Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật trồng cây tai chua (garcinia cowa roxb) để lấy quả tại huyện tân lạc, tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
____________

HOÀNG HẢI TRIỂU

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT
TRỒNG CÂY TAI CHUA (Garcinia cowa Roxb) ĐỂ LẤY QUẢ
TẠI HUYỆN TÂN LẠC, TỈNH HÒA BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI, 2012


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Lâm sản ngoài gỗ (LSNG) là nguồn tài nguyên có giá trị đặc biệt của rừng.
Từ lâu đời nguồn tài nguyên này đã thể hiện vai trò quan trọng đối với đời sống
kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân. Ngày nay, cùng với sự gia tăng mạnh mẽ
của dân số và phát triển kinh tế, nhu cầu sử dụng các sản phẩm LSNG ngày càng
gia tăng, vị trí và vai trò của LSNG ngày càng được chú trọng.
Việt Nam, với nguồn tài nguyên thực vật nhiệt đới vô cùng đa dạng và phong
phú, có nhiều loài cây cho LSNG có giá trị kinh tế cao đang được gây trồng và phát
triển trên khắp các vùng sinh thái. Nhiều loài cho giá trị thương mại lớn và nổi tiếng
như Trầm hương, nhựa Thông, Cánh kiến,… Bên cạnh đó cũng có rất nhiều loài
vốn đã rất quen thuộc nhưng cũng rất có giá trị và gắn bó từ ngàn đời nay với người


dân và hiện đang có nhu cầu phát triển mạnh như cây Tai chua.
Tai chua (Garcinia cowa Roxb) là cây gỗ trung bình, cao 15 – 16m, đường
kính 30 - 50 cm, thân thẳng, thường có nhiều u lồi. Gỗ Tai chua thuộc gỗ nhóm V,
gỗ có màu trắng, cứng, thớ thô được dùng trong xây dựng, đóng đồ đạc trong gia
đình. Tai chua là loài cây bản địa đa tác dụng, vừa cho sản phẩm gỗ, vừa cho sản
phẩm LSNG như quả, nhựa, cành lá non, nên là loài cây rất thân thuộc với người
dân nước ta. Thông thường nhất, Tai chua được biết đến là loài cây cung cấp quả có
vị chua, làm gia vị cho nhiều món ăn truyền thống trong bữa ăn của người dân.
Đáng chú ý hơn, Tai chua còn được nhân dân ta sử dụng để làm thuốc như thân, lá,
nhựa có vị đắng, chát, tính mát, có ít độc, có tác dụng sát trùng (trong y học cổ
truyền); vỏ quả Tai chua sắc uống chữa sốt, khát nước, trị kiết lị; chất chua trong vỏ
quả (acid citric) dùng làm chất cắn màu trong kỹ nghệ nhuộm tơ lụa, làm bóng đồ
vàng bạc,... Cùng với sự tiến bộ của khoa học hiện đại, nhiều loại acid và chất hóa
học trong vỏ quả, thân, cành, lá cây Tai chua được phát hiện và chiết suất, trong đó
có nhiều chất có tác dụng đặc biệt dùng trong các loại thuốc biệt dược.
Huyện Tân Lạc là một huyện nghèo miền núi thuộc tỉnh Hòa Bình với tổng
diện tích đất tự nhiên là 53.204,75 ha, trong đó đất có khả năng sản xuất lâm nghiệp
là 27.947,49 ha (chiếm 52,53% đất tự nhiên của huyện). Đây là một trong những


2

huyện của tỉnh Hòa Bình có cây Tai chua phân bố tự nhiên, quả Tai chua từ lâu đã
trở thành một món ăn truyền thống không thể thiếu đối với người dân trong vùng.
Hiện nay, nhu cầu gây trồng Tai chua lấy quả trong thực tiễn là rất lớn, đặc biệt là
những giống cho năng suất cao và nhanh thu hoạch. Cây Tai chua được coi là một
loài cây bản địa có tiềm năng cao trong việc góp phần tăng thu nhập, xóa đói giảm
nghèo cho người dân trên địa bàn huyện Tân Lạc. Tuy nhiên, cơ sở khoa học và
thực tiễn cho việc gây trồng và phát triển cây Tai chua ở nước ta thì chưa nhiều, chủ
yếu mới tập trung vào mô tả đặc điểm hình thái, phân bố; gần đây cũng đã có một

số tài liệu hướng dẫn kỹ thuật gây trồng Tai chua nhưng còn khá sơ sài, chưa đáp
ứng được nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn sản xuất hiện nay.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó, đề tài: “Nghiên cứu một số biê ̣n pháp kỹ
thuật trồng cây Tai chua (Garcinia cowa Roxb) để lấy quả tại huyện Tân Lạc, tỉnh
Hòa Bình” là thực sự cần thiết và có ý nghĩa.
Luận văn này là một phần nội dung của đề tài cấp cơ sở “Nghiên cứu kỹ
thuật gây trồng cây Tai chua (Garcinia cowa Roxb) để lấy quả” giai đoạn 2007 –
2010 do Trung tâm Ứng dụng Khoa học Kỹ thuật Lâm nghiệp thuộc Viện Khoa học
Lâm nghiệp Việt Nam làm chủ trì thực hiện và tác giả là cộng tác viên chính của đề
tài. Được sự đồng ý của Chủ nhiệm đề tài, tác giả đã kế thừa các số liệu có liên
quan và điều tra bổ sung một số nội dung để phát triển và hoàn thiện thêm trong
khuôn khổ luận văn thạc sĩ khoa học.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.1.1. Phân loại, tên gọi và đặc điểm hình thái
Tai chua có tên khoa học là Garcinia cowa Roxb, thuộc họ Bứa
(Cluisiaceae), tên được biết đến là cây cow tree . Ở Trung Quốc cây còn có tên khoa
học khác là Garcinia roxburghii Wight; G. wallichii Choisy; Oxycarpus gangetica
Buchanan-Hamilton [34]. Ở Bangladesh cây có thêm tên khoa học là Garcinia kydia
b (M. Sujayef Ullah Chowdhury, 1995) [26]. Tên một số địa phương thường dùng
như Kau, Kaglichu. Ở Thái Lan cây được gọi là Chenkek (N. Rai, B.S. Asati, R.K.
Patel, K.K. Patel and D.S. Yadav, 1973) [28]. Việc được nhận biết bằng nhiều tên
tên gọi khác nhau chứng tỏ đây là loài cây có phân bố rộng và được sử dụng nhiều
trong cuộc sống. Tên gọi Garcinia cowa Roxb là danh pháp chính được sử dụng
trong hầu hết các tài liệu nghiên cứu, đây được coi là danh pháp khoa học chính của

Tai chua.
Về phân loại và mô tả hình thái, theo Yun Shu [34], Tai chua là cây gỗ cao 8
- 12m, đường kính 15 - 20 cm, vỏ màu nâu đen. Cây có nhiều cành, cành thường
mảnh, nằm ngang và rủ xuống, cành con màu nâu đen có vằn sọc. Cuống lá dài 0,8 1,5 (-2 cm); phiến lá hình mũi giáo hoặc thuôn mũi giáo, kích thước 6 - 14 x 2- 5
cm, mỏng, gân chính nổi rõ, gân thứ cấp 12 - 18 đôi, ra gần mép lá, gân cấp 3 dễ
nhận thấy ở cả 2 mặt.
Theo M. Sujayef Ullah Chowdhury (1995) [26] thì Tai chua là một trong
những cây cho quả ăn được có trong rừng ở Bangladesh. Tai chua là cây cao, vỏ
nhẵn, cành rủ xuống và rỉ nhựa mủ màu vàng. Quả Tai chua được mô tả có màu nâu
đỏ nhạt như màu mơ chín và có kích thước gần bằng quả cam.
Việc phân loại và mô tả kỹ lưỡng về đặc điểm hình thái, tên gọi là cơ sở để
phân biệt Tai chua với các loài khác cùng chi với nó, là cơ sở khoa học quan trọng
cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển cây Tai chua.


4

1.1.2. Đặc điểm sinh lý, sinh thái và phân bố
Tai chua có phân bố tự nhiên ở vùng ôn đới Châu Á như Vân Nam (Trung
Quốc), vùng nhiệt đới châu Á như: vùng tiểu lục địa Ấn Độ: Bangladesh; India Assam, Bihar (Himalayas), Meghalaya, Nagaland, Orissa, Sikkim, Tripura, Đông
Bengal; phía Bắc Ấn Độ dương như Andaman và Nicobar; vùng Đông Dương như
Cambodia; Laos; Myanmar; Thailand; Vietnam. Ngoài ra Tai chua còn được gây
trồng ở các vùng khác. Một số tài liệu khác lại cho rằng Tai chua có phân bố ở Châu
Đại Dương và Châu Á, ở các nước như Brunei, Fiji (Polynesia), Indonesia,
Malaysia, Philippines.
Theo M. Sujayef Ullah Chowdhury (1995) [26] thì cây phân bố ở vùng
Chittagong, Chittagong Hill Tracts, Sylhet của Bangladesh. Theo H. ZHU, 1998
[20] thì danh lục thực vật trong rừng mưa nhiệt đới ở khu bảo tồn thiên nhiên
Caiyanghe - simao - Vân Nam có 29 loài cây gỗ, trong đó tần suất xuất hiện Tai
chua là 5,08%.

Tình trạng hạt ngủ và cách cất trữ hạt giống Tai chua đã được nghiên cứu
khá tỉ mỉ ở Trung Quốc. Hạt Tai chua có thể ngủ 8 - 11 tháng ngoài môi trường tự
nhiên. Hạt chín và phân tán vào cuối mùa mưa (trung tuần tháng 8 đến cuối tháng
11) và được rải rác, phân tán bởi động vật như thức ăn cho mùa đông sau khi hạt rơi
xuống đất. Hạt giống thường xuất hiện trong rừng trong suốt mùa mưa (tháng 5 đến
tháng 8 năm sau).
Độ ẩm trong hạt giống tai chua khá cao, chiếm 50% trọng lượng tươi của hạt
vừa mới rơi xuống. Hạt giống có thể chịu đựng sự sấy khô tới một mức độ nhất
định, đến khi độ ẩm đạt được khoảng 40%. Ở mức thấp hơn, khả năng sống được bị
giảm sút nhanh chóng và tất cả hạt sẽ chết ở độ ẩm hạt 17%. Sức sống của hạt bị
giảm sút nhanh chóng khi bị lạnh ở 40C, khi đó sự nảy mầm là 2% sau khi cất trữ 1
tuần. Thậm chí bảo quản ở 100C hạt giống bắt đầu bị hỏng sau 4 tuần. Việc cất trữ
hạt giống cho 1 năm đã cho thấy trong cả 2 độ sấy khô (độ ẩm 35 ± 5%) và độ ẩm
của cát, khả năng sống sót của hạt giảm đi. Nhưng tỷ lệ nảy mầm của lô hạt ở dưới


5

điều kiện độ ẩm là tốt hơn ở dưới điều kiện khô. Nguyên nhân là do dung sai sức
chịu đựng sấy khô nhỏ, sự nhạy cảm với độ lạnh rõ rệt và sự sống không tồn tại lâu.
1.1.3. Giá trị sử dụng
Nghiên cứu về khả năng và giá trị sử dụng Tai chua trên thế giới được tiến
hành khá toàn diện. Từ việc sử dụng sản phẩm làm thức ăn phục vụ cho cuộc sống
hàng ngày đến việc sản xuất các sản phẩm hàng hóa như dầu gội đầu, đặc biệt là
chiết suất các chất hóa học phục vụ cho y học sản xuất các thuốc chữa bệnh ung
thư, lở loét,… Các bộ phận như lá non, thân cây, vỏ quả đều được nghiên cứu sử
dụng.
Ở vùng phía Đông Ấn Độ, quả được dùng để ăn nhưng không ngon. Trong
quả cũng có một số acid, đem lại một cảm giác thú vị. Ở Burma, quả cũng được
dùng để ăn. Hàm lượng dinh dưỡng trong vỏ quả Tai chua được xác định gồm 1,9%

protein, 0,027% canxi, 0,0011% sắt và 29% vitamin C (Suttira Khumgratok,
Komgrit Wongpakam, Wanna Kanchanamayoon, 1975) [32]. Theo Yun Shu thì quả
Tai chua chín có thể ăn được, hạt chứa 9% dầu [34]. Ở Myanmar và Thái Lan,
người ta dùng lá và thân non Tai chua để nấu ăn. Tại Ấn Độ, quả được dùng làm
thuốc chữa bệnh đau đầu, đau dạ dày và bệnh lỵ.
Nghiên cứu chiết tách các chất hóa học từ Tai chua đã đạt được nhiều thành
quả có giá trị. Đặc biệt Các nhà khoa học trung quốc đã phát hiện chất Dulxanthone A
chiết suất từ Tai chua có khả năng chống lại quá trình ung thư [35]. Đây là một phát
hiện rất quan trọng, nó mở ra một hướng nghiên cứu cho việc chống lại căn bệnh
nguy hiểm đang đe dọa nhân loại hiện nay.
Theo Jena BS, Jayaprakasha (2002) [17] nghiên cứu về khả năng chiết suất
acids hữu cơ từ cây Tai chua thấy rằng từ lá, quả và vỏ của cây Tai chua đều có thể
chiết suất được acids hữu cơ với các thành phần chính như Hydroxycitric acid,
oxalic và citric acids là những thành phẩm quan trọng trong y dược. Citric acids
chiết suất từ Tai chua được dùng làm chất cắn màu trong kỹ nghệ nhuộm tơ lụa, làm
bóng đồ vàng bạc (Human Resource Development, central Food Technological
Research Institute, Mysore - 570013, India). Axit hữu cơ trong lá tươi, quả tươi và


6

vỏ quả Tai chua sấy khô đã được xác định bằng phép ghi sắc chất lỏng. Lá tươi,
quả và vỏ khô được chiết suất với nước ở 1200C trong thời gian 20 - 30 phút dưới
áp suất 15 lbs/in2. Ngoài ra vỏ quả khô được chiết suất với dung môi (acetone and
methanol), sử dụng một máy chiết, ép ở 600C trong thời gian 8h. Mẫu được bơm
vào HPLC dưới 0,01 M với sự chênh lệch nồng độ phép tách rửa với axit
photphoric và methanol với tốc độ dòng chảy 0,7 ml/min sử dụng sự tách sóng UV
ở 210 nm. Các axit chính được tìm thấy là hydroxycitric có trong lá, quả, và vỏ quả
với tỷ lệ 1,7; 2,3 và 12,7%; tách biệt lần lượt axit Hydroxycitric, axit oxalic, axit
citric có trong lá, quả và vỏ quả với số lượng ít [17].

Các nhà khoa học đã phát hiện ra có 5 loại nhựa riêng biệt từ Tai chua, bao
gồm: cowanin (1), cowanol (2), cowaxanthone (3), 1,3,6-trihydroxy-7-methoxy- 25-bis(3-methyl-2-butenyl)xanthone (4), and norcowanin (5). Cấu trúc của chúng
được nghiên cứu bằng kính quang phổ. Trong các loại chất trên thì cowanol (2) và
cowaxanthone (3) có tác dụng điều hòa chống lại vi trùng khuần tụ cầu. Bên cạnh
đó một số nhà khoa học khác cũng đã xác định có 3 flavanone glycosides mới có
tên là garccowaside A, garccowaside B, garccowaside C và 3 hợp chất khác riêng
biệt được chiết từ thân cây Tai chua, cấu trúc của các hợp chất này được xác định
trên nền tảng vết tích trên kính quang phổ. Có 12 hợp chất từ thân cây Tai chua
được kiểm chứng bằng hoạt động của cytotoxic (Shen J, Tian Z, Yang JS, 1999)
[31].
Tai chua là loài có phân bố rộng ở Thái Lan, vì vậy nghiên cứu về khả năng
sử dụng Tai chua ở đây rất được quan tâm. Nó được sử dụng như một vị thuốc dân
gian với những mục đích khác nhau (C. Yapwattanaphun, S. Subhadrabandhu, A.
Sugiura, K. Yonemori, N. Utsunomiya., 2002) [18]. Vỏ cây được sử dụng làm thuốc
hạ sốt và thuốc sát trùng. Nhựa cây được sử dụng như tác nhân chống rung tim (Na
Pattalung et al, 1994) [29]. Một vài đặc tính dược lý của quả xanh được triết từ lá
như đẩy mạnh chất chống ung thư (Murakami et al,.1995) [27],…Khi nghiên cứu
nhựa mủ và vỏ cây, khám phá ra sự có mặt của chất nhựa có tên là cowaxanthone,
cowanin, cowanol, 1, 3, 6 trihydroxy -7-methoxy-2,5 bis(3 - methyl-2 butenyl)


7

xathone, β- mangostin, 7-methylgarcinone E và norcowanin. Một trong số các hợp
chất làm thuốc chống sốt rét và chống vi trùng (Krahn, 1968) [21]. Lee and Chan,
1977 [23]. Na Pattalung et al, 1994 [29]. Likhitwitayawuid et al,. 1997, 1998) [24],
[25].
Ở Thái Lan, cả quả và cành non đều có thể ăn được, nó chứa đựng nhiều
vitamin A và C (Froukje Kruijssen, Associate Scientist, 2005) [19]. Lá Tai chua
cũng là một trong những thành phần để sản xuất dầu gội đầu, lá cây được người dân

thu hái từ rừng tự nhiên và từ vườn nhà, thường là các lá non. Khi cây trở nên quá
cao để thu hoạch, cây có thể bị cắt nửa hoặc trồng cây mới. Sản phẩm cuối cùng
được đóng hộp bán cho cửa hàng địa phương và các siêu thị ở Bangkok. Sản phẩm
Moochamung mà cơ sở là lá Tai chua đã trở thành một nguồn thu nhập bổ sung
quan trọng với phụ nữ. Tính trung bình thu nhập của người làm công là 3 đôla/ngày.
Ngoài các sản phẩm ngoài gỗ, gỗ Tai chua cũng có nhiều tác dụng. Nó được
sử dụng để đóng tàu thuyền, xây dựng, ván sàn, đồ dùng gia đình, nội thất trang trí,
đồ gỗ, cọc (sào), tay vịn, đồ tiện, xà (rầm), xây dựng nhà cửa, đóng xuồng, ghế,
hòm (rương), khuôn bê tông, sàn tàu, bàn, đồ dùng phòng ăn, sàn nhà, tủ quần áo,…
Theo Laskar, 2002 [22] thì Sự mất đi của nhiều loài quan trọng như Tai chua
đã ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống ở nông thôn Bangladesh. Sự mất đi của một
số hoa quả thứ yếu như, Tai chua không chỉ lấy đi những vitamin cần thiết và dinh
dưỡng cần cho sự sống mà còn cả những cơ hội công việc, hoạt động tìm kiếm, chế
biến và buôn bán chúng ở địa phương.
1.1.4. Chọn, tạo giống và biện pháp kỹ thuật trồng rừng Tai chua
Hạt giống còn nguyên vẹn bắt đầu nảy mầm sau khi gieo ở 300C trong thời
gian 120 ngày, cây con trong vườn ươm cần che bóng 50% trong thời gian 252
ngày. Biện pháp phá ngủ có hiệu quả cao nhất là bóc hoàn toàn vỏ hạt, làm giảm
thời gian xuống 13 ngày ở 300C. Sự nảy mầm được xúc tiến bằng việc bóc bỏ một
phần vỏ hạt (cắt xén rốn hạt và bóc trần rễ mầm) và tác động của chất hóa học
(ngâm trong nước H202 1% trong 1 ngày). Nếu không giải phẫu, hạt đưa nước vào


8

nhanh chóng trong 96h đầu tiên, nhưng nước bị hấp thu bởi vỏ hạt mà không thấm
qua nó.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.1. Phân loại, tên gọi và đặc điểm hình thái
Ở nước ta, cây Tai chua đã được mô tả khá kỹ về đặc điểm hình thái. Theo

tài liệu Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam [8] thì cây Tai chua có tên khoa học là Garcinia
cowa Roxb., 1832; ngoài ra cây còn có tên đồng nghĩa khác là Garcinia
pendunculata Roxb. Ex Buch. - Ham.,1832 thuộc họ Bứa (Măng cụt) Cluisiaceae.
Ngoài tên gọi Tai chua thông thường, ở một số địa phương, cây còn có tên gọi khác
là Bứa cọng.
Theo Phạm Hoàng Hộ (1999) [11] thì Tai chua là cây đại mộc cao đến 18 m,
vỏ xám đen, nhánh không lông. Lá có phiến bầu dục thon, kích thước 7 - 12 x 3 - 5
cm. Hoa đực chụm 3 - 8 ở chót nhánh; cánh hoa dài bằng 2 lá đài; tiểu nhụy nhiều.
Hoa lưỡng phái cô độc; tiểu nhụy thành 4 nhóm, nuốm hình ngôi sao 4 - 8 tia. Trái
màu cam, có 4 - 8 rãnh dọc, tử y chua. Ngoài tai chua ra, tác giả cũng đã miêu tả 28
loài khác thuộc chi Garcinia L., trong đó có nhiều loài cũng có tên Tai chua và có vị
chua như Garcinia cochinchinensis (Lour.) Choisy (Bứa nhà, Tai chua), quả bì chua
dùng nấu canh, hạt chua ngọt, phân bố từ Quảng Trị trở vào, loài cây này được Trần
Hợp [12] gọi là Tai chua nam để phân biệt với tên Tai chua (Garcinia cowa Roxb).
Cũng theo Trần Hợp [12], Tai chua là cây gỗ trung bình, cao 15 - 16, đường
kính 30 - 50 cm, thân thẳng, thường có nhiều u lồi. Cành nhiều, nhỏ, mọc ngang và
hơi rủ xuống. Tán lá tròn đều, cây có nhựa mủ vàng. Lá đơn mọc đối, dài 7 - 17 cm,
rộng 2,5 - 7 cm hình trứng ngược. Đầu lá tù có mũi lồi ngắn, đôi khi nhọn, gốc hình
nêm, phiến cứng. Gân lông chim nổi rõ ở cả 2 mặt, gân bên nhỏ, 15 đôi, xếp song
song đều đặn và nối với nhau ở sát mép. Cuống lá dài 2 cm. Về kích thước của cây,
cũng có một số tài liệu mô tả hơi khác một chút như: cây cao 20 - 30 m, đường kính
40 - 80 cm [8]. Cẩm nang ngành lâm nghiệp [2] xếp Tai chua là LSNG cho quả
thuộc nhóm 2 được dùng trong phạm vi toàn quốc.


9

Đặc điểm hình thái loài Tai chua cũng được nhiều tác giả quan tâm nghiên
cứu. Theo Trần Hợp [12] thì Tai chua có cụm hoa lưỡng tính gồm 1 đến 2 hoặc 3
hoa ở nách lá gần như không cuống. Cánh đài 4, cánh tràng 4, nhị đực hợp thành 4

bó, mỗi bó có 1 - 8 bao phấn, bao phấn 4 ô. Bầu thượng 6 - 9 ô, đầu nhụy xẻ 4 - 8
thùy. Võ Văn Chi [6] cho biết hoa đực Tai chua xếp 3 - 8 hoa thành tán ở ngọn
nhánh, cánh hoa dài bằng hai lá đài; nhị nhiều. Hoa lưỡng tính đơn độc, nhị thành 4
nhóm; bầu trên có 6 - 9 ô với đầu nhụy xẻ 4 - 8 thùy. Quả thịt hình cầu chia thành
múi, vỏ quả dày, trong đỏ, ngoài vàng, có 6 - 8 hạt, có áo. Áo hạt chua, ra hoa
tháng 3 - 4, quả tháng 7 - 8 [2].
Hoa tạp tính, hoa đực xếp 3 - 8 hoa thành tán ở ngọn nhánh, cánh hoa dài
bằng 2 lá đài, nhị nhiều. Hoa lưỡng tính, đơn độc; nhị thành 4 nhóm, bầu trên 6 - 9
ô, với đầu nhụy xẻ 4 - 8 thùy. Quả thịt hình cầu, hơi dẹt, kích thước to hơn quả cam
sành, đường kính 8 - 12 cm chia thành múi, vỏ quả màu vàng da cam, thịt quả rất
dày màu đỏ nhạt hay hồng, có 6 - 8 hạt, mang áo hạt [8].
Theo Quyết định số 10/2004/QĐ-BNN, ngày 01 tháng 4 năm 2004 của Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Về việc ban hành tiêu chuẩn ngành lĩnh vực công
nghiệp rừng [1] thì cây Tai chua (Garcinia cowa Roxb) có tên thương mại là
Kandis (quốc gia thường dùng là Malaixia), có gỗ giác và lõi màu vàng trắng đục,
gỗ có khối lượng riêng 875 kg/m3, hệ số co rút thể tích là 0,71, giới hạn bền khi uốn
tĩnh là 127 và giới hạn bền khi nén dọc thớ là 76 kG/Cm2. Như vậy việc sử dụng tên
khoa học, tên thương mại của Tai chua đã được cụ thể hóa trong các văn bản pháp
quy, được sử dụng thống nhất trong phạm vi cả nước. Đây là điều kiện thuận lợi cho
việc nhận biết, lưu thông sản phẩm từ cây Tai chua.
1.2.2. Đặc điểm sinh lý, sinh thái và phân bố
Hiện nay ở nước ta chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào về đặc điểm
sinh lý, sinh thái cây Tai chua. Các kết quả mới chủ yếu dừng lại ở việc mô tả sơ bộ
về phân bố địa lý, một số trạng thái rừng thường có Tai chua xuất hiện,… cụ thể
như sau:


10

Theo Trần Hợp [12] thì Tai chua là loài cây ưa sáng, sinh trưởng nhanh,

thường mọc ở ven rừng rậm ẩm nhiệt đới, hoặc trong rừng thưa, ưa đất sâu, thoát
nước. Cây có khả năng tái sinh hạt dễ dàng, thường được nhân dân trồng quanh nhà
để lấy quả ăn. Mùa ra hoa vào tháng 4 -5, mùa quả vào tháng 8 - 9.
Võ Văn Chi (1997, 2004), Lê Mộng Chân, Lê Thị Huyên (2000) cho biết cây
thường gặp trong rừng thứ sinh ở độ cao dưới 400 m so với mực nước biển. Là cây
ưa sáng, sinh trưởng nhanh, ưa đất sâu, thoát nước, tái sinh bằng hạt dễ dàng [4],
[5], [6]. Cũng có tài liệu khác cho rằng Tai chua là cây có biên độ sinh thái rộng,
thường xuất hiện ở những nơi có độ cao từ 400 - 1.700 m, nhưng thường thấy ở các
tỉnh miền núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ như: Cao Bằng, Lạng sơn, Bắc Giang, Bắc
Ninh, Hà Tây, Hòa Bình, Vĩnh Phúc, Phú Thọ Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An
và Hà Tĩnh,... Trong các rừng thứ sinh ở độ cao 400 - 500m so với mực nước biển.
Theo tài liệu Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam thì Tai chua phân bố trong rừng nhiệt đới
thường xanh, mưa ẩm ở độ cao 200 - 800 m so với mực nước biển; tại các khu vực
có khí hậu nhiệt đới hoặc á nhiệt đới, nhiệt độ trung bình năm từ 22 - 260C, lượng
mưa 1500 - 2500 mm [8]. Sở dĩ có sự khác nhau trong việc mô tả độ cao phân bố
của loài Tai chua là do các tác giả nghiên cứu ở những trạng thái rừng và vị trí địa
lý khác nhau. Tuy nhiên qua đó cũng cho thấy rằng Tai chua là loài có phân bố
tương đối rộng.
Cây khi còn non là cây ưa bóng, độ che bóng thích hợp là từ 0,2 - 0,5. Khi
trưởng thành là cây ưa chịu bóng hoặc ưa sáng hoàn toàn. Vì vậy thường gặp tai
chua ở tầng ưu thế sinh thái, dưới tán các cây to như Lim, Sến; hoặc cây phân bố
ven sông suối, chân núi, ven rừng; thường mọc cùng Thôi chanh, Chẹo, Sấu, Dó
trầm. Tai chua ưa đất có lớp mặt sâu dày, độ ẩm cao nhưng thoát nước, phân hóa từ
đá sa thạch, phiến thạch, granít hoặc đá vôi. Ít khi gặp Tai chua trong rừng nửa rụng
lá với Bằng lăng ưu thế (tại Sa thầy và Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum; An Khê tỉnh Gia
Lai. Ở đây Tai chua thường mọc rải rác ven suối, trên đất bazan hay phù sa cổ cùng
với Dầi rái và Lộc vừng. Cây phát triển tốt, kích thước lớn và cho quả nhiều hàng
năm [8]. Khi còn nhỏ chịu bóng, khi trưởng thành ưa sáng. Thích hợp khí hậu ẩm,



11

nhiệt độ trung bình 200C, lượng mưa trung bình hàng năm 1.500 - 2.000 mm/năm
[9].
Theo Trần Ngọc Hải (2008) [10] thì Tai chua là loài cây ưa sáng, sinh trưởng
trung bình. Cây sinh trưởng phát triển tốt trên đất feralit đỏ vàng phát triển trên đá
mẹ phiến thạch sét, phiến thạch mica, riolit; đất có tầng dày, ẩm, thoát nước, lượng
mùn khá, đất còn tính chất đất rừng, phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc
và Tây Nguyên.
Về phân bố, loài có phân bố rộng ở Ấn Độ, Nam Trung Quốc, Mianma và
Bắc Việt Nam [2], [36]. Cây mọc rải rác trong rừng ở vùng núi và trung du các tỉnh
phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên như Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Cao
Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Hòa
Bình, Hà Tây, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh; Quảng Bình, Quảng Trị, Kon Tum
và Gia Lai [8], [12]. Tai chua cũng là một trong 163 loài có trong danh lục thực vật
khu vực Khe Nét [7], xuất hiện tại Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh) [14],
là loài cây ăn quả có trong danh lục thực vật VQG Tam Đảo [33],…
1.2.3. Giá trị sử dụng
Gỗ Tai chua thuộc nhóm gỗ V, theo Võ Văn Chi [6], Trần Hợp [12] gỗ Tai
chua có màu trắng, cứng, thớ thô, nhiều mắt nên ít được sử dụng, cành non và lá
được sử dụng làm thuốc giải độc, gỗ được dùng trong xây dựng, đóng đồ đạc trong
gia đình.
Theo mục thuốc đông y [36] thì trong vỏ quả Tai chua chứa acid citric, một ít
acid tartric và acid malic, ngoài ra còn có chất gôm nhựa; trong hạt có một chất gây
nôn mửa, dù có nướng kỹ cũng không mất tác dụng. Về tính vị và tác dụng: thân, lá,
nhựa có vị đắng, chát, tính mát, có ít độc, có tác dụng sát trùng. Các bộ phận vỏ
quả, thân, lá, nhựa đều có thể sử dụng được. Nhân dân ta thường dùng vỏ quả Tai
chua sắc uống chữa sốt, khát nước với liều lượng dùng 6 - 10gam/ngày. Ở Ấn Độ,
người ta cũng dùng nhựa cây Tai chua để làm thuốc; ở Trung Quốc, người ta dùng
gôm nhựa tươi tuỳ lượng cho vào mũi trị đỉa chui vào xoang mũi. Tài liệu này cũng



12

nói thêm còn có một loài Tai chua khác, có tên là Bứa cọng (Garcinia pedunculata
Roxb), có quả chứa acid malic, được dùng như Tai chua và làm thuốc giải độc.
Quả tai chua là loại thức ăn rất quen thuộc của người dân miền Bắc Việt
Nam, từ thành thị đến nông thôn. Thịt quả rất chua với vị chua thanh mát, thường
phơi khô dùng để nấu canh, đặc biệt để nấu canh riêu cua hoặc canh cá vào những
ngày hè. Quả Tai chua phơi khô còn có tác dụng giải độc. Chất chua trong vở quả
(acid citric) dùng làm chất cắn màu trong kỹ nghệ nhuộm tơ lụa, làm bóng đồ vàng
bạc. Hạt nướng ăn ngon nhưng ăn nhiều dễ bị đau bụng, buồn nôn. Vỏ quả sắc nước
uống chữa sốt, khát nước. Acid hữu cơ trong quả và vỏ chủ yếu là acid hydroxytric
(trong lá 1,7%, trong quả 2,3% và trong rễ 12,7%). Lacton acid - hydroxytric, acid
oxalic và axit citric có mặt trong lá, quả và vỏ với lượng rất nhỏ [8]. Cây trồng ở
rừng phòng hộ có giá trị phủ đất, chống xói mòn tốt. Ngoài việc sử dụng để nấu
canh chua, vỏ quả còn có tác dụng trị kiết lị [2].
Trong một vài năm gần đây, các cấu tử có khối lượng nhỏ và phức tạp được
chiết từ nhiều loài Bứa (Garcinia Cowa, Garcinia cambogia, Garcinia indica,
Garcinia antroViridis), trong đó có axit (-)-hyđroxy xitric (HCA; 1,2-di hydroxy
propan-1,2,3 tri cacboxylic axit; hình 1), lacton của (-) axit hydroxy citric có tính
sinh học lý thú đã gây chú ý đối với các nhà hoá sinh các bác sỹ chuyên khoa sức
khoẻ. Đó là khả năng điều chỉnh quá trình tổng hợp axit béo, sự hình thành lipit, sự
ngon miệng, và giảm cân. Đồng phân của (-)-HCA đã góp phần lớn trong lĩnh vực
dược học như tác nhân có vai trò quan trọng trong mục đích giảm cân, bảo vệ tim
mạch, hiệu chỉnh trạng thái bất bình thường của các lipid, và khả năng chịu đựng
trong luyện tập thể thao. Hiện nay các nghiên cứu chiết tách các chất hóa học từ cây
Bứa ở nước ta cũng đã bắt đầu được tiến hành. Tiêu biểu là nghiên cứu chiết tách từ
lá, vỏ quả cây Bứa (Garcinia oblongifolia Champ. ex Benth.) (lấy ở xã Hòa Liên,
huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng và từ thành phố Hồ Chí Minh) bằng phương pháp

sắc kí lỏng cao áp (HPLC) đã xác định được hàm lượng axit hữu cơ trong lá, vỏ quả
bứa. Kết quả cho thấy axit (-) hyđroxy xitric là thành phần axit chủ yếu có trong lá,
vỏ quả bứa. Hàm lượng HCA tìm thấy trong lá, vỏ quả bứa khô là khá cao, cụ thể


13

HCA trong lá, vỏ quả bứa khô lần lượt là 2,863 và 15,221 %. Từ kết quả này có thể
tiếp tục nghiên cứu sâu để sản xuất thực phẩm chữa trị béo phì từ cây bứa Việt nam,
mà mở rộng hơn ra là các loài trong họ trong đó có Tai chua (Đỗ Tất Lợi, 2005)
[13].
Về thị trường tiêu thụ, kết quả điều tra cho thấy Tai chua cùng với chè Shan,
gạo Điện Biên,... Là một trong số ít những sản phẩm nông lâm sản miền núi xuất
hiện tại các chợ lớn ở Hà Nội. Tuy nhiên số lượng của các sản phẩm này cũng
không phải là nhiều [30].
Cành non và lá non có thể dùng là thuốc giải độc, ngoài ra, Tai chua còn
được trồng tạo bóng mát. Trong trồng rừng, Tai chua được trồng để cải tạo hoàn
cảnh rừng, nâng cao giá trị kinh tế của rừng thông qua các sản phẩm Lâm sản ngoài
gỗ (Viện điều tra quy hoạch rừng 1997).
Như vậy, ở nước ta Tai chua được biết đến như một loài cây bản địa đa tác
dụng và ngày càng được nhân dân ưa chuộng, gây trồng rộng rãi. Theo Quyết định
số 319 QĐ - UBND ngày ngày 1/2/2008 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa Về
việc phê duyệt danh lục loài cây gỗ mục đích trong rừng phòng hộ, sản xuất và tiêu
chí rừng tự nhiên nghèo kiệt thuộc đối tượng rừng sản xuất được phép cải tạo, trên
địa bàn tỉnh Thanh Hoá thì Tai chua là một trong những cây gỗ mục đích được sử
dụng để trồng rừng phòng hộ và sản xuất [16]. Cẩm nang ngành lâm nghiệp,
Chương Chọn loài cây ưu tiên cho các chương trình trồng rừng ở Việt Nam cũng đã
xác định Tai chua là một trong 222 loài cây gỗ được sử dụng trong các chương trình
trồng rừng ở Việt Nam [3]. Đây là những cở sở khoa học, pháp lý quan trọng cho
việc gây trồng và phát triển cây Tai chua ở nước ta.

1.2.4. Chọn, tạo giống và biện pháp kỹ thuật trồng rừng Tai chua
Hiện nay ở nước ta có 2 phương pháp nhân giống Tai chua là nhân giống
hữu tính và vô tính. Phương pháp nhân giống hữu tính (gieo từ hạt) đã được nhân
dân ta sử dụng lâu đời để gây trồng Tai chua quanh nhà, vườn hộ. Gần đây cũng đã
có một số nghiên cứu về nhân giống sinh dưỡng là ghép cây nhằm tạo ra cây có
phẩm chất tốt, nhanh cho thu hoạch, kết quả bước đầu của các nghiên cứu này là rất


14

có triển vọng. Trong thời gian gần đây, do nhu cầu về gây trồng cây Tai chua ngày
càng nhiều nên cũng đã có một số tài liệu hướng dẫn kỹ thuật gây trồng cây Tai
chua như: Bộ tài liệu khuyến lâm về lâm sản ngoài gỗ, Kỹ thuật gây trồng một số
loài cây lâm sản ngoài gỗ dưới tán rừng (Trần Ngọc Hải, 2007) [9],... Nhưng hầu
hết các tài liệu còn rất sơ khai.
Nhân giống tai chua bằng hạt khá dễ dàng. Khi quả chín vàng là có thể thu
quả để lấy hạt, khi tách hạt phải chú ý là vỏ quả dày và vỏ hạt mềm nên phải cẩn
thận để tránh làm tổn thương đến hạt. Hạt thu được cần phơi trong bóng râm hay
dưới nắng nhẹ. Khi khô cho vào túi vải, để nơi khô ráo, chú ý không giữ hạt lâu vì
hạt sẽ mất sức nảy mầm [8].
Theo bộ tài liệu khuyến lâm về lâm sản ngoài gỗ thì quả Tai chua thu hái vào
thời gian tháng 6 - 7, chỉ lấy những quả chín hoặc gần chín, chuyển từ màu xanh
sang vàng cam. Quả sau khi thu hái ủ thành đống cao 30 cm trên nền nhà để quả
chín đều, vì là loại quả thịt, hạt rất mềm nên việc bóc tác hạt ra khỏi quả phải rất
cần thận. Dùng dao cắt dần vào phần thịt quả, khi vào gần phần hạt ở giữa phải chú
ý thao tác cần thận. Sau khi bóc hạt, ngâm hạt trong nước để loại bỏ hết phần thịt
quả trên bề mặt hạt, phơi trong bóng râm hoặc nắng nhẹ cho đến khi khô. Không
nên để hạt quá lâu trên 1 năm sẽ làm giảm sức nảy mầm của hạt [9].
Tạo cây con từ hạt là phương pháp phổ thông, truyền thống trong công tác
tạo giống cây Tai chua của nhân dân ta. Thời gian gieo hạt từ tháng 8 - 10 trước khi

trồng, tuy nhiên do hạt mất sức nảy mầm nhanh nên gieo hạt ngay sau khi thu hoạch
để có tỷ lệ nảy mầm cao. Làm vỡ vỏ hạt bằng cách ngâm hạt trong nước 30 - 400C
trong vòng 4 - 6 tiếng; vớt ra rửa xạch, đựng trong túi vải và rửa 2 lần/ngày cho tới
khi hạt nảy mầm. Khi hạt nảy mầm thì cấy ngay vào bầu. Bầu dùng để cấy hạt có
kích thước 14 x 16 cm, ruột bầu bao gồm đất vườn hay đất rừng 84%, 15% phân
chuồng hoai và 1% NPK (5:10:3 hoặc 10:10:5). Cấy cây sâu 2 - 3 m vào trong bầu
[9].
Để tạo ra cây giống có chất lượng cao, nhanh cho sản phẩm thì việc tạo cây
con bằng phương pháp ghép là một giải pháp rất có hiệu quả. Hiện nay cũng đã có


15

một số thử nghiệm tạo cây con loài Tai chua bằng phương pháp ghép, bước đầu đã
thu được những kết quả rất đáng khích lệ. Có 3 cách ghép Tai chua là ghép nêm,
ghép nối tiếp và ghép áp nhưng phương pháp ghép áp ít được dùng vì khó thành
công và hiệu quả thấp. Tiêu chuẩn gốc ghép là cây con từ 8 - 12 tháng tuổi, thân
thẳng không sâu bệnh, có đường kính gốc trên 0,8 cm hoặc đường kính thân cách
mặt bầu 25 - 30 cm đạt trên 0,7cm. Vật liệu ghép được lấy từ cây mẹ trên 15 tuổi.
Sau 6 - 9 tháng có thể mang cành ghép đi trồng [9], [10], [15].
Người dân vùng Hoành Bồ (Quảng Ninh) có kinh nghiệm trồng Tai chua
bằng cây con tái sinh từ rễ. Thường trên các rễ ngang của cây có đường kính 20 cm
trở lên, khi bị thương sẽ nảy trồi và đâm rễ từ các vết thương. Chọn các cây Tai
chua con mọc từ rễ có chiều cao 25 - 30 cm mang đi trồng. Khi đánh cây con có thể
cắt 2 đầu rễ, cách thân khoảng 10 cm. Muốn có nhiều trồi cây non, có thể tạo vết
thương nhân tạo (bằng dao, cuốc,...) từ các vết thương này sẽ nảy ra các cây con
mới [8].
Bón phân là giải pháp rất có hiệu quả trong việc nâng cao năng suất, sinh
trưởng cây trồng. Đối với cây ghép, sau khi cành ghép nảy mầm 1,5 - 2 tháng có thể
tưới phân để cây ghép phát triển tốt: lần đầu nên tưới phân NPK với nồng độ nhỏ

0,05%, sau tăng lên 1%. Đối với cây đem trồng, có thể bón lót 5 - 7 kg phân chuồng
hoai và 0,2 kg NPK mỗi hố, đến năm thứ 2 thì bón lót 0,5 - 0,7 kg NPK (5:10:3)/cây
[9].
Về trồng rừng, theo Bộ tài liệu khuyến lâm về lâm sản ngoài gỗ [9] thì Tai
chua có thể trồng thuần loài hoặc trồng xen với các loài cây khác. Đối với trồng
thuần loài mật độ trồng là 300 cây/ha, với trồng xen cần duy trì khoảng cách 6m
giữa các cây. Thời vụ trồng tốt nhất là từ tháng 2 - 4, cũng có thể trồng vào tháng 6
- 7.
Nhân dân thường có tập quán đánh cây con tai chua về trồng trong vườn
rừng hoặc trồng quanh nhà để lấy quả ăn. Trồng ven suối cùng một số cây khác như
Phay, Sấu, tai chua sinh trưởng nhanh và cho nhiều quả hơn so với các cây trồng
nơi quang trống, không có cây bạn và xa nguồn nước [8]. Đây là những kinh


16

nghiệm quý trong việc xây dựng các biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất,
chất lượng và hiệu quả gây trồng Tai chua.
1.3. Nhận xét và đánh giá chung
Điểm qua các công trình nghiên cứu trên thế giới cho thấy cây Tai chua đã
được tiến hành nghiên cứu khá toàn diện, đặc biệt là về giá trị sử dụng. Ngoài mục
đích sử dụng để làm thức ăn, các phát hiện về chất có khả năng chữa bệnh ung thư
và nhiều chất hóa học hữu ích khác đã và đang ngày càng nâng cao giá trị sử dụng
cây Tai chua. Đây sẽ là cơ sở quan trọng cho việc phát triển cây Tai chua ở các
nước trên thế giới, trong đó có nước ta.
Ở Việt Nam, các tài liệu nghiên cứu đều cho thấy Tai chua là loài cây bản địa
đa tác dụng, vừa cho sản phẩm gỗ lại vừa cho thu hoạch quả, vốn đã rất thân thuộc
với người dân miền núi. Tuy nhiên những nghiên cứu về cây Tai chua còn khá ít,
mới chủ yếu tập trung vào phân loại, mô tả hình thái, hầu như chưa có công trình
nào nghiên cứu bài bản và toàn diện về đặc điểm sinh lý, sinh thái, nhân giống và

kỹ thuật gây trồng. Vì vậy còn thiếu cơ sở khoa học cho việc phát triển loài cây này.
Gần đây cũng đã có một số tài liệu hướng dẫn kỹ thuật gây trồng cây Tai chua
nhưng hầu hết còn rất sơ sài và đơn giản. Đây là một nhu cầu lớn và cấp thiết của
thực tiễn trong bối cảnh cây Tai chua ngày càng được người dân ưa chuộng, sản
phẩm quả Tai chua tiêu thụ ngày càng thuận lợi và có giá cao, nhiều địa phương
cũng đã lựa chọn Tai chua là một trong những loài cây được sử dụng để trồng rừng
sản xuất, rừng phòng hộ,... Xuất phát từ thực tiễn đó, đề tài: “Nghiên cứu kỹ thuật
trồng cây Tai chua (Garcinia cowa Roxb) để lấy quả tại huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa
Bình” đặt ra là thực sự cần thiết và có ý nghĩa.


17

Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật gây trồng đến sinh trưởng
cây Tai chua và bước đầu đánh giá hiệu quả kinh tế làm cơ sở khoa học cho việc
trồng cây Tai chua để lấy quả tại huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình nói riêng và ở các
tỉnh miền núi phía Bắc nói chung.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định được các biện pháp kỹ thuật gây trồng cây Tai chua,
- Bước đầu đánh giá được hiệu quả kinh tế từ trồng cây Tai chua lấy quả.
- Đề xuất được một số biện pháp kỹ thuật trồng cây Tai chua trên địa bàn
huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình.
2.2. Giới hạn nghiên cứu:
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cây Tai chua đã được tuyển chọn và nhân
giống bằng phương pháp ghép nêm. Cây mẹ được tuyển chọn để lấy vật liệu giống

gồm 20 cây trội có tuổi từ 20-30 tuổi, đường kính tán 7-15m, tán cân đối với năng
suất trung bình của các cây mẹ lấy giống là 389,1 kg/cây/năm từ kết quả nghiên cứu
trong đề tài cấp cơ sở “Nghiên cứu kỹ thuật gây trồng cây Tai chua (Garcinia cowa
Roxb) để lấy quả” do Trung tâm Ứng dụng Khoa học Kỹ thuật Lâm nghiệp thuộc
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam làm chủ trì thực hiện. Một số chỉ tiêu của cây
ghép khi đem trồng là:
- Tuổi cây con: 2 - 3 tháng sau ghép
- Chiều cao (Hvn): 30 - 45cm
- Đường kính (D00): 0,6 -0,8 cm
Cây sinh trưởng tốt, phát triển cân đối, không bị cong queo, sâu bệnh.


18

2.2.2. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Do thời gian và kinh phí nghiên cứu có hạn nên đề tài tiến hành kế thừa các
kết quả nghiên cứu về cây Tai chua đã được Trung tâm Ứng dụng Khoa học Kỹ
thuật Lâm nghiệp thực hiện trong giai đoạn 2007-2010 như: Kết quả lựa chọn và tạo
giống cây Tai chua; phương pháp bố trí thí nghiệm trồng rừng Tai chua và các số
liệu đo đếm tỉ lệ sống, các chỉ tiêu sinh trưởng của cây Tai chua trồng trong giai
đoạn 2007-2010.
Các nội dung được đề tài điều tra bổ sung là: Điều tra đánh giá tỷ lệ sống và
các chỉ tiêu sinh trưởng, năng suất quả của các mô hình trồng rừng Tai chua lấy quả
năm 2012 từ đó bước đầu tính toán hiệu quả kinh tế từ việc trồng rừng Tai chua lấy
quả trên địa bàn huyện Tân Lạc làm cơ sở đề xuất các giải pháp phát triển.
Do thời gian trồng còn ngắn, đề tài chưa thể đánh giá được ảnh hưởng của
các biện pháp kỹ thuật gây trồng đến sản lượng quả Tai chua mà mới đánh giá được
ảnh hưởng đến sinh trưởng và bước đầu đánh giá hiệu quả kinh tế của mô hình trồng
Tai chua ghép xen cây nông nghiệp đã bắt đầu cho quả.
2.2.3. Giới hạn về địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện trên địa bàn các xã: Xã Tử Nê, xã Đông Lai, xã
Mãn Đức, xã Thanh Hối trên địa bàn huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình là nơi có cây
Tai chua phân bố.
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ trồng tới sinh trưởng của Tai chua
- Bố trí 3 công thức mật độ trồng: CT1: 420 cây/ha (4mx6m); CT2: 830
cây/ha (3mx4m); CT3: 1.100 cây/ha (3mx3m).
- Đánh giá các chỉ tiêu tỷ lệ sống, sinh trưởng đường kính gốc (D 00 - cm),
chiều cao vút ngọn (Hvn - m); đường kính tán (Dt - m), chất lượng cây trồng (tốt,
trung bình, xấu).
2.3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón tới sinh trưởng của Tai chua


19

- Trồng thuần loài với mật độ 830 cây/ha (3mx4m) và thử nghiệm 3 công
thức bón lót: CT1: 100g NPK + 2kg Phân chuồng hoai; CT2: 300g NPK + 2kg Phân
chuồng hoai; CT3: Đối chứng (không bón phân).
- Đánh giá các chỉ tiêu tỷ lệ sống, sinh trưởng đường kính gốc (D 00 - cm),
chiều cao vút ngọn (Hvn - m); đường kính tán (Dt - m), chất lượng cây trồng (tốt,
trung bình, xấu).
2.3.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của phương thức trồng tới sinh trưởng của Tai
chua
- Bố trí 3 công thức trồng: CT1: Trồng thuần loài xen cây nông nghiệp; CT2:
Trồng hỗn loài với cây Phù trợ (Keo) theo tỷ lệ 1 Tai chua : 2 Keo; CT3: Trồng
phân tán trong các vườn hộ gia đình. Mật độ Tai chua trồng 420 cây/ha (đối với CT1
và CT2), trồng phân tán mật độ 250 cây/ha (CT3).
- Đánh giá các chỉ tiêu tỷ lệ sống, sinh trưởng đường kính gốc (D 00 - cm),
chiều cao vút ngọn (Hvn - m); đường kính tán (Dt - m), chất lượng cây trồng (tốt,
trung bình, xấu).

2.3.4. Bước đầu đánh giá hiệu quả kinh tế từ trồng cây Tai chua lấy quả
- Điều tra năng suất quả, giá bán quả tươi, giá bán quả khô, chi phí tạo rừng và
ước tính hiệu quả kinh tế từ trồng Tai chua lấy quả ở mô hình trồng cây Tai chua xen
cây nông nghiệp (mô hình này mới cho quả nên có thể bước đầu đánh giá)
2.3.5. Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật trồng cây Tai chua lấy quả trên địa bàn
huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu đã đạt được tiến hành đề xuất một số giải
pháp về kỹ thuật trong việc gây trồng cây Tai chua để lấy quả trên địa bàn huyện Tân
Lạc, tỉnh Hòa Bình.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Quan điểm và phương pháp tiếp cận nghiên cứu
Quan điểm nghiên cứu được đưa ra là:
- Kế thừa có chọn lọc các thông tin, số liệu, công trình nghiên cứu đã được
thực hiện đối với cây Tai chua, từ đó tiến hành điều tra, nghiên cứu bổ xung các


20

thông tin, số liệu cần thiết khác phục vụ cho việc trồng và phát triển loài cây này tại
huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình.
- Quan điểm phù hợp với điều kiện sinh thái nơi trồng được áp dụng triệt để
trong suốt quá trình nghiên cứu của đề tài.
- Kết hợp giữa hệ thống kiến thức bản địa với kiến thức khoa học trong việc
trồng và phát triển cây Tai chua tại khu vực.
Các bước nghiên cứu của đề tài được thể hiện thông qua sơ đồ 2.1.
Kế thừa các số liệu, tài liệu,
công trình có liên quan tới
cây Tai chua

Khảo sát toàn bộ khu vực

nghiên cứu, lựa chọn địa
điểm điều tra

Điều tra bổ sung, đánh giá
các thí nghiệm trồng rừng

Thí nghiệm
ảnh hưởng của
mật độ trồng
tới sinh trưởng
của Tai chua

Thí nghiệm
ảnh hưởng của
phân bón tới
sinh trưởng
của Tai chua

Thí nghiệm
ảnh hưởng của
phương thức
trồng tới sinh
trưởng của Tai
chua

Tổng hợp số liệu, phân tích,
đánh giá

Đề xuất các giải pháp phát
triển

Hình 2.1. Sơ đồ các bước nghiên cứu của đề tài

Đánh giá hiệu
quả kinh tế từ
việc trồng Tai
chua ghép lấy
quả


21

2.4.2. Phương pháp kế thừa số liệu, tài liệu có liên quan
- Các tài liệu, công trình nghiên cứu về cây Tai chua đã được thực hiện ở
trong và ngoài nước liên quan tới đặc điểm sinh học, sinh thái, kỹ thuật trồng,...
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, hiện trạng tài nguyên rừng của huyện
Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình.
- Kết quả lựa chọn và tạo giống cây Tai chua lấy quả.
- Phương pháp bố trí thí nghiệm trồng rừng Tai chua và các số liệu đo đếm tỉ
lệ sống, các chỉ tiêu sinh trưởng của cây Tai chua trồng trong giai đoạn 2007-2010,
cụ thể:
2.4.2.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm mật độ trồng
Mật độ trồng tập trung: Bố trí 3 công thức mật độ trồng: 420 cây/ha
(4mx6m); 830 cây/ha (3mx4m) và 1.100 cây/ha (3mx3m) các công thức được bố trí
ngẫu nhiên theo khối, lặp 3 lần, diện tích mỗi công thức 3000 m2.
Đỉnh

LẶP 1

CT1


CT2

CT3

Sườn

LẶP 2

CT2

CT3

CT1

Chân

LẶP 3

CT3

CT1

CT2

Hình 2.2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm trồng Tai chua theo các công thức mật độ
Thu thập các số liệu về: Tỷ lệ sống, sinh trưởng đường kính, chiều cao,
đường kính tán, chất lượng cây trồng (tốt, trung bình, xấu) và xử lý số liệu bằng
phân tích phương sai.
2.4.2.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm bón phân
Tiến hành thử nghiệm 3 công thức bón lót:

CT1: 100g NPK +2kg Phân chuồng hoai;
CT2: 300g NPK + 2kg Phân chuồng hoai;
CT3: Đối chứng (không bón phân).
Trồng với mật độ 830 cây/ha (3mx4m) mỗi công thức có diện tích 3000m2
được bố trí theo khối, lặp lại 3 lần.
Thu thập các số liệu về: Tỷ lệ sống, sinh trưởng đường kính, chiều cao,


22

đường kính tán, chất lượng cây trồng (tốt, trung bình, xấu) và xử lý số liệu bằng
phân tích phương sai.
Đỉnh

LẶP 1

CT1

CT2

CT3

Sườn

LẶP 2

CT2

CT3


CT1

Chân

LẶP 3

CT3

CT1

CT2

Hình 2.3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm trồng Tai chua theo công thức bón phân
2.4.2.3. Phương pháp bố trí thí nghiệm phương thức trồng
Bố trí 3 công thức trồng:
CT1: Trồng thuần loài xen cây nông nghiệp (420 cây/ha);
CT2: Trồng hỗn loài với cây Phù trợ (Keo) theo tỷ lệ 1 Tai chua : 2 Keo (420
cây Tai chua/ha + 840 cây Keo tai tượng/ha);
CT3: Trồng phân tán trong các vườn hộ gia đình (cự ly trồng 6 x 7m tương ứng
với mật độ qui đổi 250 cây/ha).
Thu thập các số liệu về: Tỷ lệ sống, sinh trưởng đường kính, chiều cao,
đường kính tán, chất lượng cây trồng (tốt, trung bình, xấu) và xử lý số liệu bằng
phân tích phương sai.
2.4.3. Phương pháp điều tra bổ xung số liệu ngoài hiện trường
2.4.3.1. Điều tra bổ xung tỷ lệ sống, các chỉ tiêu sinh trưởng của các thí
nghiệm trồng rừng giai đoạn 2007-2010
Từ các số liệu, tài liệu kế thừa trong giai đoạn 2007-2010, đề tài tiến hành
điều tra bổ xung về tỷ lệ sống, sinh trưởng đường kính gốc D00 (cm), chiều cao vút
ngọn Hvn (m), đường kính tán Dt (m), chất lượng sinh trưởng (tốt, trung bình, xấu)
từ các thí nghiệm trồng rừng Tai chua năm 2012 để làm căn cứ đánh giá mô hình.

Các chỉ tiêu sinh trưởng được đo đếm bằng các loại thước đo chuyên dụng
trong điều tra lâm học như: Kẹp kính, thước dây, thước sào,... đảm bảo độ chính xác
cần thiết.


23

2.4.3.2. Điều tra năng suất quả và đánh giá hiệu quả kinh tế từ trồng rừng
Tai chua
Phương pháp chủ đạo được sử dụng là điều tra phỏng vấn các hộ gia đình trồng
Tai chua trên địa bàn huyện để điều tra về chi phí trồng rừng, năng suất quả, giá bán
quả tươi, giá bán quả khô từ đó tiến hành tính toán lợi nhuận thuần thu được bằng cách
lấy doanh thu trừ đi chi phí tạo rừng. Số hộ dự kiến điều tra phỏng vấn là từ 15-20 hộ
gia đình trên địa bàn huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình.
2.5. Phương pháp phân tích, xử lý số liệu
Các số liệu thu thập được phân tích và xử lý bằng các hàm xử lý thống kê thông
dụng trong lâm nghiệp dưới sự trợ giúp của phần mềm Excel 5.0 và SPSS 13.0.
a) Xác định tỷ lệ sống:
Tỷ lệ sống = (số cây sống/tổng số cây đem trồng)*100 (%)

(2.1)

b) Tính các chỉ tiêu trung bình Hvn, Doo, Dt:

 xi
n

X =

1


n

(2.2)

Trong đó: X: là các giá trị trung bình
xi: là các chỉ tiêu, D00, Hvn, Dt
n: Số cây trong ô tiêu chuẩn
- Việc phân tích phương sai và kiểm tra sai dị giữa các chỉ tiêu trong các
công thức thí nghiệm dùng tiêu chuẩn Bonferroni. Căn cứ vào xác suất của F hay
còn gọi mức ý nghĩa của F (Sig) để xác định các mẫu so sánh có sự sai khác hay
thuần nhất.
Nếu Sig < 0,05 thì 2 mẫu so sánh có sự sai khác rõ rệt
Nếu Sig ≥ 0,05: 2 mẫu chưa có sự sai khác rõ rệt hay thuần nhất
c) Tính toán hiệu quả kinh tế từ trồng Tai chua lấy quả:
- Từ kết quả điều tra phỏng vấn hộ gia đình tiến hành tính toán chi phí tạo
rừng Tai chua bao gồm chi phí nhân công, chi phí vật liệu (phân bón, cây giống) và
chi phí khác (nghiệm thu, quản lý phí,…) để xác định chi phí cho:
+ Trồng và chăm sóc năm thứ nhất


24

+ Chăm sóc năm thứ 2
+ Chăm sóc năm thứ 3
+ Chăm sóc năm thứ 4
- Tính toán hiệu quả kinh tế từ trồng Tai chua lấy quả thông qua xác định lợi
nhuận ròng bằng cách lấy thu nhập - chi phí cho từng năm trong giai đoạn từ khi
trồng tới năm thứ 10.



×