh cần phải có thông
tin chính xác kịp thời và tin cậy. Để đáp ứng được yêu cầu này đòi hỏi phải có
bên thứ ba độc lập khách quan, có trình độ chuyên môn cao được pháp luật cho
phép cung cấp thông tin tin cậy cho đối tượng quan tâm. Vì vậy đã hình thành
nên loại hình kiểm toán độc lập này. Luật pháp nhiều quốc gia có nền kinh tế thị
trường phát triển đã quy định chỉ có các báo cáo tài chính đã được kiểm toán độc
lập mới có giá trị pháp lý và độ tin cậy.
Sự ra đời và phát triển của các tổ chức kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thị
trường là xu hướng tất yếu khách quan có tính quy luật của cơ chế thi trường.
Các công ty kiểm toán độc lập ra đời
Hoạt động kiểm toán độc lập đã hình thành và phát triển ở nước ta từ trước ngày
giải phóng miền Nam: Các văn phòng hoạt động độc lập với các kế toán viên
công chứng hoặc các giám định viên kế toán và cả văn phòng kiểm soát quốc tế
như SGV, Arthur Andersen ...Sau thống nhất đất nước, trong cơ chế kế hoạch
hoá tập trung, kiểm toán độc lập không còn tồn tại. Vì vậy kiểm toán độc lập
mới được hình thành từ sau khi chuyển đổi cơ chế kinh tế Với chủ chương đa
dạng hoá các loại hình sở hữu đa phương hoá các loại hình đầu tư đã đặt ra
những đòi hỏi của kiểm toán độc lập. Ngày 13/5/1991 theo giấy phép số
957/PPLT của Thủ tướng Chính phủ, Bộ tài chính đã ký quyết định thành lập hai
công ty:
Công ty kiểm toán Việt Nam với tên giao dịch là VACO (QĐ 165TC/QĐ/TCCB) và công ty dịch vụ kế toán Việt Nam với tên giao dịch là ASC
(QĐ164-TC/QĐ/TCCB) sau này đổi tên thành Công ty dịch vụ tư vấn tài chính,
kế toán, kiểm toán - AASC (quyết định 639-TC /QĐ/ TCCB ngày
14/9/1993).Với cương vị là công ty đầu ngành, VACO và AASC đã có nhiều
đóng góp không chỉ trong việc phát triển công ty, mở rộng đại bàn kiểm toán mà
cả trong việc cộng tác với công ty và tổ chức nước ngài để phát triển sự nghiệp
kiểm toán Việt Nam. Cũng trong năm 1991, còn có công ty Ernst and Young là

công ty kiểm toán nước ngoài đầu tiên được Nhà nước Việt Nam cho chấp nhận
lập văn phòng hoạt động tại Việt Nam. Hiện nay số lượng công ty kiểm toán là
18 đơn vị, trong số đó có 12 công ty kiểm toán Việt Nam
2. Vai trò của kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thị trường .
Trên thế giới hầu hết các nước đi theo kinh tế thị trường đều có hoạt động kiểm
toán độc lập. Trái lại ở các nước đi theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung đều
4


không có kiểm toán, thậm chí không truyền bá kiến thức về kiểm toán độc
lập.Thật vậy, ở nước ta có thể nói hoạt động kiểm toán được hình thành và phát
triển từ trướcngày giải phóng miền Nam. Sau thống nhất đất nước, với cơ chế kế
hoạch hoá tập trung,
kiểm toán độc lập không tồn tại nữa. Mãi cho đến khi Đảng và Nhà nước ta chủ
trương đa dạng hoá các loại hình sở hữu và đa phương hoá các đầu tư đã đạt ra
những đòi hỏi cấp thiết của kiểm toán độc lập thì loại hình kiểm toán độc lập
mới thực sự xuất hiện.
Điều này cho thấy kiểm toán độc lập có vai trò to lớn trong nền kinh tế thị
trường.
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh stế
quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh cần phải có thông tin chính xác kịp
thời và tin cậy. Để đáp ứng yêu cầu này phải có bên thứ ba độc lập khách quan
có trình độ chuyên môn cao, được pháp luật cho phép cung cấp thông tin tin cậy
cho các bên quan tâm. Bên thứ ba này chínhlà kiểm toán độc lập.ở nhiều quốc
gia có nền kinh tế thị trường phát triển quy định chỉ có các báo caó tài chính đã
được kiểm toán độc lập mới có giá pháp lý và đáng tin cậy.ý nghĩa và tầm quan
trọng của kiểm toán độc lập thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, kiểm toán độc lập tạo niềm tin cho những người quan tâm.
Dù hoạt dộng trong bất kì lĩnh vực kinh tế nào, thì kết quả hoạt động hàng năm
của doanh nghiệp đều không thể hiện trên báo cáo tài chính (gồm bảng cân đối

kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, bảng lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo
cáo tài chính).
Vì nhiều nguyên nhân khác nhau, các chủ doang nghiệp- người có trách nhiệm
lập báo cáo tài chính đều muốn che dấu các phần yếu kém hoặc khuyếch trương
kết quả kinh doanh của mình trên bảng báo cáo tài chính đó Trái lại những người
quan tâm đến kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp lại đòi
hỏi sự trung thực chính xác cuả bản báo cáo tài chính đó. Vì thế cần có sự kiển
tra xác nhận của người thứ ba. Kiểm toán viên độc lập -những người hoạt động
theo nguyên tắc bắt buộc và có đủ năng lực uy tín với cảc chủ doanh ngiệp và
người quan tâm đến bản báo cáo tài chính.
Những người quan tâm có thể kể đến là :
- Các cơ quan Nhà nước cần có thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền kinh
tế. Nhà nước căn cứ vào báo cáo tài chính đã được kiểm toán để xem xét các
doanh nghiệp sử dụng ngân sách Nhà nước, tài sản quốc gia để hoạt động kinh
doanh có đem lại hiệu quả không, có phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
của Đất nước hay không. Cơ quan thuế sẽ căn cứ vào báo cáo tài chính đã được
kiểm toán để tính và thu thuế trừ khi có nghi vấn mới kiêm tra lại. Về nghĩa vụ
thuế đối với Nhà nước, các doang nghiệp thường muốn nộp ít để chiếm chiếm
5


dụng phần thếu phải nộp Nhà nước nên họ sẽ khai tăng các khoản chi phí để làm
giảm lợi nhuận và như thế thuế phải nộp sẽ ít đi. Tuy nhiên nếu được kiểm toán
thì sai phạm này sẽ bị phát hiện và điều chỉnh.
- Các cổ đông góp vốn kinh doanh hoặc mua cổ phiếu của doanh nghiệp tuy
không có trình độ để kiểm tra kỹ lưỡng bản báo cáo tài chính, do đó khi có trên
tay bản báo cáo tài chính đã được kiểm toán viên độc lập xác nhận là trung thực
hợp lý thì họ có thể yên tâm ăn chia lợi tức và quyết định tiếp tục đầu tư hoặc
không đầu tư vào doanh nghiệp đó.
- Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp vay vốn cũng phải

nắm chắc tình hình kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng để quyết định
cho vay, thu hồi vốn hoặc không cho vay. Kiểm toán viên sẽ giúp ngân hàng
hoặc những người cho vay làm việc đó.
- Trong quan hệ kinh doanh các khách hàng có thể mua chịu.Tuy nhiên nếu có
báo cáo tài chính của người mua hàng được kiểm toán viên có danh tiếng kiểm
tra xác nhận là tốt thì người bán sãn sàng bán chịu. Ngược lại xác nhận là tình
hình tài chính khó khăn thì không gì người mua mua được hàng khi chưa có tiền.
- Trong kinh tế thị trường người lao động có quyền lựa chọn nơi làm việc ổn
định và có mức thu nhập cao. Bản báo cáo tài chính của một doang nghiệp làm
ăn có lãi được kiểm toán viên xác nhận sẽ hấp dẫn được ngươì lao động cố
chuyên môn trình độ và năng lực.
- Việt Nam đang thực hiện chính sách mở cửa, đa phương hoá đầu tư không chỉ
trong nước mà còn nước ngoài. Việc thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài (cả trực
tiếp và gián tiếp) đang được Nhà nước rất quan tâm, cụ thể là đã ban hành Luật
đầu tư nước ngoài tại Việt nam nhằm khuyến khính các nhà đầu tư vào Việt
Nam. Những nhà đầu tư nước ngoài luôn đòi hỏi một báo cáo tài chính được
kiểm toán xác nhận về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp mà họ dự định
đầu tư.
- Các nhà quản trị doang nghiệp và các nhà quản lý khác cũng cần thông tin
trung thực không chỉ riêng trên các bảng khai tài chính để có những quyết định
trong mọi giai đoạn quản lý kể cả tiếp nhận vốn liếng, chỉ đạo và điều hành các
hoạt động kinh doanh và hoạt động quản lý. Những thông tin đó chỉ có được
thông qua kiểm toán.
Thứ hai, kiểm toán độc lập góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp
hoạt động tài chính kế toán.Mọi hoạt động, đặc biệt là hoạt động tài chính đều
bao gồn những mối qua hệ đa dạng, luôn luôn biến đổi và được cấu thành bởi
hàng loạt nghiệp vụ cụ thể. Để hướng các nghiệp vụ này vào mục tiêu giải quyết
tốt các quan hệ trên không chỉ cần có định hướng đúng và thực hiện tốt mà cần
thường xuyên soát xem việc thực hiện để hướng các nghiệp vụ vào quỹ đạo
mong muốn. Hơn nữa chính định hướng và tổ chức thực hiện tốt trên cơ sở

6


những bài học thực tiễn soát xét và luôn uốn nắn thường xuyên những lệch lạc
trong quá trình thực hiện.
Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế trong đó các quan hệ tài
chính chế độ kế toán thay đổi nhiều lần. Trong khi đó công tác kiểm tra kiểm
soát chưa chuyển hướng kịp thời, dẫn tới tình trạng vi phạm các nguyên tắc chế
độ tài chính kế toán. Đã có ý kiến cho rằng chưa thể cải cách công tác kiểm tra
trong khi chưa triển khai toàn diện và rộng khắp công tác kế toán. Tuy nhiên
kinh nghiệm thực tế đã chỉ rõ chỉ có triển khai tốt hơn công tác kiểm toán mới có
thể nhanh chóng tài chính kế toán đi vào nề nếp.Thứ ba, kiểm toán góp phần
nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý
Rõ ràng kiểm toán không chỉ có chức năng xác minh mà còn có chức năng tư
vấn. Các chủ doanh nghiệp không thể kiểm soát hàng ngàn, hàng vạn nghiệp vụ
tài chính kế toán đã xảy ra trong doanh nghiệp. Vì vậy các chủ doanh nghiệp
thường kiểm soát các nghiệp vụ tài chính kế toán cho người phụ tá. Để biết được
một cách chính xác, trung thực tình hình tài chính kế toán của mình vào kì hạn
nào đó, người chủ doanh nghiệp thường mời các kiểm toán viên chuyên nghiệp
độc lập có uy tín thực hiện việc kiểm tra và nhận xét bảng báo cáo tài chính của
doang nghiệp mình do người phụ trách kế toán lập ra.Những nhận xét của kiểm
toán viên sẽ giúp cho các chủ doanh nghiệp kịp thời phát hiện những sai sót,
lãng phí hoặc vi phạm pháp luật do cố ý hay vô ý để xử lý kịp thới hay ngăn
ngừa các tổn thất. Điều đó giúp doanh nghiệp hạn chế được những rủi ro hay
phát hiện ra thế mạnh những tiềm năng tài chính nội tại có trong doanh nghiệp.
tất cả những điều trình bày trên, có thể thấy kiểm toán có ý nghĩa trên nhiều
mặt : ”Đó là quan toà công minh của qúa khứ, người dẫn dắt cho hiện tại và
người cố vấn sáng suốt cho tương lai “.
II.Tìm hiểu về bản chất của kiểm toán độc lập
4.Kiểm toán viên độc lập

4.1 Tiêu chuẩn của kiểm toán viên
Tuy có thể có tên gọi khác nhau nhưng theo IFAC và luật pháp các nước thành
viên quy định các yêu cầu cơ bản đối với kiểm toán viên là: Có kỹ năng và khả
năng nghề nghiệp chính trực, khách quan độc lập và tôn trọng bí mật.
a. Kỹ năng và khả năng của kiểm toán viên:
Việc tiến hành kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán phải được tiến hành một cách
thận trọng theo yêu cầu nghề nghiệp và phải được những chuyên gia được đào
tạo tương xứng có kinh nghiệm và trình độ thực hiện. Kiểm toán viên được đào
tạo phải trải qua kinh nghiệm về những kĩ năng cơ bản về nghề kế toán, một số
kỹ năng của luật sư và của người nghiên cứu khoa học Lẽ đương nhiên kiểm
toán viên không được dành quyền phân xử công tác kế toán trừ phi đã làm chứng
những gì kế toán họ đã làm. Một kiểm toán viên vì vậy, trước hết phải là một
7


chuyên gia lành nghề về kế toán. Đồng thời một kiểm toán viên được đào tạo
một cách không vô thức trở thành một kiểm toán viên hiệu quả. Một chuyên gia
kế toán chỉ có thể trở thành một kiểm toán viên khi được trải qua những kinh
nghiệm trong thực tế. Các kinh nghiệm này đạt được một cách tốt nhất dưới sự
giám sát thực tế của các kiểm toán viên lâu năm có kinh nghiệm của một tổ chức
kiểm toán chuyên nghiệp.
Hơn nữa kiểm toán viên phải thường xuyên nhận thức được sự phát triển về kế
toán, kiểm toán qua các văn bản chuyên ngành thích hợp, do quốc gia và quốc tế
công bố, cũng như các quy định có liên quan và các yêu cầu của pháp luật. Kiểm
toán viên có nghĩa vụ duy trì kỹ năng và trình độ nghiệp vụ của mình trong suốt
quá trình hành nghề. Yêu cầu về kỹ năng và khả năng nghiệp vụ còn lưu ý
những kiểm toán viên chỉ nhận mà bản thân hoặc hãng của mình có đủ trình độ
và khả năng hoàn thành công việc đó .
b. Đạo đức của kiểm toán viên
Kiểm toán viên phải là người thẳng thắn trung thực có lương tâm nghề nghiệp,

phải là người công minh chính trực và không được phép để cho sự định kiến
thiên lệch làm lấn át tính khách quan, chính trực ...
Kiểm toán viên phải điều chỉnh mình cho phù hợp với uy tín của ngành nghề uy
tín của bản thân và hãnh, phải tự kiềm chế những tính có thể phá vỡ uy tin nghề
nghiệp.
Kiểm toán viên còn phải thường xuyên rèn luyện tính cẩn thận một cánh thoả
đáng tất cả kỹ năng và sự siêng năng cần thiết khi thực thi những nhiệm vụ của
mình. Những chuẩn mực về tính cẩn thận là một tư chất về trí tuệ, nó được thể
hiện trong các thủ tục kiểm toán dịch vụ các kiểm toán việc thực thi.
c.Tính độc lập của kiểm toán viên
Khi hành nghề kiểm toán, kiểm toán viên phải thể hiện tính độc lập của mình
không được để cho các ảnh hưởng chủ quan, khách quan hoặc sự chi phối vật
chất làm mất đi tính độc lập. Kiểm toán viên phải luôn có thái độ vô tư, độc lập
trong khi tiến hành công việc kiểm toán cũng như khi lập các báo cáo kiểm toán.
Bất cứ sự vụ lợi nào cũng không phù hợp với phẩm cách của kiểm toán viên.
Kiểm toán viên không được có quan hệ vụ lợi về mặt kinh tế với khách hàng mà
kiểm toán viên đang nhận kiểm toán.
Những quan hệ họ hàng, gia đình ruột thịt cũng ảnh hưởng đến tính độc lập của
kiểm toán viên.
Trong quá trình kiểm toán, nếu không hạn chế được thì kiểm toán viên phải diễn
đạt điều này trong báo cáo kiểm toán .
d. Tôn trọng bí mật
Kiểm toán viên phải tôn trọng những thông tin thu thập được trong quá trình
kiểm toán,không được tiết lộ bất kỳ một thông tin kiểm toán nào cho bên thứ ba
8


khi không có sự uỷ quyền đặc biệt hoặc trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm yêu
cầu công bố.
e.Tôn trọng pháp luật

Trong hoạt động nghề nghiệp, kiểm toán viên phải luôn tôn trọng và chấp hành
đúng các chế độ, thể lệ nguyên tắc và luật pháp của Nhà nước và những chuẩn
mục kiểm toán quốc tế, quốc gia.
Kiểm toán viên cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề
nghiệp của mình trong báo cáo kiểm toán.
g. Các chuẩn mực nghiệp vụ
Kiểm toán viên phải tiến hành công việc nghiệp vụ của mình theo những chuẩn
mực nghiệp vụ chuyên ngành phù hợp với công việc đó.
- Có lý lịch rõ ràng, được cơ quan nơi công tác hoặc chính quyền địa phương nơi
cư trú xác nhận, có phẩm chất trung thực, liêm khiết, nắm vững luật pháp và
chính sách chế độ kinh tế, tài chính kế toán thống kê của Nhà nước không có
tiền án tiền sự.
- Có bằng tốt nghiệp đại học hoặc trung học chuyên ngành tài chính kế toán đã
làm công tác tài chính kế toán từ 5 đến 10 năm trở lên.
- Đã qua kỳ thi tuyển Kiểm toán viên do hội đồng cấp Nhà nước tổ chức và được
Bộ trưởng Bộ Tài chính cấp chứng chỉ .
- Được chấp nhận vào làm việc tại một tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động hợp
pháp ở Việt Nam và được đăng ký danh sách Kiểm toán viên ở Bộ Tài chính.
Ngoài công dân Việt Nam, công dân nước ngoài muốn hành nghề kiểm toán ở
Việt Nam phải có đầy đủ các điều kiện :Được phép cư chú hợp pháp ở Việt
Nam .Có chứnh chỉ.Kiểm toán viên do Bộ trưởng Bộ Tài chính Việt Nam cấp
hoặc có chứng chỉ
Kiểm toán viên cấp bởi một tổ chức kiểm toán quốc tế mà bộ tài chính Việt Nam
thừa nhận và phải nắm vững luật pháp kinh tế, tài chính, kế toán ,kiểm toán Việt
Nam.
Được chấp nhận làm việc tại một tổ chức kiểm toán thành lập ở Việt Nam. Đã
được đang ký danh sách Kiểm toán viên tại Bộ Tài chính.
4.2 Trách nhiệm, quyền hạn, nhiệm vụ của kiểm toán viên
a.Trách nhiệm của kiểm toán viên.
Chấp hành các nguyên tắc của kiểm toán quy định thực hiện đúng các điều

khoản hợp đồng kiểm toán, lập các báo cáo kiểm toán, ký tên vào báo cáo kiểm
toán và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước tổ chúc kiểm toán độc lập và
trước khách hàng về tính trung thực khách quan và tính trung thực của kết quả
kiểm toán và ý kiến nhận xét trên báo cáo kiểm toán.
Trong quá trình thục hiện nhiệm vụ ,kiểm toán viên không được gây trở ngại vào
công việc điều hành của đơn vị đang kiểm toán và không được nhận thêm bất cứ
9


khản tiền nào của đơn vị ngoài chi phí kiểm toán.
Kiểm toán viên vi phạm quy chế pháp luật thì tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị
thu hồi Chứng chỉ Kiểm toán viên và bị xử lý theo luật hiện hành, nếu vì những
sai phạm và thiếu sót mà gây ra những thiệt hại về vật chất cho khách hàng thì
Kiểm toán viên phải bồi thường thiệt hại. Trong quá trình kiểm toán kiểm toán
viên phải thực hiện các quy tắc sau đây:
- Tuân thủ pháp luật của Nhà nước Việt Nam;
- Bảo đảm trung thực khách quan, công bằng và bí mật về số liệu;
- Tuân thủ các chuẩn mực về kế toán, kiểm toán của Việt Nam và quốc tế.
b. Quyền hạn của kiểm toán viên.
- Độc lập về chuyên môn nghiệp vụ trong phạm vi khuôn khổ của pháp luật các
chuẩn mực nghiệp vụ chuyên môn.
- Yêu cầu khách hàng cung cấp đầy đủ các tài liệu kế toán tài chính, các tài liệu
khác có liên quan đến nội dung cuả kiểm toán.
- Khi phát hiện đơn vị kiểm toán có hiện tượng vi phạm pháp luật, có quyền
thông báo kiến nghị có biện pháp sửa chữa sai lầm và có quyền ghi ý kiến của
mình vào báo cáo kiểm toán.
- Có quyền khước từ làm kiểm toán cho khách hàng nếu xét thấy không đủ khả
năng hoặc không đủ điều kiện kiểm toán .
c.Nhiệm vụ của kiểm toán viên .
-Kiểm tra tính hợp lệ hớp pháp của các chứng từ, tài liệu số liệu kế toán việc

chấp hành chế độ thể lệ kiểm toán, kế toán của Nhà nước.
-Kiểm tra và xác nhận mức độ trung thực của các báo cáo kiểm toán mà đơn vị
lập ra.
-Kiểm tra giá trụ vốn góp của các bên tham gia liên doanh, của các cổ đông kiểm
tra xác nhận tính trung thực, hợplý, đầy đủ của các số liệu kế toán và báo cáo
quyết toán của đơn vị liên doanh giải thể sát nhập chia tách cổ phần hoá, phá sản
và các trường hợp khác.
-Giám định tài chính kế toán và các dịch vụ tư vấn tài chính kế toán thuế theo
yêu cầu của khách hàng.
4.3 Trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên đối với báo cáo kiểm toán
Chức năng cơ bản của kiểm toán độc lập là thẩm định tình trung thực và hợp lý
của thông tin kế toán tài chính làm cơ sở cho việc thiết lập, phát hiện các mối
quan hệ kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế thị trường. Kiểm toán viên chỉ đưa ra
những nhận xét khách quan trên cơ sơ xét đoán khoa học của mình chứ không
bao giờ cam kết hoặc bảo lãnh cho các báo cáo tài chính mà mình kiểm toán, còn
việc ngăn ngừa và phát hiện mọi gian lận, sai sót là trách nhiệm của các nhà
quản lý doanh nghiệp. Vì vậy không nên và không thể yêu cầu Kiểm toán viên
phát hiện mọi gian lận và sai sót. Kiểm toán viên sẽ phải chịu trách nhiêm trước
10


khách hàng mà lỗi do Kiểm toán viên gây ra làm hiệt hại cho khách hàng.
-Vi phạm hợp đồng kiểm toán, ví dụ như không thực hiện hết các phần ghi trong
hợp đồng, kéo dài thời gian kiểm toán, giao báo cáo kiểm toán chậm, thậm chí
tổn thất cho khách hàng vì không có báo cáo được kiểm toán sẽ không vay được
vốn kinh doanh.
-Vi phạm các nguyên tắc nghề nghiệp.Ví dụ, do tác động về vật chất hoặc tinh
thần của khách hàng hoặc người thứ ba nào đó mà có những kết luận kiểm toán
sai lệch với thực tế hoặc có thể do động cơ nào đó mà có thể tiết lộ những thông
tin bí mật đã thu nhận được trong quá trình kiểm toán .

-Do chủ quan, cẩu thả hoặc do trình độ nghiệp vụ non kém mà kiểm toán viên
không phát hiện những gian lận sai sót thông thường.
5. Tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập .
5.1 Cơ cấu tổ chức
Công tác tổ chức bộ máy do các kiểm toán viên và doanh nghiệp thực hiện.
Thông thường các hãng kiểm toán htực hiện theo 3 hình thức:
-Hãng thuộc quyền sở hữu của một người
-Hãng tổ chức theo hình thức hợp doanh, hiện nay hình thức này được áp dụng
phổ biến
-Hãng tổ chức theo hình thức công ty cổ phần, hình thức này ở các công ty lớn
xuyên quốc gia.
Cho đên nay, Việt Nam co 7 công ty kiểm toán, 4 công ty vốn 100% nước ngoài,
2 công ty liên doanh về kiểm toán. Ngoài ra còn một số văn phòng đại diện của
các tổ chức kiểm toán quốc tế ...
Như vậy trong tương lai ở Việt Nam sẽ từng bước hình thành một hệ thống các
tổ chức kiểm toán độc lập tư vấn thuộc nhiều hình thức, nhiều thành phần kinh
tế khác nhau.
5.2 Điều kiện thành lập công ty hay văn phòng kiểm toán
Theo quy định pháp luật Việt Nam, các cơ quan tổ chức, người sáng lập công ty
hoặc văn phòng kiểm toán phải có điều kiện bắt buộc là:
-Có đủ các điều kiện qui định của pháp luật hiện hành về việc thành lập các loại
doanh nghiệp tuỳ theo từng trường hợp.
-Có ít nhất 5 người trở lên được cấp Chứng chỉ Kiểm toán viên và người đứng
đầu tổ chức nhất thiết phải là Kiểm toán viên .
-Được Bộ tài chính chấp nhận bằng văn bản về việc cho phép thành lập và được
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra qyết định thành lập theo quy định của pháp
luật.
5.3 Các dịch vụ kiểm toán
Khác với loại hình kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập là loại hình kiểm toán
sinh lời, là hoạt động kinh doanh. Các tổ chức kiểm toán độc lập là các đơn vị

11


hạch toán độc lập, được thu phí hoạt động để trang trải các khoản chi phí. Đồng
thời phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước theo quy định của
pháp luật.
Trong hoạt động của mình các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp thường nhận
phục vụ khách hàng 4 loại dịch vụ chính:
- Dịch vụ xác nhận bao gồm :Kiểm toán báo cáo tài chính, đây là dich vụ chủ
yếu nhất của các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp thường chiếm trên 50%
doanh thu hoạt động
- Dịch vụ xem xét lại
- Các dịch vụ xác nhận khác
- Ngoài dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính, dịch vụ xem xét lại, các tổ chức
kiểm toán còn có thể xác nhận số liệu thống kê thực hiện đầu tư của các tổ chức,
xác nhận hoạt độngcủa các chương trình tài trợ và phát triển các quỹ xã hội, các
tổ chức quốc tế ...
b.Dich vụ thuế
Các hãng kiểm toán chuyên nghiệp có thể nhận phục vụ cho khách hàng dịch vụ
thuế (cóthể là một hoặc tất cả các lọai thuế mà khách hàng phải nộp).
c.Dịch vụ tư vấn quản lý
Hầu hết các hãng kiểm toán chuyên nghiệp đều có thể làm dịch vụ tư vấn quản
lý, nhằm giúp cho khách hàng trong sản xuất kinh doanh.
d. Dịch vụ kế toán
Thông thường dịch vụ này do các hãng nhỏ điạ phương thực hiện, phục vụ cho
các doanh nghiệp có quy mô nhỏ không có bộ máy kế toán chuyên nghiệp.
Các tổ chức kiểm toán độc lập ở Việt Nam về cơ bản đều có thể cung cấp đầy đủ
các dịch vụ trên. Chẳng hạn công ty dịch vụ tư vấn tài chính - kế toán và kiểm
toán có thể cung cấp cho khách hàng các loại dịch vụ:
- Kiểm toán báo cáo tài chính

- Giám định tài liệu tài chính kế toán
- Tư vấn quản lý tài chính kế toán thuế
- Cổ phần hoá
- Định giá tài sản
- Giải thể doanh nghiệp
- Đào tạo kế toán kiểm toán.
Nhờ có các loại dịch vụ kiểm toán phát triển như ngày nay mà các công ty có
nhiều điều kiện thu hút vốn dầu tư trong nước và quốc tế, góp phần giúp các
công ty quản lý tốt hơn trong hoạt động kinh doanh và chấp hành đầy đủ luật
pháp Việt Nam.

12


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM TOÁN ĐỘC
LẬP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Trải qua 25 năm xây dựng và phát triển, lĩnh vực kiểm toán độc lập Việt Nam đã
dần khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường và trở thành bộ
phận cấu thành của hệ thống công cụ quản lý vĩ mô, phục vụ công cuộc phát
triển kinh tế đất nước.
I.Toàn cảnh hoạt động của kiểm toán độc lập ở Việt Nam hiện nay
1.Hệ thống văn bản pháp luật về KTĐL đã đầy đủ, đồng bộ nhất từ trước
tới nay
Từ khi ra đời 5/1991 đến 2011, KTĐL hoạt động theo các Nghị định của Chính
phủ và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính. Năm 2011, Quốc hội công bố
Luật KTĐL có hiệu lực từ 01/01/2012, đến nay (7/2014), Chính phủ và Bộ Tài
chính đã ban hành gần như đầy đủ, đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật về
KTĐL, gồm: 02 Nghị định (NĐ 17/2012/NĐ-CP, NĐ105/2013/NĐ-CP) và 07
Thông tư (TT 129-2012/TT-BTC, 150-2012/TT-BTC, 202-2012/TT-BTC, 2032012/TT-BTC, 214-2012/TT-BTC, 78-2013/TT-BTC và 183-2013/TT-BTC) đã
quy định và hướng dẫn gần như tất cả các mặt hoạt động từ quản lý Nhà nước

đến phương pháp nghiệp vụ, kỹ thuật kiểm toán và các dịch vụ đảm bảo có liên
quan.
Tuy nhiên đến nay, thời gian có hiệu lực của văn bản chưa đủ dài để tuân thủ
đầy đủ các văn bản và đánh giá tác động của pháp luật tới thực tế hoạt động
KTĐL, nhất là chất lượng dịch vụ cung cấp.
2.Số lượng công ty kiểm toán tăng, giảm nhẹ, hiện tại được cơ cấu lại theo
hướng tăng quy mô doanh nghiệp, tăng số lượng KTV hành nghề, trở thành
13


thành viên Hãng quốc tế, được vào danh sách đủ điều kiện kiểm toán niêm
yết
Năm 2010 là năm đỉnh cao Việt Nam có 170 công ty kiểm toán, trong đó có 152
công ty đủ điều kiện hành nghề kiểm toán với số lượng nhân viên bình quân là
57 người/1 công ty. Năm 2011 vẫn có 152 công ty với số lượng nhân viên bình
quân là 56 người. Năm 2012 tăng lên 155 công ty với số lượng nhân viên bình
quân là 65 người, đặc biệt năm 2013 số lượng công ty giảm mạnh, chỉ còn 134
công ty (giảm 14%) nhưng số lượng nhân viên bình quân là 78 người, tăng lên
20% so với năm 2012.
Số lượng KTV hành nghề năm 2010 tăng 12% so với năm 2009, năm 2011 tăng
14%, 2012 giảm 5% so với năm trước tương ứng. Tuy nhiên, KTV năm 2013 lại
tăng 12% so với năm 2012. Năm 2012 giảm có thể do năm đầu tiên thực hiện
Luật KTĐL điều kiện đăng ký hành nghề đã chặt hơn, hoặc có KTV đủ điều
kiện hành nghề nhưng làm việc trong công ty kiểm toán không đủ điều kiện
hành nghề kiểm toán nên không có trong số liệu báo cáo.
Về công ty kiểm toán được công nhận là thành viên Hãng quốc tế cũng tăng nhẹ,
năm 2010 và 2011 có 27 công ty, năm 2012 tăng 4%, năm 2013 tăng 11% so với
năm trước tương ứng. Các Hãng quốc tế lớn (là các Hãng phải có văn phòng ở
các nước khác) đã vào Việt Nam, các Hãng còn lại hầu như là nhỏ hoặc không
đủ lớn, không đủ uy tín hấp dẫn công ty kiểm toán Việt Nam gia nhập.

Về công ty kiểm toán đủ điều kiện kiểm toán niêm yết, năm 2010 có 31 công ty,
giảm 9% so với năm 2009, năm 2011 có 43 công ty, tăng 39%; năm 2012 và
2013 đều có 43 công ty, không tăng giảm so với năm 2011. Đây là kết quả do cơ
cấu lại, một số công ty trung bình có xu hướng sáp nhập để đủ quy mô đạt tiêu
chuẩn, điều kiện kiểm toán niêm yết.
3.Trong hoàn cảnh khó khăn chung của nền kinh tế, ngành KTĐL vẫn duy
trì được tốc độ tăng trưởng về doanh thu và tăng nhanh hơn tốc độ tăng
trưởng về khách hàng, giá phí khách hàng có tăng, có giảm nhưng bình
quân chung vẫn là tăng
Nếu tổng doanh thu toàn ngành KTĐL năm 2010 là 2.744 tỷ, tăng 25% so với
năm 2009, năm 2011 tăng 11%, 2012 tăng 23% và năm 2013 tăng 11% so với
năm trước tương ứng. Trong khi số lượng khách hàng (hợp đồng) năm 2010 là
29.023, tăng 12% so với năm 2009, năm 2011 tăng 7%, năm 2012 tăng 0% và
năm 2013 tăng 8% so với năm trước tương ứng. Như vậy tốc độ tăng doanh thu
vẫn nhanh hơn tốc độ tăng khách hàng, vì giá phí bình quân trên một hợp đồng
cũng tăng khá. Năm 2010 bình quân là 95 triệu đồng/hợp đồng, tăng 12% so với
14


năm 2009, năm 2011 tiếp tục tăng 3%, 2012 tăng 23% và năm 2013 tăng 3% so
với năm trước tương ứng.
4.Năm 2013 khách hàng và doanh thu có xu hướng tập trung vào các công
ty kiểm toán lớn, nhất là Big 4 chiếm 58% doanh thu (tăng 12% so với năm
2012) và tập trung 10 công ty lớn nhất chiếm 69% hoặc tập trung doanh
thu vào 43 doanh nghiệp đủ điều kiện kiểm toán niêm yết, chiếm 85%
doanh thu
Trong khi tốc độ tăng trưởng doanh thu bình quân của ngành là 11% thì Big4
tăng 12% trong đó 2 công ty tăng 16%. Năm 2012 Big4 chiếm 57% doanh thu
toàn ngành, năm 2013 chiếm 58% (tăng 1%). 130 công ty Việt Nam chỉ chiếm
42%...Ngoài Big4, nếu chỉ tính 10 công ty lớn nhất đã chiếm 69%, 124 công ty

còn lại chỉ chiếm 31% doanh thu.
Trong khi doanh thu bình quân một công ty kiểm toán năm 2013 là 31 tỷ
đồng/năm, bình quân của Big4 là 599 tỷ đồng, còn lại 130 công ty Việt Nam
bình quân chỉ 14 tỷ/năm.
5.Các doanh nghiệp kiểm toán Việt, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã
khó khăn, nay có xu hướng càng khó khăn hơn
Năm 2014 là năm đầu tiên thực hiện đầy đủ luật KTĐL về điều kiện đăng ký
hành nghề kiểm toán (công ty kiểm toán phải có 5 KTV hành nghề, 3 tỷ đồng
vốn pháp định…) đã làm rơi rụng 10 công ty kiểm toán nhỏ có KTV đủ điều
kiện hành nghề nhưng chưa đủ 5 người, và 12 công ty không có KTV nào đủ
điều kiện hành nghề kiểm toán.
Năm 2013 có 91 công ty kiểm toán vừa và nhỏ nhưng chỉ đạt tổng doanh thu là
642 tỷ đồng (chiếm 15%). Giá phí bình quân một khách hàng rất thấp (bình quân
49 triệu đồng/khách hàng). Theo đó chất lượng dịch vụ khó có thể cao được,
trong khi giá phí bình quân một khách hàng của Big4 là 360 triệu đồng. Doanh
thu bình quân một nhân viên công ty kiểm toán vừa và nhỏ là 261
triệu/người/năm, trong khi Big4 là 892 triệu đồng/một nhân viên.
Các công ty kiểm toán Việt có quy mô khá, đạt tiêu chuẩn, điều kiện kiểm toán
doanh nghiệp niêm yết (vốn 4 tỷ, có 10 KTV hành nghề trên 24 tháng, có 150
khách hàng kiểm toán BCTC, trong đó có 10 khách hàng niêm yết) cũng đang
gặp vạn khó khăn trước yêu cầu mới, phải có đủ 6 tỷ đồng (tăng 50 %), có 15
KTV hành nghề (tăng 50%), có 300 khách hàng kiểm toán BCTC (tăng 200%),
trong đó có 20 KTV niêm yết (tăng 100%)… trước 20/10/2015 (Thời hạn cuối
cùng nộp hồ sơ đăng ký thực hiện kiểm toán khách hàng niêm yết).
15


Các công ty kiểm toán Việt có quy mô vừa đạt tiêu chuẩn, điều kiện kiểm toán
đơn vị có lợi ích công chúng (vốn 4 tỷ, có 7 KTV hành nghề trên 24 tháng, có
100 khách hàng kiểm toán BCTC, trong đó có 5 khách hàng là đơn vị có lợi ích

công chúng) cũng gặp vạn khó khăn tương tự: phải có đủ 6 tỷ đồng (tăng 50%),
có 10 KTV hành nghề (tăng 43%), có 250 khách hàng kiểm toán BCTC (tăng
250%) trong đó có 10 KTV là đơn vị có lợi ích công chúng (tăng 100%)… trước
20/10/2015 như nói trên.
Các quy định này chỉ dành cho các công ty kiểm toán hiện nay đã đủ các điều
kiện theo quy định trước 20/10/2015, hoặc công ty chỉ thiếu chút ít (10 -20 %)
các điều kiện nói trên, may ra có thể phấn đấu đạt. Các công ty không đạt điều
kiện quy định trước 20/10/2015 đồng nghĩa với việc sẽ mãi mãi không thể qua
được cửa ải này trừ khi có mua bán và sáp nhập với công ty đã đủ điều kiện
kiểm toán niêm yết.
Hãy nhớ rằng, qua phân tích ở các phần trên, tỷ lệ tăng cao nhất của bất kỳ chỉ
tiêu cơ bản nào trong 5 năm vừa qua cũng chỉ tối đa là 25%.
6.Cơ quan Nhà nước có xu hướng tăng cường quản lý trực tiếp mọi hoạt
động KTĐL, giảm thiểu các hoạt động đã chuyển giao cho tổ chức nghề
nghiệp về kiểm toán

16


Năm 2006, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 47/2006/QĐ–BTC đã chuyển
giao cho tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán một số hoạt động phù hợp với thông
lệ quốc tế, như (1) Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn và thực hiện cập nhật kiến
thức cho KTV, (2) Quản lý danh sách kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm
toán, (3) Xét điều kiện và công khai danh sách KTV và doanh nghiệp kiểm toán
đủ điều kiện hành nghề, (4) Thực hiện kiểm tra chất lượng kiểm toán và (5)
Tham gia tổ chức thi tuyển KTV.
Tuy nhiên sau khi có Luật KTĐL, chỉ còn giao duy nhất 1 việc là tổ chức bồi
dưỡng chuyên môn và thực hiện CNKT cho KTV, nhưng đồng thời cũng cho
phép các công ty kiểm toán đủ điều kiện tự CNKT và các cơ sở đào tạo khác
được tổ chức CNKT và tổ chức ôn thi KTV. Vì thế, thực chất việc này cũng

không phải giao cho VACPA.
Hai việc khác chỉ là phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện như: phối hợp thực
hiện KSCL, tham gia tổ chức thi KTV theo từng việc được giao hàng năm.
Nhà nước đã thu lại toàn bộ hai việc là (2) Quản lý danh sách KTV hành nghề
và (3) Xét điều kiện và công khai danh sách KTV và doanh nghiệp kiểm toán đủ
điều kiện hành nghề.
Theo Luật KTĐL, Nhà nước có giao thêm cho VACPA một việc mới là tổ chức
soạn thảo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam trình Bộ Tài chính ban hành. VACPA
thực hiện phổ biến, triển khai và hướng dẫn thực hiện hệ thống CMKiT Việt
Nam, và trong ba năm qua VACPA đã thực hiện thật xuất sắc trách nhiệm này.
Tháng 12/2012 trình Bộ Tài chính ban hành 37 CMKiT mới của Việt Nam và
sắp tới, tháng 9/2014 VACPA sẽ trình tiếp 10 CMKiT mới tiếp theo, dự kiến Bộ
Tài chính sẽ ban hành trong năm 2014 này.
II.Những thành tựu của hệ thống kiểm toán độc lập Việt Nam
Một là, pháp luật về kiểm toán sớm hình thành (văn bản quy phạm pháp luật về
KTNN và về kiểm toán độc lập được ban hành vào năm 1994, về kiểm toán nội
bộ năm 1997), đã tạo tiền đề cho sự ra đời và phát triển của các tổ chức kiểm
toán. Đến nay, Nhà nước đã ban hành Luật KTNN, Nghị định về kiểm toán độc
lập, quy định của Bộ Tài chính về quy chế kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp
nhà nước (DNNN). Đây là cơ sở pháp lý tạo điều kiện cho sự phát triển hệ thống
kiểm toán ở VN. Bên cạnh đó, KTNN đã ban hành được hệ thống chuẩn mực
KTNN và nhiều quy trình kiểm toán chuyên ngành áp dụng cho đối tượng kiểm
toán cụ thể, Bộ Tài chính cũng đã ban hành 38 chuẩn mực kiểm toán để áp dụng
trong hoạt động kiểm toán độc lập và kiểm soát chất lượng kiểm toán;

17


Hai là, sự phát triển của KTNN, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ đã góp
phần thúc đẩy cải cách nền hành chính nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới kinh tế của VN. Dù trong thời
gian chưa dài, nhưng hệ thống kiểm toán đã khẳng định được vị trí, tác động và
góp phần thúc đẩy công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước và đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế ở VN. Nhà nước đã thực sự quan tâm đến hệ thống các tổ
chức kiểm toán ở VN. Ngoài việc tạo lập những tiền đề pháp luật cho sự ra đời
của các tổ chức này, Nhà nước đã nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện các tổ chức
kiểm toán;
Ba là, hoạt động của các tổ chức kiểm toán đã bước vào giai đoạn ổn định. Hoạt
động KTNN đã có bước phát triển lớn mạnh, nhất là từ khi Luật KTNN có hiệu
lực thi hành từ 2006. KTNN đã thực hiện kiểm toán với phạm vi ngày càng mở
rộng. Kết quả kiểm toán được ghi nhận trong những năm qua không chỉ là con
số tăng thu, tiết kiệm chi hàng ngàn tỷ đồng cho ngân sách nhà nước, mà quan
trọng và ý nghĩa hơn là thông qua hoạt động kiểm toán của KTNN đã giúp cho
các đơn vị được kiểm toán ngăn ngừa những tiêu cực, lãng phí, thất thoát tiền,
tài sản; hoàn thiện hơn công tác quản lý, đảm bảo sử dụng nguồn lực tài chính
quốc gia một cách tiết kiệm và hiệu quả hơn; KTNN đã cung cấp thông tin toàn
diện, xác thực về tình hình quản lý tài chính và điều hành ngân sách của các cấp,
các bộ ngành, các doanh nghiệp… cùng nhiều kiến nghị với Chính phủ, Quốc
hội và các cơ quan thẩm quyền góp phần sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ chế,
chính sách quản lý tài chính và tăng cường hiệu lực quản lý. Các doanh nghiệp
kiểm toán độc lập đã phát triển nhanh cả về mặt số lượng và đội ngũ KTV, thị
trường ngày càng mở rộng. Ngoài hoạt động chính là kiểm toán và tư vấn, các
công ty kiểm toán đã giữ vai trò quan trọng trong việc đào tạo, phổ biến, hướng
dẫn chế độ, chính sách quản lý kinh tế tài chính, thuế, kế toán trong nền kinh tế
quốc dân. Kiểm toán nội bộ tuy chưa phát triển, song cũng đã hình thành và
bước đầu mang lại kết quả ở một số đơn vị, DNNN… Kiểm toán nội bộ đã có
những đóng góp thiết thực cho việc kiểm soát, quản trị nội bộ; phát hiện và ngăn
chặn kịp thời những vi phạm trong hệ thống quản lý của đơn vị. Trình độ của
các KTV nội bộ từng bước được nâng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu
quản lý của đơn vị;

Bốn là, mối quan hệ giữa ba phân hệ kiểm toán đã bước đầu hình thành, trong
đó KTNN và các doanh nghiệp kiểm toán độc lập đã phối hợp trong việc thực
hiện kiểm toán đối với một số các DNNN, chương trình mục tiêu quốc gia;
KTNN đã có những đóng góp nhất định trong hướng dẫn nghiệp vụ và sử dụng
kết quả của kiểm toán nội bộ. Mặt khác, Hội Kế toán và Kiểm toán VN (VAA),
Hội Kiểm toán viên hành nghề (VACPA) bước đầu đã thể hiện vai trò trong việc
18


định hướng các hoạt động nghề nghiệp và thiết lập mối quan hệ giữa các phân
hệ kiểm toán
III. Những hạn chế của hệ thống kiểm toán Việt Nam
Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ
thống các tổ chức kiểm toán ở VN, song từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của
hệ thống kiểm toán VN còn những hạn chế chủ yếu sau:
– Khuôn khổ pháp lý về tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm toán chưa đầy
đủ và đồng bộ: Địa vị pháp lý của KTNN và Tổng KTNN chưa được quy định
trong Hiến pháp như hầu hết các nước trên thế giới, còn tình trạng không tương
thích giữa các quy định về tổ chức và hoạt động KTNN; Chưa có luật về kiểm
toán độc lập, hoạt động của kiểm toán độc lập hiện nay được điều chỉnh bằng
Nghị định của Chính phủ chưa thực sự tạo lập được khuôn khổ pháp lý đủ mạnh
cho sự phát triển các doanh nghiệp kiểm toán độc lập và độ tin cậy của các
khách hàng kiểm toán và xử lý rủi ro trong hoạt động kiểm toán; Các quy định
về kiểm toán nội bộ vừa thiếu, vừa không đủ hiệu lực thúc đẩy sự ra đời và phát
triển của hệ thống kiểm toán nội bộ;
– Các phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán đặc biệt là quy trình,
chuẩn mực, quy định về kiểm soát chất lượng kiểm toán của cả ba phân hệ kiểm
toán mặc dù đã được chú trọng xây dựng và ban hành nhưng còn thiếu đồng bộ
đã ảnh hưởng nhất định đến chất lượng hoạt động kiểm toán. Chưa triển khai
được kiểm toán trong môi trường công nghệ thông tin, việc ứng dụng công nghệ

thông tin vào công tác kiểm toán còn hạn chế.
– Sự phát triển về tổ chức của cả ba phân hệ kiểm toán chưa đáp ứng được yêu
cầu của thực tiễn. KTNN cho đến nay đã có bước trưởng thành nhanh chóng về
tổ chức và nhân sự nhưng năng lực kiểm toán vẫn chưa tương xứng với chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao, đặc biệt là thiếu các KTNN khu vực để
kiểm toán ngân sách địa phương. Các doanh nghiệp kiểm toán độc lập tuy số
lượng phát triển khá nhanh nhưng năng lực nhìn chung còn hạn chế. Hệ thống
kiểm toán nội bộ phát triển chậm, chủ yếu mới được hình thành ở một số Tổng
công ty và ngân hàng thương mại Nhà nước;
– Hoạt động kiểm toán trong thực tế còn hạn chế cả về phạm vi, quy mô và chất
lượng. KTNN mới chỉ chú trọng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân
thủ, kiểm toán hoạt động còn chưa được triển khai nhiều. Các doanh nghiệp
kiểm toán độc lập của VN còn hạn chế về kinh nghiệm hành nghề, năng lực và
sức cạnh tranh, chất lượng kiểm toán chưa đáp ứng được yêu cầu của các đối
tượng sử dụng thông tin. Chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ tại một số tổng
19


công ty nhà nước còn nhiều hạn chế về quy mô và tính chuyên nghiệp; kiểm
toán nội bộ chưa thật sự khẳng định được vai trò phục vụ quản lý nội bộ của đơn
vị.
– Các phân hệ kiểm toán chưa tạo lập được những quan hệ chặt chẽ, có tính hệ
thống; việc hỗ trợ, tác động lẫn nhau trong hoạt động còn rất hạn chế. KTNN là
một tổ chức chủ đạo trong hệ thống kiểm toán trên thực tế vẫn chưa sử dụng các
doanh nghiệp kiểm toán hỗ trợ cho hoạt động KTNN; chưa có tác động tích cực
đến các cơ quan, tổ chức của Nhà nước để phát triển và hướng dẫn chuyên môn
đối với bộ phận kiểm toán nội bộ. Các bộ phận kiểm toán nội bộ ở trong một số
tổng công ty của Nhà nước hoạt động tương đối đơn độc, thiếu sự phối hợp với
các phân hệ kiểm toán khác.
– Chưa có sự thống nhất quản lý nhà nước đối với ba phân hệ kiểm toán; định

hướng phát triển của các hệ thống kiểm toán còn chưa thật rõ; chưa hạn chế
được sự cạnh tranh tiêu cực của các doanh nghiệp kiểm toán độc lập; việc định
hướng và quản lý đối với kiểm toán nội bộ của các cơ quan, tổ chức chưa rõ
ràng. Hiện nay, Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt
động kiểm toán độc lập nhưng hoạt động quản lý nhà nước còn hạn chế, chủ yếu
tập trung ở khâu ban hành chuẩn mực kiểm toán độc lập, thủ tục thành lập doanh
nghiệp, thi và cấp chứng chỉ KTV (Kiểm toán viên) độc lập. Việc kiểm soát,
đánh giá chất lượng kiểm toán của các doanh nghiệp kiểm toán còn hạn chế. Vai
trò của Hội Kế toán và Kiểm toán nhằm tạo ra sự liên kết và định hướng phát
triển nghề nghiệp cho KTV chưa phát huy được hết tác dụng.

20


21


CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM
TOÁN ĐỘC LẬP VÀ KIỂM TOÁN VIÊN
3.1 Những giải pháp đổi mới hoạt động của kiểm toán độc lập
Một là, cần xây dựng bổ sung một số chuẩn mực kế toán phù hợp với thực
tiễn Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế. Để thực hiện được điều này, các
chuyên gia có kinh nghiệm đến từ Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, các hội
nghề nghiệp, các công ty dịch vụ kế toán, kiểm toán, các trường đại học… cần
có sự phối hợp chặt chẽ và thường xuyên về mặt chuyên môn nhằm xây dựng
nên một chuẩn mực kế toán, kiểm toán có chất lượng.
Hiện nay, thị trường tài chính Việt Nam đang có nhiều chuyển biến và
phát sinh nhiều nghiệp vụ phức tạp nhưng các chuẩn mực hỗ trợ việc ghi nhận
cho một số loại hình công cụ tài chính vẫn thiếu vắng. Đây là một minh chứng
cho việc ban hành chuẩn mực kế toán hiện nay ở Việt Nam chưa theo kịp yêu

cầu của thực tiễn. Do đó, yêu cầu trước mắt là cần thiết phải sớm ban hành các
chuẩn mực còn thiếu so với nhu cầu thực tế, trong đó tiền đề là việc hợp tác
quốc tế. Các cơ quan Nhà nước cần phải nỗ lực hợp tác quốc tế trong việc trao
đổi kinh nghiệm, cập nhật kiến thức mới, kết hợp chặt chẽ với cơ quan, tổ chức
về kế toán, kiểm toán quốc tế. Đồng thời, cần phải học hỏi và tham khảo, chọn
lọc thành tựu của các nước tiên tiến trong khu vực, để áp dụng phù hợp với môi
trường và quy định tại Việt Nam.
Hai là, hệ thống doanh nghiệp cần ủng hộ cũng như thể hiện sự thiện chí
trong thực hiện các chuẩn mực kế toán, kiểm toán mới: Các giải pháp hội nhập
quốc tế và hệ thống kế toán, kiểm toán của doanh nghiệp Việt Nam được xét
theo sự phát triển của thị trường chứng khoán, thị trường tài chính, biến động
của môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam. Do vậy, doanh nghiệp cần ủng
hộ tích cực những chuẩn mực mới. Trước hết, đó là nỗ lực đầu tư xây dựng một
đội ngũ nhân viên kế toán và tài chính có năng lực; xây dựng hệ thống công
nghệ có đảm bảo xử lý và lưu trữ toàn bộ dữ liệu một cách đầy đủ, chính xác,
đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực kế toán áp dụng. Ngoài ra, trên cơ sở hành lang
pháp lý sẵn có, chuẩn mực, chế độ kế toán, kiểm toán hiện hành, các doanh
nghiệp phải tự xây dựng chính sách kế toán, kiểm toán riêng của mình. Đặc biệt,
các doanh nghiệp cần có kế hoạch đào tạo, huấn luyện các nhân viên kế toán
hiểu biết các chuẩn mực kế toán, kiểm toán và cập nhật các chế độ kế toán mới,
các quy định về thuế hiện hành… Giải pháp này không chỉ giúp doanh nghiệp
tuân thủ các quy định hiện hành mà còn giúp việc lập và trình bày báo cáo tài
chính trung thực, khách quan hơn.
22


Ba là, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật, chuẩn mực,
chế độ kế toán, kiểm toán và triệt để xử lý những sai phạm nhằm duy trì chất
lượng của dịch vụ. Mặt khác, tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác, nâng cao vị thế
của hệ thống kế toán, kiểm toán Việt Nam trên trường quốc tế.

3.2 Những giải pháp nâng cao năng lực và phẩm chất của kiểm toán viên
3.2.1 Về phía Nhà nước
Thứ nhất, Nhà nước cần sớm thiết lập môi trường pháp lý hoạt động kiểm
toán trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay. Ban hành đầy đủ các văn
bản pháp quy về kiểm toán trong đó có nhấn mạnh vai trò quyền hạn và trách
nhiệm đối với các kiểm toán viên, các tổ chức và hội nghề nghiệp.
Thứ hai, xây dựng, quy hoạch và có chiến lược đào tạo bồi dưỡng kiểm
toán viên theo các giai đoạn 5, 10, 15 năm và chiến lược lâu hơn. Xây dựng nội
dung chương trình đào tạo kiến thức cho phù hợp trong từng thời kỳ, từng đối
tượng, theo từng mục tiêu kiểm toán hay tổ chức kiểm toán.
Thứ ba, mở rộng tăng cường năng lực và vai trò hoạt động của các tổ
chức nghề nghiệp, tăng cường chất lượng hoạt động của Hội nghề nghiệp kế
toán kiểm toán, Hội đồng Quốc gia về kế toán, các chuyên gia kế toán, kiểm
toán, các kiểm toán viên hành nghề.
Thứ tư, Nhà nước cần phải đảm bảo cho các công ty kiểm toán cũng như
các kiểm toán viên có được sự cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật, nâng cao
năng lực và thế mạnh của các công ty kiểm toán trong nước nhằm phát huy vai
trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong lĩnh vực kiểm toán. Nhà nước cũng cần
nhanh chóng thừa nhận một chức danh nghề nghiệp của chuyên gia kiểm toán
nếu không muốn nghề nghiệp kiểm toán bị tụt hậu so với các nước trong khu
vực và trên thế giới.
3.2.2 Về phía tổ chức giáo dục, đào tạo
Các cơ sở giáo dục, đào tạo cần có kế hoạch tuyển chọn phù hợp với nhu
cầu, chất lượng đầu vào, số lượng hợp lý. Trong quá trình đào tạo phải xác định
học sinh, sinh viên là trung tâm với phương pháp chủ động trong việc lĩnh hội
kiến thức. Đào tạo chuyên môn kiểm toán trên cả hai phương diện khoa học
kiểm toán và hành nghề kiểm toán; xây dựng một chương trình đào tạo phù hợp
và có tính lôgic từ số lượng môn, nội dung giảng từng môn học đến khâu đánh
giá kết quả học tập. Riêng đối với nội dung giảng dạy kiểm toán cần được xây
dựng theo từng lĩnh vực hoạt động kế toán của đất nước. Quá trình đào tạo phải

đảm bảo gắn kết giữa lý thuyết với thực tế để sinh viên khi ra trường có thể đảm
nhận một số công việc và có thể giảm thiểu thời gian công sức đào tạo lại. Mặt
khác, nội dung đào tạo cần phải tạo cho sinh viên hình thành và phát huy những
kỹ năng cần thiết khác cho công việc kiểm toán sau này; đạo đức, tác phong và
23


tư cách nghề nghiệp cũng cần phải được đề cập và phổ biến trong quá trình đào
tạo.
Bên cạnh đó, các cơ sở giáo dục, đào tạo cũng nên trang bị đầy đủ trang
thiết bị, vật chất cần thiết cho công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học của
giáo viên, sinh viên. Đồng thời, giáo viên phải là người chủ đạo trong quá trình
dạy học, có trình độ khoa học và nghiệp vụ cao với những phẩm chất tốt đẹp của
một nhà giáo, có tâm huyết với nghề và thế hệ trẻ. Mặt khác, lĩnh vực kiểm toán
có liên quan đến nhiều kiến thức ở các môn học, lĩnh vực khác nên đòi hỏi phải
có sự bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho giáo viên kiểm toán, tạo điều kiện cho
giáo viên tham gia thực tế để phục vụ cho việc giảng dạy được thuyết phục và
phong phú hơn.
3.2.3 Về phía các tổ chức, công ty kiểm toán
Thứ nhất, cần xây dựng chế độ và phương pháp quản lý đối với kiểm toán
viên. Một chế độ, phương pháp quản lý tốt và môi trường kiểm toán chuyên
nghiệp là những yếu tố quan trọng góp phần không nhỏ đến chất lượng kiểm
toán viên, để họ có thể yên tâm công tác, cống hiến và có điều kiện nâng cao
trình độ, kỹ năng nghiệp vụ.
Thứ hai, cần có sự liên kết chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng với các cơ sở
đào tạo kiểm toán viên, các tổ chức nghề nghiệp. Các công ty có thể nhận sinh
viên năm cuối đến tham gia vào hoạt động của công ty, giúp sinh viên tiếp cận
sớm với thực tế kiểm toán và môi trường nghề nghiệp. Việc làm này tạo điều
kiện cho các sinh viên và công ty có thể trao đổi, ứng dụng, kiểm tra về các lý
luận chuyên môn được học trong nhà trường vào hoạt động kiểm toán của công

ty. Qua đó sẽ có những thông tin phản hồi để nhà trường và các công ty kiểm
toán có sự điều chỉnh cho phù hợp, đảm bảo sự sáng tỏ của lý thuyết và khoa
học của hoạt động thực tiễn.
Thứ ba, cần có sự tham gia vào các hoạt động dạy và học ở trong nhà
trường: tham gia ý kiến vào việc xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực
kiểm toán; tham gia viết bài chuyên môn trên góc độ thực tế hoạt động kiểm
toán; tham gia báo cáo thực tế kiểm toán cũng như trả lời và cung cấp thông tin
cập nhật về hoạt động nghề nghiệp cho sinh viên; tham gia giảng dạy cho các
lớp chuyên ngành kiểm toán.
3.2.4 Về phía kiểm toán viên
Một là, cần phải có kiến thức và sự hiểu biết rộng, toàn diện ở nhiều lĩnh
vực, khía cạnh liên quan đến kiểm toán. Chủ động tiếp cận với thực tế hoạt động
nghề nghiệp kế toán, kiểm toán để hình thành kiến thức kiểm toán trên phương
diện lý luận và thực tiễn.
Hai là, không ngừng nâng cao phát triển chuyên môn nghiệp vụ bằng việc
tham gia các khóa học nâng cao nghiệp vụ; rèn luyện khả năng sáng tạo riêng
24


của mình cũng như học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm với các đồng nghiệp. Bên cạnh
việc trau dồi kiến thức chuyên môn, kiểm toán viên phải luôn cập nhật các thông
tin về tin học, ngoại ngữ và các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, xã hội khác.
Ba là, cần phải thường xuyên tu dưỡng và rèn luyện phẩm chất của một
cán bộ kiểm toán, rèn luyện cho mình tính trực quan, độc lập, vô tư, công bằng,
cẩn thận, siêng năng, có tinh thần trách nhiệm. Luôn có thái độ cầu thị, học hỏi
và đúc rút kinh nghiệm thực tế kiểm toán góp phần hình thành kỹ năng kiểm
toán để trở thành một kiểm toán viên chuyên nghiệp.
Trong điều kiện hiện nay, việc sẵn có một hệ thống lý luận khoa học nói
chung cũng như khoa học kế toán, kiểm toán nói riêng là một sự cần thiết. Tuy
nhiên, để trở thành một kiểm toán viên thực thụ và chuyên nghiệp thì ngoài kiến

thức thực tế, kinh nghiệm nghề nghiệp là một yếu tố không thể thiếu. Việc vận
dụng lý luận khoa học trong kiểm toán kết hợp với kiến thức và kinh nghiệm
thực tế sẽ đem lại những bài học quý giá cho kiểm toán viên trong tương lai.
Muốn lĩnh vực kiểm toán phát triển thì yếu tố then chốt là phải phát triển nguồn
nhân lực cho kiểm toán. Vì vậy, việc đào tạo nguồn nhân lực cho kiểm toán và
bồi dưỡng nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, tư chất và kỹ năng cho
kiểm toán viên là một việc làm cần thiết, cấp bách trong giai đoạn hiện nay và
mai sau.

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×