Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Các quan điểm đường lối của đảng về giáo dục và đào tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.02 KB, 15 trang )

Các quan điểm đường lối của Đảng về Giáo dục và Đào
tạo
Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính
trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước. Vì vậy, ngay từ
khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ "một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu". Do đó xác định Giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng
của cách mạng Việt Nam.
Bắt đầu từ Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng (1979) đã ra quyết định
số 14-NQTƯ về cải cách giáo dục với tư tưởng: Xem giáo dục là bộ phận quan
trong của cuộc cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục
thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi
đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với
xã hội.
Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với yêu
cầu thực tế qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X của Đảng cộng sản Việt
Nam.
Đặc biệt, sự nghiệp Giáo dục và Giáo dục lý luận chính trị được Đại hội toàn
quốc lần thứ X đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa nhằm giáo dục con
người phát triển toàn diện, nhất là thế hệ trẻ.
Đại hội X đã xác định mục tiêu giáo dục là nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần
yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, lòng nhân ái, ý thức
tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ lập nghiệp, không cam
chịu nghèo nàn, đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ năng
lực nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với chính trị, có ý chí
vươn lên về khoa học - công nghệ.
Để cụ thể chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển giáo
dục một cách tổng thể và toàn diện, bắt đầu từ chủ trương phát triển giáo dục
mầm non, thực hiện xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ
sở trên phạm vi cả nước, tạo môi trường thuận lơi để cho mọi người học tập và
học tập suốtđời. Điều hành hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu


vùng trong hệ thống Giáo dục và đào tạo, quan tâm đào tạo đội ngũ công nhân
kỹ thuât lành nghề, hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế, thực hiện tốt chính
sách giáo dục gắn với phát triển kinh tế xã hội.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta lại càng phải quan tâm hơn nũa đến sự nghiệp
Giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ và nhân dân
lao động để họ tham gia hội nhập mà vẫn giữ vững truyền thống văn hoá dân
tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm chủ khoa học tiên tiến.


đây nữa này !
I. Tính tất yếu khách quan và sự lãnh đạo của Đảng đối với GD-ĐT
1. Vị trí, vai trò của GD-ĐT
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển ngày càng nhanh.
Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng
sản xuất. Trong bối cảnh đó, giáo dục đã trở thành nhân tố quyết định đối với
sự phát triển kinh tế xã hội. Các nước trên thế giới kể cả những nước đang phát
triển đều coi giáo dục là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển nhanh và
bền vững của mỗi quốc gia.
Đảng và Nhà nước ta đã đặt giáo dục ở vị trí cao. Nghị quyết Trung ương 2
khoá IIX đã xác định phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là
nền tảng động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đánh giá thực trạng giáo dục đào tạo sau 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X đã khẳng định sự nghiệp giáo dục đào tạo nước ta tiếp tục phát
triển và được đầu tư nhiều hơn. Cơ sở vật chất được tăng cường, quy mô đào
tạo mở rộng, nhất là bậc trung học và dạy nghề. Trình độ dân trí được năng cao.
Điều đó được thể hiện :
Phổ cập giáo dục tiểu học tiếp tục được củng cố, phổ cập giáo dục bậc trung
học cơ sở được triển khai tích cực. Đến hết năm 2005 có 31 tỉnh, thành phố đạt
tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học ở bậc

tiểu học đạt 97,5%.
Quy mô giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng và trình độ dân trí được
năng lên rõ rệt. Số học sinh trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, sinh viên các
trường đại học và cao đẳng đều tăng. Các trường sư phạm tiếp tục được củng
cố và phát triên. bước đầu đã hình thành mạng lưới dạy nghề cho lao động nông
thôn, thanh niên dân tộc thiểu số, tàn tật, gắn dạy nghề với tạo việc làm, xoá đói
giảm nghèo. Chất lượng dạy nghề có chuyển biến tích cực.
Đổi mới giáo dục đang được triển khai từ giáo dục mầm non phổ thông, dạy
nghề đến cao dẳng, đại học. Việc xã hội hoá giáo dục và đào tạo đã đạt được
những kết quả bước đầu. Nhiều trường dân lập, tư thục bậc đại học, trung học
chuyên nghiệp được thành lập.
Đầu tư cho sự nghiệp giáo dục đào tạo tăng lên đáng kể. Năm 2005 chi cho
giáo dục đào tạo chiếm gần 18% tổng chi ngân sách nhà nước. Ngoài ra, Nhà
nước đã huy động được nhiều nguồn vốn khác để phát triển giáo dục, như


thông qua phát hành công trái, huy động đóng góp của nhân dân, của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cơ sở vật chất trong các cơ sở giáo dục và đào tạo các cấp được tăng cường,
đặc biệt là vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. nhiều tỉnh đã xây dựng
được các trường chuẩn quốc gia.
Cùng với kết quả quan trọng nêu trên, trong thực hiện nhiệm vụ phát
triển giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém thể hiện ở các điểm sau :
Giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao về nguồn nhân
lực trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Nhiều vấn đề hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục.
Chất lượng giáo dục còn nhiều yếu kém, khả năng chủ động sáng tạo của học
sinh, sinh viên còn yếu. Chương trình, phương pháp dạy và học còn lạc hậu,
nặng nề chưa thật phù hợp, phát triển giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại
học chưa cân đối với giáo dục phổ thông. Đào tạo nghề còn thiếu về số lượng

và yếu về chất lượng.
Việc xã hội hoá giáo dục được thực hiện chậm, thiếu đồng bộ. Công tác giáo
dục đào tạo ở vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn, chất lượng thấp, chưa
quan tâm đúng mức phát triển giáo dục đào tạo ở đồng bằng sông Cửu Long,
để giáo dục và đào tạo ở vùng này tụt hậu dài so với các vùng khác trong cả
nước.
Công tác quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo chậm đổi mới và còn nhiều bất
cập. Công tác thanh tra giáo dục còn yếu kém. Những hiện tượng tiêu cực như
bệnh thành tích, thiếu trung thực trong đánh giá kết quả giáo dục trong học
tập, tuyển sinh, thi cử cấp bằng và tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan, kéo
dài chậm được khắc phục.
2. Sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục
Giáo dục và đào tạo là một lĩnh vực rất quan trọng của đời sống xã hội, nó liên
quan đến nhiều lĩnh vực khác, cho nên Đảng ta rất chú trọng phát triển giáo dục
và đào tạo. Những năm qua quan điểm của Đảng về đường lối phát triển giáo
dục và đào tạo chủ yếu tập trung ở nghị quyết trung ương 2 khoá IIX ( nghị
quyết chuyên đề về giáo dục và đào tạo); kết luận của hội nghị lần 6 Ban chấp
hành trung ương Đảng khóa 9; nghị quyết hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành
trung ườn Đảng khoá IX; Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X.
Qua các văn kiện này thể hiện một số quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục
đào tạo như sau:
- Giáo dục và đào tạo nhằm xây dựng con người có đầy đủ phẩm chất để xây
dựng và bảo vệ đất nước.
- Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong giáo dục và đào tạo, nhát là chính
sách công bằng xã hội.
- Thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu cùng với khoa học và công nghệ
là yếu tố quyết định góp phần tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.


- Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân; mọi người, mọi

cấp chăm lo cho giáo dục và đào tạo.
- Giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, với khoa
học công nghệ và củng cố quốc phòng an ninh.
- Giữ vững nòng cốt của các trường công lập song song với đa dạng hoá các
loại hình giáo dục đào tạo.
- Chăm lo giáo dục đào tạo là chăm lo cho con người và xã hội phát triển với
các yêu cầu và tiêu chí được xác lập.
- Phát triển giáo dục và đào tạo phải theo nguyên lý: học đi đôi với hành, giáo
dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn lion với thực tiễn, giáo dục nhà
trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
3. Yêu cầu của thời kì đổi mới
Đảng lãnh đạo giáo dục đào tạo là một tất yếu khách quan để đáp ứng yêu cầu
của thời kỳ đổi mới.
Xuất phát từ nhu cầu phát triển nhân cách của con người mới xã hội chủ nghĩa.
Nhân cách con người là do nhiều yếu tố tạo nên nhưng giáo dục đào tạo là yếu
tố quan trọng giữ vai trò quyết định trong sự phát triển trí tuệ và nhân cách con
người. Mà công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta rất cần thiết có
những con người mới xã hội chủ nghĩa do đó phải chăm lo đến việc phát triển
giáo dục đào tạo. Chính vì vậy cần có Đảng lãnh đạo để đảm bảo yêu cầu về
xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ nhu cầu phát triển nền kinh tế tri thức, trong nền kinh tế tri thức
các sản phẩm được sản xuất với công nghệ cao có hàm lượng chất xám cao từ
70% trở lên. sản xuất hàng hóa sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, ít ô
nhiễm môi trường hơn, giá thành hạ, chất lượng cao hơn. ngày nay những phát
minh mới về khoa học công nghệ được ứng dụng nhanh vào sản xuất và hiệu
quả sản xuất. Những phát minh mới, những tiến bộ mới về khoa học công nghệ
tồn tại không lâu nhanh chóng bị lạc hậu. Yêu cầu tất yếu đặt ra là lãnh đạo
phải được đào tạo và đào tạo đạt trình độ cao để tham gia sản xuất, để sử dụng
sản phẩm có hàm lượng tri thức cao.
Xuất phát từ nhu cầu được học tập và không ngừng nâng cao tri thức của nhân

dân.
Xuất phát từ nhu cầu về sự bình đẳng của xã hội đòi hỏi phải đảm bảo quyền
con người. Để kinh tế phát triển, xã hội ổn định thì quyền con người phải được
đảm bảo như : quyền học hành, quyền lao động, quyền làm chủ xã hội...Trong
rất nhiều quyền con người ấy thì quyền cao nhất là quyền làm chủ. Muốn làm
chủ tự nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân thì điểm đầu tiên là phải có tri
thức. Muốn có tri thức thì phải học, nhưng không phải ai cũng có điều kiện để
học, vì vậy cần có Đảng lãnh đạo để đảm bảo thực hiện quyền đó.
Nhận thức rõ điều đó Đảng đã có nghị quyết trung ương 2 khoá IIX. Nghị


quyết chuyên đề về giáo dục đào tạo khẳng định: Giáo dục đào tạo cùng với
khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu. Là động lực và điều kiện để thực
hiện những mục tiêu kinh tế xã hội. Là chìa khóa để mở cửa để mở cửa tiến vào
tương lai. Là một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững.
Phải có đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư phát triển phải tạo điều kiện cho
giáo dục đi trước để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.
CÒN ĐÂY NỮA
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính trị
của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước. Vì vậy, ngay từ khi
giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ "một dân tộc dốt là một dân
tộc yếu". Do đó xác định Giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng của
cách mạng Việt Nam.
Bắt đầu từ Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng (1979) đã ra quyết định
số 14-NQTƯ về cải cách giáo dục với tư tưởng: Xem giáo dục là bộ phận quan
trong của cuộc cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục
thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi

đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với
xã hội.
Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với yêu
cầu thực tế qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX, X của Đảng cộng sản Việt Nam.
Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo đã được Đại hội VII xem
là quốc sách hàng đầu. Đó là một động lực thúc đẩy và là một điều kiện cơ bản
bảo đảm việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất
nước. Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư
phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực sự phát triển
kinh tế - xã hội. Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp
nhân dân giúp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà
nước. Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hoá, khoa học, có kỹ năng
nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển đất
nước những năm 90 và chuẩn bị cho tương lai. Phải mở rộng quy mô, đồng thời
chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, gắn học với hành, tài với


đức. Giáo dục phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, vừa phù hợp
với xu thế tiến bộ của thời đại. Thực hiện một nền giáo dục thường xuyên cho
mọi người, xác định học tập suốt đời là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi công
dân. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo
dục: Người đi học phải đóng học phí, người sử dụng lao động qua đào tạo phải
đóng góp chi phí đào tạo. Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người nghèo và
các đối tượng chính sách đều được đi học.
Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định một lần nữa vai trò quan trọng của khoa
học công nghệ và giáo dục đào tạo "Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu" . Coi trọng cả 3 mặt của giáo dục: mở rộng
qui mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực

đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đổi mới hệ thống giáo dục
chuyên nghiệp và đại học, kết hợp đào tạo với nghiên cứu, tạo nguồn nhân lực
đủ khả năng tiếp cận với công nghệ tiên tiến.Sau khi Liên Xô và hệ thống xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, Đảng ta đã có những chuyển hướng về hợp
tác quốc tế trong đào tạo cán bộ. Nghị quyết 02-NQ/HNTW của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII đó nhấn mạnh quan điểm hợp tác đào tạo với
các nước như sau:
- Dành ngân sách nhà nước thỏa đáng để cử những người giỏi và có phẩm chất
tốt đi đào tạo và bồi dưỡng về những ngành nghề và lĩnh vực then chốt ở những
nước có nền khoa học, công nghệ phát triển.
- Khuyến khích đi học nước ngoài bằng con đường tự túc, hướng vào những
ngành mà đất nước đang cần, theo quy định của Nhà nước.
Thực hiện Nghị quyết này, Chính phủ đã dành 100 tỉ đồng đầu tư cho việc đào
tạo ở nước ngoài vào năm 2000 (tương đương với 7,12 triệu USD tại thời điểm
đó). Vấn đề nhân tài ngày càng trở nên bức thiết, đến Đại hội IX, Trung ương
Đảng một lần nữa nhấn mạnh rằng: "Có chính sách hỗ trợ đặc biệt những học
sinh có năng khiếu, hoàn cảnh sống khó khăn được theo học ở các bậc học cao.
Có quy hoạch và chính sách tuyển chọn người giỏi, đặc biệt chú ý đến con em
công nhân và nông dân để đào tạo ở các bậc đại học và sau đại học. Tăng ngân
sách nhà nước cho việc cử người đi học ở các nước có nền khoa học và công
nghệ tiên tiến. Khuyến khích việc du học tự túc"
Đại hội Đảng lần thứ IX nêu rõ: "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ
thống quản lý giáo dục; thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá" . Nâng
cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.
Tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, trước hết nâng cao chất lượng
đội ngũ nhà giáo, thực hiện giáo dục toàn diện, đặc biệt chú trọng giáo dục tư
tưởng - chính trị, nhân cách, đạo đức, lối sống cho người học.
Tăng cường phối hợp nhà trường và gia đình, phát huy vai trò giáo dục gia
đình.



Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn hóa,
hiện đại hóa, tăng cường giáo dục tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự tu
dưỡng, tự tạo việc làm. Tăng cường giáo dục hướng nghiệp, đáp ứng nhu cầu
nguồn nhân lực của đất nước và các địa phương, vùng, miền. Nâng cao chất
lượng giảng dạy các môn khoa học xã hội, nhân văn, nhất là các môn học Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Một số trường đại học phải sớm đạt chất lượng
ở trình độ quốc tế.Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, phát hiện, đào tạo,
bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sớm xây dựng chính sách sử dụng và tôn vinh các nhà giáo, cán bộ quản lý
giỏi, có công lao lớn trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Nâng cao chất lượng
đào tạo sau đại học, chấn chỉnh việc phong chức danh, học vị, cấp văn bằng.
Phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn, trên cơ sở bảo đảm chất
lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đào tạo với sử dụng.
Mở rộng hệ thống trường lớp giáo dục mầm non trên mọi địa bàn dân cư, đặc
biệt ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, nông thôn.
Hoàn thành cơ bản phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010, củng cố kết quả phổ
cập tiểu học, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục xóa mù chữ, ngăn
ngừa tái mù chữ, giáo dục cho người lớn. Thực hiện phổ cập trung học ở những
nơi đó phổ cập xong trung học cơ sở.
Điều chỉnh cơ cấu đào tạo, tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên nghiệp.
Hiện đại hóa một số trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc cao
có trình độ tiếp thu và sử dụng công nghệ mới và công nghệ cao.
Phát triển giáo dục không chính quy, các hình thức học tập cộng đồng ở các xã,
phường gắn với nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế - xã hội, tạo điều kiện
thuận lợi cho mọi người có thể học tập suốt đời, hướng tới xã hội học tập.
- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Có chính sách hỗ trợ học sinh,
sinh viên thuộc các gia đình nghèo và các đối tượng chính sách xã hội. Ưu tiên
phát triển giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Chú trọng đào
tạo cỏn bộ vựng dõn tộc (cỏn bộ đảng, chớnh quyền, đoàn thể từ bản, ấp trở lờn

và cỏn bộ khoa học kỹ thuật). Củng cố và tăng cường hệ thống trường nội trỳ,
bỏn trỳ cho học sinh dõn tộc thiểu số ; từng bước mở rộng quy mụ tuyển sinh,
đáp ứng yờu cầu đào tạo toàn diện đi đôi với cải tiến chớnh sỏch học bổng cho
học sinh các trường này. Thực hiện chế độ miễn phớ học tập, cung cấp sỏch
giỏo khoa cho học sinh vựng cao, vựng sõu, vựng xa, học sinh người dõn tộc
thiểu số. Thực hiện tốt chớnh sỏch cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ đối với vựng
dõn tộc thiểu số, vựng sõu, vựng xa cú nhiều khó khăn. Có chớnh sỏch bổ tỳc
kiến thức cần thiết cho số học sinh dõn tộc thiểu số đó tốt nghiệp trung học phổ
thụng hoặc trung học cơ sở mà không có điều kiện học tiếp để cỏc em trở về
địa phương tham gia công tác ở cơ sở
Hội nghị Trung ương 6, khóa IX đó đề ra 3 nhiệm vụ để tiếp tục thực hiện Nghị


quyết Trung ương 2, khóa VIII: Một là, nõng cao chất lượng, hiệu quả giỏo dục
và đào tạo nhõn tài. Trong nhiệm vụ này, trọng tâm là đổi mới nội dung,
chương trỡnh, phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn húa, hiện đại húa, ứng
dụng cụng nghệ thụng tin vào cỏc cấp học, bậc học. Tiếp tục hoàn thiện hệ
thống cơ chế, chớnh sỏch tổ chức phỏt hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhõn
tài. Hai là, phỏt triển hợp lý quy mụ giỏo dục cả đại trà và mũi nhọn phục vụ
quỏ trỡnh chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trỡnh độ, cơ cấu xú hội; vấn
đề bổ tỳc trờn tiểu học cho người lớn và phỏt triển giỏo dục khụng chớnh quy;
xõy dựng hệ thống trung tõm học tập cộng đồng. Ba là, thực hiện cụng bằng xú
hội trong giỏo dục, tạo cơ hội học tập cho mọi tầng lớp nhõn dõn, nhất là cơ hội
học cao đẳng và đại học cho con em nông dân và các gia đỡnh diện chớnh sỏch.
Nhỡn lại tỡnh hỡnh đất nước, trải qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới,
nhân dân ta đó đạt được những thành tựu to lớn cú ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên,
cho đến nay, nước ta vẫn chưa thoát ra khỏi tỡnh trạng kộm phỏt triển.
Trong khi Việt Nam bước vào quỏ trỡnh cụng nghiệp hỳa, hiện đại húa thỡ
nhiều nước đó vượt qua thời đại cỏch mạng cụng nghiệp đi vào thời đại cỏch
mạng thụng tin, xõy dựng nền kinh tế tri thức và xú hội tri thức. Khoảng cỏch

về trỡnh độ kinh tế, khoa học và cụng nghệ giữa nước ta với các nước phỏt
triển trờn thế giới, kể cả một số nước trong khu vực, có xu hướng ngày càng
mở rộng thờm, mà một nguyờn nhõn quan trọng là do chất lượng trớ tuệ, năng
lực sỏng tạo và kỹ năng chuyên môn cũn bất cập của nguồn nhừn lực.
Trước những thỏch thức của thời đại cỏch mạng tri thức gắn liền với quỏ trỡnh
toàn cầu hỳa và hội nhập quốc tế, khi mà nước ta đó trở thành thành viờn thứ
150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trong cuộc đua tranh quyết liệt
về mọi mặt, mà chủ yếu là đua tranh về trớ tuệ của cỏc quốc gia trờn toàn cầu,
sự yếu kộm, bất cập và tụt hậu của giỏo dục và đào tạo đang trở thành lực cản
đối với sự phỏt triển nhanh và bền vững của đất nước.
Đặc biệt, sự nghiệp Giáo dục và Giáo dục lý luận chính trị được Đại hội toàn
quốc lần thứ X đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa nhằm giáo dục con
người phát triển toàn diện, nhất là thế hệ trẻ.
Đại hội X đã xác định mục tiêu giáo dục là nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần
yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, lòng nhân ái, ý thức
tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ lập nghiệp, không cam
chịu nghèo nàn, đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ năng
lực nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhảy cảm với chính trị, có ý chí
vươn lên về khoa học - công nghệ.
Để cụ thể chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển giáo
dục một cách tổng thể và toàn diện, bắt đầu từ chủ trương phát triển giáo dục
mầm non, thực hiện xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ
sở trên phạm vi cả nước, tạo môi trường thuận lơi dể cho mội người học tập và
học tập suốtđời. Điều hành hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu


vùng trong hệ thống Giáo dục và đào tạo, quan tâm đào tạo đội ngũ công nhân
kỹ thuât lành nghề, hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế, thực hiện tốt chính
sách giáo dục gắn với phát triển kinh tế xã hội.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta lại càng phải quan tâm hơn nũa đến sự nghiệp

Giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ và nhân dân
lao động để họ tham gia hội nhập mà vẫn giữ vững truyền thống văn hoá dân
tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm chủ khoa học tiên tiến.
Đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định: "Giỏo dục và đào tạo cựng với
khoa học và cụng nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy
cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá đất nước" ; Nõng cao chất lượng giỏo dục toàn
diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và
học; thực hiện "chuẩn hoỏ, hiện đại hoỏ, xú hội hoỏ", chấn hưng nền giỏo dục
Việt Nam; Chuyển dần mụ hỡnh giỏo dục hiện nay sang mụ hỡnh giỏo dục mở
- mụ hỡnh xú hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liờn tục, liờn
thụng giữa cỏc bậc học, ngành học; xõy dựng và phỏt triển hệ thống học tập
cho mọi người và những hỡnh thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu
cầu học tập thường xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người
học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục.
---------------Hậu quả, tác hại và nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em nghiện ma tuý ở
thành phố Hà nội.
18:47' 28/5/2009

Ảnh minh họa. Nguồn: bop.nppa.org

10 năm trở lại đây ở Việt Nam đã có khoảng 10 vạn
người nghiện ma tuý. Trong hồ sơ quản lý trên 70% số
người nghiện dưới 30 tuổi, khoảng 5% tổng số người
sử dụng ma túy ở tuổi chưa thành niên (dưới 18 tuổi)
đặc biệt trong đó có khoảng 50% tổng số người nghiện
là trẻ em (dưới 16 tuổi). Qua thống kê trong toàn thành
phố Hà Nội cho thấy số người nghiện ma tuý phát triển
một cách nhanh chóng. Nếu năm 2001 chỉ có 10.002
người nghiện ma tuý, thì đến tháng 6/2005 con số này
lên tới trên 15.000 người. Như vậy qua 5 năm số người

nghiện ma tuý ở Hà Nội tăng gần 1,5 lần.

Hậu quả, tác hại của tệ nạn ma tuý đối với trẻ em
Đối với trẻ em, ma tuý để lại những hậu quả không thể lường hết được. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
các em nghiện ma túy thể chất phát triển không bình thường chậm lớn, gầy còm, trí nhớ kém, trí
thông minh giảm, lười biếng, ngủ nhiều, thích nằm, không thích lao độn, khả năng hoạt động kém ...
Ma tuý còn là nguyên nhân gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguồn gốc của nhiều loại tội phạm hình
sự. Thực tế cho thấy ma tuý là bạn đồng hành của tội phạm, mối quan hệ giữa ma túy và tội phạm là
mối quan hệ nhân quả. Ma tuý gắn liền với hành vi phạm tội, là nguồn bổ sung tội phạm. Khi bị
nghiện, những người nghiện sẵn sàng làm mọi việc miễn là có tiền, có ma tuý, thậm chí giết người,
cướp của. Ở trẻ em, các hành vi chưa mang tính chất nghiêm trọng, nhưng cũng xuất hiện những


mầm mống của tội phạm như trộm cắp, cướp giật, lừa đảo…
Qua kết quả phân tích các hoạt động khác có liên quan đến ma tuý của trẻ em nghiện ma tuý trên địa
bàn thành phố Hà Nội, qua sự cung cấp của Công an cơ sở ta thấy các hoạt động phạm pháp của các
em chủ yếu là:
- Tổ chức sử dụng, mua bán,
tàng trữ, vận chuyển ma tuý là
50%
- Xâm
chiếm
cắp là
cưỡng
nhiệm
0,8%.

phạm sở hữu tài sản
42,9%, trong đó trộm
34,1%, cướp là 4,8%,

đoạt 1,6%; tệ nạn tín
là 1,6%; lừa đảo là

- Xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ con người chiếm tỷ lệ
4%.
- Xâm phạm trật tự công cộng
chiếm tỷ lệ 3,1%.

Một số nguyên nhân cơ bản
dẫn đến tình trạng nghiện
ma tuý của trẻ em trên địa
bàn thành phố

Biểu đồ: Hoạt động phạm pháp của trẻ em nghiện ma tuý

Thứ nhất: Nguyên nhân từ tác động của nền kinh tế thị trường.
Qua mấy thập kỷ sống theo kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nay chuyển sang kinh tế thị trường. Sự đổi
mới về cơ chế mang lại nhiều thành tựu về kinh tế nhưng cũng bộc lộ nhiều mặt trái của xã hội như:
Sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, sự chênh lệch quá lớn trong thu nhập, mức sống của
các tầng lớp nhân dân, sự xuống cấp của đạo đức xã hội, sự hình thành lối sống thực dụng, trụy lạc,
sự giáo dục của gia đình bị buông lỏng do cha mẹ bị cuốn hút vào các hoạt động của cơ chế đã ảnh
hưởng đến sự phát triển lành mạnh của giới trẻ nói chung và trẻ em nói riêng.
Hà Nội là thủ đô của đất nước, là trung tâm văn hoá chính trị lớn của quốc gia. Bọn tội phạm về ma
túy cũng lợi dụng các đầu mối giao thông quan trọng này để vận chuyển, phát tán ma tuý. Lợi nhuận
do sản xuất ma tuý ngày càng cao là động lực thúc đẩy gia tăng tội phạm ma tuý. Bởi mỗi cặp Hêroin
(0,35kg x 2 = 0,7 kg) nếu mua ở Thái Lan hay ở Lào có giá khoảng 5.000 đến 6.000 USD khi được
vận chuyển đến Lai Châu chúng bán với giá từ 8.000 đến 10.000 USD và vận chuyển về Hà Nội sẽ
bán với giá trị từ 14.000 đến 15.000 USD 1 cặp. Để lợi nhuận thu được nhiều, bọn tội phạm buôn bán
ma tuý chia Hêroin ra thành những gói nhỏ (tép Hêroin), mỗi gói có trọng lượng khoảng 0,03g (cho dễ

sử dụng và cất giấu) giá bán từ 50.000 đến 70.000đ/gói. Như vậy, khi về đến Hà Nội được bán lẻ mỗi
cặp Hêroin được bán ra lên đến 20.000-25.000 USD.


Thứ hai : Nguyên nhân về đặc điểm tâm lý của lứa tuổi.
Lứa tuổi trẻ em là lứa tuổi chưa thật sự trưởng thành, suy nghĩ còn non nớt, tự bản thân các em dễ bị
lôi kéo, thích ăn chơi đua đòi, dễ bị ảnh hưởng bởi lối sống gấp, lối sống hưởng thụ một cách cực
đoan. Các thế hệ thù địch ra sức chống phá cách mạng nước ta trên nhiều phương diện, góc độ khác
nhau của đời sống xã hội, chúng tăng cường tuyên truyền du nhập lối sống ngoại lai, tôn thờ lối sống
tự do, vô chính phủ, vô kỷ luật, kích thích những dục vọng cá nhân thấp kém, những ham muốn lệch
lạc của một số người, trong đó tập trung chủ yếu là đối tượng trẻ em, thanh thiếu niên, học sinh, sinh
viên. Những năm gần đây, các loại văn hoá phẩm đồi trụy kích động bạo lực, mại dâm, lối sống thực
dụng, buông thả… đang bằng mọi phương thức, hình thức xâm nhập vào Việt Nam trở thành mối lo
ngại lớn. Lứa tuổi trẻ em rất nhạy cảm với những gì được gọi là mới lạ khác biệt, không ngại đua đòi
bằng cách thể hiện bản thân mình cho “hợp thời đại”, “đổi mới tư duy”, lao vào con đường hưởng thụ,
chơi bời, trác tang, tham gia vào các loại tệ nạn xã hội trong đó có tệ nạn ma tuý.
Động cơ dẫn các em đến với ma tuý đó là: tò mò thử xem, bạn bè rủ rê, lôi kéo, không hiểu tác hại
của ma tuý, tiếp xúc với ma tuý dễ dàng…và cho rằng, sự tò mò của lớp trẻ và sức ép tự nhiên của
những trò rủ rê cùng trang lứa là cái “hích” đầu tiên đưa các em đi vào thử dùng ma tuý. Nghiên cứu
trực tiếp số đối tượng đang sử dụng ma tuý ở lứa tuổi trẻ em, cho thấy: bạn bè rủ rê 75%; chủ động
xin hút thử 12,5%; tò mò mua hút 8,3%; cá độ được thua 4,2%. Trong đó người tham gia rủ hút hít
100% đã sử dụng ma tuý từ trước.
Thứ ba: Nguyên nhân từ phía các cơ quan quản lý, tuyên truyền:
Công tác quản lý, xuất nhập khẩu các chất ma tuý, các chất độc dược có tính gây nghiện còn nhiều
sơ hở, thiếu sót. Hiện nay ở Hà Nội và một số thành phố khác có tới cả trăm cửa hàng hoá chất bán
tự do, những hoá chất này được mang từ phía Nam Trung Quốc cũng như từ những nước công
nghiệp phát triển vào nước ta bằng nhiều con đường, trong số này có hàng chục loại hoá chất, dung
môi, axit…có thể bị lợi dụng để điều chế ma tuý bất hợp pháp.
Công tác tuyên truyền, giáo dục để người dân, gia đình, tổ chức, đoàn thể nâng cao nhận thức và chủ
động phòng chống ma tuý chưa đủ mạnh, còn dàn trải, mạnh ai nấy làm, thiên về hậu quả, ít chú ý

nhân rộng, phổ biến các kinh nghiệm, tấm gương tốt trong phòng ngừa và đấu tranh chống ma tuý.
Đặc biệt là tuyên truyền pháp luật về ma tuý còn ít nhưng lại nêu quá sâu về những tác dụng khoái
cảm của nghiện ma tuý và thủ thuật hoạt động của tội phạm, gây sự tò mò. Mặt khác, công tác phòng
chống mới được thực hiện chung chung cho toàn xã hội, chưa đi sâu vào phòng chống tệ nạn xã hội
cho lứa tuổi trẻ em.
Thứ tư: Nguyên nhân về trình độ nhận thức và điều kiện kinh tế.
Trên địa bàn thành phố Hà Nội có 323 trường phổ thông cơ sở và phổ thông trung học với 272.959
học sinh và 37 trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp với hơn 107.000 sinh viên. Với số
lượng học sinh, sinh viên lớn như vậy, việc quản lý là rất khó khăn và phức tạp. Ngoài ra số lượng trẻ
em lang thang, cơ nhỡ đang kiếm sống trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng chiếm một lượng đáng kể,
các em chủ yếu là ở các tỉnh lân cận, ở nông thôn ra Hà Nội làm những công việc vặt như: đánh giầy,
bán báo… số trẻ em này, hiện nay thành phố vẫn chưa có chủ trương, chính sách nào rõ ràng để giúp
đỡ các em mà chỉ có những biện pháp tạm thời (lập ra các lớp học tình thương, tổ bán báo xa mẹ…)
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Vẫn còn 1% trẻ em mù chữ; 47,3% đang học ở trung học cơ sở và
38,3% đang họcc ở phổ thông trung học. Hầu hết các em thuộc diện học kém, ý thức kỷ luật kém, coi
thường việc học. Trong quá trình đi học nhiều em đã bị nhà trường kỷ luật dẫn tới chán học, bỏ học và
dần dần tiêm nhiễm thói hư tật xấu, đua đòi ăn chơi. Sau khi thôi học hầu như các em không làm gì


cả, chỉ có một số ít em đang học nghề và đi làm thêm công việc gì đó, nhưng cũng không ổn định.
Những em không có nghề nghiệp, việc làm hay chơi bời, đàn đúm bạn bè để rồi cuối cùng sa vào con
đường nghiện ngập, phạm tội như: trộm cắp, cướp giật, trấn lột…
Theo thống kê trên địa bàn thành phố Hà Nội có trên 95% con nghiện và các đối tượng mua bán, tàng
trữ, sử dụng các chất ma tuý có hoàn cảnh kinh tế bình thường và khó khăn. Họ không có nghề
nghiệp ổn định, trong đó một bộ phận người dân chịu hậu quả thua bạc, số đề…dẫn đến không nhà
cửa, nợ nần kéo dài. Theo báo cáo của Công an thành phố Hà Nội và kết quả khảo sát cho thấy trên
80% số đối tượng phạm tội ma tuý không có nghề hoặc nghề nghiệp không ổn định và có trình độ văn
hoá thấp. Từ những nhận định trên chúng ta có thể thấy rằng ranh giới giữa sự nghèo nàn, sự hạn
chế về nhận thức là nguy cơ dẫn đến tình trạng nghiện ma tuý ở trẻ em.
Thứ năm: Nguyên nhân từ phía gia đình, nhà trường:

Gia đình với chức năng nuôi dưỡng, quản lý, giáo dục con em, là nơi có nhiều thời gian nhất, có nhiều
thuận lợi nhất về mọi phương diện để giúp các em nhận rõ được tác hại ghê gớm của ma túy và từ đó
có cách phòng chống tốt nhất.
Tuy nhiên, nhiều gia đình thiếu phương pháp giáo dục thích hợp với tâm lý lứa tuổi (quá luông chiều,
thoả mãn, đáp ứng đầy đủ những yêu cầu vật chất không chính đáng), thiếu tri thức về phòng chống
ma tuý, không giáo dục cho con em tránh xa tệ nạn này. Cấu trúc gia đình không hoàn hảo như bố mẹ
chết, chỉ có bố hoặc chỉ có mẹ, bố mẹ ly dị, sống trong cảnh dì ghẻ, bố dượng…thiếu người chăm
sóc, giáo dục dễ dàng bị bọn xấu rủ rê. Gia đình có người phạm tội (bố, mẹ phạm tội, anh, chị phạm
tội…) gia đình không hoà thuận, thường xuyên cãi vã, thậm chí có hành vi đồng loã, khuyến khích các
em thử, nghiện và buôn bán ma tuý.
Nhà trường là môi trường có tác dụng to lớn đến sự hình thành nhân cách của các em. Đây là một tổ
chức có tính chất chiến lược nhất trong việc phòng ngừa các em vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, nhiều
nơi nhà trường cũng có những yếu kém, sai lầm góp phần làm gia tăng tệ nạn ma tuý trong học sinh,
ở nhiều trường các tổ chức đoàn, đội chưa thực sự là nơi để các thành viên trao đổi với nhau các
quan điểm về cuộc sống, về hoài bão, về tâm tư, nguyện vọng để hoàn thiện bản thân. Tổ chức và kỷ
luật của Đoàn, của Đội còn lỏng lẻo, không có chiều sâu về cả mặt nội dung và hình thức, nặng về
thành tích mà lẩn tránh các vấn đề gai góc trong học sinh hiện nay như hỗ trợ học sinh nghèo vượt
khó, học sinh với các tệ nạn xã hội (ma túy, mại dâm, cờ bạc…) Điều này sẽ dẫn các em đến hoạt
động tiêu cực, tụ tập chơi bời từ đó dễ bị tệ nạn ma tuý lôi kéo, quyến rũ.
Hà Ngọc Liên - Hoàng Trọng Lực

Quán triệt tư tưởng của Người, Nghị quyết hội nghị BCHTƯ Đảng lần thứ
4 (khóa VII), đã nêu: “thanh niên là lực lượng xung kích trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không,
đất nước bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới
hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường XHCN hay
không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng,
rèn luyện thế hệ thanh niên; Công tác thanh niên là vấn đề sống còn của
dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách



mạng...”.
Hiền Lang
24-01-2006, 12:14 PM
Tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VIII, sau khi nói về đường lối công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đồng chí
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã khẳng định: “... Công việc đó là của toàn
xã hội nhưng trước hết là của thanh niên, vì thanh niên có vị trí đặc biệt
đối với sự nghiệp cách mạng và tương lai của dân tộc...”.
Thanh niên là lớp người kế tục tất yếu sự nghiệp cách mạng của cha anh
đưa nước nhà đến một tương lai tươi sáng, bởi “Nước nhà thịnh hay suy,
yếu hay mạnh phần lớn là do thanh niên”. Mặc dù đánh giá cao vai trò của
thanh niên “Vì thanh niên là lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng cho thế
hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên
trong tương lai”. Song Bác vẫn xem xét thanh niên là lớp người cần bồi
dưỡng giáo dục để phát triển toàn diện.
Vì vậy khi đánh giá thanh niên với tất cả những ưu điểm vốn có của thanh
niên, coi thanh niên là “bộ phận quan trọng của dân tộc”, “người chủ
tương lai của nước nhà”. Nhưng Người luôn chỉ ra những nhược điểm hạn
chế của một bộ phận thanh niên. Đó là thiếu từng trải, thiếu kinh nghiệm
trong cuộc sống, chưa chịu khó học tập, mắc bệnh hình thức, cá nhân, tự
cao, tự đại... Bác yêu cầu thanh niên phải chống tâm lý tự tư, tự lợi, tâm lý
ham sung sướng tránh khó nhọc, thói xem khinh lao động, nhất là lao
động chân tay; lười biếng, xa xỉ, kiêu căng, giả dối, khoe khoang... Xuất
phát từ việc coi thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc, là
người sáng tạo ra xã hội mới. Bác nhiều lần căn dặn cán bộ làm công tác
thanh niên phải nhìn nhận thanh niên theo quan điểm phát triển. Người
nói: “Từ ngày cách mạng Tháng 8 đến nay, thanh niên ta có cơ hội phát
triển một cách mau chóng và rộng rãi”; đó là sự phát triển về học vấn, trí
tuệ, nghề nghiệp và thể chất.

Thanh niên là đối tượng quần chúng đặc thù của công tác xây dựng Đảng,
họ có những yêu cầu, những lợi ích chính đáng về mặt xã hội và lứa tuổi,
họ đang trong quá trình hoàn thiện về nhân cách, đang phấn đấu vươn lên
tích lũy kiến thức về mọi mặt và trau dồi đạo đức, phẩm chất phát triển
toàn diện về nhân cách để trở thành con người mới XHCN. Do đó Bác dạy:
“Phải quan tâm đến đời sống, công tác và học tập của thanh niên”. Người
cho rằng đây là cách tốt nhất để củng cố niềm tin và mối liên hệ giữa các tổ
chức thanh niên với đông đảo quần chúng thanh niên có những ưu điểm và
hạn chế riêng, nhưng nếu không nhìn nhận và đánh giá đúng về thanh


niên theo quan điểm phát triển thì dễ sinh ra “hẹp hòi, thành kiến, bảo
thủ” không phát triển được thanh niên như Bác đã căn dặn.
Sinh thời, có lần Bác dạy: “Không nên gọi các cháu là thanh niên hư mà
nên gọi là thanh niên chậm tiến” (theo hồi ký của đồng chí Vũ Quang
trong một lần được làm việc với Bác về công tác thanh niên trong phong
trào “Ba sẵn sàng”), cách gọi này phản ánh một quan điểm nhìn nhận
khoa học của Người về thanh niên, Người nhìn nhận đánh giá về thanh
niên không chỉ ở hiện tại mà còn ở tương lai phát triển của họ “thanh niên
là người chủ tương lai của nước nhà”. Không phát triển thanh niên thì
không thể góp phần phát triển xã hội mới. Trong thư gửi Hội nghị cán bộ
thanh vận tháng 9-1949, đối với công tác thiếu nhi Bác viết: “Ngày nay
chúng là nhi đồng, 11 năm sau chúng sẽ là công dân, cán bộ”. Đây là quan
điểm nhìn nhận của người đối với sự phát triển của các cháu thiếu nhi.
Quán triệt tư tưởng của Người, tại Đại hội toàn quốc lần thứ III Hội Liên
hiệp thanh niên Việt Nam, đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nói: “Thanh
niên có phát triển thì dân tộc mới trường tồn”. Nhìn nhận, đánh giá đúng
đắn vai trò, vị trí của thanh niên cũng như các vấn đề của thanh niên trong
quá trình phát triển của lịch sử và trong từng thời kỳ cách mạng là để hiểu
sâu, hiểu kỹ về thanh niên và các vấn đề của thanh niên. Đây chính là tiền

đề, là điều kiện hết sức quan trọng để định ra chiến lược, vạch ra đường
lối, nội dung, giải pháp giáo dục, bồi dưỡng và tổ chức thanh niên thành
lực lượng chính trị hùng hậu kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp của
Đảng và dân tộc.
Trong Di chúc thiêng liêng Bác còn căn dặn toàn Đảng toàn dân: “Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất
cần thiết”. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, của nhiều thế hệ nối
tiếp nhau được tổ chức và chuẩn bị. Lịch sử là cụ thể, còn cuộc đời mỗi con
người là có hạn; mỗi thế hệ chỉ có thể đi hết một chặng trên con đường
cách mạng đã lựa chọn. Bác đã thấy rõ khả năng tối đa của thế hệ đi trước
có thể làm được cũng như cái giới hạn tự nhiên mà thế hệ đó không thể
vượt qua: “Con người ta sinh ra ai cũng lớn lên, già đi rồi chết”. Từ đó
“bàn giao thế hệ” là tất yếu xảy ra, không chỉ là trao lại những gì đã có mà
quan trọng hơn, khó khăn, gian khổ hơn nhiều là chuẩn bị cho lớp người
đi sau những gì cần thiết cho họ vững chắc nhất và tốt đẹp nhất.
Để tạo điều kiện cho thanh niên phát triển nhanh theo tư tưởng của Người,
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành Chiến lược phát triển thanh niên đến
năm 2010 trên cơ sở đó sẽ tiếp tục ban hành và hoàn thiện những chính
sách thanh niên đáp ứng nhu cầu phát triển của thanh niên trên nhiều lĩnh


vực; đời sống, lao động, học tập, rèn luyện, trưởng thành.
Hệ thống quan điểm của Bác Hồ về thanh niên, về vai trò, vị trí khả năng
cách mạng của thanh niên đã minh chứng thanh niên là đối tượng quần
chúng đặc thù của Đảng không những chiếm số lượng đông trong dân số
mà còn là nguồn lực lao động có chất lượng, là đội xung kích cách mạng
trong lao động, công tác trong những ngành mũi nhọn, then chốt của đất
nước... Song điều quan trọng hơn cả, mang tính quyết định cho sự phát
triển của đất nước chính là do thanh niên-thế hệ kế tục sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của dân tộc, là lớp người sáng tạo, xây dựng xã hội mới.

Do đó, không chỉ coi trọng giáo dục toàn diện “Đức, Trí, Thể, Mỹ” mà còn
phải tập hợp đoàn kết các tầng lớp thanh niên, phát huy sức trẻ và trí tuệ
của thanh niên là vấn đề vừa hết sức cần thiết và cấp bách trong tình hình
hiện nay.



×