Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Điều tra tri thức bản địa và kinh nghiệm sử dụng thực vật của cộng đồng người dao ở huyện đà bắc, tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.62 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
------------------

HÀ THỊ VÂN ANH

ĐIỀU TRA TRI THỨC BẢN ĐỊA VÀ KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG THỰC VẬT CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI DAO
Ở HUYỆN ĐÀ BẮC, TỈNH HÒA BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2010


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sử dụng thực vật gắn liền với lịch sử phát triển của loài người. Từ thuở
sơ khai, con người đã biết lấy những cỏ cây xung quanh làm rau ăn, thức
uống, làm khố che thân... Rồi khi đời sống tiến bộ hơn, con người càng sử
dụng thực vật cho nhiều mục đích khác nhau, phổ biến như: Làm vật liệu xây
dựng nhà cửa, đồ gia dụng, nguyên liệu may mặc, chất đốt và làm thuốc chữa
bệnh cho người và động vật nuôi... Khoa học - kỹ thuật càng phát triển, hiểu
biết của con người về thế giới xung quanh nói chung và thực vật nói riêng
cũng càng phong phú và sâu sắc hơn. Nhu cầu của con người theo đó cũng
cao hơn, đa dạng hơn thì thực vật càng được biết đến với nhiều giá trị quý giá,
ở nhiều lĩnh vực khác nhau (nguyên vật liệu xây dựng, chế biến giấy, sợi,


dược liệu, chất nhuộm màu thực phẩm, các chất xử lý môi trường, thuốc trừ
sâu từ thảo mộc, hóa, mỹ phẩm,…)
Nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, Việt Nam là một trong những
quốc gia trên thế giới có mức độ đa dạng cây cỏ cao. Theo các công bố gần
đây, Việt Nam có khoảng 11.000 loài thực vật bậc cao có mạch, 800 loài rêu,
600 loài nấm và hơn 2000 loài tảo đã được xác định [23]. Mặt khác, Việt Nam
lại nằm ở khu vực giao lưu của các nền văn hoá ở khu vực Đông Nam Á, nên
là quốc gia đa dạng về các nền văn hoá. Với 54 dân tộc anh em cùng sinh
sống trên lãnh thổ, mỗi dân tộc có phong tục, tập quán riêng, điều kiện tự
nhiên - xã hội khác nhau; do đó có một quá trình đúc kết, tích luỹ kinh
nghiệm sống, kinh nghiệm sử dụng tài nguyên thiên nhiên đặc trưng cho mỗi
vùng, mỗi dân tộc.
Với mức độ đa dạng về sinh vật và văn hoá như vậy, nước ta đang sở
hữu một nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có và một kho tàng tri thức nói
chung và tri thức bản địa trong sử dụng thực vật nói riêng cực kỳ phong phú.
Đây là nguồn tri thức dân tộc thực sự quý, có ý nghĩa thực tiễn cao, song hầu


2

hết mới chỉ được sử dụng và lưu truyền trong phạm vi các cộng đồng dân cư
rất hẹp, mà chưa được điều tra, nghiên cứu và phát huy rộng rãi. Đặc biệt,
nhiều dân tộc thiểu số không có chữ viết riêng, hoặc nếu có cũng chưa được
phát huy tốt, nên những tri thức này hầu hết được lưu truyền bằng phương
thức truyền khẩu. Vì thế, tình trạng suy giảm nhanh chóng bởi mất mát, lãng
quên dưới tác động của các tiến bộ khoa học và phát triển kinh tế, cũng như
do nguồn tài nguyên thiên nhiên của chúng ta đang ngày một cạn kiệt, là điều
không thể tránh khỏi.
Đà Bắc là một huyện vùng cao của tỉnh Hoà Bình, cách trung tâm
thành phố Hoà Bình khoảng 30 km, là nơi tập trung của nhiều nhóm dân tộc

thiểu số khác nhau như Muờng, Dao, Kinh, Tày, Thái,... Dân tộc Dao chiếm
khoảng 13%, có cuộc sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên và còn lưu giữ
được nhiều nét độc đáo của dân tộc. Do nhu cầu bức thiết về kinh tế, nhiều
nguồn tài nguyên, trước hết là tài nguyên sinh vật và đa dạng sinh học đang bị
khai thác không có kế hoạch. Điều này không chỉ dẫn tới sự giảm sút các
nguồn dự trữ tài nguyên, mà có thể dẫn tới các hậu quả sinh thái khôn lường.
Thêm vào đó, đời sống đồng bào Dao nơi đây vẫn đang rất khó khăn, tỉ lệ hộ
nghèo cao. Vì vậy, việc nghiên cứu sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn
tài nguyên, trước hết là tài nguyên sinh vật có ý nghĩa rất quan trọng, rất thiết
thực trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần nâng cao đời
sống của người dân địa phương. Vì những lý do đó, chúng tôi chọn đề tài
“Điều tra tri thức bản địa và kinh nghiệm sử dụng thực vật của cộng đồng
người Dao ở huyện Đà Bắc, tỉnh Hoà Bình”.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm về kinh nghiệm
- Kinh nghiệm là những hiểu biết có được từ quá trình tiếp xúc với thực
tế, từ sự từng trải [34].
- Kinh nghiệm sử dụng thực vật: Từ thời xa xưa, cây cỏ không chỉ đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt đơn thuần của con người, mà nó còn là nguồn nguyên
liệu cho công nghiệp và nhiều mục đích khác. Nhiều sản phẩm công nghiệp
mới đã được sản xuất phục vụ nhu cầu mọi mặt của cuộc sống như: Các loại dược
liệu, các sản phẩm dưỡng da và mỹ phẩm, nguyên liệu giấy...Từ chỗ con người sử
dụng trực tiếp cây cỏ vào những mục đích cụ thể, ngày nay con người còn nghiên
cứu, tách chiết các hợp chất từ chúng để chế biến thành nhiều sản phẩm khác nhau

với những chức năng khác nhau. Từ việc khai thác ngoài tự nhiên về dùng ngay đến
việc đem cây cỏ có ích về trồng và thuần hoá tại vườn nhà, rồi qua chế biến để cất
trữ, bảo quản cho nhu cầu lâu dài. Quá trình này diễn ra từ từ theo diễn biến của
cuộc sống, từ ngày này qua ngày khác, thế hệ này qua thế hệ khác, và dần dần được
đúc kết thành những kinh nghiệm. Kinh nghiệm có thể chỉ của một cá nhân, rồi trở
thành kinh nghiệm của nhiều người, được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác,
được giữ nguyên hoặc bổ sung thêm cho hoàn chỉnh hơn.
1.1.2. Khái niệm về tri thức bản địa và tri thức thực vật dân tộc
- Tri thức bản địa được hiểu là những kinh nghiệm được thử thách và
đúc rút từ nhiều thế hệ ở các cộng đồng cư dân qua thực tiễn sản xuất và đời
sống. Trải qua nhiều thế kỷ, các cộng đồng dân cư đã tích góp được lượng lớn
các thông tin, các kỹ năng, tay nghề và công nghệ trong trồng trọt, chăn nuôi,
bảo quản và chế biến lương thực, quản lý tài nguyên thiên nhiên, tổ chức cộng
đồng làng bản...


4

"Khi một người già có tri thức mất đi, một cánh cửa thư viện bị biến
mất." (Châm ngôn châu Phi)[35]
Và với sự mất rừng, mất đa dạng sinh học thì tri thức hay nền văn hoá
liên kết với đa dạng sinh học nói chung và thực vật nói riêng, cũng mai một
dần.
- Tri thức thực vật dân tộc (Ethno-botanical knowledge): Là sự hiểu
biết của mỗi dân tộc về thế giới thực vật. Như tất cả các nguồn tri thức khác
của nhân loại, tri thức thực vật dân tộc mang các đặc tính chung của khái
niệm tri thức, đồng thời có các đặc tính riêng: Tính truyền thống, tính phát
triển liên tục, tính hội nhập, tính cục bộ, tính phân bố tri thức không đều theo
giới [12].
1.1.3. Khái niệm về tài nguyên thực vật

- Tài nguyên thực vật được hiểu là những loài thực vật có giá trị sử
dụng hoặc có giá trị tiềm năng, đã được con người nghiên cứu, phát hiện ra.
Đây là nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn, nhưng có thể tái tạo được.
- Tài nguyên thực vật học là môn khoa học để nghiên cứu nhằm kế thừa
và phát huy hệ thống các tri thức mà loài người đã tích luỹ được về giá trị sử
dụng cũng như lợi ích của giới thực vật nói chung và từng loài, từng cá thể
thực vật nói riêng trong đời sống kinh tế - xã hội và bảo vệ sức khoẻ của
mình. Không những thế, Bộ môn Tài nguyên thực vật còn là lĩnh vực nghiên
cứu các cơ sở khoa học để tác động vào các quá trình tổng hợp, tích luỹ, biến
đổi các hợp chất có ích trong cơ thể thực vật làm cho chúng ngày càng hoàn
thiện, càng phong phú, càng đa dạng...để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
mình [21].
1.2. Giá trị của tri thức bản địa trong sử dụng thực vật
Đối với các cộng đồng dân cư miền núi nói chung, sử dụng thực vật
không chỉ là những ứng dụng đơn thuần những hiểu biết từ tự nhiên vào đời


5

sống, làm lợi cho cuộc sống, mà nó còn là văn hoá, là tín ngưỡng của các
cộng đồng dân tộc. Nếu mất đi những cái thuộc về văn hoá, về tín ngưỡng đó
cũng đồng nghĩa với sự mất đi một phần bản sắc của mỗi dân tộc.
Hơn nữa, những hiểu biết, những kinh nghiệm tưởng chừng như rất đơn
giản ấy lại đóng góp một phần quan trọng cho nền khoa học hiện đại, điển
hình như trong lĩnh vực y học. Thực tế, trên thế giới vẫn còn rất nhiều căn
bệnh mà nền y học tiên tiến vẫn chưa tìm ra cách chữa trị đem lại hiệu quả
triệt để, nhưng chính những tri thức và kinh nghiệm trong sử dụng thực vật
của các cộng đồng người trên khắp trái đất đã đưa ra những gợi ý hoặc có khi
là câu trả lời cho những vấn đề nan giải đó. Dựa vào tri thức bản địa, con
người đã phát hiện ra những giá trị tuyệt vời của rất nhiều loài thực vật, đặc

biệt là trong y dược.
Việc bảo tồn và phát huy tri thức và kinh nghiệm sử dụng thực vật là
vấn đề hết sức cần thiết, không chỉ cho hiện tại mà cả với tương lai.
1.3. Tổng quan về tình hình nghiên cứu sử dụng thực vật ở ngoài
nước và trong nước
1.3.1. Ở ngoài nước
1.3.1.1. Sơ lược về quá trình sử dụng thực vật
Sự phát triển của loài người luôn đi kèm bởi quá trình khai thác thực
vật. Đến nay, bất cứ một cuộc thảo luận nào về sự phát triển của con người sẽ
bị coi là không đầy đủ nếu không bàn đến vai trò của cây cỏ trong quá trình
phát triển ấy [51].
Các tài liệu sớm nhất ghi lại việc sử dụng thực vật của người phương
Tây cho biết vào khoảng 1770 năm trước Công nguyên đối với người
Neanderthal và vào khoảng 1550 năm trước Công nguyên đối với người Ai
Cập Cổ đại. Người Ai Cập cổ tin tưởng vào giá trị của cây cỏ không chỉ cho
người sống mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ tới các vua Ai Cập cổ (Pharaohs) của


6

họ đã chết [51]. Một số cây cỏ cũng được tìm thấy trong các kim tự tháp,
được cho là có liên quan đến việc ướp xác hoặc dùng trong lễ mai táng.
Nói đến chữa bệnh bằng cây cỏ, chúng ta sẽ nghĩ ngay đến Trung
Quốc, đất nước có nền Đông Y lâu đời. Theo truyền thuyết của Vua Thần
Nông tức Viêm Đế (3320 – 3080 trước Công Nguyên) thì Thần Nông đã nếm
hàng trăm loại cây cỏ, phân loại dược tính của thảo mộc và soạn ra sách
“Thần Nông bản thảo”. Cuốn “Thần Nông bản thảo” đã thống kê được 365 vị
thuốc và loài cây thuốc có giá trị [31]. Từ thời Tam quốc (222 – 265 CN),
danh y Hoa Đà đã sử dụng Đàn hương, Tử đinh hương để chế hương nang (túi
thơm), làm thuốc chống lại bệnh lao phổi và lỵ. Ông còn dùng hoa Cúc, Kim

ngân phơi khô cho vào chiếc gối (Hương chẩm) để điều trị bệnh đau đầu, mất
ngủ, cao huyết áp [13].
Người Ấn Độ cổ đại đã ghi chép nền y học của các bộ tộc Hindu
khoảng 2.000 năm trước, trong đó có các loài cây gây ngủ, ảo giác, chữa rắn
cắn... [44]. Kinh Vê Đà, Ấn Độ từ 3000 năm trước đây, đã nói về hương hoa
để cúng bái.
Trong các tài liệu cổ xưa nhất về sử dụng cây thuốc của người Ai Cập
cổ đại đã ghi chép trong khoảng thời gian 3.600 năm trước đây đã nói đến 800
bài thuốc và trên 700 cây thuốc, trong đó có Lô hội, Kỳ nam, Gai đầu, ...
Ở châu Âu, vào những năm 60 cũng đã phát triển phương pháp dùng
hương thơm để chữa bệnh (Phương hương tễ liệu pháp – Aromathérapie) là
một bộ phận của Hoa trị liệu pháp. Đầu của giai đoạn này, giới Y học Pháp vô
tình phát hiện ra một hiện tượng đặc biệt: Các nữ công nhân trong xưởng
nước hoa không ai bị bệnh phổi. Xưởng chế tạo đó sau này trở thành xưởng
sản xuất hoá học về chất thơm từ thực vật và thực vật chế tạo nước hoa [13].
Màu sắc của thức ăn nói chung và của hoa nói riêng có tác dụng làm
cho ngon miệng (thực dục) và còn có tác động đến tâm lý: Màu đỏ làm tăng


7

hưng phấn thần kinh trong bữa ăn; màu vàng làm cho thích ăn, vui vẻ; trên
bàn ăn có hoa màu trắng làm cho người ta có cảm giác thong thả, thư giãn;
màu xanh lục làm cho hô hấp và mạch đập ổn định, hạ huyết áp một cách
tương đối ... [45].
Trải qua hàng nghìn năm, một số lượng lớn các loài thực vật bậc cao đã
và đang được con người sử dụng với nhiều mục đích khác nhau. Theo
UNESCO năm 1992 thì ở các vùng nông thôn của các nước đang phát triển,
các sản phẩm làm lương thực – thực phẩm có nguồn gốc thực vật chiếm tỷ lệ
90 – 93%. Người ta ước tính có khoảng 35.000 – 70.000 loài thực vật đã và

đang được con người sử dụng vào mục đích chữa bệnh. Tại Trung Quốc,
trong tổng số 35.000 loài thực vật có tới 5.000 loài dùng làm dược liệu trong
y học cổ truyền; và trong hệ thống Y học của người Trung Quốc, 80% bài
thuốc cổ truyền có sử dụng các loài thực vật bậc cao. Sử dụng thực vật làm
thuốc khá phổ biến ở các nước Châu Á như Hồng Kông, Hàn Quốc,
Inđônêxia, Malaixia cũng như ở Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, SriLanka và
Nê Pan (Husain, 1991) [48]. Tại Nhật Bản, có đến 42,7% dân số sử dụng
thuốc cổ truyền trong các hoạt động chữa bệnh với tổng giá trị của y học cổ
truyền là 150 triệu USD/năm (1983) [43]. Tại Ấn Độ, có 400 loài trong tổng
số 7.500 loài cây thuốc thường xuyên được sử dụng với lượng lớn ở các
xưởng sản xuất thuốc nhỏ và khoảng 540 loài cây thuốc thường được sử dụng
ở các bài thuốc khác nhau trong hệ thống y học Ayurveda, Unani và Siddha.
Xuất nhập khẩu cây thuốc của Ấn Độ tăng 3 lần, trong thập niên 90 của thế kỷ
XX; doanh thu từ hoạt động buôn bán dược thảo trong nước và xuất khẩu đạt
1 tỷ USD/năm [43].
Theo ước tính, khoảng 1/4 sản phẩm các loại thuốc ở Mỹ có chứa một
hoặc nhiều hợp chất có nguồn gốc từ Thực vật bậc cao. Khoảng 95 loài thực
vật đã được liệt kê như một nguồn dược liệu quan trọng, 121 toa thuốc lâm


8

sàng cũng là sản phẩm từ những loài thực vật bậc cao (Fransworth et al,
1985)[43].
Tuy vậy, những con số liên quan tới y học chưa thống kê được còn lớn
hơn nhiều. Một số lượng lớn các loài thực vật được các thầy lang chữa bệnh
theo vi lượng đồng căn hoặc các nhà nghiên cứu thảo mộc dùng để sản xuất
“Thuốc thực vật” hoặc “Thuốc thảo mộc”. Những sản phẩm này được bán
nhiều trong các cửa hàng “Thực phẩm chức năng”, các siêu thị và các cơ sở
dược phẩm ở nhiều nước trên thế giới (Lewington, 1993). Một con số rất lớn

cây thuốc được sử dụng để sản xuất “Chè thảo mộc”, “Chè thuốc”. Ngoài ra,
người ta còn quan tâm tới giá trị sử dụng của các dịch chiết từ thực vật và cây
thuốc để sản xuất thực phẩm chức năng, làm gia vị và sử dụng trong ngành
công nghiệp mỹ phẩm.
1.3.1.2 Sơ lược lịch sử nghiên cứu và thành tựu trong sử dụng thực vật
Nghiên cứu tri thức bản địa về sinh vật trên thế giới được bắt đầu từ rất sớm,
nhưng thực sự hình thành một ngành khoa học độc lập vào năm 1895 với việc ra
đời bộ môn nghiên cứu về thực vật dân tộc (Ethnobotany). Thuật ngữ Thực vật dân
tộc học (TVDTH) được sử dụng lần đầu tiên trong bài giảng của John Harshberger
ở Philadenphia. Ông đã định nghĩa TVDTH là nghiên cứu “Các cây được sử dụng
bởi người nguyên thuỷ và các thổ dân – Plants used by primitive ada aboriginal
people”. Và ông đã chỉ ra rằng, đây là lĩnh vực nghiên cứu làm sáng tỏ “Vị thế văn
hoá của các bộ lạc đã sử dụng thực vật để làm thực phẩm, nơi cư trú và quần áo”.
Như vậy cho tới lúc này, các nhà TVDTH mới chỉ xem xét tới ba nhóm cây có giá
trị quan trọng nhất là: Cây ăn được (làm lương thực, thực phẩm); cây làm nhà, lều
trại và các cây có sợi. Ngoài ra, đối tượng của các nghiên cứu được xác định là “bộ
lạc”, “thổ dân”, và “người nguyên thuỷ” [12], [50].
Sau đó, thuật ngữ TVDTH được thừa nhận và sử dụng rộng rãi trong
nhiều công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, ở những năm đầu thế kỷ XX, các


9

công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc điều tra, ghi chép về thành
phần cây có ích và cách sử dụng của chúng. Từ năm 1916, các nhà nghiên cứu
TVDTH đã nhận thức được sự cần thiết phải bổ sung lý thuyết và phương
pháp luận cho lĩnh vực nghiên cứu mới này. Khi đó, TVDTH không chỉ là sự
thu thập nhiều hơn nữa các tri thức mà còn phải đánh giá giá trị khoa học của
các phương pháp sử dụng trong điều tra, tính xác thực của kết qủa nghiên cứu.
Đến 1941, TVDTH đã có một bước tiến mới về nhận thức và mục tiêu

nghiên cứu. Lúc này, nó không chỉ bao gồm những nghiên cứu về kinh
nghiệm sử dụng thực vật của các nhóm người nguyên thuỷ mà với cả sự toàn
vẹn của các mối liên quan giữa người nguyên thuỷ và giới thực vật. Các nhà
nghiên cứu đã mô tả sự phụ thuộc của đời sống vật chất và tinh thần của các
cộng đồng dân cư vào giới thực vật địa phương, đã đưa ra các luận chứng
khoa học về bảo tồn truyền thống, văn hoá của các cộng đồng trên cơ sở cùng
tồn tại hài hoà với giới thực vật [12],[50].
Cho tới 1978, năm được đánh giá là thời kỳ có sự thay đổi lớn nhất về
nghiên cứu TVDTH khi Richard Ford đưa ra quan niệm “Sự tổng hợp mới của
Thực vật dân tộc học” [42], [47]. Theo quan niệm này, các nhà TVDTH cần phải có
năng lực để nhận biết các loài cây có ý nghĩa gì làm cơ sở cho sự phân chia chúng
bởi các nền văn hoá khác nhau; xác định được cư dân của các nền văn hoá đã nhận
thức chúng, sử dụng chúng và phụ thuộc vào chúng như thế nào... Để thực hiện
được các nội dung đó, TVDTH đã thực sự trở thành một môn khoa học đa ngành,
với sự góp sức của nhiều lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa
học khác có liên quan như: Thực vật học, dược học, hoá học, khảo cổ học...
Tiếp sau đó là sự phát triển của hướng nghiên cứu Thực vật dân tộc
học ứng dụng (Applied ethnobotany) - là hướng nghiên cứu ứng dụng
các kết quả điều tra, phát hiện các tri thức và kinh nghiệm sử dụng thực
vật của các dân tộc vào thực tế sản xuất và đời sống.


10

Trong Y học, nhằm nghiên cứu tri thức và kinh nghiệm dân tộc để sử
dụng hiệu quả nguồn tài nguyên cây thuốc, bộ phận Dược học dân tộc và Y
học dân tộc (Ethnopharmacology & Ethnomedicine) đã được hình thành và
mang lại cho nhân loại nhiều lợi ích to lớn. Nhiều loại thuốc quý phục vụ cho
phòng, chữa bệnh đã được sản xuất trên cơ sở nghiên cứu thực vật dân tộc. Từ
kinh nghiệm sử dụng lá Thông để nấu nước uống vào mùa đông của một số

cộng đồng thiểu số Bắc Âu, các nhà khoa học đã phát hiện và sản xuất
Vitamin C (Ascorbic acid); từ kinh nghiệm sử dụng rễ của cây Ba gạc
(Rauvolfia serpentina (L.) Benth. ex Kurz) của thổ dân vùng Tây Ấn Độ các
nhà nghiên cứu đã sản xuất thành công thuốc an thần và hạ huyết áp
secpine,... Hiện nay, rất nhiều loại thuốc chữa bệnh hiểm nghèo đã được đưa
vào sản xuất từ kết quả nghiên cứu tri thức bản địa: Thuốc chữa phì đại tuyến
tiền liệt từ kinh nghiệm sử dụng cây Tầm ma (Urtica dioides) của các dân tộc
châu Âu, từ cây Mận châu Phi (Pegyum africanum) của thổ dân Bắc Phi,
thuốc chữa ung thư từ kinh nghiệm sử dụng cây Thông đỏ (Taxus spp.) của
thổ dân Bắc Mỹ, thuốc an thần Valerian từ kinh nghiệm sử dụng cây
Valeriana officinalis của các dân tộc vùng Tây Âu, thuốc Aike và Revivo điều
trị HIV từ kinh nghiệm sử dụng thực vật của dân tộc thiểu số vùng Tây Tạng...
1.3.2. Ở trong nước
1.3.2.1. Sơ lược về quá trình sử dụng thực vật
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu sử dụng các cỏ cây có ích đã được quan tâm từ
sớm, nhưng tập trung chủ yếu vào các hướng:
Cây làm thực phẩm: Trước kia do khó khăn về lương thực, nên người ta
thường quan tâm nhiều đến các cây có bột (các loài có hạt, các cây có củ) và các
cây họ Đậu...Gần đây đã quan tâm nghiên cứu tới những loài như: Mắc mật
(Clausena indica (Dalzell) Oilv.), Rau sắng (Melientha suavis Pierre), Rau dớn
(Diplazium esculentum (Retz.) Sw), Dọc (Garcinia tonkinensis Vesq.)...


11

Cây làm đồ gia dụng trong gia đình: Các loài song mây (Mây nếp (Calamus
tetradactylus Hance), Phướn (Korthalsia laciniosa (Griff.) Mart)...) và các loài tre
nứa (Là ngà bắc (Bambusa sinospinosa McClure), Giang (Macclurochloa sp. )... )
thường dùng để đan lát rổ rá, gùi, làm lạt, làm nhà, chuồng trại...; nhiều cây trong họ
Cói (Cói Năng nĩ - Eleocharis ochrostachys Steud.; Cói bông cách - Cyperus

distans L.f.; Cói bạc thôn - Juncellus serotinus (Rottb.) C. B. Clarke)... dùng để dệt
chiếu, thảm, đệm, làm hàng thủ công khác...
Cây làm cảnh: Đào (Prunus persica (L.) Batsch), Mai vàng (Ochna
integerrima (Lour.) Merr.), Si (Ficus microcarpa L.f.),...
Đặc biệt, cây làm thuốc luôn có vị trí hết sức quan trọng trong đời sống nhân
dân và được chú ý nghiên cứu nhiều. Ban đầu, sử dụng dược liệu ở Việt Nam chỉ
dựa vào kinh nghiệm truyền thống của dân tộc, sau đó có sự kết hợp với dược học
Trung Quốc do kết quả của quá trình truyền bá trong suốt gần một nghìn năm xâm
chiếm và đô hộ nước ta. Dần dần các thầy thuốc đã có những nghiên cứu, cải biến
nhất định so với dược học Trung Quốc nhằm sử dụng hiệu quả nguồn cây thuốc của
nước nhà (thuốc Nam). Đến nay, trải qua một bề dày lịch sử dựng nước và giữ
nước, Việt Nam đã có được một nền Y học cổ truyền giàu truyền thống, phong phú
về các cây thuốc, bài thuốc và vị thuốc. Hiện đã thống kê được gần 300 loài cây
thuốc mọc ở rừng, thường xuyên được khai thác với khối lượng từ 10.000 đến
20.000 tấn mỗi năm, cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Những cây
thuốc đã và đang khai thác với khối lượng lớn như: Vàng đắng (Coscinium
fenestratum), Bình vôi (Stephania spp.), Ngũ gia bì chân chim (Schefflera spp.),
Thiên niên kiện (Homalomena spp.), Thạch xương bồ và Thủy xương bồ (Acorus
spp.), Hoàng đằng (Fibraurea spp.), [25]... Phần lớn các cây thuốc trên được đưa
vào sử dụng trực tiếp trong y học cổ truyền. Một số loài đã được đưa vào chiết xuất
hoạt chất để làm thuốc như Thanh hao hoa vàng (Artemisia annua) chiết
artemisinin làm thuốc chữa sốt rét; Bình vôi (Stephania spp.) chiết

L.-


12

tetrahydropalmatin làm thuốc an thần, giảm đau;... Các loài như: Cẩu tích, Thổ phục
linh, Thiên niên kiện, Hoàng đằng,... đã được xuất khẩu, mang lại giá trị tới hơn 10

triệu đô la Mỹ mỗi năm.
Song song với quá trình nghiên cứu sử dụng thực vật với các lĩnh vực kể
trên, thì nhiều lĩnh vực ứng dụng khác của thực vật cũng được phát triển ngày
càng mạnh mẽ như các cây lấy sợi, cây làm chất nhuộm mầu, mỹ phẩm, cây lấy
dầu nhựa ... Trong suốt quá trình này, rừng là nguồn cung cấp chính, vì thế rừng
luôn là đối tượng bị tác động mạnh mẽ nhất.
Theo thống kê của ngành Lâm nghiệp, diện tích rừng ở nước ta từ 14,3 triệu
héc ta vào năm 1943, đến năm 1993 chỉ còn 9,3 triệu ha (Bộ Lâm nghiệp, 1995).
Trong đó diện tích rừng nguyên sinh còn lại không tới 1% tổng diện tích lãnh thổ
(Averyanov, L.V.et al., 2004). Rừng bị phá hủy sẽ làm cho toàn bộ tài nguyên rừng
ở đó mất đi. Theo đó, các hiểu biết và kinh nghiệm sử dụng thực vật cũng mất mát
dần. Chính phủ và một số ngành liên quan nhiều như Lâm nghiệp, Y tế ... cũng đã
có những nỗ lực nhất định để bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên sinh vật nãi
chung. Song, các kết quả đã đạt được vẫn còn là nhỏ bé so với yêu cầu.
* Vài nét về truyền thống sử dụng thực vật của cộng đồng người Dao ở nước ta
Từ xưa, đồng bào dân tộc Dao đã nổi tiếng với những bài thuốc chữa bệnh
quý được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Những bài thuốc cổ truyền của
người Dao được biết đến với những phương thuốc đặc trị xương khớp, xơ gan, sỏi
thận, dưỡng thai,... như: Dùng cây Gấm cong (Gnetum latifolium var. latifolium)
đem sắc uống hoặc ngâm rượu xoa để chữa đau xương, vôi hóa; dùng Bạch đầu
chevalier (Vernonia chevalierii Gagnep.) sắc uống trị hậu sản, bổ máu; dùng Gáo
đỏ (Neonauclea purpurea (Roxb.) Merr. ) sắc uống hoặc đun tắm trị bệnh gan,
chữa ngứa; dùng Vông xanh (Erythrina variegata L.) giã đắp chữa sa tử cung...
Thời gian gần đây, người Dao nổi tiếng với bài thuốc tắm đặc sắc. Thuốc
tắm (tiếng Dao gọi là Đìa dảo xin) dùng để chữa các bệnh đau nhức cơ, xương,


13

khớp, cảm cúm, ngứa, táo bón, đinh nhọt; tăng cường thể lực cho phụ nữ sau khi đẻ,

người mới ốm dậy. Người lao động nặng nhọc, mệt mỏi, sau khi tắm thấy cơ thể
nhẹ nhõm, tinh thần sảng khoái, sức khoẻ được hồi phục. Số cây thuốc trong một
bài thuốc tắm thường rất lớn, dao động từ 10 đến 120 loài, thuộc nhiều họ thực vật
và dạng sống khác nhau. Trong đó, có khoảng 5-10 loài cây thuốc được coi là quan
trọng nhất. Tùy theo mục đích sử dụng mà số loài được sử dụng trong bài thuốc sẽ
được gia giảm cho hợp lý. Các kết quả điều tra đã cho thấy, số loài trong các họ
thực vật thường được người Dao đỏ ở Sa Pa sử dụng làm thuốc tắm gồm: Họ
Actinidiaceae (1 loài), Annonaceae (2 loài), Araceae (2 loài), Araliaceae (1 loài),
Aristolochiaceae (1 loài), Asteraceae (2 loài), Capparidaceae (1 loài),
Convallariaceae (1 loài), Cucurbitaceae (1 loài), Equisetaceae (1 loài),
Euphorbiaceae (1 loài), Fabaceae (2 loài), Gesneriaceae (1 loài), Hernandiaceae (3
loài), Lamiaceae (2 loài), Lardizabalaceae (1 loài), Moraceae (3 loài), Oleaceae (1
loài), Ranunculaceae (5 loài), Rubiaceae (3 loài), Rutaceae (1 loài), Schisandraceae
(1 loài), Zingiberaceae (2 loài) [37].
Cộng đồng người Dao ở Lạng Sơn có cách làm men rượu từ cây rừng
cũng rất độc đáo. Họ dùng cây pìng đia và say diệp (tên tiếng Dao) phơi khô
(có mùi thơm rất dễ chịu), sau đó đem giã thành bột trộn với bột gạo, men
giống vo viên rồi ủ lên men, tạo một hương vị rượu rất đặc trưng cho loại
rượu Mẫu Sơn nổi tiếng [39].
Người Dao ở Thanh Hóa lại có bài thuốc nam có tác dụng bồi bổ cơ thể
và hỗ trợ cai nghiện ma túy rất hiệu quả, hiện đang được sử dụng rộng rãi
trong cộng đồng người Dao tại các tỉnh Thanh Hóa, Hòa Bình, Hà Giang,
Tuyên Quang. Loại thuốc này nay được đóng thành túi nhỏ để sắc uống, được
bày bán rộng rãi trên thị trường (giá khoảng 100.000đ/túi).
Người Dao tại một số nơi (Ba Vì) có truyền thống nấu cây thuốc thành cao
(gọi là cao thuốc) để thuận tiện cho việc sử dụng, cất trữ và vận chuyển.


14


Tuy nhiên, còn có ít người biết rằng dân tộc Dao có tập quán uống rượu
thuốc và chế biến rượu thuốc bằng cách ngâm rượu với một số loại rễ cây rừng có
vị bổ, nhất là ngâm với thuốc bắc. Loại rượu thuốc này ngâm càng lâu năm càng
tốt, dùng để chữa bệnh và tăng cường thể lực. Nhìn chung, người Dao thích nấu
rượu bằng bột lấy từ thân cây Móc (Caryota urens L.), cây Báng (Arenga pinnata
(Wurmb) Merr.)
Và còn vô số những kinh nghiệm đặc sắc khác, đôi khi trùng hoặc không
trùng với bất cứ cộng đồng dân tộc nào. Song, hầu hết kho tàng tri thức này đều
chỉ được lưu truyền qua phương thức truyền khẩu nên đã bị mai một nhiều, do sự
tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Đây cũng là thực tế phổ biến
của đa số các dân tộc ít người ở nước ta. Vì vậy, chúng ta cần phải có những việc
làm phù hợp và kịp thời để bảo tồn nguồn tri thức quý này.
1.3.2.2. Sơ lược về quá trình nghiên cứu thực vật học dân tộc ở Việt Nam
Nghiên cứu thực vật nói chung và thực vật dân tộc học nói riêng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với một đất nước bao gồm 54 dân tộc cùng sinh
sống như nước ta. Tuy nhiên, cho tới nay, chúng ta chưa có điều kiện để điều
tra, tư liệu hoá hệ thống tri thức bản địa ở quy mô lớn, có chiều sâu, rộng, mà
hầu hết mới chỉ là những nghiên cứu nhỏ lẻ và chủ yếu mới tập trung vào
nhóm cây thuốc dân tộc, còn các nhóm cây tài nguyên khác gần như chưa
được đầu tư [23].
Với phương châm xây dựng nền Y học Hiện đại – Dân tộc và Đại
chúng, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực để đầu tư cho công tác điều tra nghiên
cứu về cây thuốc và kế thừa nền y học cổ truyền, phục vụ cho yêu cầu chữa bệnh
và chăm sóc sức khỏe toàn dân.
Để khai thác một cách hợp lý và hiệu quả nguồn tài nguyên cây thuốc Việt
Nam, trong vòng 20 năm trở lại đây, các ngành Y tế, Lâm nghiệp và Sinh học đã
có nhiều đợt khảo sát điều tra cơ bản. Đáng chú ý là, công tác điều tra nghiên cứu


15


cây thuốc của Viện Dược liệu – Bộ Y tế đã được tiến hành một cách tương đối có
hệ thống ở tất cả các địa phương trên phạm vi toàn quốc. Cho đến nay, đã ghi
nhận được ở nước ta có 3.948 loài cây thuốc, thuộc 307 họ của 9 ngành thực vật
bậc cao cũng như bậc thấp (kể cả Nấm).
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật trong những năm qua đã có nhiều
công trình nghiên cứu về tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân
tộc thiểu số ở Việt Nam (dân tộc Thái, Mường, Tày, Dao, H’Mông,...), kết quả là
đã cập nhật và bổ sung rất đáng kể cho dữ liệu về cây thuốc dân tộc ở Việt Nam.
Một số công trình nghiên cứu cụ thể về cây thuốc dân tộc trong thời gian
gần đây có thể kể đại diện như: Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2001) với đề tài
“Điều tra nghiên cứu về tri thức bản địa và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của
đồng bào Thái tại Mai Châu – Hòa Bình”; Lưu Đàm Cư và cộng sự (2002) đã
nghiên cứu và ứng dụng tri thức sử dụng cây Ngấy hương (Rubus cochinchinensis
Tratt.) của các đồng bào dân tộc trong việc chữa trị u xơ tiền liệt tuyến; từ kinh
nghiệm chữa bệnh truyền thống của dân tộc Tày, các nhà khoa học của Trường
đại học Dược Hà Nội đã sản xuất thành công thuốc chữa bệnh đau dạ dày từ cây
Chè dây (Ampelopsis cantonensis);...Như vậy, cùng với việc nghiên cứu, điều tra
kinh nghiệm sử dụng cây thuốc truyền thống theo các khu vực, một số tác giả còn
nghiên cứu để tạo ra những dược phẩm mới, đa dạng và phù hợp với thực tiễn của
đời sống xã hội.
Một số nhóm cây có ích khác được nghiên cứu đến nhưng với quy mô nhỏ,
chưa đầy đủ như nhóm cây có chất mầu; nhóm cây có độc, nhóm cây lấy sợi...
1.3.3. Xu hướng nghiên cứu sử dụng cây có ích hiện nay trên thế giới
Trong thời gian gần đây, hướng nghiên cứu được đặc biệt quan tâm là
Thực vật dân tộc học ứng dụng (Applied ethnobotany). Đây là hướng nghiên cứu
ứng dụng các kết quả điều tra, phát hiện các tri thức và kinh nghiệm sử dụng
thực vật của các dân tộc vào thực tế sản xuất và đời sống. Các sản phẩm mới bắt



16

nguồn từ thực vật được sản xuất trên cơ sở nghiên cứu tri thức thực vật dân
tộc học đang mở ra một triển vọng to lớn cho nhiều lĩnh vực, đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng về số lượng và đa dạng về chủng loại của con người. Từ kinh
nghiệm sử dụng cây Butea superba của các dân tộc ở Thái Lan, các nhà dược
học Thái đã nghiên cứu và sản xuất thành công các loại thuốc tăng lực cho
nam giới [49]. Từ kinh nghiệm sử dụng cây Nhàu (Quả Noni – Morinda
citrifolia) làm thuốc và dùng trong các bữa ăn kiêng của cư dân bản địa đảo
Tahiti, các nhà khoa học Mỹ đã tìm ra các giá trị chữa bệnh và dinh dưỡng
của cây này; Tập đoàn Tahition Noni International (TNI) đã ứng dụng các kết
quả nghiên cứu để sản xuất các loại nước ép trái cây, mặt hàng này đã giúp
cho TNI trở thành tập đoàn hàng đầu thế giới về nước ép trái cây [49]...
Những sản phẩm được sản xuất trên cơ sở ứng dụng thực vật dân tộc có
nhiều ưu điểm. Đó là loại thực phẩm, những loại thuốc đã được cộng đồng sử
dụng qua nhiều thế hệ nên độ an toàn rất cao. Hiệu suất nghiên cứu sản xuất
thuốc mới từ cây thuốc dân tộc đạt 1/125, trong khi hiệu suất sản xuất thuốc
mới từ phương pháp tổng hợp hoá học ngẫu nhiên là 1/10.000 (Farnsworth, in
Chadwick and Marsh, 1994). Đối với các sàng lọc các loài cây thuốc kháng
HIV thì hiệu quả kinh nghiệm dược học dân tộc là 1/5 trong khi sàng lọc ngẫu
nhiên là 1/18 (Balick Michael J.,1990) [12], [46].
Ở Việt Nam, cho đến nay vẫn còn rất nhiều tri thức và kinh nghiệm sử
dụng thực vật của cộng đồng các dân tộc chưa từng được khám phá, chưa
được những người ngoài cộng đồng biết đến. Vì thế mà tiềm năng về nguồn
tài nguyên thực vật đa dạng gắn với tri thức và kinh nghiệm của các cộng
đồng các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc ở vùng núi cao là rất lớn và có nhiều
triển vọng.


17


Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được thành phần và số lượng các loài thực vật có ích được
cộng đồng người Dao ở Đà Bắc sử dụng.
- Tổng hợp và chọn lọc được những tri thức, kinh nghiệm sử dụng thực
vật có ích của cộng đồng người Dao ở Đà Bắc.
- Đề xuất một số biện pháp phát triển các loài thực vật có tiềm năng kinh
tế và các biện pháp khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên thực vật tại địa
phương.
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.1. Điều tra về thành phần loài thực vật được cộng đồng người Dao
ở Đà Bắc sử dụng
2.2.2. Điều tra, thu thập và tư liệu hoá về tri thức và kinh nghiệm sử
dụng thực vật của cộng đồng người Dao ở Đà Bắc
- Điều tra, thu thập thông qua phỏng vấn đối tượng đã và đang sử dụng
trực tiếp thực vật
- Điều tra, thu thập thông qua phỏng vấn từ đối tượng khai thác, buôn bán,
kinh doanh các sản phẩm từ thực vật
2.2.3. Nghiên cứu sàng lọc các tri thức, kinh nghiệm sử dụng các nhóm
cây có ích của cộng đồng người Dao ở Đà Bắc
2.2.4. Đánh giá tình hình khai thác, quản lý, bảo vệ tài nguyên thực vật
và đề xuất các biện pháp khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên thực vật tại
địa phương
- Tình hình khai thác và sử dụng thực vật tại địa phương
- Các chính sách, hương ước có liên quan đến quản lý bảo vệ tài nguyên
thực vật của địa phương
- Đề xuất biện pháp khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên thực vật của
địa phương



18

2.2.5. Đề xuất phát triển một số loài thực vật có tiềm năng kinh tế cao
hoặc có nguồn gen quý hiếm cần bảo tồn
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp kế thừa
- Kế thừa các tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa
phương được lưu giữ tại các phòng ban liên quan của huyện, xã.
- Kế thừa có chọn lọc các tài liệu nghiên cứu đã có liên quan đến lĩnh
vực Tài nguyên thực vật và tri thức bản địa.
2.3.2. Phương pháp thu thập thông tin về thành phần loài thực vật
và kinh nghiệm sử dụng thực vật của cộng dồng người Dao ở Đà Bắc
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng một số công cụ của
phương pháp Đánh giá nhanh nông thôn (RRA), phương pháp Đánh giá nông
thôn có sự tham gia của người dân (PRA), phương pháp Phân tích và phát
triển thị trường (MA&D) để thu thập thông tin về tri thức bản địa, kinh
nghiệm sử dụng và thị trường về các loài cây thuốc của người Dao.
- Phương pháp RRA là quá trình nghiên cứu dựa trên việc quan sát và
phỏng vấn. Phương pháp RRA cho phép thu thập những kiến thức, thông tin
và sự hiểu biết của người dân địa phương bằng việc sử dụng các công cụ khác
nhau (theo Bill Jackson và Andrew Ingles, 1995) [22].
- Phương pháp PRA là phương pháp cho phép người dân nông thôn
cùng chia sẻ, nâng cao và phân tích kiến thức của họ về đời sống, về sử dụng
tài nguyên để lập kế hoạch và hành động (theo Robert Chambers, 1994) [22].
Hai công cụ của phương pháp PRA được chúng tôi sử dụng trong
nghiên cứu là phỏng vấn và thảo luận nhóm
* Phỏng vấn: Sử dụng một số câu hỏi cho những người được chọn.
Trong khi phỏng vấn, yêu cầu người cung cấp thông tin đưa ra tên cây theo

tiếng của dân tộc mình, cây dùng để làm gì, chữa các bệnh gì, chế biến ra sao
.... Quá trình phỏng vấn có thể diễn ra ở một chỗ (nhà, vườn hay trong rừng)


19

hoặc cán bộ nghiên cứu cùng với người cung cấp thông tin vừa đi vừa phỏng
vấn. Trong phỏng vấn chúng tôi lại sử dụng kết hợp giữa:
+ Phỏng vấn mở: Là dạng phỏng vấn tự do, chúng tôi có thể hỏi về bất
kỳ cây nào với những câu hỏi tùy thuộc vào hoàn cảnh khi đó. Thứ tự các nội
dung cần hỏi có thể thay đổi tùy ý, dựa trên nội dung trả lời về các câu hỏi
trước của người cung cấp thông tin.
+ Phỏng vấn bán cấu trúc: Một số câu hỏi được chuẩn bị trước và một
số câu hỏi có thể thêm vào, tùy theo các tình huống cụ thể.
+ Phỏng vấn có cấu trúc: Có sử dụng một bộ câu hỏi nhất định đối với
người cung cấp thông tin có chọn lọc.
+ Phỏng vấn tái diễn (trình diễn tri thức), trong đó chúng tôi yêu cầu
người dân địa phương diễn giải lại một quy trình xử lý hay chế biến nào đó.
+ Phỏng vấn chéo để kiểm tra thông tin của người khác đã đưa ra trong
các lần phỏng vấn trước.
*Thảo luận nhóm: Sau khi có kết quả bước đầu về tri thức và kinh
nghiệm qua phỏng vấn, để kiểm tra độ chính xác cũng như để có thêm các
thông tin bổ sung, chúng tôi tiến hành thảo luận nhóm. Nhóm thảo luận bao
gồm cả những người tham gia và không tham gia phỏng vấn trước đó. Trong
khi thảo luận, cán bộ nghiên cứu lần lượt đưa các thông tin đã thu thập được
để mọi người tranh luận. Nhiều kinh nghiệm đã được chỉnh lý và bổ sung qua
quá trình này.
- Phương pháp MA&D: Trong quá trình thu thập thông tin, chúng tôi
đã sử dụng một số công cụ của phương pháp phân tích và phát triển thị trường
nhằm tìm hiểu cấu trúc hệ thống thị trường cây thuốc trong khu vực điều tra.

Phỏng vấn và quan sát là hai công cụ được sử dụng nhiều trong quá trình
nghiên cứu này. Một bảng câu hỏi (Phụ lục) được chuẩn bị trước cho người
khai thác, người thu mua trung gian, các đại lý, người bán buôn, các cơ sở sản


20

xuất ... Quá trình phỏng vấn được thực hiện nhờ 6 loại câu hỏi trợ giúp là: ai?,
cái gì?, vì sao?, khi nào?, ở đâu?, làm thế nào?,... Trong quá trình đi thu thông
tin ngoài hiện trường, quan sát cũng là hình thức được sử dụng nhiều và hỗ
trợ cho phỏng vấn trực tiếp hoặc cung cấp những thông tin về công nghệ chế
biến, thời vụ, chất lượng sản phẩm, số lượng người bán ...
2.3.3. Thu mẫu, xử lý mẫu, định tên khoa học và lập danh lục thực vật
2.3.3.1. Thu mẫu
Các mẫu vật được thu thập theo phương pháp nghiên cứu thực vật của
Nguyễn Nghĩa Thìn (2007) [30].
Các mẫu tiêu bản đảm bảo có đầy đủ các bộ phận, đặc biệt là cành, lá
cùng với hoa quả (đối với cây lớn) hay cả cây (cây thảo nhỏ hay dương xỉ).
Các cây lớn thu từ 3 – 5 mẫu trên cùng 1 cá thể; các cây thảo nhỏ và dương xỉ
thì thu từ 3 – 5 cây (mẫu) sống gần nhau. Mẫu được thu thập phải phù hợp với
kích thích chuẩn của mẫu tiêu bản: 41 x 29 cm [30].
Tuy nhiên, trong điều tra thực vật dân tộc học, các mẫu tiêu bản thu
được thường không đầy đủ các tiêu chuẩn trên. Trong trường hợp này, chúng
tôi tiến hành thu thập cành, lá, hoa, quả, hạt, rễ ... Các mẫu này tuy chưa đủ
cơ sở để xác định chính xác tên khoa học; nhưng có thể định hướng cho quá
trình thu thập thông tin kèm theo và thu mẫu tiêu bản bổ sung sau này [23].
Bên cạnh các mẫu thực vật điển hình, để mô phỏng cho giá trị sử dụng,
chúng tôi còn thu thập các mẫu thực vật chứa đựng giá trị tri thức dân tộc,
như bộ phận dùng, các bộ phận có đặc điểm để phân biệt bởi tri thức dân tộc,
các sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật… [23], [41].

2.3.3.2. Xử lý mẫu
Các mẫu thu ngoài thực địa được cắt tỉa cho phù hợp sau đó được kẹp
báo, ngâm trong dung dịch cồn 40o - 45o. Mẫu được lấy ra khỏi cồn và được


21

thay báo, kẹp bằng kẹp tiêu bản để mang đi phơi hoặc sấy khô. Mẫu có thể được
xử lý độc và khâu hay không là tùy vào yêu cầu cụ thể [3].
2.3.3.3. Định tên và lập danh lục
Chúng tôi xác định tên khoa học các mẫu thực vật bằng phương pháp hình
thái so sánh. Dựa vào các thông tin ghi chép ngoài thực địa, các đặc điểm hình thái
lá, hoa, quả ..., từ đó so sánh với các khoá phân loại hay với các bản mô tả, hình vẽ
đã có. Để xác định tên khoa học cho mẫu tiêu bản, các tài liệu được sử dụng cho
định loại là: Cẩm nang tra cứu và nhận biết các họ thực vật hạt kín ở Việt Nam
[1], “Danh lục các loài thực vật Việt Nam” [2], Cây cỏ Việt Nam [14].
Từ các mẫu tiêu bản, chúng tôi tiến hành lập danh lục thực vật. Tên khoa
học của các loài được kiểm tra và chỉnh lý theo Brummitt, R.K. (1992) [40]. Danh
lục cuối cùng được xây dựng theo nguyên tắc tên các họ, tên cây được sắp xếp
theo thứ tự abc.
2.3.4. Xử lý thông tin
Sau mỗi chuyến điều tra, các thông tin từ phiếu điều tra được tập hợp thành
một bảng kết quả. Từ các thông tin thu được, chúng tôi xử lý, chỉnh lý lại tên công
dụng cho đồng nhất, phân nhóm các công dụng thành các nhóm chính... Sau khi
có kết quả từ việc xác định tên khoa học, các thông tin của cùng một loài sẽ được
nhập với nhau. Bảng kết quả tổng hợp của mỗi chuyến thực địa sẽ được mang đi
kiểm tra, đối chiếu và thu thập thông tin trong các đợt thực địa tiếp theo. Ngoài ra,
để kiểm tra và chỉnh lý những sai sót có thể gây ra bởi các yếu tố khách quan,
chúng tôi nhờ một lương y địa phương có hiểu biết rộng, thông thạo cả tiếng Việt
và tiếng Dao kiểm tra toàn bộ danh lục mà chúng tôi có.

2.3.5. Đánh giá mức độ đe doạ
- Căn cứ vào các tài liệu đã được ban hành như: Sách đỏ Việt Nam, 2007–
Phần II - thực vật [6]; Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam, 2006 [24]; Nghị định số
32/2006/NĐ-CP về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm [9].


22

- Căn cứ vào tình hình khai thác, buôn bán, sử dụng thực vật tại địa
phương để chỉ ra những loài có nguy cơ bị đe doạ trong khu vực.
2.3.6. Lựa chọn một số loài thực vật có triển vọng phát triển kinh tế
Tiêu chí chính để chúng tôi chọn lựa các loài có triển vọng phát triển
kinh tế cho địa phương gồm:
- Ưu tiên những loài đã có và đang được sử dụng tại địa phương;
- Có giá trị kinh tế cao;
- Có khả năng phát triển thành nguồn hàng hoá và có thị trường tiêu thụ
sản phẩm;
- Có tính độc đáo, nhằm phát triển thành nguồn hàng hoá đặc trưng của
địa phương. Hướng đến việc tạo ra thương hiệu hàng hoá cho địa phương;
- Thân thiện với môi trường (có tác dụng cải tạo đất, nước, không khí)
- Những loài đang bị đe dọa tuyệt chủng ngoài tự nhiên.


23

Chương 3
KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI
KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1. Vị trí địa lý và địa hình

Đà Bắc là huyện vùng cao của tỉnh Hòa Bình, có những điều kiện tự
nhiên tương đối đặc thù. Huyện Đà Bắc phía Bắc giáp tỉnh Phú Thọ, phía Tây
giáp tỉnh Sơn La, phía Đông tiếp giáp thành phố Hòa Bình và phía Nam giáp
với các huyện Tân Lạc, Mai Châu. Đà Bắc nằm ở vị trí tiếp giáp giữa các
vùng Tây Bắc và Đông Bắc của tổ quốc, điểm giao thoa của nhiều luồng văn
hóa khác nhau, tạo nên những nét đặc sắc riêng. Đà Bắc còn có danh lam,
thắng cảnh như hồ Sông Đà, động Thác Bờ...là địa điểm du lịch sinh thái có
sức thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.
Nằm ở độ cao trung bình 560 m, có nhiều ngọn núi cao trên 1000 m so
với mực nước biển, Đà Bắc có địa hình núi, đồi, sông, suối xen kẽ tạo thành
nhiều dải hẹp, độ chia cắt lớn, độ dốc bình quân 350. Địa hình nơi đây mang
đặc trưng kiểu địa hình núi cao trung bình, chủ yếu là núi đá vôi, trong đó có
những núi cao trên 1000 m như Phu Canh (1373 m), Phu Xúc (1373 m), Đức
Nhân (1320 m), Biều (1163 m)...
3.1.2. Khí tượng – thủy văn
Huyện Đà Bắc nằm trong vùng khí hậu á nhiệt đới gió mùa, mỗi năm
có 2 mùa rõ rệt: Mùa khô lạnh kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm
sau, mùa nóng ẩm từ tháng 5 đến tháng 10. Nhiệt độ trung bình năm là
23,50C, nhiệt độ cao nhất khoảng 38 – 390C, nhiệt độ thấp nhất là 120C.
Lượng mưa trung bình là 1570 mm/năm, nhưng tập trung chủ yếu vào khoảng
thời gian từ tháng 5 đến tháng 9 (chiếm 79% lượng mưa cả năm).
Hầu hết các xã đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của gió tây khô nóng, xuất
hiện từ tháng 6 đến tháng 9, có kỳ xảy ra 2-3 ngày, bình quân 5-10 ngày trong


24

1 năm. Vào mùa mưa, ở huyện thường xảy ra những đợt lũ quét phá hoại
đường xá, các diện tích hoa màu và ruộng lúa nước.
Đà Bắc nằm trọn trong lưu vực sông Đà nên chịu ảnh hưởng sâu sắc

của chế độ thủy văn của sông Đà. Nguồn nước sông Đà đảm bảo cho sản xuất
và sinh hoạt của toàn huyện.
3.1.3. Đất đai – khoáng sản
Huyện Đà Bắc có diện tích tự nhiên lớn nhất tỉnh Hòa Bình với tổng
diện tích là 820 km2 (chiếm 17,6% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh). Diện
tích đất lâm nghiệp của Đà Bắc lớn thứ hai toàn tỉnh Hòa Bình với 30.522 ha.
Trong đó, rừng tự nhiên chiếm 84,25% (25.715 ha), rừng trồng chiếm
15,75%. Tuy nhiên, diện tích đất nông nghiệp lại chiếm tỉ lệ rất ít, khoảng
4,24 % (diện tích lúa nước chiếm 1,047%), nên việc thực hiện ổn định và an
toàn lương thực tại chỗ gặp không ít khó khăn. Một điều đáng phải quan tâm,
xem xét nữa là diện tích đất hoang hóa, chưa sử dụng hiện nay khá lớn,
khoảng 37.965,24 ha (chiếm 48,73% tổng diện tích); trong đó, đất trống, đồi
núi trọc, có khả năng trồng rừng chiếm 47,3% tổng diện tích. Tiềm năng phát
triển và thu nhập từ nghề rừng là rất lớn. Có thể nói, Đà Bắc có nhiều loại đất
rất phù hợp với sản xuất nông, lâm nghiệp, nhất là với cây công nghiệp, cây
ăn quả, cây lâm nghiệp và cây dược liệu.
Ở Đà Bắc, nguồn tài nguyên khoáng sản chủ yếu là đá vôi, đá granit, là
nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng. Ngoài ra, qua khảo sát bước đầu, đã
phát hiện được quặng bôxit và phốtphorit.
3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
3.2.1. Kinh tế và đời sống
Đà Bắc hiện có 19 xã và 1 thị trấn (tháng 10/2009 huyện Tân Dân sát
nhập vào huyện Mai Châu). Đây là huyện khó khăn nhất của tỉnh Hoà Bình.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, đến nay nền kinh tế Đà Bắc có nhiều
bước phát triển đáng kể, mức sống của nhân dân được cải thiện, đời sống vật


×