Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc được đồng bào dân tộc hmông sử dụng tại xã tả van và xã bản hồ, huyện sa pa, tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.11 MB, 86 trang )

i

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được bản luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ và
tạo điều kiện của các thầy, cô trong Phòng Thực vật, Viện Sinh thái và Tài
nguyên sinh vật; Khoa Sau đại học, Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam,
nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến sự giúp đỡ quí báu đó.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Đỗ Thị Xuyến, người đã dìu
dắt tôi những bước đi đầu tiên trong con đường nghiên cứu khoa học, cảm ơn
sự giúp đỡ của Ban giám đốc Vườn quốc gia Hoàng Liên, lãnh đạo các xã Tả
Van và Bản Hồ, huyện Sapa đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
quá trình thực hiện đề tài.
Nhân dịp này, cho phép tôi bày tỏ lời cảm ơn tới Ban giám hiệu nhà
trường, Khoa Sau đại học, các phòng ban, các thầy cô trong khoa Lâm học,
trường Đại học Lâm nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ về mặt thời gian để tôi
thực hiện tốt đề tài này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên,
ủng hộ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhưng chắc chắn không tránh khỏi những
thiếu sót, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô, các
nhà khoa học và bạn bè đồng nghiệp để bản luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 27 tháng 12 năm 2012
Học viên

Đinh Minh Tín


ii


LỜI CAM ĐOAN
Để đảm bảo tính trung thực của luận văn tốt nghiệp, tôi xin cam đoan:
Luận văn tốt nghiệp “Nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc được đồng bào
dân tộc H’Mông sử dụng tại xã Tả Van và xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai”
là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS.
Đỗ Thị Xuyến, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật. Các kết quả trình bày trong
luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu
khoa học nào trước đây.
Hà Nội, ngày 15 tháng 9 năm 2012
Học viên

Đinh Minh Tín


iii

MỤC LỤC
Trang phụ bìa

Trang

Lời cảm ơn ................................................................................................................. i
Lời cam đoan.............................................................................................................ii
Mục lục……………………………………………………………….....…………iii
Danh mục bảng ........................................................................................................ vi
Danh mục các hình ................................................................................................. vii
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................1
Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .................................3
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước trên thế giới ...3
1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam.............................8

1.3. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở xã Tả Van và xã Bản Hồ,
huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. ..................................................................................13
Chương 2 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU .........................................................................................................15
2.1. Mục tiêu của đề tài ........................................................................................15
2.1.1. Tập hợp một cách có hệ thống các loài thực vật được đồng bào dân tộc
H’Mông ở xã Tả Van và xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, sử dụng làm
thuốc. ................................................................................................................15
2.1.2. Đánh giá mức độ đa dạng về thành phần các taxon, các bệnh chữa trị,
các bộ phận sử dụng và dạng sống của những loài thực vật được đồng bào dân
tộc H’Mông ở xã Tả Van và xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai sử dụng
làm thuốc. .........................................................................................................15
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................15
2.4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................16
2.4.1. Điều tra thực địa theo tuyến: ..................................................................16
2.4.2. Thu thập số liệu, tài liệu: ........................................................................17
2.4.3. Xử lý số liệu ...........................................................................................17


iv

Chương 3 ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ, XÃ HỘI XÃ
TẢ VAN VÀ XÃ BẢN HỒ, HUYỆN SA PA, TỈNH LÀO CAI ..........................23
3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu ......................................................23
3.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới, diện tích .............................................................23
3.1.2. Địa chất, địa hình ....................................................................................23
3.1.3. Khí hậu, thủy văn ...................................................................................23
3.1.4. Tài nguyên thiên nhiên ...........................................................................24
3.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội ...............................................................................25
3.2.1. Dân tộc, dân số và lao động....................................................................25

3.2.2. Giáo dục, văn hóa, y tế: ..........................................................................26
Chương 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...................................................................28
4.1. Thống kê các loài cây được đồng bào dân tộc H Mông ở xã Tả Van và xã
Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai sử dụng làm thuốc....................................28
4.2. Đánh giá về đa dạng các loài cây được đồng bào H Mông ở xã Tả Van và
xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai sử dụng làm thuốc...............................28
4.2.1. Đa dạng về các bậc phân loại của các loài cây được đồng bào dân tộc
H’Mông ở xã Tả Van và xã Bản Hồ sử dụng làm thuốc. .................................28
4.2.2. Đa dạng về dạng cây của các loài cây thuốc ..........................................34
4.2.3. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống tại khu vực nghiên cứu. ...36
4.2.4. Xây dựng sơ đồ phân bố các loài cây thuốc có giá trị cần được bảo vệ.37
4.3. Vấn đề sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc HMông ở xã Tả Van và
xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, Tỉnh Lào Cai .............................................................45
4.3.1. Sự đa dạng về tần số sử dụng của các bộ phận ......................................45
4.3.2. Sự đa dạng về số lượng các bộ phận của từng loài được sử dụng..........47
4.3.3. Các nhóm bệnh được đồng bào dân tộc H’Mông ở xã Tả Van và xã Bản
Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai chữa trị bằng cây thuốc. ..................................48
4.3.4. Một số bài thuốc truyền thống của đồng bào dân tộc H’Mông ở xã Tả
Van và xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. ................................................49


v

4.4. Đề xuất các giải pháp bảo tồn các loài cây thuốc và nguồn tri thức bản địa
cho cộng đồng dân cư địa phương ......................................................................65
4.4.1 Tình hình khai thác, sử dụng và thị trường nguồn dược liệu và các bài
thuốc dân gian ...................................................................................................65
4.4.2.Mối nguy cơ đối với tài nguyên tại khu vực nghiên cứu: .......................69
4.4.3 Các giải pháp nhằm bảo tồn tài nguyên cây thuốc và bài thuốc dân gian......... 70
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................73

I. Kết luận .............................................................................................................73
II. Kiến nghị .........................................................................................................74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


vi

DANH MỤC BẢNG
Tên bảng

TT

Trang

2.1

Bảng danh lục các loài thực vật làm thuốc (mẫu)

18

4.1

Sự phân bố các taxon trong các ngành của các loài cây thuốc được

29

đồng bào dân tộc H’Mông ở xã Tả Van và xã Bản Hồ sử dụng
4.2


So sánh hệ cây được đồng bào dân tộc H’Mông ở hai xã Tả Van và

30

xã Bản Hồ, huyện Sa Pa sử dụng làm thuốc với hệ cây thuốc Việt
Nam
4.3

Sự phân bố các taxon trong ngành Hạt kín

31

4.4

Sự phân bố số lượng các loài cây thuốc trong các họ của các ngành

32

thực vật
4.5

Thống kê các chi có nhiều loài cây thuốc nhất

34

4.6

Dạng thân của các loài cây thuốc được đồng bào dân tộc H’Mông ở

34


hai xã Tả Van và xã Bản Hồ sử dụng
4.7

Thống kê các loài cây thuốc theo môi trường sống

36

4.8

Bảng thống kê các loài cây đang bị đe dọa được đồng bào H’Mông ở

38

xã Tả Van và Bản Hồ sử dụng làm thuốc
4.9

Sự đa dạng trong các bộ phận được sử dụng làm thuốc

45

4.10

Sự đa dạng về các nhóm chữa trị bệnh bằng cây thuốc dân tộc

49

4.11

Tổng hợp các bài thuốc thu thập được trong quá trình nghiên cứu


50

4.12

Thống kê thị trường và tình trạng một số loại thảo dược hiện có tại

68

VQG Hoàng Liên (thời điểm điều tra tháng 6-8 năm 2012)


vii

DANH MỤC CÁC HÌNH

TT
3.1

4.1

4.2

Tên hình
Vị trí và hiện trạng thảm thực vật rừng xã Tả Van và xã Bản Hồ
trong Vườn Quốc Gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai
Số lượng các taxon của các ngành được đồng bào dân tộc H’Mông
ở xã Tả Van và xã Bản Hồ sử dụng làm thuốc
Tỷ lệ các nhóm dạng sống của các loài cây được đồng bào dân tộc
H’Mông ở hai xã Tả Van và xã Bản Hồ sử dụng làm thuốc


Trang
27

29

35

4.3

Số lượng của các loài cây thuốc phân bố theo môi trường sống

37

4.1

Sơ đồ phân bố các loài cây thuốc có giá trị cần được bảo vệ

42

4.4

Tỷ trọng sự phân bố số lượng các bộ phận sử dụng làm thuốc

46


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên sinh vật vô cùng phong phú và đa

dạng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây diện tích rừng trên thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng bị suy giảm một cách nhanh chóng làm mất đi môi trường sống
của nhiều loài động thực vật,... mặt khác, có rất nhiều loài cây còn chưa được biết
tên, chưa phân tích được thành phần hoá học, chưa biết được công dụng của chúng.
Đây là một trong những vấn đề còn chứa đựng nhiều bí ẩn.
Việt Nam với diện tích hơn 330.000 km2, trong đó, đồi núi chiếm 4/5, khối núi
cao nhất là Hoàng Liên Sơn, có đỉnh Fansipan cao tới 3.143 m được coi là nóc là
của Đông Dương. Với đặc điểm về điều kiện tự nhiên và khí hậu đã tạo ra sự đa
dạng cao về sinh học ở Việt Nam trong đó có tài nguyên thực vật làm thuốc.
Từ xa xưa, ông cha ta đã biết sử dụng nguồn dược liệu quý báu từ tự nhiên
làm thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Từ việc lựa chọn các loài cây thuốc, phương
pháp pha chế, phương pháp sử dụng, các bệnh được chữa,...đều là những kinh
nghiệm lâu đời và được ghi chép cẩn thận, lưu truyền qua nhiều thế hệ. Đây là
những kinh nghiệm quý báu mà mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có. Ngày nay, các
phương pháp chữa bệnh bằng các loại thảo dược đang được tập trung nghiên cứu và
phát triển.
Theo thống kê mới nhất của Võ Văn Chi (2012) [7], cho đến nay, nước ta đã
thống kê được 4.700 loài cây thuốc, đây chắc hẳn chưa phải là con số đầy đủ nếu như
không muốn nói là còn ít so với những con số thực tế bởi vì kho tàng kinh nghiệm của các
dân tộc là rất lớn, trong khi công tác điều tra, nghiên cứu, thử nghiệm, bảo tồn nguồn tài
nguyên quí giá này của chúng ta vẫn còn có nhiều hạn chế.
Sa Pa là một huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai với phần lớn dân số là các đồng
bào dân tộc ít người có cuộc sống phụ thuộc vào tài nguyên rừng, trong đó có các
loài cây thuốc và dân tộc H’Mông là một trong số các đồng bào dân tộc có truyền
thống và nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng các loài cây thuốc phục vụ cho chữa
bệnh. Tuy nhiên, việc khai thác cây thuốc không định hướng của đồng bào trong
thời gian gần đây đã và sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với nguồn tài


2

nguyên này cũng như tới công tác bảo vệ phát triển rừng, bảo tồn thiên nhiên của
Vườn quốc gia Hoàng Liên nói riêng và của hụyện Sa Pa nói chung. Mặt khác, kinh
nghiệm sử dụng các loài cây thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông hiện nay chủ yếu
chỉ có ở người lớn tuổi, thường họ chỉ truyền lại cho con cái khi họ sắp qua đời, do
đó những kinh nghiệm dân gian này đang ngày càng bị mai một.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu tài
nguyên cây thuốc được đồng bào dân tộc H’Mông sử dụng tại xã Tả Van và xã
Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai” nhằm mục đích làm cơ sở để sử dụng hợp lý
tài nguyên thực vật, góp phần vào công cuộc bảo tồn các loài thực vật và tri thức
bản địa của Việt Nam cũng như trong khu vực.


3
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước trên thế giới
Trong lịch sử loài người, nói đến việc chữa bệnh bằng cây cỏ, người ta không
thể không nhắc tới Trung Quốc, một trong những quốc gia có nền y học cổ truyền
rất phát triển. Theo truyền thuyết của Vua Thần Nông tức Viêm Đế (3.320 – 3.080
trước Công nguyên) thì Thần Nông đã phân biệt được hàng trăm loại cây cỏ, phân
loại dược tính của chúng và soạn ra cuốn sách “Thần nông thảo bản”. Theo các tài
liệu nghiên cứu về Trung Quốc của các nhà khoa học thì “Thần nông thảo bản”
không soạn trong đời Thần Nông mà được soạn vào đời Đông Hán, vì thời Thần
Nông không có văn tự. Tất cả mọi chuyện đều là truyền thuyết. Trong cuốn “Thần
nông thảo bản” đã thống kê được 365 vị thuốc có giá trị. Trong đó, nhiều bài thuốc
vẫn được sử dụng cho tới ngày nay như cây Gai mèo (Cannabis sp.) để chống nôn,
cây Đại Phong Tử (Hydnocarpus kurzii) làm thuốc chữa bệnh phong…
Vào thời Tam Quốc, danh y Hoa Đà, sử dụng Đàn hương, Tử đinh hương để
chế hương nang để phòng chống và chữa trị bệnh lao phổi và bệnh lỵ. Ông còn
dùng hoa Cúc, Kim ngân phơi khô cho vào chiếc gối (hương chẩm) để điều trị

chứng đau đầu, mất ngủ, cao huyết áp. Từ thời nhà Hán (năm 168 trước Công
nguyên) trong cuốn sách “Thủ hậu bị cấp phương” tác giả đã kê 52 đơn thuốc chữa
bệnh từ các loại cây cỏ. Giữa thế kỷ XVI, Lý Thời Trân đã thống kê 12.000 vị thuốc
trong tập “Bản thảo cương mục”,…[35]. Cho đến nay, Trung Quốc đã cho ra đời
khá nhiều công trình về sử dụng các loài cây cỏ để chữa bệnh.
Không chỉ có ở Trung Quốc, nhiều nước khác cũng có những kinh nghiệm
chữa bệnh lâu đời của họ. Ở Ấn Độ, nền y học cổ truyền được hình thành cách đây
hơn 3000 năm. Chủ trương của người Ấn là ngừa bệnh là chính, nếu phải điều trị
bệnh thì các liệu pháp tự nhiên chủ yếu thông qua thực phẩm và thảo mộc sẽ giúp
loại bỏ gốc rễ căn bệnh. Bộ sử thi Vedas được viết vào năm 1.500 TCN và cuốn
Charaka samhita được các thầy thuốc Charaka bổ sung tiếp vào bộ sử thi Vedas,
trình bày cụ thể 350 loài thảo dược. Trong số đó, có cây Cần ami (Ammi visnaga) là


4
loài thảo mộc có nguồn gốc từ Trung Đông, gần đây được chứng minh là có hiệu
quả trong điều trị bệnh hen suyễn, cây rau Má (Centella asiatica) từ lâu được sử
dụng để chữa bệnh phong, Đậu ba chẽ (Desmodium triangulare) sao vàng, sắc đặc
để chữa kiết lị và tiêu chảy. Ấn Độ là quốc gia rất phát triển về nghiên cứu thảo
dược như tổng hợp chất hữu cơ, tách chiết chứng minh cấu trúc, sàng lọc sinh học,
thử nghiệm độc tính, và nghiên cứu tác dụng hóa học của các chất tới cơ thể con
người. Hiện nay, chính phủ khuyến khích sử dụng công nghệ cao trong trồng cây
thuốc. Hầu hết các viện nghiên cứu dược của Ấn Độ đã tham gia vào nghiên cứu
chuyển hóa các loại thuốc và hợp chất có hoạt tính từ thực vật.
Từ thời cổ xưa, các chiến binh La Mã đã biết dùng dịch cây Lô hội (Aloe
barbadensis) để rửa vết thương, vết loét làm cho chúng chóng lành bệnh mà ngày
nay khoa học đã chứng minh là dịch cây có khả năng làm liền sẹo thông qua sự kích
thích tổ chức hạt và tăng nhanh quá trình biểu mô hóa. Người cổ Hy Lạp đã sử dụng
rau Mùi tây (Coriandrum officinale) để đắp vết thương cho mau lành.
Hippocratrs (460 – 377 TCN), ông tổ của y học Hy Lạp, xem bệnh tật là một

hiện tượng tự nhiên chứ không phải là một hiện tượng siêu nhiên và ông cho rằng
người ta có thể dùng các vị thuốc mà không cần phải tiến hành các nghi lễ cúng bái
hoặc phù phép.
Ở Châu Âu, vào thời Trung cổ, các kiến thức về cây thuốc chủ yếu được các
thầy tu sưu tầm và nghiên cứu. Họ trồng cây thuốc và dịch các tài liệu về thảo mộc
bằng tiếng Ả rập. Vào năm 1649, Nicolas Culpeper đã viết cuốn sách “A Physical
Directory”, sau đó vài năm, ông lại xuất bản cuốn “The English Physician”. Đây là
cuốn dược điển có giá trị và là một trong những cuốn sách hướng dẫn đầu tiên dành
cho nhiều đối tượng sử dụng, người không chuyên có thể sử dụng để làm cẩm nang
chăm sóc sức khỏe. Cho đến nay, cuốn sách này vẫn được tham khảo và trích dẫn
rộng rãi.
Galen (131-200 SCN), một thầy thuốc của Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius,
có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của các vị thuốc bào chế từ thảo mộc. Galen
được Hippocratrs chỉ dẫn và đã đặt các giả thuyết chữa bệnh của mình trên cơ sở
khoa học thuyết bốn thể dịch (gồm bốn chất lỏng chính hay thể dịch tồn tại trong cơ


5
thể con người như: máu, dịch mật, u sầu và đàm). Những ý tưởng của ông có ảnh
hưởng to lớn đến việc chữa bệnh trong 1400 năm sau. Tại Ấn Độ và Trung Quốc,
các phương pháp trị bệnh tinh tế có phần tương tự với học thuyết bốn thể dịch cũng
đã phát triển và tồn tại cho tới ngày nay.
Thầy lang và những bài thuốc cổ truyền từ thực vật đóng vai trò quan trọng đối
với sức khỏe của hàng triệu người. Tỷ lệ người làm nghề thuốc cổ truyền và các bác
sĩ được đào tạo ở các trường Đại học có liên quan tới toàn bộ dân số của các nước
châu Phi. Ước tính số lượng thầy lang ở Tanzanmia có khoảng 30.000 – 40.000
người, trong đó, bác sĩ làm nghề y chỉ có khoảng 600 người. Tương tự ở Malawi có
khoảng gần 20.000 người làm nghề thuốc cổ truyền nhưng số lượng bác sĩ rất ít.
Nền y học cổ truyền ở các quốc gia Châu Phi có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng
đồng. Từ lâu, người Haiiti thường dùng cây Cỏ lào (Eupatorium odoratum) để làm

thuốc chữa những vết thương bị nhiễm khuẩn, cầm máu, áp xe, nhức răng, vết loét
lâu ngày không liền sẹo. Ở Pêru, người ta dùng hạt của cây Sen cạn (Tropaeolum
majus L.) để trị phổi và đường tiết niệu.
Ở Cu Ba, người ta đã dùng bột papain lấy từ mủ cây Đu đủ (Carica papaya)
để kích thíhc hoại tử, kích thích tổ chức hạt ở các vết thương phát triển.
Ở Philippin, người ta sử dụng cây Bồ cu vẽ (Breynia fructicosa) lấy vỏ sắc
làm thuốc cầm máu hoặc tán bột rắc lên mụn nhọt, vết lở loét làm chúng chóng
khỏi. Ở Malaixia, cây Húng chanh (Coleus amboinicus) dùng lá sắc cho phụ nữ sau
khi sinh đẻ uống hoặc giã nhỏ, vắt nước cột cho trẻ em uống trị sổ mũi, đau họng,
ho gà. Ở Cămpuchia, Malaixia người ta dùng Hương nhu tía (Ocimum sanctum),
trong đó rễ trị đau bụng, sốt rét; nước lá tươi có tác dụng long đờm hoặc giã nát đắp
trị bệnh ngoài da, khớp.
Trong chương trình điều tra cơ bản nguồn tài nguyên thiên nhiên ở khu vực
Đông Nam Á, Perry đã ghi nhận những cây thuốc trong Y học cổ truyền và các loài
cây này đã được các nhà khoa học kiểm chứng, trong đó có 146 loài có tính kháng
khuẩn [14]. Hay gần đây, tập thể các nhà khoa học đã cho ra đời cuốn sách Tài
nguyên các loài cây thuốc ở Đông Nam Á “Plant Resources of South-East Asia,
Medicinal and poisonous Plant (2001)” với gần 1.000 loài cây [50].


6
Cùng với phương thức chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian, các nhà khoa
học trên thế giới tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu cơ chế và các hợp chất hóa học
trong cây có tác dụng chữa bệnh, đúc rút thành những cuốn sách có giá trị. Các nhà
khoa học công nhận rằng hầu hết các cây cỏ đều có tính kháng sinh, đó là khả năng
miễn dịch tự nhiên của thực vật. Tác dụng kháng khuẩn do các hợp chất tự nhiên có
mặt phổ biến trong thực vật như phenolic, antoxy, các dẫn xuất quino, ancaloid,
flavonoid, saponin,…Cho đến nay, nhiều hợp chất tự nhiên đã được giải mã về cấu
trúc, những hợp chất này được chiết xuất từ cây cỏ để làm thuốc. Dựa vào cấu trúc
được giải mã, người ta có thể tổng hợp nên các chất nhân tạo để chữa bệnh. Gotthall

(1950) đã phân lập được chất Glucosid barbaloid từ cây Lô hội (Aloe vera), chất
này có tác dụng với vi khuẩn lao ở người và vi khuẩn Baccilus subtilis. Lucas và
Lewis (1994) đã chiết xuất một hoạt chất có tác dụng với các loài vi khuẩn gây bệnh
tả, lị, mụn nhọt từ Kim ngân (Lonicera sp.). Từ cây Hoàng Liên (Coptis teeta),
người ta đã chiết xuất được berberin. Trong lá và rễ cây Hẹ (Allium odorum) có các
hợp chất sulfua, sapoin và chất đắng. Năm 1948, Shen-Chi-Shen phân lập được một
hoạt chất Odorin ít độc đối với động vật bậc cao nhưng lại có tác dụng kháng
khuẩn. Hạt của cây Hẹ cũng có chứa chất Alcaloid có tác dụng kháng khuẩn gram+
và gram-, nấm. Reserpin và Serpentin là chất hạ huyết áp được chiết xuất từ cây Ba
gạc (Rauvolfa spp.). Đặc biệt, Vinblastin và Vincristin vừa có tác dụng hạ huyết áp
vừa có tác dụng làm thuốc chống ung thư, được chiết xuất từ cây Dừa cạn. Digitalin
được chiết xuất từ cây Dương địa hoàng (Digitalis spp.), strophatin được chiết xuất
từ cây Sừng dê (Strophanthus spp.) để làm thuốc trợ tim. Từ những thành tựu
nghiên cứu cấu trúc, hoạt tính của các hợp chất tự nhiên, nhiều loại thuốc có tác
dụng chữa bệnh cao đã ra đời bằng tổng hợp hoặc bán tổng hợp.
Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì đến năm 1985, có trên
20.000 loài thực vật bậc cao có mạch và ngành thực vật bậc thấp được sử dụng trực
tiếp làm thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất tự nhiên để làm thuốc (trong tổng số
250.000 loài đã biết). Trong đó, vùng nhiệt đới Châu Mỹ có hơn 1.900 loài, vùng
nhiệt đới Châu Á có khoảng 6.500 loài thực vật có hoa được dùng làm thuốc. Mức
độ sử dụng thuốc thảo dược ngày càng cao [35].


7
Khoảng 80% dân số ở các quốc gia đang phát triển sử dụng các phương pháp y
học cổ truyền để chăm sóc sức khỏe, trong đó chủ yếu là cây cỏ. Trung Quốc là
nước đông dân nhất thế giới, có nền y học dân tộc phát triển nên trong số cây thuốc
đã biết hiện nay có tới 80% số loài (khoảng trên 4.000 loài) là được sử dụng theo
kinh nghiệm cổ truyền của các dân tộc ở đât nước này. Ở Ghana, Mali, Nigeria và
Zambia, 60% trẻ em có triệu chứng sốt rét ban đầu được điều trị tại chỗ bằng thảo

dược. Tỷ lệ dân số tin tưởng vào hiệu quả sử dụng thảo dược và các biện pháp chữa
bệnh bằng y học cổ truyền cũng đang tăng nhanh ở các quốc gia phát triển. Ở Châu
Âu, Bắc Mỹ, và một số nước khác, ít nhất 50% dân số sử dụng thực phẩm bổ sung
hay thuốc thay thế từ thảo mộc. Ở Đức, 90% dân số sử dụng các phương thuốc có
nguồn gốc thiên nhiên để chăm sóc sức khỏe. Ở Anh, chi phí hàng năm cho các loại
thuốc thay thế từ thảo mộc là 230 triệu đôla.
Tuy nhu cầu sử dụng cây thuốc của con người trong việc chăm sóc sức khỏe
ngày một tăng, nhưng nguồn tài nguyên thực vật đang bị suy giảm. Nhiều loài thực
vật đã bị tuyệt chủng hoặc đang bị đe dọa tuyệt chủng do các hoạt động trực tiếp và
gián tiếp của con người. Theo tổ chức Bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên
(IUCN) cho biết, trong tổng số 43.000 loài thực vật mà cơ quan này lưu giữ thông
tin có tới 30.000 loài được coi là đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác
nhau. Trong đó có nhiều loài là cây thuốc quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. Chẳng
hạn như ở Bangladesh, một số cây thuốc quý như Tylophora indicia để chữa hen,
Zannia indicia (thuốc tẩy xổ)…trước đây mọc rất phổ biến, nay đã trở nên hiếm hoi.
Loài Ba gạc (Rauvolfila serpentina) vốn mọc rất tự nhiên ở Ấn Độ, Bangladesh,
Thái Lan…mỗi năm có thể khai thác hàng ngàn tấn nguyên liệu xuất khẩu sang thị
trường Âu, Mỹ làm thuốc chữa cao huyết áp. Tuy nhiên, do bị khai thác liên tục
nhiều năm nên nguồn gốc cây thuốc này đã bị cạn kiệt. Vì vậy, một số bang ở Ấn
Độ đã đình chỉ khai thác loài Ba gạc này [50].
Vào những năm 1960, Trung Quốc đã thiết lập được một hệ thống gồm “các
bác sĩ chân đất” nhằm phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe của hàng triệu người dân
các vùng nông thôn. Chính nhờ vậy, mà nền Y học Cổ Truyền Trung Quốc được
củng cố và phát triển mạnh với nhiều phương thuốc chữa bệnh được ghi chép trong


8
nhiều tác phẩm. Trong cuốn sách “Cây thuốc Trung Quốc” xuất bản năm 1985 đã
liệt kê một loạt các cây cỏ chữa bệnh như: cây gấc (Momordica cochinchinensis) có
rễ chữa nhọt độc, viêm tuyến hạch, hạt chữa trị sưng tấy đau khớp, sốt rét, vết

thương tụ máu; cải soong (Nasturtium officinale) giải nhiệt, chữa lở mồm, chảy máu
chân răng, bướu cổ.
Nguyên nhân gây nên sự suy giảm nghiêm trọng về mặt số lượng của các loài
cây thuốc trước hết là do sự khai thác quá mức nguồn tài nguyên dược liệu và do
môi trường sống của chúng bị hủy diệt bởi các hoạt động của con người. Đặc biệt, ở
các vùng rừng nhiệt đới và Á nhiệt đới là nơi có mức độ đa dạng sinh học cao của
thế giới nhưng lại bị tàn phá nhiều nhất. Theo số liệu của tổ chức Nông Lương
(FAO) của Liên hợp quốc, trong vòng 40 năm (1940 – 1980), diện tích của các loại
rừng kể trên đã bị thu hẹp tới 44%, ước tính khoảng 75.000 hecta rừng bị phá hủy.
Trong thế kỷ 21, với mục đích phục vụ sức khỏe con người, sự phát triển của
xã hội, chống lại các bệnh nan y thì sự cần thiết là phải kết hợp giữa Đông Y với
Tây Y, giữa Y học hiện đại và Y học cổ truyền của các dân tộc. Chính những kinh
nghiệm của các dân tộc chính là chìa khóa giúp chúng ta khám phá ra nhiều loại
thuốc mới cho tương lai. Chính vì điều đó mà việc bảo tồn, khai thác và phát triển
các loài cây thuốc cần được chú ý quan tâm.
1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam.
Cũng như các dân tộc khác, nền y học cổ truyền của Việt Nam đã có từ rất lâu
đời, nhiều phương thuốc bào chế từ cây thuốc được áp dụng chữa bệnh trong dân
gian. Những kinh nghiệm này đã được ghi chép thành những cuốn sách có giá trị và
lưu truyền rộng rãi trong nhân dân. Với lợi thế về khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và
ẩm, Việt Nam có nguồn tài nguyên thực vật phong phú. Ước tính, nước ta có
khoảng 12.000 loài thực vật bậc cao có mạch, 800 loài rêu, 600 loài nấm và hơn
2.000 loài tảo. Có khoảng gần 4.000 loài thực vật bậc cao dùng làm thuốc [46].
Ngoài sự phong phú về thành phần chủng loại, nguồn dược liệu Việt Nam còn
có giá trị to lớn ở chỗ chúng được sử dụng rộng rãi trong cộng đòng để chữa nhiều
chứng bệnh khác nhau. Cây thuốc được sử dụng dưới hình thức độc vị hay phối hợp
với nhau tạo nên các bài thuốc cổ phương, còn tồn tại và thịnh hành đến ngày nay.


9

Ngoài ra hàng trăm cây thuốc đã được khoa học Y dược hiện đại chứng minh về giá
trị chữa bệnh của chúng. Nhiều loại thuốc được chiết xuất từ dược liệu Việt Nam
như rutin, D strophantin, berberin, palmatin, artemisinin,...đã được sử dụng rộng rãi
trong nước và xuất khẩu. Xu hướng đi sâu nghiên cứu, xác minh các kinh nghiệm
của y học cổ truyền và tìm kiếm các hợp chất tự nhiên có hoạt tính sinh học cao để
làm thuốc từ dược liệu ngày càng được thế giới quan tâm.
Ngược thời gian, ngay từ thời Hồng Bàng và các vua Hùng Vương (năm
2.400-258 trước Công nguyên) qua các văn tự hán nôm còn sót lại, tổ tiên ta đã biết
dùng cây cỏ làm gia vị, kích thiết sự ngon miệng và chữa bệnh. Theo Long Úy chép
lại, vào đầu thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, có hàng trăm vị thuốc từ đất Giao Chỉ
như Ý dĩ (Coix lachryma-jobi), Hoắc hương (Pogostemon cablin), hay việc tìm ra
bột đao trong than cây Báng, quả Cọ, Móc có chất bổ ăn để chống đói; dùng Gừng
ăn với chim, cá, ba ba cho đỡ tanh và dễ tiêu hoá, từ đó đã bắt nguồn tục dùng
Gừng, Hành, Tỏi,… làm gia vị trong bữa ăn hàng ngày để phòng bệnh [28].
Vào thế kỷ XVI, danh y Nguyễn Bá Tĩnh (Tuệ Tĩnh) là người có công phát
triển nền y dược học Việt Nam tới đỉnh cao. Cuốn sách thuốc đầu tiên của ông được
nhiều người biết đến là cuốn “Nam dược thần hiệu” với 11 quyển, nói tới công dụng
của 496 vị thuốc Nam. Tác phẩm tiếp theo cũng gây được tiếng vang đó là “Hồng
nghĩa giác tứ y thư” với hai bài Hán Nôm, trong đó có tóm tắt công dụng của 130
loài cây thuốc cùng cách chữa trị 37 chứng sốt khác nhau. Hai cuốn sách này được
xem là những cuốn sách xuất hiện sớm nhất về cây thuốc Việt Nam [48].
Đến thế kỷ 18, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã xuất bản bộ sách lớn “Y
Tông Tâm Tĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển đã mô tả khá chi tiết về các loài thực vật,
các đặc tính chữa bệnh [29].
Thời kỳ Pháp thuộc (1884 - 1945), nền y học cổ truyền của Việt Nam chịu
nhiều ảnh hưởng của dược học phương Tây. Các phương thức chữa bệnh mới được
mang đến qua quá trình khai thác thuộc địa, họ đã gián tiếp thúc đẩy quá trình
nghiên cứu thực vật của Việt Nam nói chung và nghiên cứu cây thuốc nói riêng.
Đặc biệt bộ sách “Thực vật chí đại cương Đông Dương” của Lecomte (chủ biên)
xuất bản cuối thể kỷ 18 đầu thể kỷ 19 đã mô tả và phân loại hơn 7.000 loài thực vật.



10
Bộ sách “Danh mục các sản phẩm ở Đông Dương” của C.Crévost và A.Pétélot năm
1935 đã thống kê được 1.340 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc được dùng trong y
học của Đông Dương [54]. Tuy nhiên, cuốn sách này chưa hoàn thiện về mô tả,
phân bố, thành phần hóa học và dược lý của các loại thảo mộc.
Trong thời gian 1962-1965, Đỗ Tất Lợi đã tổng hợp các công trình khoa học
đã công bố và các kết quả nghiên cứu của các nhân để biên soạn bộ sách “Các cây
thuốc và vị thuốc Việt Nam” gốm 6 tập. Năm 1995, tác giả bổ sung và hoàn thiện
công trình nêu trên, trong đó giới thiệu hơn 800 loài động vật và thực vật làm thuốc,
trong đó nhiều loài thực vật đã được mô tả về mặt cấu tạo, phân bố, cách thu hái và
chế biến, thành phần hóa học, công dụng và liều dùng. Đây là bộ sách có giá trị lớn
về mặt khoa học, kết hợp giữa khoa học dân gian với khoa học hiện đại [27,28].
Cùng thời gian này, nhiều nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu về thành phần
loài và công dụng của các cây thuốc ở nước ta. Các công trình nghiên cứu lần lượt
được công bố phục vụ cho việc sử dụng và phát triển cây thuốc như :
+ Vũ Văn Chuyên (1966) cho công bố tập “Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc”
(cuốn sách này được tái bản lần thứ hai vào năm 1976) [11].
+ Vũ Văn Kính (1979) xuất bản “Sổ tay y dược học” với 500 bài thuốc gia truyền.
+ Phạm Hoàng Hộ (1991-1993) đã xuất bản bộ sách “Cây cỏ Việt Nam” đã giới
thiệu được công dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật [19].
Thời gian này nhiều đề tài điều tra nghiên cứu cây thuốc được triển khai.
Trong các đợt điều tra sưu tầm được thực hiện từ năm 1961 đến năm 1985, đã thống
kê trên toàn quốc có 1.863 loài và dưới loài thực vật dùng làm thuốc. Theo Viện
Dược liệu, phần lớn các cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm của dân gian, chỉ
có khoảng 5% các loài là ghi nhận theo tài liệu nước ngoài. Trong đó, 700 loài phân
bố chủ yếu ở các vùng rừng núi, 400 loài phân bố ở vùng đồi và trung du. Theo số
liệu điều tra của Viện Dược liệu (2001), nước ta có 3.800 loài cây thuốc. Dự đoán
số loài cây thuốc của Việt Nam nếu được nghiên cứu đầy đủ sẽ có thể lên tới 6.000

loài. Như vậy, tiềm năng cây thuốc của nước ta là rất dồi dào [13,46].
Võ Văn Chi (1997) trong cuốn sách từ điển cây thuốc Việt Nam, đã mô tả
được 3.200 loài cây thuốc, trong đó thực vật có hoa là 2.500 loài thuộc 1.050 chi,


11
được xếp và 230 họ thực vật theo hệ thống của Takhtajan. Tác giả đã trình bày về
cách nhận biết, các bộ phận được sử dụng, nơi sống và thu hái, thành phần hóa học,
tính vị và tác dụng, công dụng của các loài thực vật, cốn sách này mới đây được tái
bản có bổ sung (năm 2012) với số lượng loài cây thuốc lên tới 4700 loài [7]. Đến
năm 1999-2000, Võ Văn Chi và Trần Hợp tiếp tục giới thiệu cuốn sách “Cây cỏ có
ích ở Việt Nam” (2 tập) mô tả khoảng 6.000 loài thực vật bậc cao có mạch với các
đặc điểm hình thái, sinh thái, phân bố và công dụng [9].
Nguyen Van Duong (1993), đã xuất bản cuốn “Medicinal plants of Vietnam,
Cambodia and Laos”, trong đó có 879 loài cây thuốc được mô tả [51]. Trần Đình Lý
(1993) và cộng sự đã xuất bản cuốn sách “1900 loài cây có ích”. Trong số các loài
thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam có 76 loài cho nhựa thơm, 160 loài có
tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 chứa tanin, 500 loài cây gỗ có giá trị cao, 400
loài tre nứa, 40 loài song mây. Trong số các nhóm thực vật này, rất nhiều loài có
công dụng làm thuốc. Năm 1995 Vương Thừa Ân cho ra đời cuốn “Thuốc quý
quanh ta”, Ngô Trực Nhã với “Cây thuốc trong trường học”, [35]...
Bên cạnh đó, nhiều cuốn sách có giá trị trong nghiên cứu về tài nguyên cây
thuốc ở Việt Nam như Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005) đã công bố bộ
sách “Danh lục các loài thực vật Việt Nam” [2, 42]. Cuốn sách đã trình bày đầy đủ
các thông tin về tên khoa học, tên thường gọi, nhận dạng, phân bố, dạng sống – sinh
thái và công dụng. Bộ sách này rất có ý nghĩa cho việc tra cứu hệ thực vật nói chung
và tra cứu thành phần loài cây thuốc nói riêng.
Trong nghiên cứu cây thuốc, không thể không kể đến nhiều bộ công trình có
giá trị của Viện Dược liệu (Bộ Y tế) là:
+ Đỗ Huy Bích và Bùi Xuân Chương (1980) với “Sổ tay cây thuốc Việt Nam”

đã giới thiệu 159 loài cây thuốc.
+ Tập thể các tác giả Viện Dược Liệu (1993) cho ra đời cuốn “Tài nguyên Cây
thuốc Việt nam” với khoảng 300 loài cây thuốc đang được khai thác và sử dụng ở
các mức độ khác nhau trong toàn quốc [45]; đến năm 1994 xuất bản cuốn “Dược
điển Việt Nam, 2 tập”; năm 2001 với “Selected medicinal plants in Vietnam”; năm
2004 với “Cây thuốc và động vật là thuốc ở Việt Nam, 2 tập” [3].


12
Trong những năm qua, nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách đầu tư cho
công tác điều tra, nghiên cứu về cây thuốc và kế thừa nền y học cổ truyền, phục vụ
cho nhu cầu chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Các ngành Y tế, Lâm
nghiệp và Sinh học đã tiến hành nhiều đợt điều tra cơ bản, đặc biệt là chương trình
điều tra nghiên cứu cây thuốc của Viện Dược liệu – Bộ Y tế đã tiến hành trên phạm
vi toàn quốc. Theo điều tra, cho đến năm 2004 ở nước ta có khoảng 3.948 loài cây
thuốc được ghi nhận, thuộc 307 họ của 9 ngành thực vật bậc cao và bậc thấp, bao
gồm cả nấm. Kết quả điều tra còn ghi nhận được các kinh nghiệm sử dụng cây
thuốc của cộng đồng dân tộc ở các địa phương trong cả nước. Bên cạnh đó, các nhà
khoa học thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật trong những năm qua đã có
nhiều công trình nghiên cứu về tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đặc biệt là các nghiên cứu về y học cổ truyền của các
dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc trong những năm gần đây như các dự án:
+ Bảo vệ nguồn tài nguyên cây có ích ở VQG Tam Đảo (1997-2000) do trung
tâm nghiên cứu và phát triển cây thuốc cổ truyền (CREDEP), tổ chức các Vườn
thực vật Quốc tế (ICBG) và VQG Tam Đảo thực hiện. Đã tiến hành kiểm kê cây
thuốc, xác định mức độ bảo tồn, phân bố và điều kiện sinh thái của cây thuốc ở
VQG Tam Đảo. Kết quả là đã xác định được 361 loài cây thuốc trong đó có 25 loài
ưu tiên bảo tồn. Dự án cũng đã nghiên cứu phương pháp nhân giống bằng hom của
11 loài cây thuốc.
+ Nghiên cứu và ứng dụng thành công tri thức sử dụng cây Ngấy (Rubus

cochinchinesis) của đồng bào dân tộc trong việc chữa trị u tiền liệt tuyến của tác giả
Lưu Đàm Cư và cộng sự (năm 2002).
+ Năm 2001, Nguyễn Thị Phương Thảo và cộng sự đã điều tra đánh giá về tài
nguyên cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng các loài thực vật làm thuốc của một số
cộng đồng dân tộc Dao, Tày và Hoa tại Yên Tử - Quảng Ninh và đã thu thập được
362 loài thực vật làm thuốc. Năm 2005, cũng tác giả này đã thực hiện đề tài
“Nghiên cứu tác động kinh tế - dân sinh của các cộng đồng dân tộc vào tài nguyên
thực vật và ảnh hưởng của nó tới đa dạng sinh học tại Chiềng Yên – Mộc Châu –


13
Sơn La”. Kết quả đã thống kê được 209 loài cây thuốc do người H’Mông sử dụng
và 176 cây thuốc được người Dao sử dụng.
+ Bên cạnh đó cũng phải kể đến một số công trình của các tác giả như Nguyễn
Nghĩa Thìn và cộng sự (2001) về “Cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái ở Con
Cuông, tỉnh Nghệ An” [40]; Phạm Quốc Hùng và Hoàng Ngọc Ý (2009) với
“Nghiên cứu tri thức bản địa trong bảo vệ rừng của người Mông tại khu BTTN
Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình” [21]; Thành Công và Huỳnh Phụng Ái (2010)
với “Những bài thuốc dân gian thường dùng”, trong công trình này, tác giả đã giới
thiệu được gần 1000 bài thuốc theo kinh nghiệm đơn giản áp dụng cho nhiều chứng
bệnh với nhiều ảnh màu minh họa [12]; mới đây là công trình của Nguyễn Thị Minh
Hải (2011) với việc “Nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc của đồng bào dân tộc
H’Mông tại xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai”. Công trình
đã ghi nhận được đã 402 loài, thuộc 111 họ của 6 ngành thực vật có tác dụng làm
thuốc tại khu vực nghiên cứu [16].
1.3. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở xã Tả Van và xã Bản Hồ,
huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
Trước đây, xã Tả Van và xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai cũng như
nhiều vùng núi khác, việc chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho người dân còn
rất hạn chế và khó khăn. Người dân tự tìm hiểu và tìm ra được nhiều loài cây rừng

có tác dụng chữa bệnh. Những tri thức và kinh nghiệm sử dụng những loài cây để
chữa bệnh đã được người dân địa phương giữ gìn và lưu truyền lại qua nhiều đời,
nhiều thế hệ sau. Về sau, một phần nhỏ người dân, chủ yếu là các bà mế, ông lang ở
đây đã đưa một số loài cây thuốc về trồng trong vườn nhà. Tuy nhiên đó chỉ là số
lượng nhỏ, một số loài không thể trồng được nên họ vẫn khai thác nguồn tài nguyên
cây thuốc trong rừng để chữa bệnh, trao đổi mua bán.
Đề án "Điề u tra đánh giá dươ ̣c liê ̣u mô ̣t số vùng tro ̣ng điể m của tỉnh Lào
Cai" (Viê ̣n Dươ ̣c liê ̣u 1997, 1998) đã thố ng kê có 706 loài cây thuố c có tiề m năng
làm thuố c ở huyê ̣n Sa Pa, trong đó có xã Tả Van và xã Bản Hồ. Theo điề u tra sơ bô ̣
của Viê ̣n Dược liê ̣u chỉ có 17 loài còn trữ lượng khá, có khả năng khai thác tự nhiên. Phần
lớn là các cây thuốc thông thường. Có 35 loài cây thuố c bi ̣ đe do ̣a ở các mức đô ̣ khác


14
nhau bao gồm 10 loài ở mức đô ̣ E (Endangered - đang nguy cấ p); 8 loài ở mức đô ̣
V (Vulnerable - sẽ nguy cấ p); 10 loài ở mức đô ̣ R (Rare- hiế m); 7 loài ở mức đô ̣ T
(Threatened - bi ̣ đe do ̣a). Có 98 loài cây thuố c đươ ̣c trồ ng ở huyê ̣n Sa Pa. Trong đó
23 loài đươ ̣c trồ ng phổ biế n như: Thảo quả, Ba ̣ch truâ ̣t, Đỗ tro ̣ng, Laõ quan thảo,
Đương quy,... Phầ n lớn các cây là nhâ ̣p nô ̣i, chỉ có mô ̣t số loài là bản điạ [16].
Năm 2003, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, thuộc Viện Khoa học và
Công nghệ Việt Nam đã tiến hành đề tài “Xây dựng luận cứ khoa học để bảo vệ tri
thức bản địa cho việc sử dụng đa dạng sinh học” có triển khai tại một số điểm của
huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, nhưng đây chỉ là một số ghi nhận nhỏ [47].
Năm 2008, Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự công bố “Đa dạng sinh học VQG
Hoàng Liên” trong đó có ghi nhận nằm trong khu vực VQG có 761 loài cây thuốc.
Cũng theo tác giả thì nơi đây là trung tâm của các loài cây thuốc nguy cấp, một số
loài cây thuốc quí hiếm như Ô đầu (Aconitum camichaeli), Bạch chỉ (Angelica
dahurica), Đương quy (Angelica uchiyamae), Dâm dương hoắc (Epimedium
macranthum), Tam thất (Panax stipuleanatus), Hoàng liên (Coptis chinensis),…
Nhưng đây là công trình tổng hợp về đa dạng sinh học nói chung của cả vườn quốc

gia, không có ghi nhận về các bài thuốc của đồng bào các dân tộc nơi đây [41].
Năm 2011, Nguyễn Thị Minh Hải đã điều tra và đánh giá nguồn tài nguyên
cây thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông tại xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện Sa
Pa, tỉnh Lào Cai (2 trong 4 xã vùng lõi của VQG Hoàng Liên). Tuy nhiên, khu vực
nghiên cứu của đề tài tại địa điểm khác nhau, nguồn tài nguyên rừng cũng cơ bản
khác với khu vực nghiên cứu của đề tài này [16].
Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào về vấn đề
cây thuốc và vị thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông tại xã Tả Van và xã Bản Hồ (2
xã còn lại của vùng lõi VQG Hoàng Liên), huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai được xuất
bản, bên cạnh đó các dự án về bảo tồn các loài cây thuốc hiện có trong nguồn gen
thực vật của các xã này vẫn chưa được đặc biệt quan tâm.


15
Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu của đề tài
2.1.1. Tập hợp một cách có hệ thống các loài thực vật được đồng bào dân tộc
H’Mông ở xã Tả Van và xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, sử dụng làm
thuốc.
2.1.2. Đánh giá mức độ đa dạng về thành phần các taxon, các bệnh chữa trị, các
bộ phận sử dụng và dạng sống của những loài thực vật được đồng bào dân tộc
H’Mông ở xã Tả Van và xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai sử dụng làm
thuốc.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các loài thực vật bậc cao có mạch được đồng bào dân tộc H’Mông ở xã Tả
Van và xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, sử dụng làm thuốc.
Một số bài thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông ở xã Tả Van và xã Bản Hồ,
huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai đang lưu trữ và sử dụng.
Thời gian thực hiện: Từ tháng 11 năm 2011 đến tháng 9 năm 2012.

2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Đa dạng loài:
Thu thập và xử lý mẫu vật, xác định tên, xây dựng danh lục và phân tích đánh
giá đa dạng các loài thực vật được đồng bào dân tộc H’Mông ở xã Tả Van và xã
Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai sử dụng làm thuốc.
2.3.2. Sự phân bố các loài cây thuốc theo môi trường sống.
Xây dựng bản đồ phân bố các loài cây thuốc có giá trị cần được bảo vệ.
2.3.3. Vấn đề sử dụng cây thuốc:
Đa dạng về công dụng chữa trị của các loài cây thuốc, bộ phận của cây được sử
dụng làm thuốc. Một số bài thuốc.
2.3.4. Các giải pháp bảo tồn các loài cây thuốc và nguồn tri thức bản địa cho
cộng đồng dân cư địa phương:


16
Tình hình khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên cây thuốc và các bài thuốc dân
gian. Mối nguy cơ và các biện pháp nhằm bảo tồn tài nguyên cây thuốc và bài thuốc
dân gian.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Điều tra thực địa theo tuyến:
Điều tra khảo sát sơ bộ sau đó ta tiến hành chọn tuyến điều tra. Tuyến được
chọn phải đảm bảo yêu cầu phải chạy qua các sinh cảnh đặc trưng cho khu bảo tồn.
Trên mỗi tuyến cắt ngang chọn các ô tiêu chuẩn là những điểm chốt đặc trưng nhất
để nghiên cứu đa dạng tài nguyên cây thuốc (Theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997).
Trên mỗi tuyến, tiến hành điều tra các loài cây thuốc của đồng bào dân tộc
H’Mông sử dụng trong phạm vi 10 m mỗi bên. Mỗi loài lấy 5-6 tiêu bản.
Sau thời gian gần một năm, được sự giúp đỡ của Ban lâm nghiệp xã Tả Van và
xã Bản Hồ và các trạm kiểm lâm trực thuộc, các ông lang, bà mế, chúng tôi đã tiến
hành 2 chuyến điều tra khảo sát và thu mẫu trong phạm vi khu vực nghiên cứu.
- Các tuyến điều tra thực địa là:

+ Xã San Sả Hồ: tuyến đi suối Cát Cát, tuyến đi Ý Linh Hồ, tuyến đi Sín Chải,
tuyến đi Suối vàng – Thác tình yêu.
+ Xã Lao Chải: tuyến đi Lao Chải San, tuyến đi Lồ Hàng Chải, Lý Lao Chải
đi Tả Van.
+ Xã Tả Van: tuyến đi bản Tả Van Mông đi Séo Mý Tỷ, Giền Thăng đi Giàng
Ta Chai.
+ Xã Bản Hồ: Tuyến đi Thôn Hoàng Liên, Ma Quái Hồ - Séo Trung Hồ.
- Các ông lang, bà mế đã phỏng vấn là:
+ Bản Tả Van Mông, xã Tả Van (Ông Sùng A Lý, Ông Lý A Hào, Ông Hầu A
Chong).
+ Bản Séo Mý Tỷ, xã Tả Van (Ông Sùng A Tim, Ông Hạng A Sử; Ông Lý A
Thanh).
+ Bản Giền Thăng, xã Tả Van (Ông Sùng A Vàng, Bà Sùng Thị Thung)
+ Bản Giàng Ta Chai, xã Tả Van (Ông Lý A Luông, Bà Sùng Thị Mỵ)


17
+ Thôn Hoàng Liên, xã Bản Hồ, (Ông Hạng A Lung; Ông Lý A Hẩu, Bà Chảo
Sử Ngăn).
+ Thôn Ma Quái Hồ, xã Bản Hồ, (Bà Sùng Thị Mủi).
2.4.2. Thu thập số liệu, tài liệu:
+ Tiến hành thu thập số liệu từ các nguồn thông tin đáng tin cậy như các báo
cáo khoa học của khu bảo tồn, kỷ yếu, tạp chí khoa học, internet, ….
+ Phương pháp phỏng vấn nhanh có sự tham gia của người dân (PRA): Phỏng
vấn đồng bào, các cán bộ làm công tác quản lý, nhất là các ông lang, bà mế, các
lương y dân tộc H’Mông, người dân khai thác, buôn bán cây thuốc từ rừng, tại xã
Tả Van và xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, thông qua các bảng câu hỏi đã được
xây dựng sẵn để sưu tầm và phát hiện các bài thuốc, cây thuốc sử dụng theo kinh
nghiệm dân gian. Mỗi cây thuốc, bài thuốc đều có mẫu thu và ghi chép các thông tin
cần thiết như công dụng, bộ phận sử dụng, cách sử dụng của cây (phụ lục 2).

+ Thu thập các loài thực vật làm thuốc được đồng bào dân tộc H’Mông ở xã
Tả Van và xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai sử dụng (theo Nguyễn Nghĩa
Thìn, 2004; Nguyễn Thượng Dong và cộng sự, 2006).
2.4.3. Xử lý số liệu
+ Phương pháp chuyên gia: Dựa vào kinh nghiệm của các chuyên gia đặc biệt
là các vấn đề như xác định tên khoa học của các mẫu đã thu hái, các thuật ngữ về
các bệnh được chữa trị.
+ Phương pháp xử lý mẫu vật, chỉnh lý tên khoa học (theo Nguyễn Nghĩa thìn,
1997). Các tiêu bản tươi được thu thập ngoài thực địa tiếp tục xử lý trong phòng thí
nghiệm tại Phòng Thực vật, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật. Các mẫu sau khi
sấy khô được ngâm tẩm bằng dung dịch cồn chứa 0,3-0,5% HgCl2 để diệt khuẩn và
chống côn trùng phá hại. Các mẫu tiêu bản được sấy khô, ép khẳng, trình bày và
khâu trên giấy bìa cứng kích thước 28 cm x 42 cm.
+ Xác định tên khoa học, kiểm tra, chỉnh lý tên theo các tài liệu chính là các
tập Cây cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ), Thực vật chí Việt Nam (nhiều tác giả),
Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam (nhiều tác giả) cùng nhiều tài liệu liên quan
khác,….


18
+ Xây dựng danh lục: Điều chỉnh khối lượng họ, chi theo hệ thống của bộ
Sách “Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam” 3 tập [2,42]. Danh lục được xây dựng
theo nguyên tắc sự phát triển của các ngành thực vật từ Lá thông đến thực vật Hạt
kín. Trong mỗi ngành các họ, chi loài được xếp theo vần ABC. Riêng ngành thực
vật Hạt kín do khối lượng lớn nên chia thành 2 lớp là Hai lá mầm và lớp Một lá
mầm, sau đó cũng xếp tương tự như trên. Danh lục ngoài tên khoa học, tên Việt
Nam của các loài còn có các thông tin khác như công dụng, dạng sống, môi trường
sống của các loài thực vật, bộ phận sử dụng và cách thức sử dụng loài đó làm thuốc
như mô hình bảng 2.1.
Bảng 2.1. Bảng danh lục các loài thực vật làm thuốc (mẫu)

TÊN KHOA
HỌC

TT

TÊN VIỆT
NAM

CÔNG
DỤNG

BỘ
PHẬN
DÙNG

CÁCH
DÙNG

DẠNG
CÂY

MÔI
TRƯỜNG
SỐNG

1
2
3...
- Xác định các loài quí hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt: Trên cơ sở danh lục thực
vật, lập danh sách các loài quí hiếm ở xã Tả Van và xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh

Lào Cai. Các loài được xác định quí hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt dựa vào tiêu chí
của các công trình sau:
-

Sách đỏ Việt Nam, 2007;

-

Danh lục các loài thực vật quý hiếm của IUCN, 2009;

-

Nghị định số 32 của chính phủ về quản lý các loài động thực vật quý hiếm.

+ Đánh giá tính đa dạng của các loài cây thuốc, về dạng sống của các loài cây
thuốc, môi trường sống của các loài cây thuốc, về tần số sử dụng các bộ phận, về số
lượng các bộ phận sử dụng làm thuốc (theo Nguyễn Thượng Dong và cộng sự, 2006).
+ Sơ đồ phân bố các loài thực vật quý hiếm: Căn cứ vào các điểm đã phát hiện
được cây thuốc ngoài thực địa (đã được xác định vị trí bằng GPS và đánh dấu vào
bản đồ điều tra), đánh dấu điểm phân bố của loài trên bản đồ (theo Nguyễn Nghĩa
Thìn, 2004).


×