ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRẦN HỮU HÀO
NGHIÊN CỨU TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG VÀ NĂNG LỰC
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CỦA CỘNG ĐỒNG
XÃ TÂY PHONG HUYỆN CAO PHONG TỈNH HÒA BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
Hà Nội - Năm 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRẦN HỮU HÀO
NGHIÊN CỨU TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG VÀ NĂNG
LỰC THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CỦA CỘNG
ĐỒNG XÃ TÂY PHONG HUYỆN CAO PHONG TỈNH
HÒA BÌNH
Chuyên ngành: Môi trường trong phát triển bền vững
(Chương trình đào tạo thí điểm)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
T.S VÕ THANH SƠN
Hà Nội - Năm 2011
iv
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN i
LỜI CAM ĐOAN iii
MỤC LỤC iv
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC CÁC BẢNG vii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ viii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG VÀ
NĂNG LỰC THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 4
1.1. Một số khái niệm 4
1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 5
1.3. Các nghiên cứu ở Việt Nam 9
1.4. Các nghiên cứu tại khu vực nghiên cứu. 13
CHƯƠNG 2: THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM, PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU 20
2.1. Thời gian nghiên cứu 20
2.2. Địa điểm nghiên cứu 20
2.2.1. Điều kiện tự nhiên 20
2.2.2. Hiện trạng sử dụng đất qua một số thời điểm 22
2.2.3. Tình hình kinh tế, xã hội 23
2.3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 24
2.3.1. Phương pháp luận 24
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu 26
2.3.3. Nội dung nghiên cứu 28
v
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 29
3.1. Đặc điểm khí hậu và các hiện tượng khí hậu cực đoan 29
3.1.1. Nhiệt độ, lượng mưa 29
3.1.2. Các hiện tượng khí hậu cực đoan 36
3.2. Các nguồn sinh kế của cộng đồng đặc biệt là hộ nghèo 39
3.3. Tác động của các hiện tượng khí hậu cực đoan tới sinh kế của hộ nghèo 42
3.4. Năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu 49
3.5. Đề xuất các cơ sở thích ứng với khí hậu cực đoan trong bối cảnh biến đổi khí
hậu 53
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO 58
PHỤC LỤC 62
vi
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
BĐKH
Biến đổi khí hậu
KT-XH
Kinh tế - xã hội
GDP
Tổng thu nhập quốc nội
IPCC
Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu
PRA
Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia: (Participatory Pural
Appraisal)
VCA
Phương pháp luận Đánh giá Khả năng bị tổn thương và Năng lực thích ứng
IMHEN
Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường
ĐBSCL
Đồng bằng sông cửu long
KHCN
Khoa học công nghệ
UNDP
Chương trình hỗ trợ phát triển liên hợp quốc
CTMTQG
Chương trình mục tiêu Quốc gia
UBND
Ủy ban nhân dân
IIED
Viện quốc tế nghiên cứu về môi trường và phát triển
SLF
Sustainable Livelihoods Framework (Khung Sinh kế Bền vững)
DFID
Bộ Phát triển Hải ngoại Anh Quốc
CPI
Chỉ số giá tiêu dùng
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Hiện trạng sử dụng đất từ năm 2000 đến 2011 22
Bảng 2.2: Bảng chỉ số cần thu thập 27
Bảng 2.3: Phương pháp/các công cụ phân tích trong nghiên cứu 27
Bảng 3.1: Bảng thống kê nhiệt độ tuyệt đối hàng năm 31
Bảng 3.2: Các hiện tượng khí hậu cực đoan xã Tây Phong 36
Bảng 3.3: Thống kê sự xuất hiện của khí hậu cực đoan và các tác động 37
Bảng 3.4: Bảng tổng hợp nguồn sinh kế 40
Bảng 3.5: Bảng tổng hợp tài sản của hộ nghèo 41
Bảng 3.6: Bảng tổng hợp đánh giá mức độ và tác động của các hiện tượng khí hậu cực
đoan tới nông nghiệp của hộ nghèo 42
Bảng 3.7: Tác động của các hiện tượng khí hậu cực đoan tới lịch thời vụ 44
Bảng 3.8: Bảng hoạch toán trồng lúa và trồng mía 47
Bảng 3.9: Bảng xếp hạng loại hộ bị ảnh hưởng bởi các hiện tượng khí hậu cực đoan 48
Bảng 3.10: Bảng tổng hợp đánh giá nhận thức người dân xã Tây Phong về BĐKH 51
Bảng 3.11: Năng lực thích ứng của hộ nghèo 52
viii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 2.1: Bản đồ xã Tây Phong 21
Hình 2.2: Khung sinh kế bền vững (SLF) 25
Hình 3.1: Đồ thị biểu diễn nhiệt độ trung bình hàng năm 30
Hình 3.2: Đồ thị biểu diễn số ngày có nhiệt độ < 15
0
C 33
Hình 3.3: Đồ thị biểu diễn số ngày có nhiệt độ < 10
0
C 33
Hình 3.4: Đồ thị biểu diễn lượng mưa trung bình hàng năm 34
Hình 3.5: Đồ thị biểu diễn số tháng có lượng mưa <150 mm 35
Hình 3.6: Cây vấn đề về diện tích lúa giảm 45
Hình 3.7: Sơ đồ tổ chức Phòng chống bão lũ tỉnh Hòa Bình 49
1
MỞ ĐẦU
Theo các nhà khoa học, khí hậu toàn cầu trong những năm gần đây đang biến đổi
rất mạnh mẽ: nó tác động tới nhiều lĩnh vực như kinh tế, xã hội, giáo dục, nông nghiệp, đa
dạng sinh học, môi trường, sức khỏe con người với quy mô trên toàn cầu; là một trong
những thách thức đối với sự sinh tồn của loài người trên toàn thế giới trong thế kỷ 21.
Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng hậu quả của biến đổi khí hậu đối với
Việt Nam là rất nghiêm trọng và là một nguy cơ hiện hữu cho mục tiêu xoá đói giảm
nghèo, cho việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất
nước (Bộ tài nguyên và môi trường, 2009). Nước ta có phần lớn dân số sinh sống ở vùng
nông thôn, vùng miền núi, ven biển và nguồn sinh kế của họ đặc biệt là hộ nghèo chủ
yếu từ nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp phụ thuộc nhiều vào khí hậu và điều kiện
tự nhiên. Biến đổi khí hậu (BĐKH) đặt ra cho họ những thách thức lớn hơn trong việc
xóa đói giảm nghèo và duy trì sinh kế bền vững. Chính vì vậy đây là nơi dễ bị tổn
thương nhất do tác đổng bởi biến đổi khí hậu.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu trên toàn cầu và ở Việt Nam, vùng núi Tây Bắc
trong đó có xã Tây Phong, huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình là một trong những nơi bị
ảnh hưởng do tác động BĐKH (Bộ tài nguyên và môi trường, 2009). Tây Phong là xã
có tỷ lệ hộ nghèo cao, có những đặc điểm đại diện cho vùng núi tỉnh Hòa Bình nói
riêng, vùng núi Tây Bắc nói chung. Biến đổi khí hậu ở đây biểu hiện rõ rệt nhất là các
hiện tượng khí hậu cực đoan như hạn hán kéo dài, mưa lũ bất thường, rét đậm rét hại
các hiện tượng này xuất hiện thất thường khó dự đoán. Những kiểu thời tiết cực đoan
này tác động tới đời sống người dân đặc biệt là hộ nghèo sống trong cộng đồng làm
cho họ dễ bị tổn thương hơn, cuộc sống của họ trở nên bất ổn, nguồn sinh kế của họ bị
đe dọa. Cụ thể diện tích lúa giảm do hạn hán, năng suất cây trồng giảm hoặc mất trắng,
gia súc chết do rét, dịch bệnh tăng, chi phí đầu tư sản xuất lớn, lợi nhuận thu lại ít.
2
Hiện nay chưa có nghiên cứu nào liên quan tới tính dễ bị tổn thương, năng lực thích
ứng với biến đổi khí hậu tại khu vực này
Chính vì vậy em quyết định chọn đề tài “Nghiên cứu tính dễ bị tổn thương và
năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu của cộng đồng xã Tây Phong huyện Cao
Phong tỉnh Hòa Bình”
Mục tiêu của luận văn
- Nghiên cứu tính dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng của cộng đồng với biến
đổi khí tại xã Tây Phong huyện Cao Phong tỉnh Hòa Bình
- Bước đầu đề xuất giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu của cộng đồng nhằm
nâng cao sinh kế
Đối tượng nghiên cứu
Cộng đồng địa phương của xã Tây Phong huyện Cao Phong tỉnh Hòa Bình và
sinh kế của họ bị tác động bởi các hiện tượng khí hậu cực đoan trong bối cảnh biến đổi
khí hậu.
Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu được thực hiện tại xã Tây Phong huyện Cao Phong tỉnh Hòa
Bình vì xã Tây Phong có điều kiện tự nhiên, khí hậu đại diện cho vùng núi Tây Bắc,
thường xuyên xuất hiện các hiện tượng khí hậu cực đoan như mưa lũ, hạn hán, rét đậm,
rét hại, là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao so với các xã trong vùng và là nơi thuận tiện cho
quá trình nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: Thời gian nghiên cứu từ năm 1985 đến nay vì đây là giai
đoạn gắn với thời kỳ cải cách và đổi mới nền kinh tế
- Về nội dung nghiên cứu: BĐKH thể hiện bằng thay đổi nhiệt độ, lượng mưa và
hiện tượng thời tiết cực đoan tăng về tần suất và cường độ, và mức độ khó dự báo,
3
nhưng trong khuôn khổ nghiên cứu này chỉ tập trung một số khía cạnh của các hiện
tượng khí hậu cực đoan, đặc biệt là hạn hán, mưa lũ, rét đậm rét hại và tác động của
chúng lên sản xuất nông nghiệp, sinh kế của những người nghèo.
Kết cấu chính của luận văn
Mở đầu
Chương 1: Tổng quan về tính dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu.
Chương 2: Địa điểm, thời gian, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Kết luận và khuyến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG VÀ
NĂNG LỰC THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
1.1. Một số khái niệm
Biến đổi khí hậu
Là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình và/hoặc dao động của
khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn.
Biến đổi khí hậu có thể là do các quá trình tự nhiên bên trong hoặc các tác động bên
ngoài, hoặc do hoạt động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyển hay
trong khai thác sử dụng đất. (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2008)
Theo Nguyễn Đức Ngữ (chủ biên), 2008, các biểu hiện của biến đổi khí hậu là
- Nhiệt độ trung bình năm tăng; sự biến đổi và độ khác thường của thời tiết và
khí hậu tăng;
- Nước biển dâng do băng tan từ các cực Trái đất và các đỉnh núi cao;
- Các hiện tượng cực đoan của thời tiết và thiên tai (nóng, rét hại, bão, lũ lụt,hạn
hán, v.v…) xảy ra với tần suất cao hơn, cường độ và độ khác thường lớn hơn.
Khí hậu cực đoan
Ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (The Intergoverment Panel on Climate
Change – IPCC), 2007 định nghĩa “hiện tượng thời tiết cực đoan” và “hiện tượng khí
hậu cực đoan” như sau:
Hiện tượng thời tiết cực đoan: là hiện tượng hiếm ở một nơi cụ thể khi xem xét
phân bố thống kê của nó. Hiếm có thể hiểu là các hiện tượng thời tiết cực đoan thông
thường được có tần suất xuất hiện của nó nhỏ hơn 10%. Theo định nghĩa này, những
đặc trưng của thời tiết cực đoan có thể thay đổi tùy từng khu vực mà đặc trưng cho khu
vực đó, nó phụ thuộc vào các yếu tố địa lý tự nhiên, bức xạ, địa hình…
5
Hiện tượng khí hậu cực đoan: là trung bình của số các hiện tượng thời tiết cực
đoan trên một khoảng thời gian nhất định, trung bình tự nó đã là cực đoan. Hiện tượng
khí hậu cực đoan có thể xác định từ các yếu tố khí hậu. Nói cách khác, hiện tượng khí
hậu cực đoan phần lớn không được quan trắc trực tiếp mà người ta căn cứ vào số liệu
quan trắc các yếu tố khí hậu để xác định hoặc quy định một hiện tượng nào đó có xuất
hiện hay không.
Tính dễ bị tổn thương
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, tính dễ bị tổn thương: “Khả năng (tính) dễ
bị tổn thương do tác động của biến đổi khí hậu là mức độ mà một hệ thống (tự nhiên,
xã hội, kinh tế) có thể bị tổn thương do BĐKH, hoặc không có khả năng thích ứng với
những tác động bất lợi của biến đổi khí hậu” (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2008)
Thích ứng với biến đổi khí hậu
Thích ứng với biến đổi khí hậu là sự điều chỉnh hệ thống tự nhiên hoặc con
người đối với hoàn cảnh hoặc môi trường thay đổi, nhằm mục đích giảm khả năng bị
tổn thương do dao động và biến đối khí hậu hiện hữu hoặc tiềm tàng và tận dụng các
cơ hội do nó mang lại (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2008)
1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Đánh giá tính dễ bị tổn thương
Tính dễ bị tổn thương được nghiên cứu nhiều năm qua trong đó ở lĩnh vực
BĐKH: Theo nghiên cứu của IUCN đã nêu trong báo cáo về “người bản địa và biến đổi
khí hậu” (2008), tính dễ bị tổn thương được phân làm 2 nhóm yếu tố: Xã hội (nghèo đói,
bất bình đẳng, mù chữ…. ); lý sinh (sức khỏe và dinh dưỡng). Theo Cục biến đổi khí hậu
và năng lượng Australia, 2011, tính dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu được phân
thành 3 yếu tố là sinh thái học, kinh tế và xã hội.
6
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp khác nhau để đánh giá tính dễ
bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu. Alex de Sherbinin và cộng sự (2010) sử dụng
phương pháp tiếp cận dựa vào các kịch bản kết hợp với những phương pháp tiếp cận
mới đánh giá tính dễ bị tổn thương từ dưới lên để nghiên cứu đánh giá tính dễ bị tổn
thương tại 3 thành phố là Mumbai, Rio de Janeiro và Thượng Hải. Nghiên cứu này đã
đánh giá một số cản trở về mặt chính trị để chuẩn bị tốt hơn trong việc phòng ngừa
thiên tai.
Heru Santoso (2007) sử dụng phương pháp đánh giá nhanh tính dễ bị tổn thương
để thu thập thông tin ở các lĩnh vực khác nhau và từ đó xây dựng các chiến lược thích
ứng tại Indonesia
Thích ứng với biến đổi khí hậu
Hiện nay có nhiều cách tiếp cận thích ứng với BĐKH như: Thích ứng dựa trên
hệ sinh thái, cộng đồng và quyền lợi….Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu về cộng đồng
thường sử dụng cách tiếp cận dựa trên cộng đồng để nghiên cứu khả năng thích ứng
của cộng đồng dễ bị tổn thương với biến đổi khí hậu.
Cách tiếp cận thích ứng với BĐKH dựa trên cộng đồng là một phương pháp
luận để thu thập, tổ chức và phân tích thông tin về khả năng bị tổn thương và năng lực
thích ứng của cộng đồng, hộ gia đình và cá nhân. Nó cung cấp những hướng dẫn và
công cụ cho nghiên cứu, phân tích và học hỏi có sự tham gia. Nó cũng tính đến vai trò
của các cơ quan và chính sách quốc gia và địa phương trong thực hiện hoạt động thích
ứng. (CARE International, 2010)
Dựa trên cách tiếp cận này, Tổ chức CARE International và Viện Phát triển Bền
vững Quốc tế đã nghiên cứu Bộ công cụ phân tích sự thích ứng dựa vào cộng
đồng(CBA). Bộ công cụ này hướng dẫn các bước phân tích, đánh giá khả năng bị tổn
7
thương và năng lực thích ứng với BĐKH tại các cộng đồng, từ đó xây dựng, triển khai
các dự án. (CARE International, 2010)
Ngoài ra, Hannah Reid và cộng sự (2009) cũng sử dụng phương pháp tiếp cận
dựa vào cộng đồng để nghiên cứu tính dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng với
BĐKH. Phương pháp này tập trung vào việc thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào
cộng đồng giúp cộng đồng phân tích nguyên nhân và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu
trong việc tích hợp các kiến thức khoa học và kiến thức cộng đồng để lập kế hoạch
thích ứng.
Các nghiên cứu về tính dễ bị tổn thương và khả năng thích ứng với BĐKH
của hộ nghèo
Năm 2007, báo cáo về nghèo đói với BĐKH của Oxfam Quốc tế đã có những
cảnh báo về sự suy tàn sinh kế của người nghèo; nêu rõ sự gia tăng các thảm họa khí
hậu ảnh hưởng tới nhiều người đặc biệt là hộ nghèo, người nghèo không có sức mạnh
để chống chịu lại các thảm họa.
Hari Bansha Dulal (2010) đã đưa ra những khảo sát về khả năng của những người
dân nghèo thuộc các cộng đồng ở vùng Koshi Tappu ở Nepal thích ứng với biến đổi khí
hậu, đặc biệt chú ý đến các tài sản chủ yếu (nhân lực, xã hội, tự nhiên, vật chất, và vốn
tài chính) để duy trì khả năng ứng phó với các sự kiện thời tiết cực đoan liên tục xảy ra.
Trong báo cáo “Thay đổi môi trường toàn cầu và An ninh con người” (Siri E.H.
Eriksen, 2007) đề cập tới mối quan hệ giữa nghèo đói và thích ứng với biến đổi khí
hậu, báo cáo cũng xem xét tới thực trạng thể chế trong việc kếp hợp giải pháp thích
ứng với biến đối khí hậu của việc thực thi các chính sách hỗ trợ phát triển hiện nay.
Nông nghiệp là đối tượng bị ảnh hưởng bởi các hiện tượng khí hậu cực đoan do
tác động của BĐKH.
8
Trong nghiên cứu của Helal Ahammad, 2007 đã đề cập tới “ các vấn đề và thách
thức của nông nghiệp Australia trong việc thích nghi với thay đổi thời tiết, đặc biệt là
xem xét các ảnh hưởng của thay đổi khí hậu có thể xảy ra đối với ngành sản xuất nông
nghiệp của Australia. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng những khu vực (phụ thuộc lớn
vào ngành nông nghiệp) có thể phải chịu những mất mát đáng kể do ảnh hưởng của
việc thay đổi khí hậu. Nghiên cứu này cũng phát hiện vai trò tiềm năng của thích nghi
trong việc làm giảm những chi phí do những ảnh hưởng này.
Báo cáo đánh giá rủi ro ngành nông nghiệp Indonesia năm 2007 (Rosamond L.
Naylor, 2007) đã sử dụng cơ sở lý luận về đánh giá rủi ro để xem xét ảnh hưởng tiềm
năng của các hiện tượng El Nino và thay đổi tự nhiên đối với ngành lúa gạo năm 2050
với điều kiện thay đổi khí hậu. Nghiên cứu này tập trung vào hai khu vực sản xuất lúa
gạo chính; Java và Bali và chỉ ra nhu cầu cần có chiến lược thích ứng cho ngành lúa
gạo Indonesia; bao gồm cả việc đầu tư các hồ chứa nước, các cây trồng chịu hạn, đa
dạng hoá mùa vụ và hệ thống cảnh báo sớm.
Ramasy cùng các đồng nghiệp (2007) đã nghiên cứu và xuất bản cuốn sách “sự
dao động và biến đổi khí hậu: thích ứng với hạn hán ở Bangladesh” những thông tin
trong cuốn sách giúp cho cán bộ khuyến nông, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý địa
phương chuẩn bị và tiến hành đánh giá BĐKH ở cộng đồng, các khu vực nhạy cảm
nhằm nâng cao năng lực ứng phó và khả năng thích ứng với BĐKH trong sinh kế nông
nghiệp và các nghành liên quan.
Các nghiên cứu nêu trên đã phần nào khái quát tình hình nghiên cứu trên thế
giới về tính dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu và nổi bật lên
các vấn đề sau:
- Tính dễ bị tổn thương bao gồm các yếu tố: Xã hội (nghèo đói, bất bình đẳng, mù
chữ…. ), lý sinh (sức khỏe và dinh dưỡng), sinh thái học và kinh tế;
9
- Các nhà nghiên cứu sử dụng phương pháp dựa vào cộng đồng, dựa vào các kịch
bản, phương pháp tiếp cận từ trên xuống để nghiên cứu tính dễ bị tổn thương và năng
lực thích ứng với BĐKH;
- Nông nghiệp và hộ nghèo bị ảnh hưởng rất lớn bởi biến đổi khí hậu;
- Lồng ghép thích ứng với BĐKH trong hoạch định chính sách và lâp kế hoạch;
Thông qua các nghiên cứu trên cho thấy, vấn đề thích ứng với biến đổi khí hậu
mà trực tiếp tác động là thời tiết cực đoan (hạn hán, mưa lũ, rét đậm, rét hại ) tới đảm
bảo sinh kế của hộ nghèo còn được đề cập rất ít và nếu có chỉ là các khía cạnh riêng rẽ
như cộng đồng nghèo, nông nghiệp Với nghiên cứu tính dễ bị tổn thương và năng lực
thích ứng với biến đổi khí hậu tập trung vào các hiện tượng thời tiết cực đoan và
sinh kế dựa vào nông nghiệp của các hộ nghèo miền núi sẽ bổ xung thêm các nghiên
cứu nói trên.
1.3. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Trong bối cảnh BĐKH ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, Việt Nam đã và đang
tích cực chống lại biến đổi khí hậu với các hoạt động, dự án trên nhiều lĩnh vực khác
nhau như: Nông nghiệp, giao thông, thủy lợi… với nhiều cơ quan chuyên môn cũng
như các tổ chức quốc tế nghiên cứu và triển khai trong những năm qua.
Tính dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu
Dự án “Nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu ở lưu vực sông Hương và chính
sách thích nghi ở huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế” do Chương trình hỗ trợ
Nghiên cứu Khí hậu Hà Lan tài trợ là một nghiên cứu thí điểm về BĐKH tại khu vực.
Nghiên cứu đánh giá tác động của BĐKH và tính dễ bị tổn thương của các nghành kinh
tế, xã hội dựa trên quan điểm quản lý tổng hợp từ đó giảm khả năng bị tổn thương cải
thiện sinh kế cho người dân (Lê Nguyên Tường và nnk, 2008).
10
Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường (IMHEN) (2011) đã nghiên
cứu và xây dựng hướng dẫn “Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu và xác định các
giải pháp thích ứng” nhằm phục vụ cho công tác xây dựng kế hoạch hành động của các
Bộ, ngành địa phương với biến đổi khí hậu. Hướng dẫn sử dụng cách tiếp cận như sau:
- Đánh giá tác động của BĐKH ở thời điểm hiện tại sau đó đánh giá tác động
trong tương lai dựa vào các kịch bản kết hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, môi trường;
- Đánh giá tác của BĐKH theo ngành, theo vùng địa lý, theo ranh giới hệ sinh thái…
Liên quan tới tính dễ bị tổn thương Đặng Đình Khá đã nghiên cứu Đề tài luận
văn thạc sĩ “Nghiên cứu tính dễ bị tổn thương do lũ lụt hạ lưu sông Thạch Hãn, tỉnh
Quảng Trị”(Đặng Đình Khá, 2011). Trong nghiên cứu này có đề cập tới một tính dễ bị
tổn thương do lũ lụt bằng các phương pháp khác nhau và nổi bật lên phương pháp
nghiên cứu đánh giá tính dễ bị tổn thương trong vùng bằng lập bản đồ dễ tổn thương
dựa trên bản đồ bản đồ nguy cơ lũ, bản đồ sử dụng đất và bản đồ thể hiện khả năng
chống chịu của cộng đồng.
Trung tâm Nguyên cứu Tài nguyên và Môi trường (CRES) cũng có nhiều đóng
góp trong các nghiên cứu về biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, sinh thái môi trường,
bảo vệ môi trường rừng,….Liên quan tới tính tới biến đổi khí hậu, Mai Kim Liên đã
tiến hành nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn
nhằm bước đầu đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến phát triển kinh tế, xã hội
Thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định” (Mai Kim Liên, 2010).
Các nghiên cứu tác động của BĐKH tới sinh kế (nông nghiệp) của hộ nghèo
Theo Bộ lao động thương binh và xã hội năm 2011, mức nghèo được quy
định như sau:
- Mức chuẩn nghèo (cập nhật CPI): so sánh thu nhập hộ gia đình với mức 480
ngàn đồng khu vực nông thôn và 600 ngàn đồng khu vực thành thị;
11
- Mức chuẩn cận nghèo (cập nhật CPI): so sanh thu nhập hộ gia đình với mức
600 ngàn đồng khu vực nông thôn và 750 ngàn đồng khu vực thành thị.
Nghiên cứu “người nghèo và thích ứng với biến đổi khí hậu” tại vùng ven biển
của Ninh Thuận và Hà Tĩnh cho thấy: sinh kế của người dân vùng này tập trung vào
đánh bắt thủy sản, các hiện tượng khí hậu cực đoan tác động tới đời sống của họ chủ yếu
là hạn hán ảnh hưởng nghiêm trọng tới nguồn nước sinh hoạt và đối tượng bị tổn thương
chủ yếu là phụ nữ và trẻ nhỏ (UNDP, 2008).
Dự án: "Giảm thiểu và Thích ứng của ngành Trồng trọt đối với Biến đổi khí hậu ở
Việt Nam" do Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thực hiện tháng 1
năm 2010 đã nghiên cứu và cho rằng một trong những điểm yếu là cộng đồng nông thôn
những người sống phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, do vậy việc tập trung đánh giá
tác động của BĐKH đến sinh kế và tái thiết mối liên quan giữa đói nghèo, sinh kế và
môi trường. Tuy nhiên, tập trung vào cộng đồng không cũng chưa đủ. Kết quả phỏng
vấn nông dân và cán bộ địa phương đã cho thấy hầu như cộng đồng chưa có vai trò gì
trong việc ứng phó với BĐKH (ngoại trừ một số trường hợp khẩn cấp).
Tổ chức Oxfam tại Việt Nam và Viện Sau đại học về nghiên cứu môi trường,
Trường Đại học Kyoto, Nhật Bản đã tiến hành nghiên cứu những lựa chọn để giải
quyết rủi ro do hạn hán ở Việt Nam. Trong nghiên cứu này tập trung vào phân tích ảnh
hưởng của tần suất hạn hán tới sinh kế của cộng đồng tại các khu vực thường xuyên bị
hán hán của tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam. Bên cạnh đó nghiên cứu cũng đề cập tới cộng
đồng cảm nhận như thế nào với hạn hán và thay đổi khí hậu, chính quyền địa phương
và các tổ chức phi chính phủ làm sao để có thể đối phó với thảm họa từ thiên nhiên,
đặc biệt đối với hạn hán.(Oxfam Việt Nam, 2010).
Thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng
12
Tổ chức CARE International nghiên cứu sự thích ứng với BĐKH dựa vào cộng
đồng trong đó đề cập tới tác động của BĐKH tới an ninh lương thực và thu nhập của
người dân, nước sinh hoạt, sức khỏe và di dân. Nghiên cứu cho thấy người nghèo và
người dân vùng ven biển bị ảnh hưởng nhiều nhất. Nghiên cứu ở Thanh Hóa cho thấy
rằng các hiện tượng thời tiết cực đoan: hạn hán, ngập lụt, thay đổi mùa đã tác động tới
sản xuất nông nghiệp làm cho thiếu đói, gia cầm, khai thác thủy sản bị ảnh hưởng
(Morten Fauerby Thomsen, 2010, CARE International).
Từ năm 2002, tổ chức Oxfam Hồng Kông và tổ chức Oxfam Anh đã xây dựng
một chương trình phối hợp lồng ghép giảm nhẹ rủi ro thiên tai trong sinh kế bền vững.
Qua kết quả thu được cho thấy thời tiết có những thay đổi và diễn biến khó lường (số
lượng bão lớn tăng, hạn hán kéo dài, lũ lụt thất thường, v.v) đe dọa tính mạng và thành
quả của người nghèo và người dân tộc miền núi sinh sống trong những vùng Oxfam hỗ
trợ, tổ chức này đã xây dựng chiến lược giúp hộ nghèo và phụ nữ nghèo trong vùng dự
án từng bước thích ứng với biến đổi khí hậu.
Trung tâm nghiên cứu và phát triển nông thôn (CSRD) (Lâm Thị Thu Sửu và
nnk, 2010) nghiên cứu thích ứng biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng tại khu vực sông
Hương, tỉnh Thừa Thiên Huế tập trung vào:
- Tìm hiểu những biện pháp thích ứng mà người dân địa phương và nhiều tổ chức
đã thực hiện;
- Xác định các biện pháp thích ứng chính liên quan đến quản lý nguồn nước;
- Lựa chọn những giải pháp thích ứng hiệu quả cụ thể để hỗ trợ trực tiếp và làm
đầu vào cho các kế hoạch địa phương.
Hiện nay, có khoảng 70 tổ chức tại Việt Nam tham gia nghiên cứu và thực thiện
liên quan tới “tính dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu” tập
chung vào các vấn đề như: BĐKH và Nông nghiệp bền vững, Biển và Ven biển với
13
BĐKH, Sức khỏe cộng đồng và BĐKH, Tài nguyên môi trường và BĐKH, Nghiên cứu
và vận động chính sách với BĐKH. Tuy nhiên nghiên cứu các hiện tượng thời tiết cực
đoan và sinh kế dựa vào nông nghiệp của các hộ nghèo khu vực miền núi được đề cập
rất ít chính vì vậy nghiên cứu tính dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng với biến
đổi khí hậu tập trung vào các hiện tượng thời tiết cực đoan và sinh kế dựa vào
nông nghiệp của các hộ nghèo miền núi sẽ bổ sung thêm các nghiên cứu nói trên.
1.4. Các nghiên cứu tại khu vực nghiên cứu.
Theo Viện khí tượng thủy văn và môi trường, để đánh giá xu thế diễn biến khí
hậu ở Hòa Bình, đã sử dụng chuỗi số liệu 38 năm (1973 - 2010) của 5 trạm Chi Nê,
Hòa Bình, Kim Bôi, Lạc Sơn và Mai Châu.
Nhiệt độ
Đối với nhiệt độ, xu thế diễn biến được xác định trên cơ sở chuỗi số liệu trung
bình nhiều năm (°C) và xu thế diễn biến lượng mưa được xác định thông qua chuỗi số
liệu tổng lượng mưa năm (mm).
Trong 38 năm qua, nhiệt độ trung bình năm ở Hòa Bình tăng khoảng 1,1°C.
Trong đó, nhiệt độ trung bình tháng I (tháng đặc trưng cho mùa đông) ở trạm Chi Nê
tăng khoảng 1,6°C, còn nhiệt độ tháng VII (tháng đặc trưng cho mùa hè) tăng khoảng
0,4°C; trạm Hòa Bình có nhiệt độ trung bình tháng I tăng khoảng 2,0°C và tháng VII
tăng là 0,5°C, tượng tự với trạm Kim Bôi và Lạc Sơn nhiệt độ tháng I và tháng VI tăng
lần lượt là 1,7°C, 1,4°C, 0,6°C và 0,5°C. (Viện khí tượng thủy văn và môi trường, 2011)
Lượng mưa
Lượng mưa mùa mưa ở cả 4 trạm Chi Nê, Hòa Bình, Kim Bôi và Lạc Sơn đều có
xu hướng giảm. Trong đó, 2 trạm Chi Nê và Kim Bôi có xu thế giảm mạnh, trạm Hòa
Bình và Lạc Sơn có xu hướng giảm nhẹ hơn
Các hiện tượng thời tiết cực đoan
14
Trong những năm gần đây, thiệt hại về người và của do ảnh hưởng của những
điều kiện tự nhiên gia tăng.
Bão và ATNĐ: theo thống kê từ năm 2001 đến 2010 đã có 19 cơn bão và 3
ATNĐ ảnh hưởng đến địa bàn tỉnh Hòa Bình, gây ra những đợt mưa to trên diện rộng,
vừa góp phần chấm dứt tình trạng hạn hán kéo dài nhưng cũng gây ra nhiều thiệt hại
cho sản xuất và đời sống nhân dân.
Lũ lụt: Từ năm 2001 đến năm 2010, do ảnh hưởng của các cơn bão như : Bão
số 3, số 5 (năm 2003); ATNĐ , bão số 2, số 4 (năm 2004); bão số 3, số 6, số 7 (năm
2005); bão số 5, số 6 và 01 đợt ATNĐ (do ảnh hưởng gián tiếp của cơn bão số 3) (năm
2006); bão số 1, số 5 và 02 đợt ATNĐ (một đợt do ảnh hưởng của cơn bão số 5) (năm
2007); bão số 4 và bão số 6 (năm 2008); bão số 4 và số 7 (năm 2009); bão số 1, số 2, số
3 (năm 2010) đã gây ra các trận mưa to đến rất to và kéo dài nhiều ngày, những nơi có
lượng mưa lớn nhất như các huyện: Đà Bắc, Yên Thuỷ, Lạc Thuỷ, Kim Bôi. Tân Lạc
và Thành phố Hoà Bình. Một số nơi có tổng lượng mưa ngày lớn lên tới 350 mm như
huyện Đà Bắc và huyện Yên Thuỷ. Năm 2005 cơn bão số 6, số 7 và năm 2007 (ATNĐ
do ảnh hưởng của cơn bão số 5) đã gây mưa to trên toàn tỉnh , lượng mưa bình quân từ
100 đến 250 mm đã gây ra lũ quét và làm ngập úng tại nhiều xã trong tỉnh. (Viện khí
tượng thủy văn và môi trường, 2011)
Hạn hán: theo tài liệu khí tượng thủy văn từ 30 – 40 năm trở lại đây, hạn hán
xảy ra ở Hòa Bình ít khắc nghiệt và ít nghiêm trọng, phổ biến hàng năm có hạn nhẹ và
vài năm có hạn vừa cục bộ ở một số nơi. Ít khi có hạn xảy ra 2 năm liên tiếp,. từ năm
1980 đến nay đã xảy ra 5 đợt hạn đáng kể là các đợt hạn từ cuối năm 1982 đến đầu
năm 1983; cuối năm 1986 đến đầu năm 1987; cuối năm 1991 đến đầu năm 1992; cuối
năm 1992 đến đầu năm 1993; cuối năm 1997 đến đầu năm 1998. Phương pháp xác
định hệ số hạn đã được áp dụng để tính toán cho đợt hạn cuối năm 1992 đầu năm 1993
. Đây là năm xảy ra hạn nặng trên diện rộng vào vụ đông xuân 1992/1993 với ảnh
15
hưởng lớn của hiện tượng El-Ninô hoạt động mạnh từ tháng II/1993 đến tháng
VIII/1993 làm cho nhiều vùng bị hạn hán nghiêm trọng, gây tổn thất lớn cho nền kinh
tế và sự phát triển của xã hội. Để có thể đưa ra các biện pháp có hiệu quả phòng chống
và giảm thiểu tác hạn do hạn hán gây ra trên địa bàn tỉnh Hòa Bình ứng với các mức độ
ảnh hưởng khác nhau, tỉnh Hòa Bình đã được phân vùng hạn hán thông qua việc tính
toán hệ số hạn (Khạn ) dựa trên việc tính toán hệ số khô (Kkhô) và hệ số cạn nước
sông (Kcạn). Trong trường hợp vừa khô vừa cạn mới có khả năng sinh hạn. (Viện khí
tượng thủy văn và môi trường, 2011)
Tình hình thiên tai lũ lụt trên địa bàn tỉnh
Bão và áp thấp nhiệt đới: Theo thống kê của ban chỉ huy phòng chống lụt bão và
tìm kiếm cứu nạn tỉnh Hòa Bình trong những năm gần đây, Hòa Bình chịu ảnh hưởng từ 2
đến 3 cơn bão mỗi năm. Mưa bão kèm theo gió mạnh thường gây thiệt hại đáng kể đến sự
phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Mưa, lũ, bão trong xảy ra trong những năm gần đây
trên địa bàn tỉnh diễn biến bất thường và khó lường.
Lũ quét và sạt lở núi, bờ sông: Ở tỉnh Hòa Bình lũ quét xảy ra ở một số địa
phương. Thống kê lũ quét đã xảy ra ở khu vực Lâm Sơn, Tân Vinh của huyện Lương
Sơn, Mai Sơn, huyện Mai Châu (năm 2001); các xã Suối Nánh, Mường Chiền, Tân
Minh, huyện Đà Bắc (năm 2002); huyện Tân Lạc, Yên Thủy (năm 2007); thành phố
Hoà Bình, huyện Đà Bắc, Mai Châu, Lạc Sơn (2007) Lũ lụt hàng năm cũng gây ra
hiện tượng sạt lở bờ sông, mưa lớn gây ra hiện tượng sạt lở đất ở nhiều nơi trên địa bàn
tỉnh. (Viện khí tượng thủy văn và môi trường, 2011)
Hạn hán: hạn hán cũng xảy ra thường xuyên trên địa bàn tỉnh. Các năm 2003, 2004,
2005, 2007 hạn hán xảy ra gay gắt Mực nước các hồ chứa bị cạn kiệt, nắng nóng kéo dài
từ tháng 9 đến hết tháng 5 năm sau làm cho tình hình khô hạn và thiếu nước càng xảy ra
gay gắt hơn. Một số nơi phải tháo cống xả đầy hồ chứa để tận dụng nước tưới chống hạn
cứu lúa. Lốc xoáy, giông: Giông lốc xoáy xảy ra ngày một nhiều, một số nơi xảy ra 2 đến
16
3 trận trong năm (Kim Bôi, Lương Sơn, Yên Thủy, Mai Châu). Năm 2007 giông, lốc xoáy
xuất hiện sớm từ đầu tháng 4. Năm 2008 lốc, mưa đá xuất hiện từ cuối tháng 3. Năm 2009,
trên địa bàn tỉnh cũng xuất hiện 3 đợt lốc xoáy. Năm 2010, 7 đợt lốc xoáy xuất hiện trong
các tháng 4, 5, 6, 7 tại 19 xã, 2 thị trấn trên địa bàn 6 huyện Kỳ Sơn, Đà Bắc, Yên Thủy,
Lạc Sơn, Lạc Thủy, Mai Châu. Rét đậm, rét hại: Rét đậm, rét hại trên địa bàn tỉnh không
xuất hiện thường xuyên. Năm 2008 có xuất hiện hiện tượng rét đậm, rét hại kéo dài từ
ngày 14/1 đến 25/2. (Viện khí tượng thủy văn và môi trường, 2011)
Ảnh hưởng của thiên tai đến nông nghiệp
Mưa lũ trên địa bàn tỉnh trong những năm gần đây diễn biến bất thường. Mùa mưa
xuất hiện sớm kết thúc muộn ảnh hưởng đến thời vụ sản xuất cây trồng. Ví dụ năm 2009
và 2010 xuất hiện các trận mưa rào lớn bất thường vào tháng 4, là tháng cuối mùa khô hầu
hết đất đồi trong tình trạng khô. Nếu mưa với lượng nhỏ và cường độ nhỏ thì sẽ có lợi cho
cây trồng. Nếu mưa lớn các vật liệu hữu cơ như tàn dư cây trồng của vụ trước còn nhiều.
Khi gặp mưa lớn tập trung thì một lượng lớn hữu cơ bị xói và vận chuyển xuống các ao hồ
nuôi cá. Sang tháng 5 nhiệt độ, ẩm độ và ánh sáng tăng mạnh, các quá trình phân hủy hữu
cơ xảy ra nhanh chóng. Nếu các hợp chất hữu cơ này phân hủy trong điều kiện ngập nước
sẽ lấy hết ô xy trong nước và thải ra nhiều CO2, đặc biệt là CH4 gây ngộ độc và có thể
làm chết cá hang loạt. Nếu mưa lớn xảy ra muộn thì sẽ ảnh hưởng rất bất lợi đến các loại
cây màu trên đất đồi và lũ quét ảnh hưởng đến lúa hoặc cây vụ động ở dước các vùng
đồng bằng hoặc đất thung lũng. Hạn hán kéo dài gây thiếu nước nghiêm trọng cho nông
nghiệp. Trong giai đoạn 2001–2005, 13000 ha lúa bị hạn, trên 1000 ha bị mất trắng. Năm
2007, hạn hạn cũng xảy ra nhưng do tích được nước sớm nên lượng nước tưới vẫn đủ đảm
bảo cung cấp cho nông nghiệp.
Năm 2007 tổng diện tích lúa bị ngập, hư hại là 8754 ha, trong đó có nhiều diện tích
bị vùi lấp gây thiệt hại nặng; tổng diện tích màu bị thiệt hại là 6165 ha trong đó trên 1300
17
ha mất hoàn toàn; tổng diện tích cây công nghiệp bị hư hại là 217 ha, số cây bị chết do
ngập úng là 78 ha; tổng diện tích cây ăn quả bị thiệt hại là 1043 ha, tổng diện tích.
Năm 2008, rét đậm rét hại làm 3000 ha lúa đã cấy bị chết; trên 12000 trâu, bò, bê
nghé ở một số địa phương bị chết. Mưa lũ gây ngập, cuốn trôi, hư hại 325 ha lúa, 4455 ha
hoa màu, làm hỏng 12 tấn thóc, ngô.; đàn gia súc bị chết 146 con; đàn gia cầm bị chết
4702 con.
Năm 2009, diện tích lúa bị ngập, cuốn trôi, hư hại là 325 ha; hoa màu bị ngập úng,
vùi lấp và hư hỏng: 1089 ha.
Năm 2010, diện tích lúa bị ngập là 2980 ha, mất trắng 280 ha; diện tích hoa màu
bị ngập là 1035 ha; 5 tấn ngô bị cuốn trôi mất trắng 244ha; bị nước cuốn trôi 140 con
gà, chết 4 con dê. (Viện khí tượng thủy văn và môi trường, 2011)
Ảnh hưởng đến nguồn lợi thủy sản
Lũ lụt làm ô nhiễm khiến cho cá chết, một số vùng nuôi thủy hải sản có địa hình
thấp và yếu khi có lũ có thể bị vỡ bờ làm thất thoát nguồn thủy hải sản. Hàng năm, lũ lụt
gây ngập tràn bờ vỡ bờ hàng trăm ao, hồ nuôi tôm, cá và các loại thủy sản khác. Năm
2008, thủy sản bị thiệt hại nặng khi 632 ha ao bị ngập, thiệt hại 343 tấn thủy sản.
Hạn hán làm nguồn nước cung cấp cho các khu vực nuôi thủy sản và cá trở nên
thiếu hụt dẫn tới ảnh hưởng tới sự phát triển của các loại thủy sản, đòi hỏi phải quy
hoạch xây dựng các hồ chứa để tiện cho việc lấy nước. (Viện khí tượng thủy văn và
môi trường, 2011)
Ảnh hưởng đến con người, cơ sở hạ tầng, năng lượng và giao thông
Ảnh đến con người: Các loại hình thiên tai như bão lũ, lốc xoáy, sạt lở đất đá đều
có tính chất nguy hiểm ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mạng con người. Ước tính từ năm
2001 đến năm 2010, thống kê có 32 người chết, 30 người bị thương do thiên tai. Đặc biệt
trong năm 2007, có tới 17 người chết, 1 người mất tích do thiên tai.
18
Ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng dân sinh, giáo dục, công nghiệp, thủy lợi: Thiên tai
hàng năm làm hư hại, xuống cấp hàng trăm nhà dân, trường học, trụ sở trạm xá trên địa
bàn tỉnh Hòa Bình. Mưa lớn có thể gây ra hiện tượng sụt lở đất đá; sụt lở bờ sông khiến
cho các công trình nhà cửa gần các khu vực sụt lở bị vùi lấp hoặc cuốn trôi. Gió mạnh
trong mưa bão hoặc lốc xoáy khiến các công trình nhà cửa có thể bị đổ, tốc mái. Mưa lũ
còn có thể gây thiệt hại cho các công trình thủy lợi, công trình cấp nước như đê điều, hồ
chứa, đập dâng, giếng nước, kênh mương… Mưa lũ cũng gây những thiệt hại đáng kể đến
các công trình phục vụ dịch vụ, công nghiệp như chợ, nhà máy xí nghiệp, gây khó khăn
cho hoạt động sản xuất và thương mại dịch vụ.
Ảnh hưởng đến năng lượng: Sự thay đổi trong tính chất của mùa bão có ảnh hưởng
trực tiếp đến ngành năng lượng, ảnh hưởng đến hệ thống truyền tải và phân phối điện.
Mưa bão còn làm gãy đổ nhiều cột điện, đe dọa các trạm điện biến áp, cột điện cao thế.
Hạn hán làm giảm khả năng tích trữ nước của hồ thủy điện; mưa bão thất thường gây khó
khăn trong việc điều hành các công trình thủy điện làm giảm hiệu quả sản xuất.
Ảnh hưởng đến giao thông vận tải: Mưa lũ kéo dài gây khó khăn cho giao
thông. Sạt lở đất phá hủy đường xá, gây ách tắc giao thông. Từ năm 2001 đến 2005, sạt
lở làm hư hại 80km đường ô tô, sạt lở trên 40000 m
3
đất đá. Năm 2007, mưa lũ phá
hỏng trên 80 km đường, làm bong tróc 13000 m
2
mặt đường. Năm 2008, 13 cầu giao
thông bị hư hại. Năm 2009, chiều dài sạt lở, bong tróc gần 8200 m, làm cuốn trôi 1 cầu
tạm, sập 3 cống qua đường. Năm 2010, làm hư hại nhiều đoạn đường, làm đứt 1 cầu
treo, trôi và chìm 50 m cầu phao, 1 cầu giao thông bị xói lở. (Viện khí tượng thủy văn
và môi trường, 2011)
Ảnh hưởng đến rừng và quy hoạch phát triển hệ sinh thái, đa dạng sinh học
Rừng mang lại nhiều nguồn lợi cho con người. Ngoài khai thác lâm sản, rừng là lá
chắn xanh bảo vệ con người khỏi thiên tai. Hệ sinh thái rừng phát triển đa dạng và nguồn