Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của chính sách giao đất, giao rừng đến kinh tế hộ tại xã hải vân huyện như thanh tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1008.09 KB, 87 trang )

bộ giáo dục và đào tạo

bộ nông nghiệp và ptnt

tr-ờng đại học lâm nghiệp

Bùi thị hoa

NGHIấN CU NH HNG CA CHNH SCH GIAO T, GIAO
RNG N KINH T H TI X HI VN
HUYN NH THANH - TNH THANH HểA

Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60

Luận văn thạc sĩ khoa học lâm nghiệp

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học
T.S đỗ anh tuân

Tài liệu tham khảo
hà nội, 2010


1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, một tư liệu sản xuất
đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống. Việc sử
dụng bền vững nguồn tài nguyên đất đai là một vấn đề quan trọng đối với tất


cả các quốc gia.
Ở Việt Nam, chính sách và pháp luật về lĩnh vực quản lý đất đai được hình
thành và hoàn thiện từng bước. Năm 1988, Luật đất đai đầu tiên của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước chuyển mình của nền
kinh tế đất nước. Trước những yêu cầu đổi mới, Luật này được sửa đổi bổ sung
phù hợp với tình hình hình thực tế ở từng giai đoạn. Luật đất đai đã cụ thể rõ
quan hệ sản xuất trong nông nghiệp và được xác lập trên cơ sở giao đất cho các
hộ gia đình sử dụng và ổn định lâu dài.
Cùng với sự ra đời của luật đất đai, Chính phủ đã ban hành một số chính
sách quan trọng thuộc lĩnh vực quản lý rừng và đất rừng, trong đó phải kể đến
đó là:
Nghị định 02/CP ngày 15/01/1994 về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ
gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp;
Nghị định 01/CP ngày 01/11/1995 về giao khoán và sử dụng đất vào mục đích
nông lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản trong các doanh nghiệp nhà nước;
Nghị định 163/1999/NĐ-CP ban hành ngày ngày 16/11/1999 bổ sung và thay
thế một số điều trong Nghị định 02/CP.
Gần đây Quốc hội nước ta đã đưa ra Luật đất đai số 13/2003/QH11. Luật này
quy định về quyền hạn và trách nhiệm của nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn
dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, chế độ quản lý và sử dụng đất
đai , quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất;
Luật bảo vệ và phát triển rừng số 29/2004/QH11 và các văn bản có liên quan
đến giao đất giao rừng và hưởng dụng rừng như Nghị định 135/2005/NĐ-CP về


2

giao khoán đất, Quyết định 186/2006/QĐ-TTg về quy chế quản lý rừng, Quyết
định 40/2005/QĐ-BNN về quy chế khai thác gỗ và lâm sản.
Những chính sách này cùng với những chính sách hỗ trợ của Nhà nước đã

tạo động lực, khuyến khích người dân tham gia nhận đất nhận rừng, đầu tư tiền
vốn và nhân lực để sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế trên diện tích rừng và
đất rừng được giao.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, chính sách giao đất, giao rừng đã thực
sự đi vào cuộc sống, đáp ứng được nguyện vọng của người dân, tạo thêm việc
làm, nâng cao thu nhập và cải thiện cuộc sống, nhiều hộ nông dân có thu nhập
khá từ các hoạt động sản xuất kinh doanh trên đất được giao, khoán. Tuy nhiên,
trong quá trình vận dụng vào thực tiễn, do đặc điểm đa dạng của các vùng khác
nhau, việc triển khai thực hiện những chính sách giao, khoán đất lâm nghiệp ở
mỗi địa phương lại có những thuận lợi và khó khăn riêng, chính vì vậy mà tác
động của những chính sách này tới sự phát triển kinh tế xã hội ở mỗi địa phương
cũng có sự khác nhau và mang đặc thù của mỗi vùng.
Hải vân là một xã miền núi thuộc huyện Như Thanh, tỉnh Thanh hoá.
Nh÷ng n¨m qua, thùc hiÖn chñ ch-¬ng cña §¶ng vµ Nhµ n-íc, các hộ nhân dân
địa phương đã được nhận đất, nhận rừng theo nghị định 01/CP và 02/CP. Từ khi
thực hiện chính sách đến nay đời sống vật chất, tinh thần của người dân đã có
nhiều thay đổi. Luận văn “Nghiên cứu ảnh hưởng của chính sách giao đất, giao
rừng đến kinh tế hộ tại xã Hải Vân - huyện Như Thanh - tỉnh Thanh Hoá”
được thực hiện trên cơ sở đánh giá tác động chủ yếu của chính sách giao, khoỏn
đất lâm nghiệp tới sự phát triển kinh tế hộ gia đình và môi trường trên địa bàn
xã, hy vọng góp phần nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.


3

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ

1.1. Giao đất lâm nghiêp
1.1. 1. Giao đất lâm nghiệp trên thế giới

Mỗi quốc gia trên thế giới có một đặc điểm kinh tế - chính trị - xã hội ,
điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán và lịch sử phát triển riêng. Chính vì vậy
mà mỗi nước hình thành nên một hệ thống quản lý, sử dụng đất đai mang đặc thù
riêng. Đối với những nước không phải trải qua cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
thì vấn đề quản lý, sử dụng đất đai hầu như ít có biến động, sở hữu đất đai mang
tính truyền thống và chủ yếu là sở hữu tư nhân. Những nước phải trải qua cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ thì vấn đề quản lý và sử dụng đất đai có nhiều thay
đổi qua từng thời kỳ khác nhau, nhiều nước đã tiến hành giao đất lâm nghiệp, xu
hướng chung là quay trở lại với hình thức quản lý truyền thống dựa trên cơ sở
gắn đất đai với người nông dân.
Ở Inđônexia, mỗi gia đình ở gần rừng được nhận khoán 2.500 m2 đất
trồng cây, trong 2 năm đầu được phép trồng lúa cạn, hoa màu trên diện tích đó
và được hưởng toàn bộ sản phẩm hoa màu không phải nộp thuế. Công ty lâm
nghiệp cho nông dân vay vốn dưới hình thức cung cấp giống, phân hoá học,
thuốc trừ sâu, sau khi thu hoạch người nông dân phải trả lại đầy đủ số giống đã
vay, còn phân hoá học và thuốc trừ sâu chỉ phải trả lại 70%. Trường hợp rủi ro,
nếu mất mùa thì không phải trả vốn vay đó. Ngoài ra, nhà nước còn hỗ trợ một
phần kinh phí để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Hướng dẫn kỹ thuật nông
lâm nghiệp thông qua các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm. Tổ chức làm thí
điểm, học tập rút kinh nghiệm và triển khai ra diện rộng 26.
Ở Nhật bản, có ba hình thức sở hữu đất lâm nghiệp đó là sở hữu nhà nước,
sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân.

Nhà nước sở hữu 7,84 triệu ha chiếm

31,2% rừng và đất rừng của cả nước, những diện tích rừng và đất rừng này chủ
yếu ở những nơi xa xôi hẻo lánh, địa hình hiểm trở... thuộc quyền quản lý của


4


Cục Lâm nghiệp - Bộ Nông lâm thủy sản. Các tổ chức chính quyền địa phương
sở hữu trên 2,7 triệu ha chiếm 10,74%. Các công ty tư nhân và các hộ gia đình
sở hữu 14,6 triệu ha, chiếm 58,10%. Có tới 88% chủ rừng là các hộ tư nhân,
trong số đó 89% là những người có từ 0,1 ha - 5 ha đất lâm nghiệp; 10,7% là
những chủ hộ tư nhân có từ 5 ha - 50 ha còn lại 0,4% là những chủ hộ tư nhân có
trên 50 ha đất lâm nghiệp. Do phần lớn các chủ rừng là những người sở hữu dưới
5 ha đất lâm nghiệp nên các chủ rừng này đã liên kết với nhau thành các Hội.
Hiện nay Nhật Bản có 1.430 Hội các chủ rừng với 1.718.000 thành viên.
Để nhằm thúc đẩy công tác xây dựng và phát triển, Chính phủ có chương
trình trợ cấp nhằm hỗ trợ cho các hoạt động lâm sinh, xây dựng đường lâm
nghiệp thông qua Hội các chủ rừng, ngoài ra các chủ rừng còn được ưu tiên vay
vốn để sản xuất kinh doanh với lãi xuất thấp, đồng thời còn được giảm thuế đất
lâm nghiệp 13
Ở Philipin, chính sách lâm nghiệp xã hội “Institutional Social Forestry
Program” (ISFP) năm 1980 của chính phủ nhằm dân chủ hoá việc sử dụng đất
rừng công cộng và khuyến khích việc phân chia một cách hợp lý các lợi ích của
rừng, chương trình này nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội cho cộng
đồng người dân sống phụ thuộc vào đất rừng thông qua đó phát triển và bảo vệ
tốt tài nguyên rừng . ở đó đã đề cập đến chứng chỉ hợp đồng, thoả thuận quản lý,
bộ phận lâm nghiệp xã hội chịu trách nhiệm xử lý và phát hành các chứng chỉ
hợp đồng quản lý: “Certificates for Stewardship Contracts” (CSC), bản thoả
thuận quản lý lâm nghiệp cộng đồng: “Community Forestry Stewardship
Agreements” (CFSA). Với hai loại thoả thuận này thì chứng chỉ CSC do chính
phủ cấp cho người dân sống trên đất rừng đã có đủ tư cách pháp nhân được
hưởng các thành quả lao động trên mảnh đất đó, ở đấy cho phép người dân sử
dụng diện tích thực đang ở hay đang canh tác không quá 7 hécta. Đối với chứng
chỉ CFSA chính là một hợp đồng giữa chính phủ với một công đồng hay một hội



5

lâm nghiệp kể cả nhóm hộ bộ lạc. Với CFSA thì đất không được giao cho các
nhân mà chỉ giao cho một cộng đồng hay hiệp hội và các thành viên của nó với
sự thoả thuận trước để sử dụng trên phạm vị một xã.
Cả CSC và CFSA để có giá trị là 25 năm và có thể gia hạn sau khi hết hạn
giao. Những nggười giữ CSC hay CFSA đều có trách nhiệm gìn giữ và bảo vệ
trong khu vực thực hiện dự án. Sau định kỳ 5 năm thì hội đồng được thành lập
để đánh giá hiệu quả chương trình. Nội dung đánh giá được tập trung một số vấn
đề: hiệu quả của việc sử dụng rừng và đất rừng, diện tích được cấp CSC và
CFSA trên toàn xã, hiệu quả sản xuất trên diện tích đất được cấp, và mức độ gìn
giữ và bảo vệ tài nguyên rừng 26.
Ở Trung Quốc, theo Hiến pháp của Nhà nước vào đầu những năm 80,
Chính quyền nhà nước Trung ương đến tỉnh và huyện bắt đầu cấp chứng nhận
quyền sử dụng đất cho tất cả các chủ rừng là các tổ chức nhà nước, tập thể và tư
nhân. Mỗi hộ nông dân được phân phối một diện tích đất rừng để sản xuất kinh
doanh “ Luật lâm nghiệp quy định đơn vị tập thể và nông dân trồng cây trên đất
mình làm chủ thì hoàn toàn được hưởng sản phẩm trên mảnh đất đó”. Sau khi
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chính phủ đã áp dụng chính sách
nhạy bén thúc đẩy phát triển trang trại rừng và kinh doanh đa dạng để có lợi
trước mắt và lâu dài. Đồng thời với việc cải cách và mở cửa, ngành lâm nghiệp
Trung Quốc đã được chuyển dịch từ chỗ chỉ thực hiện chế độ sở hữu nhà nước
và sở hữu tập thể sang thực hiện nhiều thành phần tham gia kinh doanh lâm
nghiệp (nhà nước, tập thể, cá nhân, liên doanh, hợp tác…). Nhiều chính sách về
đất lâm nghiệp được thực hiện, đặc biệt là chính sách “tam định”, trong đó định
rõ ba vấn đề: Quyền sử đất đồi núi, quyền sử dụng rừng và quy hoạch đất, diện
tích đất lâm nghiệp được để lại cho các hộ nông dân sử dụng. Người dân được
giao và cấp giấy chúng nhận quyền sử dụng đất rừng. Nhà nước cũng ban hành



6

nhiều luật, chính sách để tạo điều kiện cho việc lưu chuyển và trao đổi quyền sử
dụng đất lâm nghiệp 26
Ở Thái Lan, từ năm 1979 chương trình cấp giấy chứng nhận quyền hưởng
hoa lợi trong rừng dự trữ quốc gia đã được thực hiện. Theo đó mỗi mảnh đất
được chia thành hai miền: miền dưới nguồn nước dùng để canh tác nông nghiệp,
còn miền trên nguồn nước thì bị hạn chế nhằm giữ rừng. Đối với mỗi miền đát
phù hợp cho canh tác nông nghiệp mà trước đây người dân đã sử dụng(dưới 2,5
ha) thì được cấp cho người dân giấy chứng nhận quyền hưởng hoa lợi. Mục đích
của việc làm này chính là khuyến khích đầu tư vào đất, tạo ra sản phẩm chất
lượng cao hạn chế sự xâm lấn vào rừngTư khi chương trình này thực hiện đến
năm 1986 đã có tới hơn 600.000 hộ dân không có đất đựoc cấp giấy chứng nhận
hưởng hoa lợi.
Bên cạnh chương trình cấp giấy cứng nhận hưởng hoa lợi, năm 1975 Cục
lâm nghiệp Hoàng gia Thái Lan còn thực hiện chương trình làng lâm nghiệp, với
hy vọng giải quyết những người đựoc chọn ở lại trên đất rừng. Chương trình sau
khi thực hiện đã đem lại trật tự cho những người nông dân đang sinh sống ở rừng
và khuyến khích họ tham gia bảo vệ rừng quốc gia, phục hồi lại những diện tích
rừng đã bị suy thoái do du canh. Chương trình làng lâm nghiệp được thực hiện
trên những nguyên tắc:
- Mọi người sống ở rừng sẽ đựoc tập trung lại thành từng nhóm trong
những vùng không phải là nguồn nước gọi là làng. Mỗi làng bầu ra người lãnh
đạo và một hội đồng để tự quản lý.
- Trong mỗi làng, Cục lâm nghiệp và chính phủ sẽ cung cấp nhà ở phù
hợp, nguồn nước, đường giao thông đi lại, Trường học, trung tâm y tế, ngân
hàng, dịch vụ, tiếp thị và đào tạo nghề nghiệp.
- Chính phủ chia cho mỗi hộ gia đình nông dân từ 2-4 ha đất có giấy phép
quyền sử dụng và được thừa kế nhưng không đựơc bán, chuyển nhượng. Việc



7

làm này nhằm mục đích ngăn chặn những địa chủ đầu cơ mua bán toàn bộ diện
tích đát của nông dân.
- Sau khi các làng được thành lập thì một hợp tác xã nông lâm nghiệp đựoc
tổ chức và hoạt động dưới sự bảo trợ của ban khuyến khích hợp tác xã với các
quyền lợi cụ thể. Từ đó Cục lâm nghiệp Hoàng gia sẽ ký hợp đồng giao đất dài
hạn cho những hợp tác xã đó theo yêu cầu và thành lập nhóm chuyên gia đánh
giá hiệu quả đầu tư trên diện tích đất được giao26.
Ở Thuỷ Điển, nhà nước quản lý 25% diện tích rừng và đất rừng, các công
ty lớn sở hữu 25% còn lại 50% diện tích rừng và đất rừng thuộc sở hữu của các
hộ tư nhân.
Ở Phần lan, sở hữu tư nhân về rừng và đất rừng ở Phần Lan mang tính
truyền thống, có tới hai phần ba diện tích rừng và đất rừng thuộc sở hữu tư nhân
và có khoảng 430.000 chủ rừng, bình quân mỗi chủ rừng sở hữu 33 ha.
1.1.2. Giao đất lâm nghiệp ở Việt Nam
1.1.2.1 Khái quát chung về chính sách giao đất lâm nghiệp ở Việt Nam
Quá trình giao đất lâm nghiệp ở Việt Nam được thực hiện từ năm 1968 và
trải qua nhiều thời kỳ khác nhau:
- Thời kỳ 1968 - 1982: Thời kỳ này đất nước ta đang trong giai đoạn
chiến tranh, chỉ có hai thành phần kinh tế là Quốc doanh và hợp tác xã. ở giai
đoạn này Nhà nước mới khuyến khích và công nhận sự tồn tại 2 thành phần kinh
tế chủ yếu là quốc doanh lâm nghiệp (Lâm trường quốc doanh) và hợp tác xã
trong kinh doanh rừng. Một số văn bản của Nhà nước có liên quan đến vấn đề
giao đất giao rừng đó là Nghị định 38/CP ngày 12/3/1968 của chính phủ về
“Công tác vận động định canh định cư kết hợp với hợp tác xã đối với đồng bào
còn du canh du cư”, Thông báo số 18/TB-UB ngày 23/10/1968 của hội nghị ban
bí thư bàn về lĩnh vực Lâm nghiệp có ghi “Nhà nước cần giao cho Hợp tác xã sử
dụng một số đất hoang hoặc rừng cây để kinh doanh nghề rừng, Hợp tác xã sẽ



8

được hưởng lợi tuỳ theo công sức của mình bỏ ra” năm 1968, Quyết định số
179/HĐ-BT ngày 12 tháng 11 năm 1968 của Hội đồng Bộ trưởng:”Về một số
chính sách đối với hợp tác xã có kinh doanh nghề rừng”, mục đích của chính
sách này là nhằm đẩy mạnh công tác trồng rừng, bảo vệ rừng và giao đất lâm
nghiệp cho hợp tác xã.
Đây là những văn bản đầu tiên quy định chính sách giao đất lâm nghiệp
cho từng đối tượng cụ thể. Trên diện tích đất rừng và rừng đã được nhà nước
giao cho Hợp tác xã kinh doanh toàn diện thì cây cối và hoa lợi kể cả các sản
phẩm đã có, Hợp tác xã phải có nghĩa vụ bán cho nhà nước các sản phẩm chính
(gỗ, củi, tre nứa) theo đúng chỉ tiêu kế hoạch và giá thu mua như đối với cây
công nghiệp. Một vấn đề nữa cũng được quy định trong quyết định 179/HĐ-BT
là trên diện tích rừng và đất rừng đựơc giao cho Hợp tác xã kinh doanh từng
phần theo quy hoạch và kế hoạch của nhà nước như trồng rừng, tu bổ, cải tạo,
khai thác và làm đường vận chuyển. Khi hợp tác xã làm xong công việc cần giao
lại cho nhà nước theo nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch và phảI có kiểm kê, nghiệm
thu, nhà nước sẽ trả công khoán cho Hợp tác xã căn cứ theo hao phí từng khâu,
có phân biệt xã gần. Như vậy tại văn bản này đã đề ra hai hình thức giao đất giao
rừng đó là: Giao cho Hợp tác xã quản lý kinh doanh toàn diện và giao khoán
từng khâu công việc. Việc tổ chức thực hiện việc giao đất lâm nghiệp trong giai
đoạn này còn nhiều thiếu sót do nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của người dân
trong kinh doanh, việc tổ chức thực hiện giao đất lâm nghiệp thiếu chặt chẽ, làm
ồ ạt hình thức, chạy theo số lượng diện tích, chưa có quy hoạch đất đai, chưa
phân 3 loại rừng và xác định giao đất lâm nghiệp cho từng đối tượng cụ thể.
- Thời kỳ 1983 - 1992: Sau khi có Quyết định 184 -HĐBT của Hội đồng
Bộ trưởng, Bộ Lâm nghiệp đã tổ chức nhiều hội nghị cấp cao lãnh đạo tỉnh, có
sự phối hợp và tham gia của các Ban ngành có liên quan ở Trung ương đồng thời

mở nhiều cuộc hội thảo, nhiều lớp tập huấn, tổ chức tham quan học tập, phổ biến


9

các điển hình vv... Sau hội nghị ở Trung ương, các tỉnh, huyện đều mở hội nghị
tập huấn cho cán bộ của cấp mình và thành lập Ban chỉ đạo giao đất lâm nghiệp
các cấp. Tính từ Hội nghị đồi rừng ở Vĩnh Phú cuối năm 1983 đến năm 1985, đã
có hơn 30 tỉnh và 103 huyện xây dựng và thông qua được nghị quyết về lâm
nghiệp cũng như ban hành được các chính sách về giao đất lâm nghiệp của địa
phương mình 10.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), Nhà nước có chủ trương
phát triển kinh tế nhiều thành phần, ngoài thành phần kinh tế quốc doanh, tập
thể, Nhà nước còn có chủ trương giao đất cho tư nhân, vì vậy đã khuyến khích
nhiều người nhận đất đồi núi trọc bỏ vốn gây trồng rừng.
Thời kỳ này, giao đất lâm nghiệp trên cơ sở có quy hoạch sử dụng đất đai.
Bộ Lâm nghiệp đã ban hành Quyết định số 1171 LN/QĐ ngày 30/12/1986 về
quy chế quản lý 3 loại rừng: rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất, tiến
hành phân cấp quản lý rừng... chuyển dần từ cơ chế bao cấp sang tự chủ sản xuất
kinh doanh và từ sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá. Các chủ chương
chính sách lớn của Đảng và Nhà nước có Nghị quyết số 10/NQTW, Nghị quyết
số 22/NQTW về phát triển kinh tế xã hội miền núi và Quyết định số 72/HĐBT
về thực hiện Nghị quyết số 22/NQTW khẳng định phải thực hiện mạnh mẽ chủ
trương giao đất lâm nghiệp cho các gia đình đồng bào dân tộc thiểu số, các gia
đình cán bộ, công nhân người kinh sống ở miền núi, các hộ tư nhân ở miền xuôi
lên, các đơn vị kinh tế cơ sở, các cơ quan, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang.
Cùng với việc thực hiện các văn bản nói trên, cuối năm 1986 có Quy chế quản lý
3 loại rừng sau một thời gian tổ chức thực hiện có hiệu quả đã làm cơ sở xây
dựng Luật Bảo vệ và Phát triển rừng ban hành ngày 14/7/1991.
Để hướng dẫn việc giao đất giao rừng, ngày 6/2/1991 Bộ Lâm nghiệp và

Tổng cục Quản lý ruộng đất đã ban hành Thông tư liên Bộ số 01/TT/LB hướng
dẫn việc giao rừng và đất để trồng rừng cho các tổ chức, cá nhân sử dụng vào


10

mục đích lâm nghiệp. Đồng thời, Nhà nước cũng đã ban hành đồng bộ một số
chính sách đầu tư, hỗ trợ như Quyết định số 327/CT về một số chủ chương,
chính sách sử dụng đất trống đồi núi trọc, rừng bãi bồi ven biển và mặt nước,
trong đó ban hành chính sách đầu tư hỗ trợ khoảng 40% tổng vốn đầu tư dành
cho các hộ gia đình vay theo nguyên tắc không lấy lãi. Việc hoàn trả vốn vay bắt
đầu thực hiện khi có sản phẩm; Quyết định 264/CT về khuyến khích đầu tư phát
triển rừng đã giải quyết khó khăn về vốn cho người dân trồng cây lâm nghiệp ở
vùng định canh định cư.
Có thể thấy rằng, việc tổ chức thực hiện chủ trương giao đất lâm nghiệp
trong thời kỳ này của Ngành lâm nghiệp là nghiêm túc, cụ thể, có những bước đi
cơ bản và đã đạt được những thành tựu đáng kể 10. Công tác giao đất giao
rừng thời kỳ này có những tiến bộ đáng kể đã mang lại sự khởi sắc cho nghề
rừng nước ta 19, đã tạo động lực phát triển kinh tế nông lâm nghiệp ở miền núi,
bước đầu đã hình thành nên thị trường ở trung du miền núi.
- Thời kỳ 1993 đến nay: Thời kỳ này Đảng và nhà nước ta đã có những thay đổi
lớn trong quản lý rừng và đất rừng, nhà nước đã ban hành các chủ trương chính
sách về đất đai nhằm thực hiện triệt để công tác giao khoán đất rừng.
Luật đất đai năm 1993 được Quốc hội khoá IX thông qua ngày 14/7/1993
và có hiệu lực ngày 15/10/1993 (Luật này thay thế Luật đất đai năm 1987) 15.
Luật này đã đánh dấu kết quả một quá trình nghiên cứu, vận dụng thực tiễn để
thể chế hoá các chính sách mới về đất đai, vừa đảm bảo phát huy quan hệ sở hữu
toàn dân, vừa phù hợp với cách vận dụng mới của nền kinh tế hàng hoá, bắt đầu
tiếp cận với cơ chế thị trường hiện đại. Qua hai lần sửa đổi, bổ sung năm vào
1998 và năm 2001, Luật này thể hiện chủ chương chính sách lớn của Đảng và

Nhà nước về đất đai, cụ thể hoá điều 17 và 18 hiến pháp năm 1992 Nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


11

Nghiên cứu tổng quát những sửa đổi bổ sung về chính sách được thể chế
trong Luật đất đai, có những vấn đề nổi bật sau:
+ Củng cố và tăng cường quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai, tăng cường
vai trò quản lý thống nhất của Nhà nước.
+ Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho tổ chức, hộ gia đình để sử dụng ổn
định lâu dài.
+ Nhà nước xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng
đất thu tiền khi giao đất hoặc cho thuê đất, tính giá tài sản khi giao, bồi thường
thiệt hại về đất khi bị thu hồi.
+ Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử
dụng đất đã được xác định tạo cơ sở pháp lý về những lợi ích cụ thể để người sử
dụng đất thực sự làm chủ về sử dụng và kinh doanh trên đất được giao 4.
Cùng với sự ra đời của Luật đất đai năm 1993, Chính phủ đã ban hành
một số chính sách quan trọng như: Nghị định số 02/CP ngày 15/1/1994 về việc
giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài
vào mục đích lâm nghiệp 6. Quyết định 202/TTg ngày 2/5/1994 về việc khoán
bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng và trồng rừng. Nghị định số 01/CP ngày
4/1/1995 về việc giao khoán đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp, nuôi trồng
thuỷ sản trong các doanh nghiệp nhà nước 7. Nghị định 163/NĐ-CP ngày
16/11/1999 về việc giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp 8 Nghị định này thay
thế cho nghị định 02/CP (1994). Sự ra đời của các chính sách này nhằm gắn lao
động với đất đai, tạo thành động lực để phát triển sản xuất lâm nông ngư nghiệp,
ổn định tình hình kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng. Để hướng dẫn việc giao

đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp theo
Nghị định số 163/NĐ-CP, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng cục
Địa chính đã ra Thông tư liên tịch số 62/2000/TTLT/BNN-TCĐC ngày
06/6/2000, đề ra những quy định về thủ tục giao đất, cho thuê đất, cấp giấy


12

chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp và tổ chức thực hiện giao đất, cho
thuê đất lâm nghiệp 5. Để đảm bảo lợi ích hài hoà giữa Nhà nước với người
trực tiếp bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng, Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ
của hộ gia đình, cá nhân được giao, cho thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp
nhằm tạo động lực khuyến khích nhân dân tích cực tham gia bảo vệ và phát triển
rừng 9.
Nghiên cứu Nghị định số 01/CP, 02/CP, 163/NĐ-CP, Thông tư liên tịch số
62/2000/TTLT/BNN-TCĐC , thấy nổi lên một số nội dung được quy định cụ thể
như sau:
Về giao đất lâm nghiệp
- Đối tượng được giao đất lâm nghiệp không thu tiền sử dụng đất để sử
dụng ổn định lâu dài bao gồm:
+ Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp lao động lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư
nghiệp, làm muối mà nguồn sống chủ yếu là thu nhập có đựơc từ các hoạt động
sản xuất đó, được UBND xã, phường , thị trấn nơi có đất lâm nghiệp xác nhận;
+ Các tổ chức: Các Ban Quản lý khu rừng phòng hộ, khu rừng đặc dụng;
các doanh nghiệp Nhà nước về lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp; các trạm,
trại, xí nghiệp giống lâm nghiệp, trường học, trường dạy nghề; các tổ chức thuộc
các thành phần kinh tế khác; các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân.
- Căn cứ để giao đất lâm nghiệp:
+ Giao đất lâm nghiệp căn cứ vào quỹ đất lâm nghiệp của từng địa

phương;
+ Hiện trạng quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân;
+ Hạn mức giao đất lâm nghiệp đã được quy định: Hạn mức giao cho hộ
gia đình do UBND cấp tỉnh quyết định nhưng không quá 30 ha, hạn mức giao
cho tổ chức theo dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;


13

+ Nhu cầu sử dụng đất lâm nghiệp của tổ chức ghi trong dự án được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; đơn xin giao đất lâm nghiệp của hộ gia
đình, cá nhân được UBND xã, nơi cấp đất lâm nghiệp xác nhận.
- Thời hạn giao đất lâm nghiệp quy định như sau:
+ Các tổ chức của Nhà nước, thời hạn giao theo dự án được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt;
+ Các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế khác, thời hạn giao được quy
định đến hết thời hạn được Nhà nước giao;
+ Thời hạn giao đất lâm nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định
lâu dài là 50 năm. Khi hết thời hạn, nếu người sử dụng đất lâm nghiệp có nhu
cầu tiếp tục sử dụng và trong quá trình sử dụng đất lâm nghiệp chấp hành đúng
pháp luật về đất đai, pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng thì được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xem xét giao đất đó để tiếp tục sử dụng. Nếu trồng cây lâm
nghiệp có chu kỳ trên 50 năm, khi hết thời hạn này vẫn được Nhà nước giao tiếp
để sử dụng.
Về giao khoán đất lâm nghiệp
- Đối tượng để giao khoán đất lâm nghiệp: Đối tượng giao khoán đất (Gắn
liền với vật nuôi, cây trồng) theo thứ tự ưu tiên: Hộ gia đình, cá nhân là công
nhân viên chức đang làm việc cho bên giao khoán; hộ gia đình, cá nhân đã làm
việc cho doanh nghiệp, Ban Quản lý nay đã nghỉ hưu; hộ gia đình, cá nhân đã cư
trú hợp pháp tại địa phương được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận; tổ chức,

hộ gia đình, cá nhân ở địa phương khác có vốn đầu tư vào sản xuất theo quy
hoạch của bên giao.
- Loại đất để giao khoán: Đất lâm nghiệp, Nhà nước đã giao cho các nông
trường, lâm trường trực tiếp sản xuất nông lâm nghiệp; Đất lâm nghiệp, Nhà
nước giao cho các Ban Quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng....


14

- Căn cứ để giao khoán: Căn cứ vào quỹ đất đã được Nhà nước giao cho
các tổ chức của Nhà nước; dự án khả thi hoặc dự án đầu tư đã được cấp có thẩm
quyền phê duyệt; Vốn, lao động bên nhận khoán; các chính sách đầu tư hỗ trợ
của Nhà nước và chính sách lao động - xã hội liên quan.
- Thời hạn giao khoán: Rừng phòng hộ, rừng đặc dụng là 50 năm; rừng sản
xuất theo chu kỳ kinh doanh.
Đến năm 2003 luật đất đai mới ra đời, được thông qua ngày 26/11/2003 và
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004. Luật bao gồm 7 chương với 146 điều
luật khác nhau. Nội dung chủ yếu là:
- Làm rõ nội dung quyền sở hữu toàn dân về đất đai với những quyền định
đoạt, quyền hưởng lợi cụ thể và vai trò của nhà nước với tư cách là người chủ sở
hữu.
- Hoàn chỉnh chính sách đất đai đối với khu vực nông nghiệp, phù hợp với
nền kinh tế thị trường và tạo điều kiện đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
- Thiết lập sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, xoá bỏ sự khác biệt
giữa người Việt nam và người nước ngoài.
- Xoá bỏ bao cấp về đất đai trên cơ sở coi đất đai là nguồn vốn, nguồn nội
lực của đất nước và phải được định giá theo cơ chế thị trường.
- Khuyến khích phát triển giao dịch dân sự về quyền sử dụng đất, hạn chế
sự can thiệp về hành chính không cần thiết, khắc phục những bất cập về chính

sách, pháp luật trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất vì mục đích
quốc gia.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vưcj quản lý đất đai bằng cách
phân cấp toàn bộ quyền quyết định giao đất , cho thuê đất cho địa phương.
Quy định với người sử dụng đất, bao gồm: Các tổ chức cơ quan nhà nước,
tổ chức chính trị, xã hội, lực lượng vũ trang, hộ gia đình, cá nhân, công đồng dân


15

cư người Việt Nam , cơ sở tôn giáo thì được nhà nước giao, công nhận hoặc cho
thuêquyền sử dụng đất. Còn các tổ chức nước ngoài, người Việt nam định cư ở
nước ngoài về đầu tư thì đựơc thuê đất.
Trong luật đất đai mới này cũng có những điều khoản quy định về việc
giao, cho thuê và chuyển đổi mục đích sử dụng thời hạn và hạn mức sử dụng các
loại đất rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng.
1.1.2.2. Tình hình thực hiện chính sách giao đất lâm nghiệp ở Việt nam
- Thời kỳ 1968 - 1982: đây là thời kỳ phát triển quốc doanh và hợp tác xã,
ở giai đoạn này Nhà nước mới khuyến khích và công nhận sự tồn tại 2 thành
phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh lâm nghiệp (Lâm trường quốc doanh) và hợp
tác xã trong kinh doanh rừng. Năm 1975 miền Nam giải phóng có Tập đoàn sản
xuất cũng được giao đất lâm nghiệp. Các chủ chương, chính sách chủ yếu trong
thời kỳ này có: Thông báo số 18 TB/TVV ngày 23/10/1968 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng có ghi “Nhà nước cần giao cho Hợp tác xã sử dụng một số đất
hoang hoặc rừng cây để kinh doanh nghề rừng, Hợp tác xã sẽ được hưởng lợi tuỳ
theo công sức của mình bỏ ra”. Tiếp đến là Quyết định số 179/CP ngày
12/11/1968 của Hội đồng Chính phủ về việc đẩy mạnh trồng rừng, bảo vệ rừng
và giao đất giao rừng cho Hợp tác xã kinh doanh. Để thực hiện chính sách giao
đất lâm nghiệp cho các Hợp tác xã, lần đầu tiên Hội đồng Chính phủ đã ban hành
Quyết định 272/CP ngày 3/10/1977 về việc ban hành chính sách đối với Hợp tác

xã mở rộng diện tích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng vùng kinh tế
mới, thực hiện định canh định cư, tiếp sau đó Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Quyết định số 184-HĐBT ngày 6/11/1982 đẩy mạnh giao đất lâm nghiệp cho tập
thể và cá nhân trồng cây gây rừng
Việc tổ chức thực hiện giao đất lâm nghiệp trong giai đoạn này còn nhiều
thiếu sót do nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của người dân trong kinh doanh,
việc tổ chức thực hiện giao đất lâm nghiệp thiếu chặt chẽ, làm ồ ạt hình thức,


16

chạy theo số lượng diện tích, chưa có quy hoạch đất đai, chưa phân 3 loại rừng
và xác định giao đất lâm nghiệp cho từng đối tượng cụ thể 10.
- Thời kỳ 1983 - 1992:
+ Từ năm 1983 - 1989: đã giao được 1.934.000 ha cho 1.724 Hợp tác xã,
610 cơ quan, trường học và cho 349.750 hộ gia đình.
+ Từ năm 1989 - 1992: đã giao được 796.000 ha cho 440.000 hộ gia đình
và 5,8 triệu ha cho khu vực quốc doanh.
Sau 24 năm thực hiện giao đất lâm nghiệp từ 1968 - 1992 cả nước đã giao
được tổng số hơn 11 triệu ha, trong đó 5,8 triệu ha cho khu vực quốc doanh, 3,7
triệu ha cho Hợp tác xã nông nghiệp và 1,53 triệu ha cho hộ gia đình.
Việc tổ chức thực hiện giao đất lâm nghiệp trong giai đoạn đầu từ 1968 1982 còn nhiều thiếu sót do nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của người dân
trong kinh doanh, việc tổ chức thực hiện giao đất lâm nghiệp thiếu chặt chẽ, làm
ồ ạt hình thức, chạy theo số lượng diện tích, chưa có quy hoạch đất đai, chưa
phân 3 loại rừng và xác định giao đất lâm nghiệp cho từng đối tượng cụ thể. Có
thể thấy rằng, việc tổ chức thực hiện chủ trương giao đất lâm nghiệp trong thời
kỳ này của Ngành lâm nghiệp là nghiêm túc, cụ thể, có những bước đi cơ bản và
đã đạt được những thành tựu đáng kể 10. Công tác giao đất giao rừng thời kỳ
này có những tiến bộ đáng kể đã mang lại sự khởi sắc cho nghề rừng nước ta
19, đã tạo động lực phát triển kinh tế nông lâm nghiệp ở miền núi, bước đầu đã

hình thành nên thị trường ở trung du miền núi.
- Thời kỳ từ 1993 đến nay:
Sau khi luật đất đai năm 1993 ra đời, Chính phủ ban hành Nghị định
02/CP, Nghị định 01/CP, Nghị định 163/CP... Sự ra đời của các chính sách này
nhằm gắn lao động với đất đai, tạo thành động lực để phát triển sản xuất lâm
nông ngư nghiệp, công tác giao đất lâm nghiệp được thực hiện theo những
nguyên tắc và quy định mới.


17

Theo báo cáo của Cục Kiểm lâm, tính đến năm 2008, đã có 77,5 tổng diện
tích đất lâm nghiệp cả nước đã giao. Trong quá trình thực hiện công tác giao đất
lâm nghiệp theo Nghị định 02/CP, có một số tỉnh làm tốt công tác này điển hình
là tỉnh Thanh Hoá đã thực hiện việc giao đất lâm nghiệp theo đúng các văn bản
quy phạm, pháp luật về giao đất lâm nghiệp mà trọng tâm là giao tới hộ gia đình,
giao đến đâu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngay đến đó, hồ sơ giao đất
được lưu trữ trong máy vi tính. Tỉnh Bắc Thái đã chủ động cấp kinh phí để thực
hiện việc giao đất lâm nghiệp, sử dụng lực lượng các đội điều tra quy hoạch rừng
ở Trung ương làm các thủ tục giao đất, có hệ thống thống kê lưu trữ hồ sơ từ
Chi cục Kiểm lâm - Hạt Kiểm lâm - xã, phường 10.
Chính sách giao rừng cùng với các chính sách hỗ trợ của Nhà nước trong
thời gian qua đã tạo điều kiện khai thác tiềm năng, lao động, tiền vốn tại chỗ.
Tình trạng chặt phá rừng đã bị hạn chế, rừng trồng đạt tỷ lệ sống cao, đã xuất
hiện nhiều mô hình trang trại nông lâm nghiệp, mô hình kinh tế hộ gia đình có
hiệu quả kinh tế cao, tạo công ăn việc làm nâng cao thu nhập cải thiện đời sống
người dân, một bộ phận người dân đã giàu lên từ sản xuất kinh doanh trên đất
được giao, mở hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường tiêu thụ ở nhiều nơi,
góp phần xoá đói giảm nghèo, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn miền núi.
1.2. Những nghiên cứu về giao đất lâm nghiệp ở Việt Nam

Trong những năm vừa qua, đã có những dự án, những công trình nghiên
cứu về công tác giao đất lâm nghiệp ở nước ta, mỗi dự án, mỗi công trình nghiên
cứu đều có những cách tiếp cận riêng đối với tác động của chính sách này tới sự
phát triển kinh tế xã hội ở mỗi vùng.
Dự án “ Đổi mới chiến lược ngành lâm nghiệp” đây là dự án xuất phát từ
yêu cầu cấp bách của nước ta sau khi ban hành Luật bảo vệ phát triển rừng năm
1991. Mục tiêu của dự án là bằng quá trình tìm tòi học hỏi và hợp tác để góp
phần tìm ra các giải pháp chiến lược nhằm từng bước thực thi có hiệu quả mục


18

tiêu phát triển ngành lâm nghiệp trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Dự án đã
góp phần xây dựng phương pháp mới về giao đất lâm nghiệp, trên cơ sở học tập
kinh nghiệm của các năm trước và dựa vào các văn bản pháp quy liên quan đến
Luật đất đai, Luật bảo vệ phát triển rừng.
Đề tài “Định hướng và các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội
nông thôn miền núi” của tác giả Trần Thanh Bình, đã đưa ra một số khuyến nghị
nhằm góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội nông thôn miền núi 23.
Đề tài “Những định hướng và giải pháp bước đầu nhằm đổi mới việc giao
đất giao rừng ở miền núi” của Nguyễn Đình Tư đã xem xét tình hình giao đất từ
năm 1968 - 1992, đánh giá được thực trạng sau khi nhận đất, nhận rừng, đề tài
cũng đã chỉ ra được những định hướng và những giải pháp cơ bản nhằm đổi mới
công tác giao đất lâm nghiệp ở miền núi 23.
Công trình “Tăng cường công tác giao đất lâm nghiệp và khuyến khích
trồng rừng trên đất được giao”, của tác giả Đoàn Diễm đã đưa ra những tồn tại
trong việc quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp, đưa ra những kiến nghị
đẩy nhanh tiến độ quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp trong thời gian
tới 2.
Đề tài” Tìm hiểu tác động của giao đất giao rừng đến phát triển kinh tế - xã

hội - môi trường tại xã Văn Lăng huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên”của nhóm
tác giả trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên (Đặng Kim Vui, Lý Văn Trọng,
Lê Sỹ Trung) đã tiến hành đánh giá hiệu quả của việc thực hiện chính sách giao
đất lâm nghiệp trên phạm vi ở một xã miền núi 28.
Báo cáo” Người nông dân mong muốn được lợi ích gì trên đất được giao
để trồng rừng” của Phạm Sinh đã đề xuất một số quan điểm có liên quan đến lợi
ích của người trồng rừng và nêu nên một số mong muốn của họ khi nhận đất
nhận rừng để sản xuất kinh doanh 16.


19

Hội thảo với chủ đề “Chủ rừng và lợi ích của chủ rừng trong kinh doanh
rừng trồng”, do Vụ Chính sách, Vụ Hợp tác quốc tế, Cục Phát triển lâm nghiệp Bộ Nông nghiệp và PTNT phối hợp tổ chức tại thị xã Sầm Sơn tỉnh Thanh Hoá,
từ ngày 13 đến 15/7/1998 đã xem xét nghiên cứu khuôn khổ pháp lý và tác động
của hệ thống pháp lý đang tồn tại đối với từng loại chủ rừng
Hội thảo quốc gia với chủ đề “Chính sách và thực tiễn phục hồi rừng ở
Việt Nam” do Cục Phát triển lâm nghiệp phối hợp với một số tổ chức quốc tế
IUCN, GTZ, WWF tổ chức vào tháng 11 năm 1999 tại Hoà Bình đã phân tích
những nguyên nhân mất và suy thoái rừng đồng thời chỉ ra những tồn tại trong
quá trình giao đất lâm nghiệp: Quá trình giao đất lâm nghiệp diễn ra tương đối
chậm chạp và chưa mang lại cảm giác thoải mái về quyền sở hữu cho các hộ gia
đình và các cộng đồng địa phương. Có hai nguyên nhân chính đó là khả năng có
hạn của các cơ quan được giao nhiệm vụ để thực hiện qúa trình giao đất một
cách hữu hiệu, cũng như thời hạn và điều kiện hạn chế đi kèm với quá trình giao
đất 11.
Đề tài “ Đánh giá hiệu quả sử dụng đất lâm nghiệp Nhà nước giao cho hộ
gia đình” của tác giả Nguyễn Thị Lai - Viện Khoa học lâm nghiệp đã tiến hành
đánh giá hiệu quả kinh tế của các hộ gia đình đã thực hiện trên đất lâm nghiệp
trên cơ sở đó đề ra những khuyến nghị thiết thực với mục đích nâng cao hiệu quả

sử dụng đất tại huyện Yên Bình tỉnh Bắc Thái, đề tài đã tiến hành đánh giá hiệu
quả kinh tế của việc canh tác các mô hình sản xuất chính trên đất lâm nghiệp
được giao của hộ gia đình 17.
Lê Trọng Hùng (2009) trong nghiên cứu đánh giá tác động của chính sách
giao đất lâm nghiệp đến nông hộ ở quy mô cấp xã đã chỉ ra rằng giao đất giao
rừng có tác động tích cự đên sinh kế của người dân tuy nhiên hiệu quả chưa cao
do nhiều nguyên nhân từ quá trình giao đất đến các chính sách hỗ trợ.


20

Đặng Kim Sơn (2009) khi nghiên cứu ảnh hưởng của chính sách ở tầm vĩ
mô cũng cho rằng việc giao đất lâm nghiệp đã bước đầu khuyến khích người
dân đầu tư và sử dụng đất có hiệu quả hơn, nhưng tác động còn rất hạn chế đối
với các hộ nghèo ở vùng sâu vùng xa do thiếu các chính sách hỗ trợ cả từ lĩnh
vực tín dụng, kỹ thuật, thị trường và thông tin.
1.3. Giao đất, giao rừng ở Thanh Hóa
Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 1.112.033 ha, trong đó đất sản xuất lâm
nghiệp 553.999 ha; với diện tích đất có rừng là 484.246 ha.
Thực hiện Nghị định 02/CP, từ 1995-1999 tỉnh Thanh Hóa đã tổ chức
giao đất lâm nghiệp cho 97.117 hộ gia đình với diện tích 315.184 ha; Ngày
16/11/1999 Chính phủ ban hành Nghị định số 163/1999/NĐ-CP về giao đất, cho
thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài
vào mục đích lâm nghiệp. Từ năm 2000 đến nay tiếp tục giao đất lâm nghiệp bổ
sung và chia tách nhóm hộ. Theo số liệu thống kê đến hết tháng 6 năm 2009 toàn
tỉnh đã giao đất lâm nghiệp cho 113.419 hộ gia đình, diện tích 338.741,81 ha .
Hiện nay, huyện Như Thanh tỉnh Thanh hoá cơ bản hoàn thành việc giao
đất lâm nghiệp cho các doanh nghiệp, tập thể, hộ gia đỡnh với diện tớch gần
44.000 ha rừng và đất rừng. Sau khi được giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nhiều hộ gia đình, cá nhân đã ý thức được vai trò làm chủ của mình

trên diện tích đất lâm nghiệp được giao và lợi ích kinh tế từ rừng, do vậy đã có
bước chuyển đổi về cơ cấu đầu tư và thu nhập của hộ gia đình. Người nhận đất,
nhận rừng đã thực sự làm chủ trên mảnh đất của mình và yên tâm đầu tư để trồng
rừng, khoanh nuôi bảo vệ rừng. Nhiều hộ gia đình có diện tích đất lâm nghiệp
liền kề đã liên kết với nhau để bảo vệ và phát triển rừng, tình hình an ninh rừng
trên diện tích được giao tương đối ổn định. Nhiều hộ gia đình đã đầu tư lao động,
tiền vốn để tái tạo rừng.


21

Xã Hải Vân đã thực hiện giao đất, giao rừng cho các hộ gia đình với tổng
diện tích rừng và đất lâm nghiệp là 898,61 ha. Từ khi chính quyền giao đất lâm
nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định vào mục đích lâm nghiệp cho tới
nay, chưa có một nghiên cứu nào về tác động, ảnh hưởng của công tác giao đất lâm
nghiệp tới sản xuất kinh doanh của hộ gia đình trên địa bàn. Xuất phát từ những
thực tế trên, luận văn “Nghiên cứu ảnh hưởng của chính sách giao đất, giao
rừng đến kinh tế hộ tại xã Hải Vân - huyện Như Thanh - tỉnh Thanh Hoá” được
thực hiện với hy vọng góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.


22

CHƯƠNG II
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu của đề tài:
2.1.1.Mục tiêu tổng quát:


Đánh giá tác động của công tác giao đất giao rừng nhằm hoàn thiện
quá trình thực hiện chính sách giao đất lâm nghiệp và nâng cao hiệu quả sử
dụng đất lâm nghiệp được giao tại xã Hải Vân - huyện Như Thanh - tỉnh
Thanh Hoá.
2.1.2.Mục tiêu cụ thể:
- Tổng kết kết quả thực hiện công tác giao đất lâm nghiệp giao rừng tại
xã Hải Vân - huyện Như Thanh - tỉnh Thanh Hoá;
- Đánh giá được những tác động chủ yếu về kinh tế, xã hội và môi
trường của công tác giao đất lâm nghiệp tới quá trình phát triển kinh tế hộ gia
đình và môi trường tại xã Hải Vân;
- Đề xuất được một số giải pháp nâng cao hiệu quả về công tác giao đât
giao rừng và quản lý sử dụng đất lâm nghiệp đã được giao.
2.2. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Chương trình giao đất, kết quả giao đất lâm nghiệp tại xã Hải Vân và
ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế hộ và môi trường trên địa bàn.
2.2.2. Giới hạn nghiên cứu
- Giới hạn về không gian:
Luận văn tiến hành nghiên cứu tại địa bàn xã Hải Vân, đây là một xã
miền núi của huyện Như thanh -Thanh hoá, quá trình giao đất lâm nghiệp trên
địa bàn xã được triển khai từ năm 1990, trước khi Chính phủ ban hành Nghị
định số 02/CP. Một đặc điểm khác biệt so với hầu hết các xã trong huyện là
trên địa bàn xã có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống. Từ những đặc điểm
này, quá trình thực hiện chính sách giao đất lâm nghiệp và tác động của chính
sách giao đất lâm nghiệp trên địa bàn có những đặc thù riêng.
- Giới hạn về thời gian và nội dung:


23


Do điều kiện về mặt thời gian và các hạn chế khác, luận văn chỉ giới
hạn nghiên cứu trên một số khía cạnh:
- Chương trình giao đất lâm nghiệp theo nghị định 02/CP và khoán bảo
vệ và trồng rừng theo nghị định 01/CP.
- Luận văn đi sâu phân tích tác động của giao đất lâm nghiệp về mặt
kinh tế hộ và môi trường.
2.3. Nội dung nghiên cứu:
- Đánh giá quá trình và kết quả thực hiện chính sách giao đất lâm
nghiệp ở Hải Vân - huyện Như Thanh - tỉnh Thanh Hoá.
- Phân tích tác động của chính sách giao đất lâm nghiệp trên các mặt
kinh tế, xã hội, môi trường.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quá trình thực hiện chính sách
giao đất lâm nghiệp, nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng đất góp phần phát
triển kinh tế xã hội tại địa bàn xã.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Quan điểm và phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu:
Hiện nay hầu hết các địa phương miền núi trong cả nước đã thực hiện
tôt chủ trương giao đất giao rừng và bước đầu đã thu được những kết quả
đáng kể. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác giao đất giao rừng ở nhiều địa
phương vẫn còn nhiều bất cập, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan
đem lại. Vì vậy việc nghiên cứu ảnh hưởng của chính sách giao đất giao rừng
cũng cần phải xem xét theo từng thời kỳ để phù hợp với hiện thực khách
quan.
Chính sách giao đất lâm nghiệp là một bộ phận của hệ thống chính sách
kinh tế xã hội của Nhà nước, khi đi vào thực tiễn đã có những tác động trên
nhiều khía cạnh, bao gồm cả những tác động trực tiếp và gián tiếp ở những
mức độ khác nhau đối với mỗi địa phương. Việc nghiên cứu đánh giá tác
động của chính sách giao đất lâm nghiệp của luận văn được tiến hành thông
qua một số chỉ tiêu đánh giá, bao gồm một số chỉ tiêu định lượng và một số
chỉ tiêu định tính về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường ở quy mô cấp xã.



24

Khung phân tích của đề tài được khái quát hóa theo sơ đồ sau:
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu thực trạng
GĐGR

Khảo sát sơ bộ địa bàn
nghiên cứu

Lựa chọn thôn, bản nghiên
cứu
Điều tra thực trạng
GĐGR ở địa phương

Điều tra thực trạng
kinh tế - Xã hội, ĐKTN

Đánh giá ảnh hưởng của
giao đất giao rừng
Ảnh hưởng đến
kinh tế hộ gia đình

Thay đổi
cơ cấu
sử dụng
đất


Thay đổi
P/thức
canh
tác đất

Thay
đổi cơ
cấu chi
phí,
thu
nhập
hộ

Ảnh hưởng đến
môi trường

Thay
đổi
xã hội
khác

Độ
che
phủ

Tính
chất
đất


Phân tích đánh giá

Đề xuất giải pháp

Hình 2.1: Sơ đồ tóm tắt quá trình nghiên cứu

Phòng
chống
xói
mòn


×