Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật nhằm bảo tồn một số loài địa lan kiếm (cymbidium) ở vùng hoàng liên sơn, huyện sa pa, tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.84 MB, 112 trang )



Số hóa bởi trung tâm học liệu
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
––––––––––––––––––––––



NGUYỄN VĂN TUỆ



NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT
NHẰM BẢO TỒN MỘT SỐ LOÀI ĐỊA LAN KIẾM
(CYMBIDIUM) Ở VÙNG HOÀNG LIÊN SƠN,
HUYỆN SA PA, TỈNH LÀO CAI




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP






Thái Nguyên - 2013



Số hóa bởi trung tâm học liệu
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
––––––––––––––––––––––



NGUYỄN VĂN TUỆ


NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT
NHẰM BẢO TỒN MỘT SỐ LOÀI ĐỊA LAN KIẾM
(CYMBIDIUM) Ở VÙNG HOÀNG LIÊN SƠN,
HUYỆN SA PA, TỈNH LÀO CAI
Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.02.01



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN THỊ THU HÀ



Thái Nguyên - 2013


Số hóa bởi trung tâm học liệu

i
LỜI CAM ĐOAN
- Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
- Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ
nguồn gốc.

20 09 năm 2013
Tác giả luận văn


Nguyễn Văn Tuệ












Số hóa bởi trung tâm học liệu
ii
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến sự giúp đỡ nhiệt tình của cô
giáo hướng dẫn TS. Trần Thị Thu Hà – Khoa Lâm Nghiệp – Trường Đại Học

Nông Lâm Thái Nguyên.
Xin chân thành cảm ơn tới Ban giám đốc và các cán bộ, công nhân viên
Vườn Quốc Gia Hoàng Liên Sơn đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác giả hoàn
thành bản luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn tới Ban giám hiệu, các thầy cô giáo Khoa
Lâm nghiệp và Phòng đào tạo sau đại học - Trường Đại Học Nông lâm
Thái Nguyên
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập
và thực hiện luận văn.
Cuối cùng tác giả xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của những
người thân trong gia đình đã tạo mọi điều kiện về vật chất, tinh thần và thời gian
cho tác giả hoàn thành luận văn này!

Thái Nguyên, ngày 20 tháng 09 năm 2013
Tác giả luận văn


Nguyễn Văn Tuệ


Số hóa bởi trung tâm học liệu
iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt vi
Danh mục các bảng vii
Danh mục các hình viii
MỞ ĐẦU 1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1. Sơ lược về cây hoa lan 3
1.1.1. Nguồn gốc lịch sử của cây hoa lan 3
1.1.2. Vị trí phân bố 4
1.1.3. Phân loại họ phong lan 6
1.1.4. Giá trị kinh tế và sử dụng hoa lan 7
1.2. Sơ lược về chi địa lan kiếm 8
1.3. Đặc điểm thực vật học chi lan kiếm 8
1.4. Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh của Chi Lan Kiếm (Cymbidium) 9
1.5. Một số loại sâu bệ 13
1.6. Các nghiên cứu về hoa lan trên thế giới và ở Việt Nam 14
1.6.1. Trên thế giới 14
1.6.1.1. Tình hình nghiên cứu và sản xuất hoa lan trên thế giới 14
1.6.1.2. Một số kết quả nghiên cứu về hoa lan trên thế giới 16
1.6.2. Ở Việt Nam 18
1.6.2.1. Tình hình nghiên cứu và sản xuất hoa lan ở Việt Nam 18
1.6.2.2. Kết quả nghiên c thập tập đoàn, đánh giá nguồn gen 19
1.6.2.3. Kết quả nghiên cứu nhân giống, chăm sóc, điều khiển sinh trưởng 20
1.7. Tổng quan khu vực nghiên cứu 21


Số hóa bởi trung tâm học liệu
iv
1.7.1. Điều kiện tự nhiên 21
1.7.1.1. Ranh giới, hành chính 21
1.7.1.2. Địa hình 23
1.7.1.3. Khí hậu 23
1.7.1.4. Thuỷ văn 25
1.7.2. Kinh tế và xã hội 26
1.7.2.1. Dân số và dân cư 26

1.7.2.2. Văn hoá xã hội 27
1.7.2.3. Tình hình giao thông và cơ sở hạ tầng 27
1.7.2.4. Các đặc điểm về lịch sử văn hoá 28
Chƣơng 2: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 29
2.1. Mục tiêu nghiên cứu 29
2.2. Đối tượng nghiên cứu 29
2.3. Nội dung nghiên cứu 29
2.4. Phương pháp nghiên cứu 30
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu nội dung 1 30
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu nội dung 2 31
2.4.3. Phương pháp nghiên cứu nội dung 3 31
2.4.4. Phương pháp nghiên cứu nội dung 4 32
2.4.5. Phương pháp xử lý số liệu 36
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 37
3.1. Kết quả thu thập hoa địa lan kiếm 37
3.2. Đặc điểm các loài địa lan kiếm ở khu vực nghiên cứu 38
3.2.1. Đặc điểm hình thái của các loài địa lan kiếm 38
3.2.2. Đặc điểm ra hoa và thời gian nở hoa của các loài địa lan kiếm 39
3.2.2.1. Thời gian ra hoa và độ bền hoa 39
3 ịa lan kiếm 41


Số hóa bởi trung tâm học liệu
v
ịa lan 42
ủ ị 44
3.2.3. Một số ại thường gặ 45
3.3. Nhân giống địa lan kiếm theo phương pháp tách mầm 48
3.3.1. Thời vụ tách mầm 48
3.3.2. Thí nghiệm lượng tách giả hành thích hợp 50

3.4. Ảnh hưởng củ
51
3.4.1. Ảnh hưởng của giá thể trồng đến khả năng sinh trưởng của một số loài
địa lan kiếm chọn lọc 53
3.4.2. Ảnh hưởng của chế độ tưới nước đến quá trình sinh trưởng của 3 loài
địa lan kiếm chọn lọc 55
3.4.3. Ảnh hưởng của chế độ ị
ọn lọc 58
3.4.4. Ảnh hưởng của dinh dưỡng đến quá trình sinh trưởng của 3 loài địa lan
kiếm chọn lọc 61
3.4.5. Ảnh hưởng của thuốc trừ bệnh đến bệnh hại đến 3 loài địa lan kiếm
chọn lọc 64
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 67
1. Kết luận 67
2. Kiến nghị 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO 69





Số hóa bởi trung tâm học liệu
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CT : Công thức
VQG : Vương Quốc Gia
CS : Cộng sự
ĐH : Đại học
g/l : gam/lít

MH : Mầm hoa
NL : Nhắc lại
NN : Nông nghiệp
NXB : Nhà xuất bản
TN : Thí nghiệm
% : Phần trăm
H
1
: Lan Kiếm Trần Mộng Xuân
H
2
: Lan Kiếm Hồng Hoàng
H
3
: Lan Kiếm Thu Vàng
N:P:K : Đạm: Lân: Kali
STT : Số thứ tự
TB :Trung bình


Số hóa bởi trung tâm học liệu
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1. Danh mục các loài địa lan đã thu thập 37
38
Bảng 3.3. Thời gian ra hoa và độ bền hoa của các loài đị 40
ịa lan 41
, kích thướ 43
, giá trị củ ị 44

46
47
Bảng 3.9. Khả năng sinh trưởng của 2 loài địa lan kiếm 48
Bảng 3.10. Khả năng sinh trưởng của 2 loài địa lan kiếm 50
Bảng 3.11. Đặc điểm chính củ ợc chọn lọc 52
Bảng 3.12. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của giá thể trồng tới một số chỉ
tiêu sinh trưởng của 3 loài địa lan kiếm 53
Bảng 3.13. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ tưới đến khả năng sinh
trưởng của 3 loài địa lan kiếm 56
Bả ế độ che sáng đến một số chỉ tiêu sinh trưởng
củ ếm 59
Bảng 3.15. Ảnh hưởng của dinh dưỡng bổ sung đến khả năng sinh trưởng của
3 loài lan kiếm 62
Bảng 3.16. Tỷ lệ bệnh hại sau khi làm thí nghiệm trên 3 loài lan kiếm 65





Số hóa bởi trung tâm học liệu
viii
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1.1. Bản đồ hành chính vùng Hoàng Liên Sơn, huyện Sa Pa 22
Hình 1.2. Biểu đồ sinh khí hậu vùng Hoàng Liên Sơn 24
Hình 1.3. Sơ đồ các kiểu khí hậu ở huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai 25
Hình 3.1. Biểu đồ ảnh h ời vụ tách mầ ả năng sinh trưởng
của 2 loài đị 49
Hình 3.2. Biểu đồ ảnh h ố lượng giả hành tới khả năng sinh trưởng
của 2 loài đị 51

Hình 3.3. Biểu đồ ảnh h 54
Hình 3.4. Biểu đồ ảnh h ộng lá và số mầ
55
Hình 3.5. Biểu đồ ảnh h ều dài lá tố
ếm 56
Hình 3.6. Biểu đồ ảnh h ều rộng lá tối đa và
số mầm trung bình/1 cây củ ếm 57
Hình 3.7. Biểu đồ ảnh h ều dài lá tối đa của 3
loài lan kiếm 60
Hình 3.8. Biểu đồ ảnh h i chiều rộng lá tối đa và
số mầm trung bình trên cây của 3 loài lan kiếm 60
Hình 3.9. Biểu đồ ảnh h ều dài lá tối
đa của 3 loài lan kiếm 63
Hình 3.10. Biểu đồ ảnh h d ố mầm trung
bình/1 cây của 3 loài địa lan kiếm 64




Số hóa bởi trung tâm học liệu
1
MỞ ĐẦU
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa và có nhiều loài hoa
lan quý được thế giới biết đến. Theo các nhà khoa học trong và ngoài nước,
Việt Nam có khoảng trên 150 loài (genera) gồm 1200 giống (species). Sở dĩ
có có sự phỏng đoán như vây là vì có nhiều giống lan hãy còn ở trong những
khu rừng thâm u, hoang dã, dốc núi chênh vênh, hiểm trở hay vực sâu thăm
thẳm mà loài người chưa từng đặt chân đến, hoặc có những cây còn mới lạ
khó lòng nhìn nhận ra được. Nghề trồng lan có lịch sử rất lâu đời, từ đời vua
Trần Nhân Tông đã lập nên "Ngũ bách viên" trong đó có 500 loài lan quý

được sưu tập từ khắp các vùng đất nước (Nguyễn Hữu Huy - Phan Ngọc Cấp,
1995) [12]. Việt Nam
còn nằm trong trung tâm khởi nguyên, có nguồn quỹ
gen cây trồng
phong phú trong đó có họ phong lan.
Về những loài lan quý, Việt Nam được xếp ngang tầm với Trung Quốc,
thậm chí còn nhiều hơn, những loài lan quý ở Việt Nam được chuyên gia
nghiên cứu về phong lan ở nước ngoài đánh giá rất cao. Cùng với sự phát
triển của công nghiệp, đời sống con người được nâng cao và nhu cầu thưởng
thức cái đẹp ngày càng gia tăng. Ngoài mặt thẩm mỹ, nghề trồng hoa cây
cảnh nói chung và đặc biệt chọn tạo giống hoa lan nói riêng đã và đang trở
thành một ngành kinh tế thu nhiều lợi nhuận. Hàng năm, ngành trồng hoa thế
giới đã đạt giá trị 25 tỷ đô la và thế kỷ 21 sẻ đạt giá trị hơn 40 tỷ đô la ( Đồng
Văn Khiêm, 2003) [14].
Hiện nay, nghiên cứu về khoa học ở nước ta chủ yếu tập trung nghiên
cứu nhân nhanh các giống hoa lan nhiệt đới. Kỹ thuật nuôi trồng trên quy mô
công nghiệp hầu như còn ít, chưa có nhiều nghiên cứu về kỹ thuật trồng, chọn
lọc loài lan rừng thích hợp với điều kiện khí hậu Sa Pa nói riêng và miền Bắc
nói chung. Để phát triển lâu dài bền vững thì các chủng loại lan rừng Việt


Số hóa bởi trung tâm học liệu
2
Nam cần được nghiên cứu nhằm bảo tồn nguồn gen để phục vụ cho việc lai
tạo lan trong tương lai, tạo ra những loài lan đặc hữu chỉ có ở Việt Nam. Mặt
khác, cần hoàn thiện nhanh chóng qui trình nuôi trồng lan công nghiệp nhằm
đáp ứng thị trường trong nước cũng như dần hướng tới thị trường xuất khẩu
(Nguyễn Thiện Tịch và cộng sự, 2003) [22].
Trong họ lan, địa lan kiếm (Cymbidium) được mệnh danh là “nữ
hoàng” của các loài lan nhờ chúng có những điểm nổi bật cả về giá trị khoa

học lẫn giá trị mỹ thuật, giá trị tinh thần, vẻ tao nhã, hài hòa của chúng từ lâu
đã hiện diện trong văn học, nghệ thuật và gắn liền với đời sống văn hóa của
người Á Đông. Địa lan là một loài lan quý có giá trị thương mại cao, có khả
năng thích ứng tốt với khí hậu miền Bắc - Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu
một số biện pháp kỹ thuật nhằm bảo tồn một số loài địa lan kiếm là việc làm
cần thiết và cấp bách.
Xuất phát từ thực tế trên chúng ta phải có biện pháp như lưu giữ, bảo tồn
nguồn gen hoa địa lan kiếm từ đó có kế hoạch khai thác và sử dụng một cách
hiệu quả nhất. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu một số biện
pháp kỹ thuật nhằm bảo tồn một số loài địa lan kiếm (cymbidium) ở vùng
Hoàng Liên Sơn, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai”.


Số hóa bởi trung tâm học liệu
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Sơ lƣợc về cây hoa lan
1.1.1. Nguồn gốc lịch sử của cây hoa lan
Theo các tác giả Trần Hợp (1990) [10], Nguyễn Tiến Bân (1997) [2],
Võ Văn Chi - Dương Đức Tiến (1978) [4], Phạm Hoàng Hộ (1993) [9], hoa
lan Orchida thuộc họ phong lan Orchidaceae, bộ lan Orchidales, lớp một lá
mầm Monoctyledoneae. Hoa lan được biết đến đầu tiên ở Phương Đông. Hoa
lan được biết đến vào khoảng 2500 năm về trước (Thời đại của Đức Khổng
Tử, 551- 479 trước công nguyên). Ở Phương Đông, lan được chú ý đến vì vẻ
đẹp duyên dáng của lá, hương thơm tuyệt vời của hoa. Khổng Tử đề cao lan là
Vua của những loài cỏ cây có hương thơm.
Hoa lan thường mọc ở các vùng nhiệt đới, đã được các thuỷ thủ, các lái
buôn, nhà truyền giáo mang về nên người châu Âu biết đến rất muộn, lan
được chú ý trước hết để làm thuốc chữa bệnh. Ở đây người ta đã tiến hành

nghiên cứu rất công phu tỉ mỉ về lan. Có thể nói Theophara stus là cha đẻ
ngành học về lan và ông cũng là người đầu tiên dùng từ Orchid để chỉ một
loài lan có củ tròn. Sau đó Robut Bron (1773 - 1858) là người đầu tiên đã
phân biệt rõ ràng giữa họ lan và các họ khác. Người đặt nền tảng hiện đại cho
môn học về lan là John Lindley (1799 - 1865). Năm 1836 ông công bố, sắp
xếp các tông họ lan (A tabuler view of the tribes of orchidaler).
Hoa lan được biết đến đầu tiên ở Trung Hoa là Kiến lan (vì được tím ra
đầu tiên ở Phúc Kiến) đó là Cymbidium ensifonymum là một loài bán địa lan.
ở phương Đông lan được chú ý đến vì vẻ đẹp duyên dáng của lá và hương
thơm tuyệt vời của hoa (vì quan niệm thẩm mỹ thời ấy chuộng tao nhã cứ
không ưa phô chương sặc sỡ). Lan đối với người Trung Hoa hay đối với
người Nhật được tượng trưng cho tình yêu và vẻ đẹp, hương thơm tao nhã, tất


Số hóa bởi trung tâm học liệu
4
cả thuộc về phái yếu, quý phái và thanh lịch. Lan còn tượng trưng cho sự
đông đủ con cái (phúc). Khổng tử đã ví lan với đức tính cao quý cho nên năm
tháng lan cũng đồng nghĩa với người quân tử, cao cả, hoàn hảo. Hương thơm
của lan để chỉ tình bạn. Khổng tử đề cao lan là vua của những loài cây cỏ có
hương thơm. Phong trào chơi phong lan và địa lan ở Trung Quốc phát triển rất
sớm, từ thế kỷ thứ 5 trước công nguyên đã có các tranh vẽ về phong lan còn
lưu lại từ thời Hán Tông. Ở châu Âu bắt đầu để ý đến phong lan từ thế kỷ thứ
18, sau Trung Quốc đến hàng chục thế kỷ và cũng nhờ các thuỷ thủ thời bấy
giờ mà phong lan đã đến khắp các miền của địa cầu. Lan chính thức gia nhập
vào ngành hoa cây cảnh trên thế giới khoảng hơn 400 năm nay Trần Hợp
(1990) [10].
Theo Phạm Hoàng Hộ (1972) [8], đã mô tả kèm hình vẽ 289 loài lan
gặp ở Nam Việt Nam trong bộ “Cây cỏ Việt Nam” (quyển II ). Sau năm 1975
các nhà khảo cứu Việt Nam, Liên Xô, Tiệp Khắc bắt đầu tìm kiếm và nghiên

cứu về những giống lan tại Việt Nam.
Năm 1992, Gunnar Seidenfaden người Đan Mạch đã phát hành cuốn
“Hoa Lan tại Đông Dương” gồm 200 giống và 2000 loài, trong đó có khoảng
136 giống và 720 loài của Việt Nam. Đến năm 1993 (Phạm Hoàng Hộ, 1993)
[9] cho rằng, ở Việt Nam có tới 755 loài lan. Và gần đây nhất Leonid V.
Averyanov & Anna L. Averyanova (2003) [26], đã lần lượt công bố trên tờ
nguyệt san Orchids của Hội hoa lan Hoa Kỳ những khám phá mới lạ đã phát
hiện thấy 4 loài lan ở Việt Nam chưa được biết đến đó là Paphio pledilum
helenae, Renamthera citrina, Paphiopedilum hiepii và Vanda bidupensis.
1.1.2. Vị trí phân bố
Họ phong lan phân bố từ 68
0
vĩ Bắc đến 56
0
vĩ Nam, nghĩa là từ gần
cực Bắc như Thủy Điển, Aleska và xuống tận cuối cùng ở cực Nam của
Australia. Tuy nhiên tập trung phân bố của họ này là ở trên các vĩ độ nhiệt


Số hóa bởi trung tâm học liệu
5
đới, đặc biệt châu Mỹ và Đông Nam Á. Ngay ở các vùng nhiệt đới họ phong
lan cũng phân bố rộng khắp từ vùng đầm lầy sát Biển Hồ qua các đồi núi thấp
lên các vùng núi cao. Mặc dù đa số các loài lan chỉ mọc ở độ cao dưới 2000 m
so với mặt nước biển, song có một số ít loài sống cả ở độ cao 5000 m so với
mặt nước biển (ở Colombia có một số loài phong lan sống ở núi quanh năm
tuyết phủ).
Theo (F.Gbriger, 1971), vùng trung sinh Bắc Bán Cầu có 75 chi và 900
loài. Vùng trung sinh Nam Bán Cầu có 40 chi và 500 loài, toàn Châu Âu có
khoảng 120 loài và Bắc Mỹ khoảng 170 loài (trong Nguyễn Tiến Bân, 1997) [2].

Theo R.L.Dresler (1981) ở Châu Mỹ nhiệt đới có 306 chi và 8.266 loài.
Trên thế giới có một số nước tập trung nhiều loài như Colombia có 1.300 loài
và Tân Ghinê có 1.450 loài (Phan Thúc Huân, 1989) [13].
Vào năm 1981 Presley cho rằng: Châu Á nhiệt đới, đặc biệt Đông Nam
Á có khoảng 250 chi và 6.800 loài chủ yếu là các loài đặc sản ở châu Mỹ
gồm: Cattleya (60 loài), Epidendrum (500 loài), Odontoglosum (200 loài). Ở
vùng khí hậu ôn hoà số lượng loài giảm đi nhanh chóng và rõ rệt. Châu Phi có
rất ít lan do khí hậu không thích hợp. Châu Đại Dương có các loại lan phân bố
rộng rãi như Dendrobium, Cymbidium Các vùng Ôn Đới thuộc Châu Âu,
Châu Mỹ và Châu Á có số lượng loài cũng không nhiều do khí hậu khắc
nghiệt (Hoàng Ngọc Thuận, 2003) [20].
Theo Trần Hợp, (1990) [10], hệ thực vật họ Phong lan nước ta vô cùng
phong phú và đa dạng chúng phân bố từ Bắc vào Nam. Một số loài chỉ xuất
hiện ở các tỉnh phía Bắc, một số khác chỉ phân bố ở các tỉnh phía Nam và một
số ít phân bố rộng từ Bắc vào Nam làm cho sự phân chia về phân bố khá phức
tạp. Tuy nhiên có thể sơ bộ chia sự phân bố đó làm 6 khu vực sau:
- Khu Đông Bắc Bộ: Đây là nơi có vĩ độ cao và khí hậu lạnh nhất nước
ta, tập trung một số loài lan Á nhiệt Đới, nhiệt Đới như Cymbidium,
Phalaenopsis, Vanda, Paphiopedium, Dendrobium


Số hóa bởi trung tâm học liệu
6
- Khu Tây Bắc Bộ: Nằm ở vị trí có vĩ độ cao, tuy nhiên có nhiều dãy
núi che chắn và có gió Lào vào mùa hè nên các loài lan ở đây chịu nóng tốt
hơn như: Eria, Bulbophylum, Rhynchostylis, Dendrobium
- Khu Trường Sơn Bắc: Đây là vùng chuyển tiếp của khu hệ phong lan
miền Bắc và miền Nam. Một số loài chủ yếu: Habenaria, Phaius,
Flickingeria, Dendrobium
- Khu Trường Sơn Nam: Do địa hình chia cắt nhiều nên các loài lan

phân bố ở đây rất phức tạp, có những loài nhiệt Đới và Á nhiệt Đới, đặc biệt
có loài chịu khô, nóng kéo dài như: Eria, Cleisostoma, Liparis , loài chịu ẩm
như Bromheadia, Calanthe
- Khu đồng bằng Miền Nam: Khí hậu ở đây nhiệt Đới với 2 mùa mưa
và khô rõ rệt. Số lượng loài phong phú, tập trung chủ yếu các loài:
Bulbophyllum, Acampe, Dendrobium, Eria
- Khu đảo: Các loài chủ yếu như Bulbophylium, Apostasia, Liparis, Eria
1.1.3. Phân loại họ phong lan
Năm 1753, Linnê đã dùng luôn danh từ Orchid để chỉ các loài lan. Đến
năm 1836, John Lindley (1779 - 1865) dùng danh từ Orchid để chỉ chung cho
các loài lan và từ đó các loài lan được xếp thành một họ trong hệ thống phân
loại gọi là Orchidaceae. Ông công bố, sắp xếp các tông thuộc họ lan và tên
của họ lan được dùng cho đến ngày nay (Trần Văn Bảo, 2001) [1].
Theo Taktajan (1980), sự phân chia họ phong lan khá phức tạp, theo
truyền thống cổ điển, các nhà khoa học trước đây chia họ phong lan thành 3
họ phụ khá minh bạch. Tuy nhiên gần đây do việc phân tích hoa đầy đủ hơn
và đi sâu vào nghiên cứu đặc tính di truyền, các nhà khoa học đã chia phong
lan làm 6 họ phụ (trong Trần Hợp, 2001) [11].
- Apostasicideae - Orchidadeae
- Cypridicideae - Epidendroideae
- Neottioideae - Vandoideae


Số hóa bởi trung tâm học liệu
7
Chi lan Kiếm thuộc họ phụ Orchidioideae cả 6 họ phụ này đều được
phân bố rộng rãi trên trái đất. Họ phong lan của Việt Nam cũng khá phong
phú, theo thống kê sơ bộ, có 120 chi, trên 800 loài. Như vậy họ phong lan đã
trở thành đối tượng cực kỳ phong phú và đặc sắc của hệ thực vật Việt Nam.
Theo Leonid & Anna (2003) [26], Việt Nam hiện nay người ta đã biết

được 897 loài thuộc 152 chi. Chúng chiếm khoảng 75 - 80% trong tổng số
loài lan ước tính có ở nước ta. Trong đó một số chi có giá trị kinh tế lớn như
Aerides (có 7 loài); Cymbidium (24 loài); Dendrobium (có 107 loài); chi
Pahiopedilum (có 18 loài) và Rhychotilis (có 3 loài).
1.1.4. Giá trị kinh tế và sử dụng hoa lan
Từ thời xa xưa đến nay, hoa lan luôn được con người ngưỡng mộ nhờ
có vẻ đẹp rực rỡ, quý phái, hương thơm kín đáo nhưng lại rất tao nhã và thanh
cao. Trước đây hoa lan được xem là loài quý hiếm, nên thú chơi hoa lan
thường chỉ dành cho vua chúa hoặc giới thượng lưu. Ngày nay chơi lan đã
được nâng lên thành nghệ thuật và nghề trồng lan đã được phát triển thành
ngành công nghiệp có lợi nhuận cao. Cách sử dụng cũng rất đa dạng, có thể
dùng cắm lọ nhờ cành dài, cứng, hoa đẹp và lâu tàn hoặc dùng để trồng chậu,
trưng bày phòng khách, dưới mái hiên nhà, bên cạnh lồng chim.
Ngoài việc phục vụ các nhu cầu giải trí, thưởng thức cái đẹp của con
người, hoa lan đồng thời cũng đã tạo ra được một nguồn lợi kinh tế quan
trọng. Theo các chuyên gia về lan, nghề trồng lan đã đem lại lợi nhuận không
nhỏ cho người dân. Theo tính toán của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn, nếu trồng hoa lan cắt cành Dendrobium và Mokara, mỗi ha đất trồng có
thể thu nhập 500 triệu đến 1,0 tỷ đồng/năm, cao hơn nhiều lần so với trồng lúa
và một số hoa màu khác. Ngoài ra, nếu lan được dùng cho xuất khẩu thì lợi
nhuận thu được còn lớn hơn nhiều.
Trong những năm gần đây xuất khẩu hoa lan Việt Nam tăng mạnh.
Chín tháng đầu năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hoa phong lan lại tăng 218%


Số hóa bởi trung tâm học liệu
8
so với tháng 8/2008, đạt 61,0 nghìn USD. Nhật Bản là thị trường xuất khẩu
hoa lan tiềm năng của chúng ta.
1.2. Sơ lƣợc về chi địa lan kiếm

Chi lan kiếm Cymbidium, trong họ phụ Orchidioideae, các loài trong chi
lan Kiếm có hoa lớn, đẹp, bền phân bố trên một vùng vô cùng rộng lớn khắp
Đông Nam Á, các hải đảo trên Thái Bình Dương đến Hy Lạp Sơn, từ
Philippines đến Phigi. Đa số các loài trong chi đều gồm các cây sống phụ trên
cây mục khác hoặc hốc đá có mùn [37].
1.3. Đặc điểm thực vật học chi lan kiếm
Các nhà khoa hoa học đã mô tả tóm tắt đặc điểm thực vật học chi lan Kiếm
như sau:
Rễ lan : Chi lan kiếm có bộ rễ lớn, dày, nạc, xốp. Chúng sống ở đất hoặc
sống phụ, sống hoại trong các hốc đá. Hệ rễ chia thành rễ chính, rễ phụ, rễ
nhánh, rễ to mập, thường có màu trắng xám (Trần Hợp, 2001) [11].
Thân lan: Thân củ hình trụ, chứa nhiều chất dinh dưỡng và nước. Thân
chính nếu sống trong môi trường thuận lợi hàng năm mọc ra nhiều nhánh mới.
Chi lan kiếm (Cymbidium) thuộc nhóm lan đa thân (Sympodial) cây trong
nhóm này thường không tăng trưởng liên tục mà có thời gian nghỉ sau những
mùa tăng trưởng. Thông thường, phần nhìn thấy của hoa lan chỉ có lá, hoa và
cuống. Chúng được mọc nên từ một đoạn phình to, giống như củ hành nên
người ta gọi là giả hành (Trần Duy Quý, 2005) [18].
Lá lan: Một hoa lan trưởng thành có rất nhiều lá. Lá tự dưỡng, do đó nó
phát triển đầy đủ hệ thống lá. Lá thuộc loại lá song đính, lá lớn, lá trải rộng và
xếp xít trên thân, đôi khi rủ xuống, xếp cách đều đặn trên thân. Lá thường có màu
xanh bóng, đậm và nhẵn, cũng có những loài lá có điểm những vệt vàng hay
xanh nhạt (Nguyễn Tiến Bân, 1997) [2].


Số hóa bởi trung tâm học liệu
9
Hoa lan: Cụm hoa to, dạng chùm, màu sắc sặc sỡ, đẹp. Cánh đài lưng
thường ngắn, nhưng 2 cánh đài bên kéo dài với nhau ở cằm. Cánh tràng 2,
thường có

dạng giống cánh đài. Cánh môi dính hay chia 2 - 3 thuỳ, cột nhụy
dài chứa
phấn khối.
Quả lan: Quả lan thuộc dạng quả nang, khi quả chín sẽ nứt dọc theo 3 -
6 khe. Quả có dạng từ dạng quả cải dài đến dạng hình trụ ngắn, phình to ở
giữa. Khi chín, quả mở ra các hạt bị gió cuốn đi còn lại mảnh vỏ đính lại với
nhau ở phía gốc. Ở một số loài khi quả chín vỏ quả không nứt ra, hạt chỉ ra
khỏi vỏ khi vỏ này bị mục nát (Hoàng Ngọc Thuận, 2003) [20].
Hạt lan : Số lượng hạt trong một quả là rất nhiều, hạt nhỏ li ti và nhẹ.
Hầu hết là không có chất nuôi dưỡng như các loại hạt khác. Có thể bị gió
cuốn bay đi khắp nơi nên khả năng phát tán rộng. Khối lượng toàn bộ hạt ở
trong quả chỉ bằng 1/10 - 1/1000 mg, trong khi không khí chiếm khoảng 76 -
79% thể tích hạt. (Việt Chương; Nguyễn Việt Thái, 2002) [5].
Hạt cấu tạo bởi một khối chưa phân hoá. Sau 2 - 18 tháng hạt mới chín
tùy từng loài, phần lớn hạt đều chết vì không chứa chất dinh dưỡng, chúng chỉ
sinh sôi nảy nở khi gặp được loài nấm cộng sinh hỗ trợ chất dinh dưỡng. Vì
vậy, khả năng hạt nảy mầm thành cây là rất hiếm, chỉ có thể trong điều kiện
rừng ẩm ướt nhiệt đới (Hoàng Ngọc Thuận, 2003) [20].
1.4. Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh của Chi Lan Kiếm (Cymbidium)
Bất kỳ loài sinh vật nào cũng có yêu cầu về ngoại cảnh nhất định để
sinh trưởng và phát triển. Cây hoa lan nói chung, Địa lan nói riêng cũng yêu
cầu ngoại cảnh như: Giá thể, ẩm độ, ánh sáng, nhiệt độ và dinh dưỡng. Để hoa
lan Kiếm sinh trưởng và phát triển tốt cần phải đáp ứng những yêu cầu mà
cây cần.
* Giá thể
Giá thể là những từ để chỉ tất cả các vật bao quanh bộ rể của cây trồng,
các loại giá thể khác nhâu có ưu nhược điểm khác nhau tùy theo mục đích
trồng, loại cây trồng mà chọn các loại giá thể thích hợp.



Số hóa bởi trung tâm học liệu
10
Trên thế gới, đã nhiều nghiên cứu và kết luận: Một trong những yếu tố
quan trọng nhất của hoa lan là việc lựa chọn giá thể hay môi trường để trồng
thích hợp. Hoa lan sinh trưởng trong chất nền thoáng khí, có khả năng duy trì
và thoát nước tốt. Mọi loại giá thể tốt cho hoa lan có khả năng cũng cấp có
hiệu quả độ ẩm, dinh dưỡng và không khí cho cây. Giá thể sử dụng cho hoa
lan có thể là các chất trơ vật lý hay còn gọi là giá thể vô cơ (đá dăm, hạt nhựa, đá
vụn dung nham và các dạng khác nhau của bọt núi lửa hoặc vật liệu hữu cơ (xơ
dừa, rêu biển, than bùn, than củi, mùn cưa, bã mía, trấu hun, vỏ cây.
So với các giá thể trồng hoa lan kiếm thì ở giá thể vô cơ có ưu điểm là
có thể ổn định một vài năm, đối với giá thể này việc quan trọng nhất là sử
dụng phân bón hợp lý. Còn giá thể hữu cơ thì chúng phân hủy theo thời gian
gây ra sự thối rể ở đáy bầu do sự đóng kết và tích lũy nước. Do vậy, cần
thường xuyên bổ sung thêm giá thể mới để kích thích thêm giá thể mới để
kích thích, trẻ hóa bộ rể cây.
Sử dụng các giá thể để trồng hoa lan kiếm còn phải chú ý tới điều kiện
nhiệt độ, khí hậu cụ thể của từng vùng. Ở vùng có nhiệt độ thấp 65
0
F
(18,33
0
C) ban ngày và 45
0
F (7,22
0
C) ban đêm với độ ẩm trung bình có thể
thêm vỏ cây Linh Sam và đá bọt biển (Peclit thô) vào hỗn hợp trên. Hỗn hợp
này có nhiều tác dụng nhất cho vùng có khí hậu lạnh vào mùa đông và ấm
nóng vào mùa hè vì có vỏ cây giúp giữ lại lượng ẩm đáng kể trong hỗn hợp.

Ở điều kiện khí hậu khô có thể tăng thêm rêu và rong biển chũng sẽ làm sự
thoát ẩm diễn ra chậm lại. Nhưng cần sử dụng cẩn thận khi thêm rong (rêu) vì
tưới nước thường xuyên sẻ dẫn đến thừa ẩm, làm úng dẫn đến bộ rể bị thối
rữa cây dễ bị bệnh và chết [37].
* Độ ẩm và chế độ tưới
Độ ẩm cũng là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng, phát triển của
các loài hoa lan kiếm.


Số hóa bởi trung tâm học liệu
11
Sự hài hòa của ẩm độ vùng, ẩm độ vườn, kích thước của chậu lan giúp
cho người trồng lan có thể sự dụng giá thể trồng, lượng nước tưới cho hợp lý.
Đối với cây địa lan, trong thời kỳ sinh trưởng cần tưới đủ nước giữa các
lần tưới cần xem xét các giá thể trồng, phải đảm bảo cho giá thể trồng được
thongo thoáng làm cho rễ lan phát triển tốt, độ ẩm yêu cầu khoảng từ 50%
đến 70% [37].
* Nhiệt độ
Theo tác giả Juntima - Pipatpongsa (2002) [28], nhiệt độ tác động hoa
lan kiếm thông qua con đường quang hợp, nhiềt độ còn ảnh hưởng đến sừ ra
hoa của một số loài. Như vậy, hoa lan chỉ sinh trưởng, phát triển tốt nhất
trong khoảng nhiềt độ gọi là tối thích. Khoảng nhiệt độ này khác nhau tuỳ
thuộc vào loài (Parinda-Sriyaphai, 2002) [29]. Chi lan Kiếm thích ứng với
thời tiết từ mát mẻ , nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng là 18-25
0
C, nhiệt độ
phân hoá là 16-18
0
C.
* Ánh sáng

Ánh sáng ảnh hưởng đến sự ra hoa của một số loài lan Kiếm, nếu
thiếu ánh sáng cây không ra hoa, nhưng các loài lan khác nhau có nhu cầu về
ánh sang khác nhau (Lin, WC và CS, 2003) [27], (Wang,-Y.T.,1995) [31].
Chi lan kiếm là chi được xếp vào nhóm lan ưa sáng trung bình nhu cầu
ánh sáng khoảng 50% đến 80% ánh sáng trực xạ (Widiastoety,D. và CS,
2005) [32].
* Dinh dưỡng
Dinh dưỡng yếu tố hết sức quan trọng đối với cây địa lan, tuy không đòi hỏi
số lượng lớn nhưng yêu cầu phải đầy đủ các thành phần dinh dưỡng, tuỳ vào từng
thời kỳ sinh trưởng mà nhu cầu dinh dưỡng của hoa lan là khác nhau.
Theo các tác giả Ajchara,- Boonrote (1987) [25]; Supaporn,- Porprasit
(2005) [30]. Thì vai trò của các nguyên tố đối với cây địa lan kiếm bao gồm
các nhóm sau:


Số hóa bởi trung tâm học liệu
12
Nhóm 1: Bao gồm các nguyên tố cacbon (C), hydro (H), oxy (O).
Những nguyên tố này thường có sẵn trong không khí và nước giúp cho cây
sử dụng trong quá trình quang hợp.
Nhóm 2: bao gồm các nguyên tố đa lượng như nitơ, phốt pho, kali.
Trong đó Nitơ (N) là một trong 3 nguyên tố giữ vai trò hết sức cần
thiết với hoa lan, là nguyên tố giúp cho sự tăng trưởng ở lá, làm cho cây xanh
tốt. Mặt khác nitơ còn giúp cho quá trình điều hoà phốt pho. Nếu thiếu N, lá
nhỏ, hơi vàng, mầm yếu, dễ thối mầm và ít ra hoa. Còn phốt pho (P) là
nguyên tố quan trọng thứ hai sau N, dùng kết hợp với N giúp cho cây nảy
mầm mạnh, ra hoa nhanh, ra rễ nhiều. P còn giúp cho quá trình thụ phấn dễ
dàng hơn, đậu quả nhiều, quả mập, hạt khoẻ , tỷ lề nảy mầm cao. Nếu tỷ lệ P
quá lớn kích thích cho sự ra hoa sớm, lá ngắn, cứng. Cũng như P, K giúp
cho cây hấp thụ N một cách dễ dàng, giúp cho sự phát triển của chồi mới, K

còn giúp cho sự vận chuyển nước và chất dinh dưỡng trong cây. K giúp cho
cây cứng, thúc đẩy sự ra hoa, hoa có màu sắc tươi hơn, cây đề kháng với
bệnh tốt hơn. Nếu thiếu K cây cằn cổi khác thường, khô đầu lá rồi chết , đậu
quả ít, hạt lép, tỷ lệ nảy mầm thấp
Nhóm 3: Gồm các nguyên tố như canxi (Ca), magiê (Mg), lưu huỳnh
(S). Trong đó canxi (Ca) là nguyên tố cần thiết nhất để tạo lập vách tế bào,
giúp cho tế bào hoạt động một cách điều hoà trong việc tạo lập protein, giúp
cây hấp thụ nhiều đạm, bộ rễ phát triển khoẻ. Còn magiê (Mg) là một trong
những nguyên tố tạo nên diệp lục, giúp cây phát triển cân đối, hài hoà ở các
bộ phận. Một nguyên tố không kém phần quan trọng so với Ca và Mg đó là
lưu huỳnh (S). S là thành phần của nguyên sinh chất nằm trong tế bào sinh
trưởng của hoa lan. Nếu thiếu S cây cằn cỗi, lá vàng, mép lá đen, kích thước
lá nhỏ.
Các nguyên tố vi lượng: Bao gồm sắt (Fe), đồng (Cu), kẽm (Zn).
mangan (Mn), bo (B), molipđen (Mo) Hoa lan rất cần các nguyên tố vi


Số hóa bởi trung tâm học liệu
13
lượng với liều lượng rất nhỏ nhưng không thể thiếu được. Thường chúng có
sẵn trong nước tưới, trong phân bón, nhưng cũng cần bổ sung thêm các
nguyên tố này miễn sao các nguyên tố vi lượng không quá nhiều gây độc cho
cây. Nếu bón thừa thì khả năng chống chịu sâu bệnh kém. Các loại cần bón
như: N,K,P,vô cơ và một số phan vi lượng khác.
Dinh dưỡng đối với lan hết sức quan trọng, thường người ta chỉ chú
trọng đến 3 nguyên tố chính: N, P, K với nhiều tỷ lệ tuỳ mục đích sử dụng,
loài lan, thời kì sinh trưởng của lan. Ngoài ra còn kết hợp thêm các nguyên tố
vi lượng khác nữa: Cu, Fe, Zn và một số các vitamin cần thiết khác.
Ngày nay, trên thị trường có rất nhiều loại phân với các tỷ lệ : lân:
kali (N:P:K) khác nhau nhưng nổi bật lên là các loại phân có các tỷ lệ sau:

+ 1:1:1 là tỷ lệ N: P: K bằng nhau
+ 3:1:1 tỷ lệ N cao
+ 1:3:1 tỷ lệ P cao
+ 1:1:3 tỷ lệ K cao
Ngoài ra còn có các tỷ lệ NPK khác nữa như 3: 1: 2; 3: 2: 1 và 1: 5: 8
Ngoài việc quan tâm đến tỷ lệ các chất, người nuôi trồng lan còn quan
tâm tới nồng độ của các chất trong mỗi tỷ lệ. Công thứ , khi
tổng số khối lượng nguyên chất của cả 3 chất lớn hơn 50% của toàn bộ khối
lượng của phân. Và ngược lạ ứ ấp khi tổng số khối
lượng nguyên chất của cả 3 chất N, P205, K2O thấp hơn 50% toàn bộ khối
lượng của phân.
1.5. Một số loạ
* Bệnh đốm vòng: Nguyên nhân gây bệnh là do nấm Alternaria sp gây
ra. Đặc điểm và triệu chứng được biểu hiện có vết bệnh màu nâu đen, hơi
lõm, hình tròn có vân đồng tâm. Bệnh thường hại ở nụ, cuống và đài hoa làm
cho hoa dễ bị rụng, trời mưa vết bệnh thường phát triển mạnh làm thối lá.


Số hóa bởi trung tâm học liệu
14
* Bệnh đốm lá: Nguyên nhân gây bệnh là Do nấm Cercospora sp gây
ra. Đặc điểm vết bênh thường có hình thoi và hình tròn nhỏ, đường kính trung
bình 1mm, màu xám nâu, xuất hiện ở mặt dưới lá. Bệnh nặng làm lá vàng,
chóng rụng, cây cằn cỗi, sinh trưởng kém.
* Bệ thư: Nguyên nhân dẫn đến gây bệnh là Do nấm
Colletotrichumsp gây ra. Triệu chứng biểu hiện vế ờng hình tròn,
nhỏ, màu nâu vàng, xuất hiện từ mép lá, chót lá hoặc giữa phiến lá, kích thước
trung bình 3 – 6 mm. Giữa vết bệnh hơi lõm, màu xám trắng, xung quanh có
gờ nhỏ màu nâu đỏ, trên mô bệnh có nhiều chấm nhỏ màu đen.
* Bệnh thối hạch: Nguyên nhân gây bệnh là do nấm Sclerotium rolfsum

gây ra. Bệnh xuất hiện trên gốc thân vết bệnh màu vàng nhạt sau chuyển sang
màu vàng nâu, thân cây teo tóp, lá vàng và do gốc rễ bị tổn thương nên lá
thường bị răn rúm, cây sinh trưởng kém, bệnh nặng cây bị chết. Bệnh hại trên
nhiều loài lan nhất là loài Oncidium và Cattleya.
* Bệnh thối mềm vi khuẩn: Nguyên nhân gây bệnh là do vi khuẩn
Pseudomonas gladioli gây ra. Triệu chứng thường có hình dạng bất định, ủng
nước, màu trắng đục, thường lan rộng theo chiều rộng của lá. Gặp thời tiết ẩm ướt
mô bệnh bị thối ủng, thời tiết khô hanh mô bệnh khô tóp, có màu trắng xám.
Ngoài các bệnh nêu trên thì hoa lan ị một số loại côn trùng
phá hại như Bọ trĩ, nhện, ruồi vằn, rệp các loại. Ngoài ra còn các loạ
như Châu chấu, gián, chuột, ốc sên [37].
1.6. Các nghiên cứu về hoa lan trên thế giới và ở Việt Nam
1.6.1. Trên thế giới
1.6.1.1. Tình hình nghiên cứu và sản xuất hoa lan trên thế giới
Trong những thập kỷ gần đây cùng với phương tiện giao thông phát triển
mạnh mẽ, các thành tựu khoa học kỹ thuật và sự phát triển về công nghệ sinh
học được ứng dụng rộng rãi. Do vậy, việc xuất nhập khẩu hoa lan ngày càng
tăng, với quy mô rất lớn. Nhiều nước đã trở thành cường quốc xuất khẩu hoa
lan
như Thái Lan, đài Loan. Hoa lan đã và đang là nguồn lợi lớn của các
nước


Số hóa bởi trung tâm học liệu
15
đông Nam Á và thế giới (Phan Thúc Huân, 1989) [13]. Trên thế giới, rất
nhiều
quốc gia như Hà Lan, Nhật, Đài Loan, Thái Lan đã và đang đưa
ngành
sản xuất hoa thành ngành công nghiệp trong nông nghiệp đem lại lợi nhuận

đáng kể, đặc biệt trong nghiên cứu và sản xuất hoa lan họ đã làm được.

Hà Lan đất nước xứ sở của những loài hoa. Với hoa lan, họ tập
trung
nghiên cứu chọn tạo giống mới và làm chủ quy trình công nghệ sản xuất
các loài trong chi lan Hồ Điệp (Phalaenopsis), Hoàng Hậu (Cattlyea) .
Ở Nhật Bản cũng giống như Hà Lan công nghệ nuôi trồng lan Hồ Điệp
đã đạt ở mức độ tiến tiến, đặc biệt công nghệ nhân giống bằng nuôi cấy mô tế
bào cho nên giá thành cây giống của Nhật Bản thấp [38].
Nghề trồng hoa lan xuất khẩu ở Singapore trên quy mô lớn bắt đầu từ
năm 1987. Nhà nước đã thấy rõ tiềm năng xuất khẩu loại hoa này trên thị
trường thế giới, cho nên đã mở rộng trang trại trồng hoa lan. Năm 2005, xuất
khẩu hơn 58 triệu đô la hoa lan ra nước ngoài. Hiện nay, Singapore chiếm 12 %
kinh doanh thị trường hoa lan thế giới.
Tương tự Ấn độ đã đưa tiến bộ kỹ thuật cấy mô vào nghề trồng hoa để
sản xuất mỗi năm khoảng 10 triệu cây hoa phong lan.
Các nước có công nghệ nuôi trồng hoa lan phát triển và điều kiện thời
tiết khí hậu gần với Việt Nam nhất phải kể đến Đài Loan và Thái Lan .
Ở Đài Loan h
àng triệu cây giống Hồ điệp được nhân nhanh và xuất khẩu.
Quy trình công nghệ điều khiển ra hoa hàng loạt cho lan Hồ điệp đã phát triển ở
mức cao, họ có thể điều khiển hàng triệu hoa lan Hồ điệp ra hoa cùng thời điểm.
Chính vì những thành công trong nghiên cứu đã đưa ngành sản xuất hoa lan Hồ
điệp thành ngành sản xuất lan công nghệp trong nông nghiệp. Giá trị sản xuất và
xuất khẩu hoa lan Hồ điệp của đài Loan chiếm 1/4 giá trị sản lượng hoa lan Hồ
điệp của thế giới. Kim ngạch xuất khẩu lan Hồ điệp tăng nhanh trong những năm
gần đây. Thị trường chính là các nước Châu Âu, Nhật và Mỹ [38].
Thái Lan là nước láng giềng của Việt Nam, Thái Lan có lịch sử nghiên
cứu và lai tạo phong lan cách đây khoảng 130 năm (Parinda - Sriyaphai, 2002)

×