Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Thực trạng bạo lực học đường ở học sinh trường THCS Cam Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội năm học 2015 2016 và một số yếu tố liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (757.04 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
VIỆN ĐÀO TẠO Y HỌC DỰ PHÒNG VÀ Y TẾ CÔNG CỘNG

-----ššššš-----

NGUYỄN PHƯƠNG MAI

THùC TR¹NG B¹O LùC HäC §¦êNG ë HäC SINH
TR¦êNG THCS CAM TH¦îNG, HUYÖN BA V×, THµNH
PHè Hµ NéI N¡M HäC 2015-2016 Vµ MéT Sè YÕU Tè
LI£N QUAN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BÁC SỸ Y KHOA
KHÓA 2010-2016

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. VŨ KHẮC LƯƠNG
HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp tiến hành đề tài nghiên cứu, với lòng kính trọng và biết ơn sâu
sắc, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới:
Ban giám hiệu trường Đại học Y Hà Nội
Viện đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, trong sâu thẳm trái tim, tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS.VŨ
KHẮC LƯƠNG - người thầy đã trực tiếp dìu dắt, hướng dẫn, tạo mọi điều
kiện tốt nhất và giúp đỡ tôi tận tình trong suốt quá trình học tập tại trường và


trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo, phụ huynh và các
em học sinh trường THCS Cam Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội - đối
tượng tham gia nghiên cứu, đã góp phần quyết định thành công của khóa luận.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cha mẹ, anh chị em, cùng
bạn bè tôi đã luôn ở bên động viên, khuyến khích, giúp đỡ tôi rất nhiều trong
suốt sáu năm học tại trường Đại học Y Hà Nội, cũng như trong thời gian tôi
làm khóa luận tốt nghiệp.
Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2016

Nguyễn Phương Mai


LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi:
Phòng đào tạo Đại học – Trường Đại học Y Hà Nội
Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công Cộng
Hội đồng chấm khóa luận tốt nghiệp bộ môn Tổ chức và Quản lý y tế.
Tôi xin cam đoan đề tài “Thực trạng bạo lực học đường ở học sinh
trường THCS Cam Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội năm học
2015- 2016 và một số yếu tố liên quan” là do tôi tự thu thập số liệu, nhập và
phân tích số liệu, các số liệu trong đề tài là hoàn toàn trung thực và chưa từng
được công bố tại bất kì nghiên cứu nào.
Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2016

Nguyễn Phương Mai


DANH MỤC VIẾT TẮT
BL


Bạo lực

BLHĐ

Bạo lực học đường

Bộ GD – ĐT

Bộ Giáo dục và đào tạo

CDC

Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch
bệnh Hoa Kỳ

ĐTNC

Đối tượng nghiên cứu

HS

Học sinh

THCS

Trung học cơ sở

THPT


Trung học phổ thông

WHO

World Health Organization
Tổ chức Y tế Thế giới


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ..................................................................................................1
Chương 1..........................................................................................................3
TỔNG QUAN..................................................................................................3
1.1. Khái niệm về bạo lực và bạo lực học đường..........................................3
1.1.1. Bạo lực và cách phân loại bạo lực...................................................3
1.1.2. Bạo lực học đường và cách phân loại bạo lực học đường...............5
1.2. Thực trạng bạo lực học đường trên thế giới và tại Việt Nam.................7
1.2.1. Bạo lực học đường trên thế giới......................................................7
1.2.2. Bạo lực học đường tại Việt Nam...................................................10
1.3. Một số yếu tố liên quan tới bạo lực học đường....................................14
1.3.1. Yếu tố cá nhân...............................................................................14
1.3.2. Yếu tố mối quan hệ........................................................................16
1.4. Giới thiệu về nơi nghiên cứu................................................................21
1.4.1. Đặc điểm tự nhiên- kinh tế- xã hội................................................21
1.4.2. Trường THCS Cam Thượng..........................................................22
Chương 2........................................................................................................23
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................23
2.1. Sơ đồ lý thuyết nghiên cứu...................................................................23
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu........................................................24
2.3. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................24
2.4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................25

2.4.1. Thiết kế nghiên cứu.......................................................................25
2.4.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu............................................................25
2.4.3. Biến số, chỉ số...............................................................................27
2.5. Xử lý và phân tích số liệu.....................................................................30
2.6. Sai số và cách khống chế sai số............................................................30
2.7. Đạo đức trong nghiên cứu....................................................................31
Chương 3........................................................................................................33


KẾT QUẢ.......................................................................................................33
3.1. Thông tin chung của học sinh tham gia nghiên cứu.............................33
3.2. Thực trạng về bạo lực học đường.........................................................34
3.2.1. Thực trạng chung về bạo lực học đường.......................................34
3.2.2. Thực trạng bạo lực học đường theo một số đặc tính của học sinh 41
3.3. Mối liên quan giữa bạo lực học đường và các yếu tố...........................45
Chương 4........................................................................................................49
BÀN LUẬN....................................................................................................49
4.1. Thông tin chung của học sinh tham gia nghiên cứu.............................49
4.2. Thực trạng về bạo lực học đường.........................................................49
4.2.1. Thực trạng chung về bạo lực học đường.......................................49
4.2.2. Thực trạng về hành vi bạo lực học đường ở học sinh trường THCS
Cam Thượng.................................................................................52
4.2.3. Thực trạng về tình trạng bị bạo lực học đường của học sinh trường
THCS Cam Thượng......................................................................54
4.3. Các yếu tố liên quan tới bạo lực học đường.........................................56
4.3.1. Các yếu tố liên quan tới hành vi bạo lực học đường.....................56
4.3.2. Các yếu tố liên quan tới tình trạng bị bạo lực học đường.............59
KẾT LUẬN....................................................................................................63
KHUYẾN NGHỊ............................................................................................65
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Cỡ mẫu, phương pháp chọn mẫu và phương pháp thu thập
thông tin.........................................................................................................26
Bảng 2.2. Biến số và chỉ số chung.................................................................27
Bảng 2.3. Biến số và chỉ số cho mục tiêu 1..................................................27
Bảng 2.4. Biến số và chỉ số cho mục tiêu 2..................................................29
Bảng 3.1. Tỷ lệ học sinh thực hiện hành vi bạo lực học đường.................34
Bảng 3.2. Tỷ lệ học sinh là nạn nhân bạo lực học đường...........................35
Bảng 3.3. Hành vi BLHĐ theo một số đặc điểm chung của học sinh.......41
Bảng 3.4. Bị BLHĐ theo một số đặc điểm chung của học sinh.................43
Bảng 3.5. Liên quan giữa một số yếu tố với thực hiện hành vi bạo lực
chung của học sinh........................................................................................45
Bảng 3.6. Liên quan giữa một số yếu tố với tình trạng bị bạo lực chung
của học sinh....................................................................................................46


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ giới tính của học sinh tham gia nghiên cứu (n=286)....33
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ khối lớp của học sinh tham gia nghiên cứu (n=286)....34
Biểu đồ 3.3. Phân loại bạo lực học đường của đối tượng học sinh............35
Biểu đồ 3.4. Tình trạng thực hiện hành vi bạo lực theo nhóm..................36
Biểu đồ 3.5. Tình trạng bị bạo lực bởi nhóm..............................................36
Biểu đồ 3.6. Lý do thực hiện hành vi bạo lực của học sinh........................37
Biểu đồ 3.7. Tỷ lệ phản ứng của học sinh khi nhìn thấy các vụ bạo lực tại
trường (n=286)...............................................................................................38
Biểu đồ 3.8. Địa điểm thường xảy ra các vụ bạo lực..................................38
Biểu đồ 3.9. Hậu quả của bạo lực học đường..............................................39

Biểu đồ 3.10. Phản ứng của học sinh khi là nạn nhân của BLHĐ............40


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bạo lực là vấn đề của con người ở mọi thời đại, mọi quốc gia và mọi
nền văn hóa. Trong cuộc sống, con người ở mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề đều
có nguy cơ bị bạo lực. Bạo lực là hành vi cố ý sử dụng hoặc đe dọa sử dụng
vũ lực hoặc quyền lực để tự hủy hoại mình, chống lại người khác hoặc một
nhóm người, một tập thể cộng đồng làm họ bị tổn thương hoặc có nguy cơ bị
tổn thương hoặc tử vong hoặc bị sang chấn tâm thần, ảnh hưởng đến sự phát
triển của họ hoặc gây ra các ảnh hưởng khác .
Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước, là người sẽ góp phần xây
dựng quê hương, đất nước giàu mạnh trong tương lai. Tuổi vị thành niên là
giai đoạn phát triển rất cao về thể chất và có nhiều sang chấn, biến đổi trong
tâm lý hết sức phức tạp. Chính yếu tố tâm lý cũng như thể chất và nhân cách
chưa hoàn thiện một cách đầy đủ này khiến cho trẻ em trong lứa tuổi này hay
bị khủng hoảng về tâm lý dẫn đến những suy nghĩ và hành động sai lệch. Bạo
lực học đường (BLHĐ) là một phần của bạo lực giới trẻ, xảy ra trong khuôn
viên nhà trường, trên đường tới trường, hoặc từ trường về hay trong các hoạt
động do nhà trường tổ chức. Nó không phải là các lời nói, cử chỉ trêu chọc,
thân thiện khi vui đùa giữa các em . Bạo lực trong lứa tuổi học đường, tuy
không phải là vấn đề mới mẻ nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy xu
hướng bùng phát mạnh mẽ, mức độ và tính chất của hành vi này ngày càng
nguy hiểm ở Việt Nam . Nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào thực hiện
tại xã Cam Thượng - một xã thuộc huyện Ba Vì, ngoại thành Hà Nội. Kết quả
phỏng vấn cô Phan Thị Hiền- hiệu trưởng trường THCS Cam Thượng những năm gần đây, nhà trường đã ghi nhận bạo lực trong học sinh diễn ra cả
trong và ngoài trường học, đặc biệt xuất hiện những xô xát xuất phát từ những
mâu thuẫn, xích mích trên mạng xã hội đầy phức tạp . Với câu hỏi đặt ra: thực



2

trạng bạo lực học đường ở học sinh trường THCS Cam Thượng hiện nay như
thế nào? Yếu tố nào liên quan đến vấn đề bạo lực học đường ở học sinh? Từ
những nhu cầu trên, đề tài nghiên cứu: “Thực trạng bạo lực học đường ở
học sinh trường THCS Cam Thượng huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
năm học 2015- 2016 và một số yếu tố liên quan” được tiến hành với mục
tiêu nghiên cứu:
1.

Mô tả thực trạng bạo lực học đường ở học sinh trường THCS Cam
Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội năm học 2015- 2016.

2.

Phân tích một số yếu tố liên quan đến hành vi bạo lực học đường ở
học sinh trường trên đây.


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm về bạo lực và bạo lực học đường
1.1.1. Bạo lực và cách phân loại bạo lực
•Khái niệm bạo lực
Định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thì: “Bạo lực là hành vi cố
ý sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực hoặc quyền lực để tự hủy hoại mình,

chống lại người khác hoặc một nhóm người, một tập thể cộng đồng làm họ bị
tổn thương hoặc có nguy cơ bị tổn thương hoặc tử vong hoặc bị sang chấn
tâm thần, ảnh hưởng đến sự phát triển của họ hoặc gây ra các ảnh hưởng
khác” .
Định nghĩa này của WHO bao gồm cả những hành vi cố ý gây thương
tích giữa người với người và hành vi tự sát cũng như xung đột vũ trang. Với
bản chất như vậy thì bạo lực cũng có thể là những hình thức chém giết, đánh
đập, hành hạ nhau về mặt thể xác, nhưng cũng có thể là trấn áp, đe dọa, gây
sức ép về mặt tâm lý, tâm thần. Điều này phản ánh sự công nhận bạo lực
không nhất thiết phải dẫn đến tử vong hay thương tích mà còn gây ra ảnh
hưởng về tinh thần, đặt ra gánh nặng đáng kể với cá nhân, gia đình, xã hội và
hệ thống chăm sóc sức khỏe. Định nghĩa trên đã gạt bỏ đi sự cố không chủ ý,
những sự kiện xảy ra ngoài ý muốn (ví dụ tai nạn giao thông, tai nạn lao động,
cháy nổ, bỏng…) không được coi là bạo lực.
•Phân loại bạo lực
Tổ chức Y tế Thế giới đã phân loại bạo lực dựa trên sự khác nhau giữa
bạo lực của một người tự gây ra cho chính mình hay gây ra bởi nhiều người
khác, bởi một nhóm ít người hay nhiều người như các tổ chức chính trị, tổ


4

chức khủng bố, nhóm quân sự… Dưới đây là sự phân loại bạo lực theo phạm
vi bạo lực hoặc loại hành vi bạo lực, mỗi loại được chia nhỏ hơn phản ánh
nhiều loại bạo lực chi tiết hơn nữa .
a. Phạm vi bạo lực
- Bạo lực tự định hướng: được chia làm 2 thể chính.
+ Hành vi tự sát: bao gồm các hành vi nghĩ đến tự sát, cố gắng tự sát
nhưng chưa thành và tự sát thành công.
+ Tự ngược đãi bản thân: là các hành động tự hành hạ bản thân.

- Bạo lực giữa các cá nhân: cũng chia làm 2 thể chính.
+ Bạo lực gia đình và bạo lực tình dục: thể loại bạo lực này rất phổ biến
giữa các thành viên trong gia đình và với đối tác thân mật, đối tác quan hệ
tình dục, thông thường (nhưng không phải nhất thiết) hay xảy ra trong nhà.
Thể loại bạo lực này bao gồm các hình thức như lạm dụng trẻ em, bạo lực tình
dục, hành hạ người cao tuổi,…
+ Bạo lực cộng đồng: bạo lực xảy ra giữa các cá nhân không có mối
quan hệ ruột thịt, họ có thể quen biết nhau hoặc không quen biết nhau trước
đây, thường xảy ra ở ngoài. Thể loại bạo lực này bao gồm bạo lực ở giới trẻ,
các hành động bạo lực ngẫu nhiên, hiếp dâm hoặc quấy rối tình dục bởi người
lạ và các hành động bạo lực xảy ra tại các cơ quan như trường học, công sở,
nhà tù…
- Bạo lực chung (bạo lực có tổ chức): bạo lực này chia làm 3 thể.
+ Bạo lực xã hội: các bạo lực cam kết thúc đẩy chương trình nghị sự xã
hội như bạo lực đám đông, bạo lực của các tổ chức tội phạm, khủng bố,...
+ Bạo lực chính trị: các cuộc chiến tranh và xung đột, bạo lực nhà nước,..
+ Bạo lực kinh tế: cuộc tấn công của các nhóm lớn vì lợi ích kinh tế như
các cuộc tấn công được thực hiện với mục đích gây rối loạn các hoạt động
kinh tế, từ chối truy cập đến dịch vụ thiết yếu,...


5

b. Loại hành vi bạo lực
- Bạo lực thể chất
- Bạo lực tình dục
- Bạo lực tinh thần
- Kỳ thị/ phân biệt đối xử/ hắt hủi/ xa lánh/ thờ ơ.
Bốn loại hành vi bạo lực này xảy ra bên trong của mỗi loại phạm vi bạo
lực. Ví dụ như bạo hành trẻ em trong gia đình có thể bao gồm các loại hành vi

bạo lực như bạo lực thể chất, bạo lực tình dục, bạo lực tinh thần cũng như kì
thị, xa lánh. Bạo lực cộng đồng có thể gồm bạo lực thể chất, bạo lực tình dục
ở nơi làm việc, kì thị, xa lánh người cao tuổi. Bạo lực chính trị có thể bao
gồm bạo lực tình dục trong các cuộc xung đột, chiến tranh, bạo lực thể chất và
bạo lực tâm lý,...
1.1.2. Bạo lực học đường và cách phân loại bạo lực học đường
•Khái niệm bạo lực học đường
Theo trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), bạo
lực học đường là một phần của bạo lực giới trẻ, xảy ra trong khuôn viên nhà
trường, trên đường tới trường, hoặc từ trường về hay trong các hoạt động do
nhà trường tổ chức. Nó không phải là các lời nói, cử chỉ trêu chọc, thân thiện
khi vui đùa giữa các em .
Bắt nạt học đường: là một hành động đối xử thô bạo trong giới học sinh
với nhau. Các hành vi bắt nạt bao gồm bạo lực về thể chất (đá, đấm,...) cho
đến việc sử dụng lời nói (đặt tên hay đe dọa) và bạo lực tinh thần như lời đồn,
xa lánh, cô lập .
Bạo lực học đường là thuật ngữ để chỉ các hành vi làm tổn hại đến thể
chất, tinh thần và vật chất của người khác dưới những hình thức khác nhau
diễn ra trong môi trường học đường. Còn hành vi BLHĐ được hiểu là hành vi


6

sử dụng sức mạnh từ một khách thể hay nhóm khách thể này đến khách thể
khác làm tổn hại đến thể chất, tinh thần và vật chất của người khác dưới
những hình thức khác nhau diễn ra trong môi trường học đường .
• Phân loại bạo lực học đường
Bạo lực học đường được chia thành 4 nhóm dựa trên phân loại của một
số nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam , , , .
- Bạo lực thể chất: bao gồm các hành vi vũ lực như đánh, đá, đấm, tát,

dứt tóc, kéo tai, xé quần áo, trấn lột, cướp đồ vật...của một học sinh hoặc một
nhóm học sinh khác.
- Bạo lực bằng lời nói: là việc sử dụng lời nói có dụng ý đe dọa làm
người khác sợ hãi hay gán/ gọi biệt danh (mang ý nghĩa xấu ), hét lên, cao
giọng, lớn tiếng quát tháo, chế nhạo, chỉ trích, mắng chửi làm tổn thương tinh
thần, sỉ nhục, ép buộc một hay một nhóm học sinh khác làm theo ý mình.
- Bạo lực xã hội: gồm các hành vi như phân biệt đối xử, cô lập, tẩy chay,
tạo/ phát tán tin đồn mang ý nghĩa xấu cho một hoặc một nhóm học sinh khác.
- Bạo lực điện tử: bao gồm các hành vi nhắn tin, gọi điện, sử dụng email,
ảnh cá nhân để uy hiếp, đe dọa, ép buộc một hoặc một nhóm học sinh khác
làm theo ý mình, hay lập và tham gia các hội trên mạng để cô lập, tẩy chay
một hoặc một nhóm học sinh khác.
Như vậy, khái niệm bạo lực học đường có phạm vi rất rộng, bao gồm cả
trong và ngoài trường học và được hiểu là bắt nạt, bạo lực giữa các học sinh
và nhóm học sinh với nhau, xảy ra trên khuôn viên nhà trường, trên đường tới
trường, từ trường về hay trong các hoạt động do nhà trường tổ chức. Theo đó,
bạo lực giữa các học sinh với nhau là cách ứng xử, giải quyết các bất đồng,
mâu thuẫn nảy sinh trong học tập, sinh hoạt trong nhà trường bằng bạo lực.
Khái niệm này không đề cập đến đến hành vi bạo lực giữa giáo viên với học
sinh và ngược lại.


7

1.2. Thực trạng bạo lực học đường trên thế giới và tại Việt Nam
1.2.1. Bạo lực học đường trên thế giới
Bạo lực học đường đang trở thành vấn nạn tại nhiều quốc gia. Theo ước
tính của WHO, năm 2000 có 199.000 thanh thiếu niên trẻ bị giết xảy ra trên
toàn thế giới, có nghĩa là trung bình trên thế giới mỗi ngày có khoảng 565 trẻ
em và thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 10-29 tuổi tử vong do các nguyên

nhân liên quan đến bạo lực. Ở bất kì nơi đâu, tỷ lệ nam là nạn nhân của bạo
lực luôn cao hơn nữ. Điều này chứng tỏ nam giới là nhóm dân số có nguy cơ
cao hơn. Đi đôi với mỗi vụ tử vong do bạo lực trong giới trẻ, trung bình có từ
20-40 nạn nhân phải nhập viện do chấn thương. Các loại súng, súng ngắn là
vũ khí được sử dụng phổ biến trong các vụ bạo lực gây tử vong, trong khi đó
các vụ bạo lực có mức độ nhẹ hơn thưởng sử dụng đấm, đá, và một số loại vũ
khí khác như dao, gậy, dùi cui .
Ở châu Á, bạo lực học đường cũng trở thành một vấn đề nhức nhối của
ngành giáo dục nói chung và toàn xã hội nói riêng. Tổ chức phát triển cộng
đồng tập trung vào trẻ em Plan Internatinonal công bố báo cáo về tình trạng
bạo lực trong các trường học ở châu Á. Báo cáo dựa trên kết quả nghiên cứu
và khảo sát thực tế với 9.000 học sinh ở lứa tuổi 12- 17, các giáo viên, hiệu
trưởng, phụ huynh tại 5 quốc gia: Campuchia, Việt Nam, Indonesia, Pakistan
và Nepal. Theo báo cáo này, tình trạng bạo lực trong các trường học châu Á
đang ở mức báo động. Chỉ tính trong 6 tháng, số học sinh bị bạo lực (ở mọi
hình thức: tinh thần, thể xác…) tại trường học của Indoneisa là 75%, Việt
Nam đứng thứ hai với 71% .
Tại Kolkata, một nghiên cứu cắt ngang về bản chất bạo lực phải chịu
đựng của thanh thiếu niên và xác định các mối quan hệ liên quan đến nền kinh
tế- xã hội và sức khỏe tâm thần trên 370 thanh thiếu niên (182 bé trai và 188


8

bé gái) từ 6 trường Trung học phổ thông. Kết quả cho thấy rằng 52,4%;
25,1% và 12,7% thanh thiếu niên bị tâm lý, thể chất, tình dục trong năm qua.
18,6% vị thành niên đứng chứng kiến bạo lực giữa các thành viên người lớn
trong gia đình. Hơn 61,9% thanh thiếu niên trải qua ít nhất một loại bạo lực,
32,7% bị bạo lực về thể xác hoặc tình dục hoặc cả hai. Bạo lực để lại một vết
“sẹo” trên sức khỏe tinh thần của các nạn nhân .

Không chỉ tại các nước đang phát triển, rất nhiều quốc gia phát triển
cũng đang phải đau đầu với vấn đề bạo lực học đường. Người đứng đầu bang
Queensland, Úc hồi tháng 7/2009 cho biết tình trạng bạo lực học đường ở
nước này đang gia tăng một cách đáng sợ. Riêng trong năm 2008, 55.000 học
sinh trong đó gần một nửa là nữ bị đình chỉ học tập vì vấn đề bạo lực .
Tại Thổ Nhĩ Kỳ, một nghiên cứu trên 2641 học sinh ở độ tuổi từ 10-15
tuổi cho kết quả phổ biến nhất là bạo lực lời nói với 31% học sinh là nạn
nhân, 24% là nạn nhân của bạo lực thể chất, 21% là nạn nhân của bạo lực xã
hội và 8% về tình dục, có sự khác biệt về giới tính khi học sinh nam là nạn
nhân nhiều hơn học sinh nữ . Một nghiên cứu khác điều tra về tình hình bắt
nạt ở học sinh trung học công lập của Thổ Nhĩ Kỳ có 35,5% bị bắt nạt về thể
chất; 33,5% bị bắt nạt về lời nói; 28,3% về tình cảm; 15,6% về tình dục. Có
sự khác biệt giới tính rõ ràng khi các chàng trai luôn trải qua tát, đánh, hành
hung, cười thô lỗ, hay nhiều hơn nữa là bắt nạt về lời nói bao gồm cả gọi tên,
xúc phạm và chửi thề .
Theo trung tâm Thống kê Quốc gia về Giáo dục Mỹ, bạo lực học đường
là một vấn đề nghiêm trọng. Năm 2007, một cuộc điều tra tổng thể toàn quốc
được tiến hành hai năm một lần bởi CDC với mẫu đại diện là các học sinh
trung học Hoa Kì thấy rằng: trong khoảng thời gian 30 ngày trước nghiên cứu,
có 18% trong số đó đã thực hiện một loại vũ khí (dao, súng,..) với tỷ lệ ở nam
giới (28,5%) cao hơn nhiều so với nữ (7,5%) học sinh và 5,5% không đi học ít


9

nhất 1 ngày vì họ cảm thấy họ sẽ không an toàn ở trường hoặc trên đường từ
nhà đến trường hay ngược lại. Trong thời gian 12 tháng trước khi khảo sát,
6,9% học sinh trung học đã cố gắng tự tử; 35,5% học sinh có mặt trong ít nhất
một cuộc chiến có sử dụng vũ lực cũng với tỷ lệ ở nam giới (44,4%) cao hơn
nhiều so với nữ (26,5%) học sinh . Riêng năm 2011, báo cáo của CDC cho

thấy 30% thanh thiếu niên Mỹ từng là nạn nhân, kẻ bắt nạt hay cả hai. Cụ thể
13% báo cáo là kẻ bắt nạt, 11% báo cáo là nạn nhân của vụ bắt nạt, 6% báo
cáo vừa là nạn nhân, vừa là kẻ bắt nạt. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nam giới
thường sử dụng hình thức bạo lực thể chất trong khi hình thức bạo lực bằng
lời nói diễn ra phổ biến hơn ở nữ giới . Năm 2015, nghiên cứu ở học sinh lớp
9-12 cho thấy 8,1% học sinh báo cáo trong một cuộc chiến vật lý; 7,1% báo
cáo họ không đi học trong 1 hoặc nhiều ngày trong vòng 30 ngày trước thời
điểm nghiên cứu bởi vì cảm thấy không an toàn ở trường, trên đường đến
trường hoặc từ trường về nhà; 5,2% mang vũ khí; 6,9% báo cáo bị đe dọa
hoặc bị thương; 14,8% bị bạo lực điện tử trong 12 tháng trước thời điểm
nghiên cứu .
Công trình nghiên cứu của Wang.J và cộng sự năm 2009 đã được nghiên
cứu tại Mỹ với đề tài “ Bắt nạt trường học trong thanh thiếu niên tại Hoa Kì:
thể chất, lời nói, quan hệ và trên điện tử ” ở học sinh lớp 6-10 cho kết quả:
Người thực hiện hành vi bắt nạt người khác ít nhất một lần trong 2 tháng qua
với 13,3% thể chất; 37,4% bằng lời nói; 27,2% xã hội và 8,3% điện tử. Nạn
nhân trong 2 tháng qua là 12,8% thể chất; 36,5% cho lời nói; 41,0% cho quan
hệ; và 9,8% đối với các hình thức mạng. Tỷ lệ thực hiện hành vi bắt nạt, bị
bắt nạt, hoặc cả hai là 20,8% đối với thể chất; 53,6% cho lời nói; 51,4% cho
quan hệ và 13,6% cho mạng. Trong số bắt nạt về thể chất có 38,9% chỉ là
người bắt nạt; 36,0% chỉ là nạn nhân và 26,3% vừa là kẻ bắt nạt, vừa là nạn
nhân. Bắt nạt bằng lời nói có 30,3% chỉ là kẻ bắt nạt; 31,7% chỉ là nạn nhân


10

và 38,1% là kẻ bắt nạt và nạn nhân. Bắt nạt xã hội có 19,1% chỉ là kẻ bắt nạt;
48,1% chỉ là nạn nhân và 32,8% là kẻ bắt nạt là nạn nhân. Bắt nạt điện tử có
27,4% chỉ là người bắt nạt; 40,0% chỉ là nạn nhân và 32,6% là kẻ bắt nạt và
nạn nhân . Nghiên cứu ở học sinh từ lớp 6 đến 10 trong các trường công lập

và tư nhân trên khắp nước Mỹ báo cáo rằng sự tham gia thường xuyên bắt nạt
học đường trong 2 tháng qua là 29,9%, trong đó bao gồm 13,0% là kẻ bắt nạt;
10,6% là nạn nhân và 6,3% là cả hai. Nam giới có nhiều khả năng hơn so với
nữ là kẻ bắt nạt và mục tiêu bắt nạt .
1.2.2. Bạo lực học đường tại Việt Nam.
Ở Việt Nam những năm gần đây, dư luận xã hội lên tiếng khá nhiều về
bạo lực học đường với những lo ngại về sự đa dạng và mức độ nguy hiểm của
hành vi này. Các vụ bạo lực không chỉ gia tăng về số lượng mà còn tăng cả
mức độ nguy hiểm, nó lan rộng ra nhiều địa phương, báo động về thực trạng
suy thoái về đạo đức, lối hành xử bạo lực, thiếu lành mạnh ở một bộ phận của
thế hệ trẻ trong độ tuổi chưa thành niên là học sinh. Những xô xát tưởng
chứng như rất trẻ con ấy lại trở nên nghiêm trọng, không chỉ là những hiện
tượng cá biệt, không chỉ ở một vài trường mà lan rộng cả thành thị và nông
thôn, đồng bằng và miền núi với tốc độ gia tăng đáng kể.
Tại Việt Nam, bạo lực học đường diễn biến ngày một phức tạp. Theo
thống kê của Cục cảnh sát điều tra về trật tự xã hội, từ năm 2003 đến 2010,
trung bình mỗi năm Việt Nam xảy ra khoảng 10.000 vụ phạm tội trong lứa
tuổi vị thành niên; tỷ lệ học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên phạm tội và vi
phạm pháp luật chiếm khoảng ¼ tổng số vụ phạm pháp hình sự xảy ra trên
toàn quốc . Đặc biệt theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT),
trong năm học từ 2003-2009, thống kê từ 38 Sở GD-ĐT có tới hơn 8.000 vụ
học sinh tham gia đánh nhau và bị xử lý kỷ luật. Gần đây, nhiều vụ bạo lực
học đường xảy ra không chỉ ở thành phố mà diễn ra cả ở nông thôn, không chỉ


11

ở học sinh nam mà ở cả học sinh nữ - vốn được coi là “phái yếu” như: nữ sinh
tụ tập đánh nhau “hội đồng”, làm nhục bạn, nam sinh dùng dao, kiếm, mã tấu
chém nhau ngay trong trường học. Ở nhiều nơi, do mâu thuẫn trong tình bạn,

tình yêu đã dùng dao rạch mặt bạn, đâm chết bạn giữa sân trường . Vấn đề
bạo lực học đường ngày càng gia tăng với số lượng chóng mặt, tiếp tục diễn
biến phức tạp, trở thành vấn đề cấp bách ảnh hưởng đến quá trình đào tạo và
phát triển toàn diện của trẻ em- chủ nhân tương lai của đất nước. Chốn học
đường được xem là môi trường an toàn nhưng giờ đây bị ảnh hưởng nghiêm
trọng bởi tình trạng học sinh hành xử nhau theo kiểu xã hội đen. Vấn nạn này
đã khiến các ngành chức năng hết sức quan tâm, là nỗi lo lắng của gia đình và
cả một thế hệ tương lai của đất nước. Bộ GD-ĐT đã công bố kết quả nghiên
cứu từ tháng 3 đến tháng 9/2014 với 3.000 học sinh cho biết có khoảng 80%
học từ trước đến nay bị bạo lực giới ít nhất một lần, 71% bị bạo lực trong
vòng 6 tháng qua. Mức độ an toàn ở nhà trường được các em đánh giá rất
thấp, chỉ 16% học sinh nữ và 19% học sinh nam cho rằng luôn luôn an toàn
trong khuôn viên trường . Không chỉ gia tăng về số lượng, mức độ và tính
chất nguy hiểm của các vụ bạo lực trong học sinh ngày càng nghiêm trọng.
Kết quả điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam ( SAVY)
năm 2003 cho thấy tỷ lệ mang hung khí/vũ khí nói chung là 2,3% tập trung
chủ yếu vào nam thanh thiếu niên ( nam 4% so với nữ 0,5%), riêng tỷ lệ nam
thanh thiếu niên thành thị 14-17 tuổi, 18-21 tuổi mang vũ khí cao hơn nhiều
(6,4% và 9%). 3% nam thanh niên trả lời họ đã từng hành hung một người
khác đến mức người đó phải đi bệnh viện. Đặc biệt là một nghiên cứu trong
trường học tại thành phố Hồ Chí Minh có hơn 10% nam thanh thiếu niên
mang hung khí . Bạo lực học đường hiện nay cũng tồn tại ở hình thức giữa
các em học sinh với nhau với tỷ lệ 16,7% học sinh bị bạn ức hiếp; 35,4% học


12

sinh đã từng bị bạn hù dọa và 10,2% các em không nhận được sự trợ giúp của
bạn bè khi gặp khó khăn .
Một cuộc khảo sát do trường ĐHQGHN vào năm 2008 tại 2 trường

THPT tại quận Đống Đa về tình trạng bạo lực nữ sinh cho thấy nhiều kết quả
đáng lo ngại. Cụ thể, có đến 97,6% số học sinh trả lời ở trường có xảy ra hiện
tượng nữ sinh đánh nhau. Mức độ bạo lực trong nữ sinh là 44,7% rất thường
xuyên, 38% thường xuyên và 17,3% không thường xuyên .
Nghiên cứu “Thực trạng bạo lực trong trường học ở học sinh trường
PTTH Việt Đức, Hà Nội năm 2006 và một số yếu tố cá nhân và gia đình liên
quan” chỉ ra hình thức phổ biến nhất là bắt nạt bạn bè, sau đó là đe dọa bạo
lực chiếm 9%, ẩu đả đánh nhau 7% và cuối cùng là tấn công bằng vũ lực
chiếm 2%. Đa số chỉ xảy ra 1 lần trong suốt năm học vừa qua. Đối tượng thực
hiện hành vi thường là bạn bè cùng lớp, nguyên nhân do các va chạm, hiểu
nhầm trong sinh hoạt và học tập. Bên cạnh đó tấn công bằng vũ lực tuy tỷ lệ
thấp hơn nhưng đối tượng và nguyên nhân phức tạp hơn như trả thù, ghen
tuông. Giới nữ chiếm tỷ lệ cao hơn ở đe dọa bạo lực, nam là đối tượng cao
hơn ở mọi hình thức khác. 4% các em bị hậu quả do bạo lực học đường đem
lại, hầu hết là thương tích cơ thể, có nhiều trường hợp phải đi bệnh viện .
Nghiên cứu “Thực trạng bạo lực học đường và một số yếu tố liên quan
đến hành vi bạo lực ở học sinh trường Trung học phổ thông Trần Phú, quận
Hoàn Kiếm, Hà Nội năm 2013” cho thấy trong tổng số mẫu 392 học sinh, có
160 em (tương đương với 40,8%) không tham gia vào bất kì hình thức nào (kể
cả là nạn nhân lẫn thực hiện hành vi); có 66 em (tương đương với 16,8%) chỉ
thực hiện hành vi bạo lực; 118 em (tương đương với 30,1%) vừa thực hiện
hành vi bạo lực, vừa là nạn nhân và 48 em (tương đương 12,2%) chỉ là nạn
nhân của bạo lực trong vòng 6 tháng trước thời điểm nghiên cứu. Bạo lực sử
dụng lời nói là hành vi phổ biến nhất, với tỷ lệ học sinh thực hiện hành vi này


13

là 41,8%. Tỷ lệ này giảm dần ở bạo lực xã hội (25,3%); bạo lực thể chất
(17,1%) và bạo lực điện tử (13%). Đa số các vụ bạo lực xảy ra ở một nhóm

học sinh thực hiện trên một học sinh. Về thực trạng bị bạo lực, 35,2% bị bạo
lực lời nói; 19,6% bị bạo lực thể chất; 17,6% bị bạo lực xã hội và 5,9% là nạn
nhân bạo lực điện tử. Phần lớn sau khi bị bạo lực, các em chỉ chia sẻ với bạn
bè hoặc không kể với ai. Học sinh nam vừa là đối tượng thực hiện hành vi,
vừa là đối tượng nạn nhân bị bạo lực hơn so với học sinh nữ. Thực trạng bạo
lực học đường ở học sinh 3 khối lớp học là gần như tương đương nhau .
Nghiên cứu “Thực trạng và các yếu tố liên quan đến bạo lực học đường
ở học sinh trường THCS Lê Lai, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh” cho kết quả
13,2% học sinh có thực hiện hành vi bạo lực học đường trong 6 tháng qua,
mang vũ khi tới trường 5,9%, đe dọa học sinh khác 12,2% và mắng chửi nhau
là 36,9%. Kéo theo đó việc có học sinh là nạn nhân của bạo lực học đường là
đương nhiên với 11,9% HS bị đánh; 10,3% bị đe dọa và 4,1% bị trấn lột. Các
đặc tính cá nhân, gia đình, nhà trường và xã hội đều có liên quan rất lớn đến
hành vi bạo lực của HS. Đặc biệt, tỷ lệ học sinh đã từng bị bạo lực, gia đình
có sử dụng bạo lực, hay bạn bè có sử dụng bạo lực có hành vi bạo lực cao gấp
1,9 lần; 1,4 lần và 2,1 lần so với những học sinh chưa từng bị bạo lực, gia
đình không sử dụng sử dụng bạo lực hay bạn bè không sử dụng bạo lực .
Nghiên cứu “Hành vi bạo lực học đường của học sinh THCS Thành phố
Huế” cho kết quả 24% trong số 200 em được hỏi nhận định là hành vi BLHĐ
xảy ra rất thường xuyên; 33% cho là khá thường xuyên; 26,5% cho là thỉnh
thoảng; 14,5% cho là ít và chỉ có 0,5% cho là hoàn toàn không xảy ra .
Thời gian qua, các cấp chính quyền nước ta đã có nhiều giải pháp để
ngăn chặn tình trạng bạo lực học đường, nhằm thiết lập một môi trường học
đường an toàn, thân thiện cho học sinh, bảo đảm an ninh cho xã hội. Thông tư
liên tịch số 34/2009/TTLT-BGDĐT-BCA ngày 20/11/2009 của Bộ Giáo dục


14

và Đào tạo với Bộ Công an về “Hướng dẫn phối hợp thực hiện công tác bảo

đảm an ninh, trật tự tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân”
và có Quy chế phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo và Công an tỉnh về thực
biện công tác bảo đảm an ninh, trật tự tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống
giáo dục quốc dân trên địa bàn tỉnh .
1.3. Một số yếu tố liên quan tới bạo lực học đường
Các yếu tố liên quan tới bạo lực ở học sinh bên cạnh một số đặc điểm
riêng đặc trưng theo lứa tuổi và môi trường học đường thì đa phần có những
đặc điểm tương tự với bạo lực ở giới trẻ, bao gồm các yếu tố về cá nhân và
nhóm yếu tố xuất phát từ mối quan hệ như trong gia đình, nhà trường, và xã
hội , .
1.3.1. Yếu tố cá nhân
Ở mức độ cá nhân, liên quan tới bạo lực trong giới học sinh chủ yếu là
các yếu tố thuộc về tuổi, giới, tâm sinh lý, sự phát triển và một số hành vi
nguy cơ của thanh thiếu niên.
Theo một nghiên cứu của WHO vào năm 2000, các yếu tố cá nhân có
liên quan tới bạo lực ở giới trẻ bao gồm:
- Hiếu động thái quá
- Hấp tấp, bốc đồng
- Kiểm soát hành vi kém
- Khả năng học tập kém
- Có tiền sử hung hăng từ rất sớm
- Có vấn đề về khả năng tập trung.
Yếu tố cảm xúc và hành vi nguy cơ đã có nghiên cứu chỉ ra có ảnh
hưởng làm tăng hành vi bạo lực ở học sinh. Trẻ vị thành niên có hiệu suất học
tập kém, thách thức, hung hăng, bốc đồng, lì lợm, dễ bị khiêu khích, ngang
bướng, thường có mang theo vũ khí và liên quan tới bạo lực người khác. Trẻ


15


là nạn nhân của bạo lực thì xu hướng cảm xúc thường lo lắng, trầm cảm, hay
chán nản, sợ hãi, thiếu cảm giác an toàn, thiếu tự tin, học tập kém, từng có ý
nghĩ tự tử và cố gắng tự tử . Tâm lý lứa tuổi học sinh trung học với sự phát
triển chưa hoàn thiện: cái “tôi”, bản tính “anh hùng” muốn thể hiện bạn thân
trước bạn bè và không muốn thua thiệt “bùng phát” làm cho các em đôi khi
chưa biết kiềm chế cảm xúc, dễ dẫn đến những hành vi xô xát, gây gổ đánh
nhau. Khả năng nhận thức cũng như tư duy chưa chín muồi, vốn kỹ năng sống
chưa trang bị đủ, hiểu biết về xã hội còn quá ít làm cho các em rất dễ bị kích
động bởi những sự việc đơn giản, đôi khi đó chỉ là sự hiểu nhầm rất nhỏ. Trên
thực tế không thiếu những hành vi BLHĐ nghiêm trọng mà xuất phát điểm
chỉ là những xích mích, hiểu lầm nhỏ giữa học sinh với nhau .
Các yếu tố nguy cơ như sử dụng rượu bia, thuốc lá và chất kích thích
cũng đã được chứng minh có liên quan tới hành vi bạo lực ở học sinh , .
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Trang đã chỉ ra học sinh có sử dụng rượu bia
có nguy cơ thực hiện hành vi bạo lực thể chất cao hơn (OR= 3,5; 95%CI: 1,4
- 8,5); nhóm học sinh sử dụng thuốc lá có nguy cơ thực hiện bạo lực xã hội,
internet cao hơn (OR= 2,6; 95%CI: 1,1 - 6,2) và (OR= 4,9; 95%CI: 1,9 - 12,7)
nhóm còn lại .
Những đối tượng có hành vi bạo lực bao gồm nhiều lứa tuổi khác nhau.
Tuy nhiên vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đối với lứa tuổi thiếu niên. Theo một
nghiên cứu trên học sinh từ lớp 7 đến lớp 12 của Úc đã chỉ ra rằng tỉ lệ trẻ bị
bắt nạt giảm đi theo độ tuổi, trẻ càng lớn thì càng ít bị bắt nạt hơn .
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng nam giới là đối tượng hay thực hiện
hành vi bạo lực đồng thời cũng là nạn nhân của bạo lực xuất hiện phổ biến
hơn và có mức độ nghiêm trọng hơn so với nhóm nữ sinh , , , . Các nghiên
cứu cho thấy rằng các em học sinh nam thường tham gia nhiều hơn vào các
hoạt động bạo lực với các hình thức vũ lực như ẩu đả, tổ chức đánh nhau


16


thậm chí có sử dụng vũ khí như dao, gậy... Trong khi hình thức bạo lực bằng
lời nói lại diễn ra phổ biến ở các em học sinh nữ hơn .
Nghiên cứu của J.Wang trên đối tượng học sinh lớp 6-10 ở Mỹ cho thấy
ở học sinh nam có nguy cơ thực hiện hành vi bạo lực thể chất cao hơn nhóm
học sinh nữ (OR=2,41; 95%CI: 1,91 - 3,05) .
Tác giả Nguyễn Thị Thu Trang khi nghiên cứu thực trạng bạo lực học
đường và một số yếu tố liên quan đến hành vi bạo lực ở học sinh trường
Trung học phổ thông Trần Phú, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội cũng cho thấy sự
liên quan đến giới tính với bạo lực học đường. Ở học sinh nam có nguy cơ
thực hiện hành vi bạo lực thể chất và lời nói hơn học sinh nữ (OR= 2,6;
95%CI: 1,4 - 5,1 và OR=2; 95%CI: 1,3 - 3,2) .
1.3.2. Yếu tố mối quan hệ
Yếu tố gia đình
Ảnh hưởng từ gia đình và cha mẹ là yếu tố chính tác động đến hành vi
bạo lực ở giới trẻ. Việc giám sát và theo dõi lỏng lẻo của bố mẹ và cách giáo
dục con chưa hợp lý sẽ dẫn tới bạo lực khi trở thành thanh thiếu niên. Hỗ trợ
của cha mẹ cao hơn thì con cái ít liên quan đến những vấn đề về bạo lực hay
hỗ trợ của cha mẹ có thể bảo vệ chính con cái của mình tránh xa được các vấn
đề về bạo lực . Viện Nghiên cứu Phát triển TP.HCM báo cáo kết quả cho thấy
9,1% học sinh sống trong gia đình có cha mẹ uống rượu hàng ngày, 33,4%
học sinh sống trong gia đình có cha mẹ hoặc người thân thường xuyên cãi lộn,
đánh nhau là những nguy cơ ảnh hưởng đến tinh thần trẻ tổn thương, tâm
trạng bực bội, khó chịu, dễ có hành động gây hấn, hung dữ hoặc có hành vi
bạo lực không kiểm soát được .
Nhà đông con, cấu trúc gia đình như sống cùng bố mẹ hay chỉ bố hoặc
mẹ hoặc không sống cùng cả hai đều có ảnh hưởng đến những hành vi của
con . Sống trong gia đình có hoàn cảnh không thuận lợi sẽ tác động tiêu cực



17

tới quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con cái. Nhiều nghiên cứu
đã chỉ ra rằng cha mẹ ly hôn, ly thân có ảnh hưởng nghiêm trọng tới nét tính
cách của trẻ. Đa số các em trở nên tự ti hay hung hãn hơn . Đôi khi các em
muốn sử dụng hình thức này để gây sự chú ý với cha mẹ như một cách phản
kháng với sự thiếu hụt tình yêu thương. Xu hướng quan tâm thái quá cũng gây
ra nhiều vấn đề phức tạp. Ở lứa tuổi học sinh các em có nhu cầu tự khẳng
định, độc lập trong quyết định thì sự bao bọc, nghiêm khắc quá mức sẽ khiến
các em thấy áp lực. Vì vậy, gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến hành vi và nhân
cách của các em .
Ở nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Trang chỉ ra nhóm học sinh bị bạo
lực từ gia đình có nguy cơ thực hiện hành vi bạo lực thể chất cao hơn (OR=
3,3; 95%CI: 2,0 - 9,3), đồng thời cũng có nguy cơ trở thành nạn nhân cao hơn
(OR= 2,3; 95%CI: 1,3 - 4,3). Học sinh được hỗ trợ thấp từ gia đình có nguy
cơ là nạn nhân của bạo lực lời nói cao hơn (OR= 1,7; 95%CI: 1,0 - 2,7) . Ở
nghiên cứu của Trần Thị Chiến và Tô Gia Kiên cũng chỉ ra học sinh có gia
đình sử dụng bạo lực có nguy cơ thực hiện hành vi cao (OR= 1,4) .
Yếu tố bạn bè
Ảnh hưởng của bạn bè đồng trang lứa là yếu tố khá quan trọng trong
hành vi của giới trẻ. TS.Nghiêm Thị Phiến tiến hành nghiên cứu đề tài “Ảnh
hưởng của nhóm bạn bè tới hành vi lệch chuẩn của học sinh” trên 31 học sinh
thiếu niên cá biệt tại trường THCS Thịnh Quang (Hà Nội), đã liệt kê những
hành vi lệch chuẩn của nhóm học sinh này và chỉ ra những nguyên nhân dẫn
đến các hành vi đó. Tác giả kết luận, hiện tượng bạn bè xấu rủ rê, lôi kéo là
một trong những nguyên nhân khá chủ yếu dẫn trẻ tới những hành vi lệch
chuẩn . Nếu như ở những giai đoạn lứa tuổi trước vai trò của những người
thân trong gia đình gia đình là quan trọng bậc nhất, thì khi bước vào lứa tuổi
vị thành niên, bậc học trung học thì sự cố kết bên ngoài xã hội tăng dần mà



×