Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Nghiên cứu tri thức bản địa trong quản lý, sử dụng tài nguyên rừng của người kho tại vườn quốc gia bidoup núi bà tỉnh lâm đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.9 MB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

LÊ VĂN SƠN

NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA TRONG QUẢN LÝ,
SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN RỪNG CỦA NGƯỜI K’HO
TẠI VƯỜN QUỐC GIA BIDOUP – NÚI BÀ
TỈNH LÂM ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

LÊ VĂN SƠN

NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA TRONG QUẢN LÝ,
SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN RỪNG CỦA NGƯỜI K’HO
TẠI VƯỜN QUỐC GIA BIDOUP – NÚI BÀ
TỈNH LÂM ĐỒNG


CHUYÊN NGÀNH:
MÃ SỐ:

LÂM HỌC
60.62.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHẠM XUÂN HOÀN

Hà Nội, 2012


i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Văn Sơn


ii

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp, tác giả đã nhận
được sự động viên, khích lệ và giúp đỡ của nhiều tập thể và cá nhân.

Trước tiên, tác giả xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến quý thầy,
cô giáo đã giảng dạy trong chương trình học tập của lớp cao học Lâm học khoá 18,
quý thầy, cô công tác tại khoa Đào tạo sau đại học và quý thầy, cô công tác tại Cơ
sở 2 - Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc và các bạn đồng nghiệp
đang công tác tại Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà, tỉnh Lâm Đồng đã tạo điều kiện
về thời gian và giúp đỡ tác giả cả về vật chất và tinh thần trong quá trình thực hiện
luận văn.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Th.s. Lương Văn Dũng, Th.s
Hoàng Hữu Cải giúp đỡ chọn lĩnh vực nghiên cứu của luận văn.
Đặc biệt tác giả xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến PGS.TS. Phạm Xuân Hoàn,
người đã hết lòng giúp đỡ và hướng dẫn tận tình để tác giả hoàn thành luận văn tốt
nghiệp.
Mặc dầu đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện, song luận văn này sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của quý
thầy, cô và các bạn đồng nghiệp.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Văn Sơn


iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................. ii
MỤC LỤC ......................................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT..................................................................... vi
DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................................. vi
DANH MỤC CÁC HÌNH ............................................................................................. vii

ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................................. 1
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .................................................. 3
1.1. Khái niệm tri thức bản địa ................................................................................. 3
1.1.1. Trên thế giới ............................................................................................... 3
1.1.2. Ở Việt Nam ................................................................................................ 5
1.2. Tình hình nghiên cứu tri thức bản địa.............................................................. 11
1.2.1. Trên thế giới ............................................................................................. 11
1.2.2. Ở Việt Nam .............................................................................................. 13
1.2.3. Nghiên cứu về tri thức bản địa có liên quan về rừng: .............................. 15
1.3. Phân loại và đặc điểm của tri thức bản địa ........................................................ 7
1.3.1. Phân loại ..................................................................................................... 7
1.3.2. Đặc điểm của tri thức bản địa:................................................................... 8
1.4. Tầm quan trọng của tri thức bản địa trong phát triển và quản lý bền vững các
nguồn tài nguyên thiên nhiên .................................................................................. 18
Chương 2. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU ......................................................................................................................................... 21

2.1. Mục tiêu ........................................................................................................... 21
2.2. Giới hạn đề tài .................................................................................................. 21
2.3. Quan điểm và phương pháp tiếp cận nghiên cứu: ........................................... 22
2.3.1. Quan điểm nghiên cứu: ............................................................................ 22
2.3.2. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu ............................................................ 22
2.4. Nội dung nghiên cứu: ...................................................................................... 23


iv

2.5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 23
2.5.1. Thu thập, kế thừa có chọn lọc số liệu thứ cấp: ......................................... 23
2.5.2. Thu thập số liệu hiện trường: ................................................................... 23

2.5.3. Xử lý nội nghiệp ....................................................................................... 27
Chương 3. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA VQG
BIDOUP-NÚI BÀ ........................................................................................................ 28
3.1. Điều kiện tự nhiên............................................................................................ 28
3.1.1. Vị trí – Diện tích ....................................................................................... 28
3.1.2. Địa hình .................................................................................................... 29
3.1.3. Khí hậu ..................................................................................................... 30
3.1.4. Những đặc trưng về rừng và thực vật rừng .............................................. 31
3.1.5. Khu hệ động vật ....................................................................................... 33
3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ................................................................................ 34
Chương 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ..................................... 35
4.1. Vai trò và vị thế của người K’ho tại khu vực nghiên cứu ............................... 35
4.1.1. Nguồn gốc, lịch sử di cư và phát triển của người K’ho tại VQG BidoupNúi Bà ................................................................................................................. 35
4.1.2. Đặc tính dân cư ......................................................................................... 37
4.1.3 Tỉ lệ nghèo đói ........................................................................................... 40
4.1.4. Giáo dục ................................................................................................... 41
4.1.5. Y tế ........................................................................................................... 42
4.1.6. Sản xuất nông nghiệp ............................................................................... 42
4.1.7. Sản xuất lâm nghiệp ................................................................................. 44
4.2. Tri thức bản địa của người K’ho trong quản lý, sử dụng tài nguyên rừng. ..... 46
4.2.1. Tri thức bản địa trong quản lý tài nguyên rừng ........................................ 46
4.2.2. Tri thức bản địa trong sử dụng lâm sản .................................................... 55
4.3. Tri thức bản địa trong sinh kế của cộng đồng địa phương .............................. 64
4.3.1. Trường hợp nghiên cứu điểm ở bon Đưng Ia Giêng ................................ 64
4.3.2. Ở các điểm nghiên cứu khác: ................................................................... 67
4.3.3. Tri thức bản địa đối với công tác bảo tồn của VQG Bidoup-Núi Bà ....... 69


v


4.4. Những thách thức trong bảo tồn tri thức bản địa của người K’ho ................... 70
4.4.1.Góc nhìn từ Đưng Ia Giêng ....................................................................... 70
4.4.2. Sự mai một tri thức bản địa: Nhìn từ những người trẻ tuổi ..................... 71
4.5. Một số ý kiến đề xuất để góp phần bảo tồn, cải tiến tri thức bản địa .............. 73
4.5.1. Tiềm năng sử dụng tri thức bản địa .......................................................... 73
4.5.2. Một số tri thức bản địa có thể vận dụng, phát triển:................................. 76
Chương 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................. 79
5.1. Kết luận ............................................................................................................ 79
5.2. Kiến nghị.......................................................................................................... 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 82


vi

DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

BQL

Ban quản lý

HST

Hệ sinh thái

KBT

Khu bảo tồn

KT-XH


Kinh tế - Xã hội

PRA

Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia

QLBVR

Quản lý bảo vệ rừng

UBND

Ủy ban nhân dân

UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc

VQG

Vườn quốc gia

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Hiện trạng rừng và đất rừng của VQG Bidoup – Núi Bà .....................31
Bảng 4.1. Tình hình dân cư tại khu vực nghiên cứu .............................................38
Bảng 4.2. Thành phần dân tộc khu vực nghiên cứu .............................................39
Bảng 4.3. Cơ cấu dân cư theo tuổi lao động .........................................................40
Bảng 4.4. Số hộ nghèo tại các xã nghiên cứu .......................................................41
Bảng 4.5. Cơ cấu học sinh phân theo cấp học ......................................................41
Bảng 4.6. Năng suất các loại cây trồng chính.......................................................43

Bảng 4.7. Tri thức bản địa trong sử dụng lâm sản phân theo nhóm công dụng ...57
Bảng 4.8. Tri thức bản địa trong sử dụng lâm sản phân theo họ thực vật ............58
Bảng 4.9. Tri thức bản địa trong sử dụng lâm sản theo kiểu rừng .......................60
Bảng 4.10. Danh sách một số loài cây đã được gây trồng ....................................61
Bảng 4.11. Tổng hợp nhóm cây đã được gây trồng theo mục đích sử dụng ........61
Bảng 4.12. Hiểu biết về tri thức bản địa phân theo nhóm tuổi ............................. 72


vii

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1. Vị trí VQG Bidoup-Núi Bà...................................................................28
Hình 4.1. Một gia đình người K’ho xưa bên nhà dài truyền thống. .....................47
Hình 4.2. Cây Jờm Jrê (cây đa) ...........................................................................52
Hình 4.3b. Cây Pờn drip (Ráng đuôi phụng) trồng ở quy mô hàng hóa...............62
Hình 4.3a. Cây Prền (cà đắng) trồng ở vườn nhà .................................................62
Hình 4.4. Cây Kréh ............................................................................................... 63
Hình 4.5. Cây Kriêng ............................................................................................ 63
Hình 4.6. Cây Krài ................................................................................................ 63
Hình 4.7. Vị trị bon Đưng Ia Giêng trong VQG Bidoup-Núi Bà .........................64
Hình 4.8. Canh tác lúa nước ở Đưng Ia Giêng .....................................................65
Hình 4.9. Dụng cụ bắt cá ở Đưng Ia Giêng ..........................................................66
Hình 4.10. Hiểu biết về loài cây rừng có thể sử dụng phân theo nhóm tuổi ........72


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
K’ho là một dân tộc hiện đang sinh sống ở cả vùng lõi và vùng đệm của
Vườn quốc gia (VQG) Bidoup – Núi Bà (tỉnh Lâm Đồng), với khoảng 3.421 hộ

chiếm 67,5% tổng số hộ trong các cộng đồng dân tộc đang sinh sống ở đây. Trải
qua hàng trăm năm tồn tại và phát triển trên mảnh đất cao nguyên hùng vĩ nhưng
đầy khắc nghiệt này, bao thế hệ người K’ho đã đúc kết kinh nghiệm và xây dựng
cho mình một hệ thống tri thức hết sức phong phú về rừng. Những tri thức này đã
hình thành, được bảo lưu và phát triển cùng với người K’ho và nhờ đó họ đã sống
hài hòa với rừng từ bao đời nay. Tuy nhiên, cùng với thời gian và sự du nhập mạnh
mẽ của văn hóa và công nghệ mới từ bên ngoài vào, những tri thức bản địa của
người K’ho đang bị mai một và sự hài hòa này đã và đang bị phá vỡ nhanh chóng.
Khi một người già trong cộng đồng mất đi luôn đồng nghĩa với việc cả một kho
tàng tri thức cũng mất theo.
Trong nỗ lực để quản lý bền vững tài nguyên rừng của VQG Bidoup – Núi
Bà, có hai vấn đề quan trọng được đặt ra là: (1) làm thế nào để cộng đồng có thể
dựa vào nội lực của chính mình để ổn định được đời sống và hướng tới phát triển
bền vững?, và (2) làm thế nào để có thể kết hợp các nỗ lực phát triển của cộng đồng
với việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên hay thực chất là làm thế nào để giải quyết
xung đột lợi ích giữa mục tiêu bảo tồn của VQG với mục tiêu đảm bảo sinh kế cho
cộng đồng?. Các nhà quản lý của VQG Bidoup – Núi Bà, với sự hỗ trợ của Chính
phủ và các tổ chức trong và ngoài nước đã đầu tư nhiều công sức và cả tiền bạc để
hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đó. Tuy nhiên, thực tế là những thành công
chưa được như mong đợi. Việc tách người dân ra khỏi những tri thức bản địa truyền
thống của họ trong nỗ lực phát triển bền vững đã dẫn tới những kết quả hạn chế của
các chương trình, dự án phát triển tại VQG.
Tri thức bản địa là một khái niệm được sử dụng rộng rãi vào đầu những năm
90 của thế kỷ XX. Các nhà khoa học sau nhiều thế kỷ hồ hởi chinh phục thiên nhiên
và coi nhẹ những kinh nghiệm sống hàng ngày của người dân ở nhiều nơi trên thế


2

giới, đã chợt nhận ra tầm quan trọng của tri thức bản địa trong mọi lĩnh vực của đời

sống. Ở Việt Nam, tri thức bản địa là vốn quý của cộng đồng các dân tộc, là một
yếu tố cấu thành bản sắc văn hoá Việt Nam. Tri thức bản địa đã góp phần quan
trọng trong việc phát triển các kỹ thuật canh tác, sử dụng các nguồn tài nguyên…
phù hợp với điều kiện cụ thể về kinh tế, xã hội, văn hoá, phong tục của từng địa
phương. Việc tổng kết, lưu giữ và vận dụng nguồn tri thức này vào các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội địa phương là một trong những tiền đề quan trọng để thực
hiện mục tiêu phát triển bền vững. Điều đó càng quan trọng hơn đối với VQG
Bidoup - Núi Bà – nơi có hàng chục nghìn đồng bào người K’ho đang có cuộc sống
phụ thuộc vào rừng và cũng là nơi các chương trình phát triển đang thể hiện tính
thiếu bền vững.
Xuất phát từ những điều đó, đề tài “Nghiên cứu tri thức bản địa trong quản
lý, sử dụng tài nguyên rừng của người K’ho tại Vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà,
tỉnh Lâm Đồng” được thực hiện. Kết quả mong đợi từ nghiên cứu này là: khảo sát,
tư liệu hóa và đánh giá được các nguồn tri thức bản địa nhằm tìm kiếm khả năng
vận dụng những tri thức đó vào việc quản lý tài nguyên rừng bền vững tại VQG
Bidoup – Núi Bà.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Khái niệm tri thức bản địa
1.1.1. Trên thế giới
Định nghĩa tri thức bản địa và vai trò của nó đối với sự phát triển trong xã
hội đương đại có rất nhiều ý kiến khác nhau:
Warren D. Micheal (1990) định nghĩa: “ tri thức bản địa là những hệ thống
tri thức và thực nghiệm được phát triển qua nhiều thế hệ trong một lĩnh vực cụ thể
tới một nền văn hóa chuyên biệt” (dẫn theo Hoàng Xuân Tý và Lê Trọng Cúc,

1998) [35].
Frederico Mayor (1997)1 đã nhận định “Dựa vào hàng thế kỷ sống gần gũi
với thiên nhiên, các dân tộc bản địa trên thế giới sở hữu những kho tàng tri thức
khổng lồ về môi trường. Sống trong tự nhiên và lớn lên cùng sự giàu có và đa dạng
của hệ sinh hái phức tạp, họ có sự hiểu biết về những đặc tính của cây cối và động
vật, các chức năng của hệ sinh thái và những kỹ thuật sử dụng và quản lý chúng một
cách đặc thù và phù hợp. Ở các cộng đồng nông thôn ở các nước đang phát triển,
người dân địa phương (có khi là hoàn toàn) sống dựa vào những sản vật địa phương
từ thức ăn, thuốc chữa bệnh, nhiên liệu, vật liệu xây dựng và các sản phẩm khác.
Tương thích với điều đó, kiến thức và quan niệm của người dân về môi trường và
mối quan hệ của họ với môi trường trở thành những thành tố quan trọng hình thành
nên bản sắc văn hóa” [46].
Louise Grenier (1998) lại xem “Kiến thức bản địa là vốn kiến thức duy nhất,
truyền thống và của một địa phương, tồn tại và phát triển dưới các điều kiện cụ thể
của những người dân bản địa trong một khu vực địa lý nhất định. Sự phát triển của
hệ thống kiến thức bản địa trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống, kể cả việc quản

1

Nguyên Tổng giám đốc UNESCO


4

lý môi trường tự nhiên, từ lâu đã là một vấn đề sống còn đối với những con người
đã sáng tạo ra chúng. Các hệ thống kiến thức bản địa cũng có tính động, kiến thức
mới liên tục được bổ sung. Các hệ thống này luôn đổi mới trong lòng nó và cũng sẽ
tiếp nhận, sử dụng và thích nghi với kiến thức bên ngoài nhằm phù hợp với điều
kiện của địa phương” [40].
Trong một nghiên cứu của Mugabe (1998) đã chỉ ra sự khác biệt giữa tri thức

bản địa và tri thức truyền thống. Theo Mugabe, “tri thức bản địa là tri thức được
duy trì và sử dụng bởi một nhóm người dân, những người tự nhận là người bản xứ
của một địa phương dựa trên cơ sở kết hợp sự khác nhau về văn hóa và sự chiếm
giữ lãnh thổ trước tiên liên quan tới số dân mới di cư đến trong một thời gian gần
đây, với sự khác biệt của chính bộ phận này và nền văn hóa có ảnh hưởng lớn. Tri
thức truyền thống, mặt khác, là tri thức được duy trì bởi các thành viên của một nền
văn hóa khác biệt và/hoặc đôi khi đạt được bằng cách hướng đặc biệt tới nền văn
hóa đó và liên quan đến chính nền văn hóa và môi trường địa phương mà nó tồn
tại”. Ông kết luận: "tri thức bản địa ăn khớp rõ ràng với sự phân loại tri thức truyền
thống, nhưng truyền thống không tự động bản địa hóa". Vì vậy, tri thức bản địa
đương nhiên là tri thức truyền thống, nhưng tri thức truyền thống không nghiễm
nhiên là tri thức bản địa. Do đó, tri thức truyền thống là tổng hợp tất cả các kiến
thức và thực hành, dù là hiện hữu hay tiềm ẩn, được sử dụng để giải quyết cá nhân
tố kinh tế - xã hội và sinh thái của cuộc sống” [35].
Trong nỗ lực phân biệt giữa tri thức bản địa và tri thức địa phương, Laungarasri (2001) trình bày “tri thức bản địa thường liên quan đến tri thức truyền thống,
chúng được coi là đồng nghĩa với nhau. Trong khi đó, tri thức địa phương được xác
định là tri thức, bao gồm cả kiến thức hiện đại, mà người dân ứng dụng và sau đó
thích nghi với thế giới hiện đại của họ. Trong nghiên cứu của Laungarasri, tri thức
địa phương bao gồm cả những kiến thức chung (thông thường) và những kiến thức
riêng bởi nó gồm sự tương tác giữa dạng tri thức "dân tộc" và "hiện đại". Định
nghĩa tri thức địa phương của Laungarasri dường như có sự trùng hợp với định
nghĩa tri thức truyền thống của Correa “tri thức truyền thống bao gồm những thông


5

tin về các kiểu loại và các chức năng khác nhau được phát triển trong qúa khứ và
tiếp tục được cải thiện và thích nghi. Nó có thể được thể hiện dưới dạng thành văn
và không thành văn. Nó cũng có thể có giá trị thương mại tuỳ theo triển vọng và
tính thông dụng của nó” [47].

1.1.2. Ở Việt Nam
Cụm từ tri thức bản địa (Indigenous Knowledge), tri thức địa phương (Local
Knowledge), tri thức dân gian (Folk Knowledge) đã được sử dụng trong một số
công trình nghiên cứu với nhiều tên gọi khác nhau: tri thức địa phương, văn hóa
truyền thống, tri thức dân gian, kiến thức bản địa, kiến thức truyền thống, kiến
thức địa phương, tri thức dân gian, tri thức tộc người, và luật tục.
Từ những cách gọi khác nhau như trên, các nhà nghiên cứu có những quan
niệm và cách hiểu khác nhau về nội hàm của cụm từ “tri thức bản địa”.
Lê Trọng Cúc (2002) cho rằng “Tri thức địa phương hay còn gọi là tri thức
bản địa là hệ thống tri thức của các cộng đồng dân cư bản địa ở các quy mô lãnh thổ
khác nhau. Tri thức địa phương được hình thành trong qúa trình lịch sử lâu đời, qua
kinh nghiệm ứng xử với môi trường xã hội, được định hình dưới nhiều dạng thức
khác nhau, được truyền từ đời này sang đời khác qua trí nhớ, qua thực tiễn sản xuất
và thực hành xã hội. Nó hướng đến việc hướng dẫn và điều hòa các quan hệ xã hội,
quan hệ giữa con người và thiên nhiên” [5].
Ngô Đức Thịnh (2004) định nghĩa “Tri thức bản địa là toàn bộ những hiểu
biết của con người về tự nhiên, xã hội và bản thân, hình thành và tích luỹ trong qúa
trình lịch sử lâu dài của cộng đồng, thông qua trải nghiệm trong qúa trình sản xuất,
quan hệ xã hội và thích ứng môi trường. Nó tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau
và truyền từ đời này sang đời khác bằng trí nhớ và thực hành xã hội” [33].
Phan Hữu Dật (1998) xem “Tri thức bản địa là văn hóa tộc người, nhưng
không phải là toàn bộ văn hóa tộc người, mà chỉ là bộ phận có ích cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của tộc người hiện nay, khi nó bổ sung cho tri thức hiện đại” [6].


6

Trong công trình nghiên cứu của mình Nguyễn Duy Thiệu (1999) định nghĩa
“Tri thức dân gian là một phức hệ những kinh nghiệm được truyền từ đời này sang
đời khác. Nó cũng được hình thành trong thế ứng xử giữa hoạt động của con người

với môi trường tự nhiên để kiếm sống. Tri thức dân gian cũng chỉ tồn tại trong từng
điều kiện môi trường cụ thể. Bởi thế nó cũng thường được gọi là tri thức bản địa
hoặc cụ thể hơn là tri thức của người bản địa [30].
Trần Công Khánh và Trần Văn Ơn (2005) lại cho rằng “Tri thức bản địa là
hệ thống tri thức, bao gồm rất nhiều lĩnh vực liên quan đến sản xuất, phong tục, tập
quán, tín ngưỡng, sức khoẻ, tổ chức cộng đồng, của một tộc người hoặc một cộng
đồng tại một khu vực địa lý cụ thể. Nó được hình thành trong quá trình sống và lao
động của cả cộng đồng, từ đàn ông, đàn bà, người lớn tuổi đến trẻ em. Nó được lưu
giữ bằng trí nhớ và lưu truyền bằng miệng” [19].
Phạm Quang Hoan (2003) coi tri thức địa phương được hiểu ở các cấp độ
khác nhau. Một là, tri thức địa phương (hay tri thức bản địa, tri thức dân gian, tri
thức tộc người) là toàn bộ những hiểu biết, những kinh nghiệm của một tộc người
nhất định được tích lũy, chọn lọc và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vốn
tri thức đó phản ánh trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống cộng đồng để mỗi
tộc người sinh tồn, phát triển và thích nghi trước những biến đổi đã và đang diễn ra.
Nói cách khác, tri thức địa phương là phương thức ứng xử, là đặc tính thích nghi
với những điều kiện sinh thái nhân văn của mỗi tộc người. Cũng có thể coi đó là
bản sắc văn hóa tộc người. Hai là, tri thức địa phương là tri thức của các cộng đồng
tộc người cùng cộng cư trong một vùng sinh thái hay một vùng văn hóa nhất định.
Trong trường hợp này, tri thức địa phương cũng phản ánh xu hướng giao lưu và
biến đổi văn hóa hay thích nghi văn hóa giữa các tộc người…”[16].
Nhận xét và thảo luận:
Trên cơ sở các ý kiến như trên, trong phạm vi luận văn này, có thể nhận thức
về tri thức bản địa "là kiến thức mà người dân ở một cộng đồng đã tạo nên và đang
phát triển theo thời gian". Với nhận thức này, tri thức bản địa có các đặc điểm:


7

+ Quá trình hình thành tri thức bản địa là một quá trình thích ứng. Điều này

có nghĩa là: Tri thức bản địa được hình thành dựa trên kinh nghiệm; thường xuyên
được kiểm nghiệm qua hàng thế kỷ sử dụng và thích ứng; thích nghi với đặc điểm
văn hoá và môi trường của địa phương; Năng động và đang thay đổi.
+ Thuật ngữ "bản địa" không hạn chế trong các bộ tộc hoặc người bản địa
của một vùng đất, cũng không hạn chế ở những người dân nông thôn. Trên thực thế,
bất kỳ nhóm cộng đồng nào cũng có tri thức bản địa - nông thôn và thành thị; người
định cư và người du cư; người bản địa và người nhập cư. Mặc dù có thể phân biệt
các tri thức này với tri thức khoa học phương Tây, khó có thể tìm kiếm những tri
thức nào được cho là thuần túy bản địa, nhất là với quá trình hội nhập đang diễn ra
nhanh chóng hiện nay.
Trong địa bàn nghiên cứu của luận văn (vùng đệm và vùng lõi của VQG Bidoup – Núi Bà), vấn đề này cần được làm rõ vì đây là một vùng đã từng tiếp nhận
các cộng đồng nhập cư với các truyền thống văn hóa khác nhau và đang tương tác
với cộng đồng bản địa (người K’ho). Do đó, việc nghiên cứu tri thức bản địa của
các cộng đồng này không thể tách rời với các quá trình tương tác đang xẫy ra trong
lịch sử phát triển của các cộng đồng.
- Xem xét tri thức bản địa như là một nguồn lực mà không phải là vật cản
của tiến trình phát triển.
1.2. Phân loại và đặc điểm của tri thức bản địa
1.2.1. Phân loại
Có một số quan điểm khác nhau trong phân loại tri thức bản địa:
(1) Theo Simon Brascoupe' và Howard Mann, tri thức bản địa bao gồm các
lĩnh vực: Nông nghiệp và nghề làm vườn; Thiên văn học; Lâm nghiệp; Sức khoẻ
con người, những bài thuốc y học chữa bệnh truyền thống; Kiến thức về những
động vật, con cá và những hệ sinh thái; Sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên
và môi trường bền vững; Những hệ thống phân loại truyền thống cho sự sống và các


8

nguồn tài nguyên khác; Hệ thống kiến thức và những phong tục truyền miệng; Tinh

thần, niềm tin; Các biểu tượng, ký hiệu; Văn hóa và nghệ thuật truyền thống.
Với cách phân loại này có thể nhận thấy các tiêu chí phân loại vừa chi tiết lại
vừa qúa rộng nên có thể gây nên những khó khăn nhất định trong quá trình sưu tầm,
nghiên cứu tri thức bản địa.
(2) Hoàng Xuân Tý lại xem xét tri thức bản địa trên các lĩnh vực: Tri thức về
trồng trọt; Tri thức về chăn nuôi; Tri thức về quản lý rừng và tài nguyên cộng đồng;
Tri thức về dinh dưỡng và sức khoẻ con người; Tri thức về tổ chức cộng đồng và
truyền thụ kinh nghiệm cho con cháu.
Cách phân chia này khá cụ thể và phù hợp với điều kiện nghiên cứu ở Việt
Nam.
(3) Phạm Quang Hoan chia tri thức bản địa bao gồm các lĩnh vực: Tri thức
về sử dụng, bảo vệ và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, chủ yếu là rừng, đất đai
và nguồn nước; Tri thức trong sản xuất nông nghiệp; Tri thức về các nghề thủ công
truyền thống; Tri thức về y học dân gian và chăm sóc sức khoẻ; Tri thức về điều
hành và quản lý xã hội. Đây cũng là một cách phân loại phù chi tiết và phù hợp với
điều kiện của Việt Nam.
Như vậy, trong phương pháp tiến cận và phân tích của các nhà nghiên cứu ở
Việt Nam thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau, thì việc phân loại tri thức
bản địa vẫn chưa có sự thống nhất. Trong phạm vi nội dung đề tài này, tri thức bản
địa của người K’ho được trình bày trong 2 lĩnh vực:
- Tri thức bản địa trong hoạt động quản lý tài nguyên rừng;
- Tri thức bản địa trong việc sử dụng các loại tài nguyên rừng.
1.2.2. Đặc điểm của tri thức bản địa
Tùy thuộc vào phương pháp tiến cận và phân tích mà các nhà nghiên cứu có
những quan điểm khác nhau về đặc điểm của tri thức bản địa.


9

(1) Louise Grenier (1998), cho rằng tri thức bản địa có bốn đặc điểm chính:

+ Tri thức bản địa thể hiện những kinh nghiệm được tích lũy. Các hệ thống
tri thức này thể hiện kinh nghiệm được tích lũy qua nhiều thế hệ, nhờ sự quan sát,
cũng như tiến trình thử nghiệm và sửa sai.
+ Tri thức bản địa cũng vận động, thường xuyên bổ sung. Chúng là các hệ
thống được đổi mới thường xuyên từ bên trong và cũng tiếp thu, sử dụng và thích
ứng tri thức bên ngoài cho thích ứng với tình hình địa phương.
+ Tri thức bản địa thay đổi trong các nhóm khác nhau của một cộng đồng.
+ Tri thức bản địa được lưu giữ bằng những phương thức và phương tiện đa
dạng. Tri thức bản địa được lưu giữ trong ký ức và hoạt động của người dân và
được biểu thị trong các câu chuyện, bài hát, văn học dân gian, tục ngữ, vũ điệu, thần
thoại, các giá trị văn hóa, niềm tin, lễ nghi…
(2) Roy Ellen và Holly Harris (2003) trong phần Giới thiệu của cuốn sách
“Tri thức bản địa về môi trường và những biến đổi” thay cho việc định nghĩa thế
nào là tri thức bản địa vốn vẫn đang là một vấn đề bàn luận của các nhà nghiên cứu
đã đưa ra các đặc điểm được thừa nhận chung tạm thời về tri thức bản địa:
+ Tri thức bản địa mang tính địa phương, bắt nguồn từ một địa điểm cụ thể.
+ Tri thức bản địa là những tri thức được truyền miệng, hoặc được chuyển
giao thông qua các hình thức mô phỏng hoặc mô tả.
+ Tri thức bản địa là hệ quả của các gắn kết thực tế trong đời sống hàng ngày
và liên tục được củng cố bằng các kinh nghiệm, các lần thử, các lỗi và các thử
nghiệm cẩn trọng.
+ Tri thức bản địa được chia sẻ ở một mức độ lớn hơn rất nhiều so với các
loại tri thức khác, bao gồm cả tri thức khoa học. Đấy chính là lý do vì sao đôi khi nó
còn được gọi là “tri thức của dân”.


10

+ Mặc dù tri thức bản địa có thể tập trung vào các cá nhân và có thể được đạt
đến bằng mức độ gắn kết với các nghi lễ hoặc các cấu trúc biểu tượng khác nhưng

sự phân bố của nó luôn gián đoạn.
(3) Hoàng Xuân Tý (1998) coi tri thức bản địa có những đặc điểm sau:
- Tri thức bản địa được hình thành và biến đổi liên tục qua các thế hệ trong
một cộng đồng địa phương nhất định.
- Tri thức bản địa có khả năng thích ứng cao với môi trường riêng của từng
địa phương - nơi đã hình thành và phát triển kiến thức đó.
- Tri thức bản địa được lưu giữ bằng trí nhớ và truyền bá từ thế hệ này qua
thế hệ khác bằng truyền miệng, thơ ca, tế lễ và nhiều tập quán khác.
- Tri thức bản địa luôn gắn liền và hòa hợp với nền văn hóa, tập tục địa
phương, vì vậy khả năng tiếp thu, ứng dụng trong cộng đồng là rất dễ dàng.
- Tri thức bản địa có giá trị cao trong việc xây dựng các mô hình phát triển
nông thôn bền vững theo hướng người dân tham gia và ít tốn kém.
* Từ những đặc điểm trên, khi tiến hành nghiên cứu tri thức bản địa về rừng
của người K’ho tạo VQG Bidoup-Núi Bà, cho thấy cần xem xét một số vấn đề sau:
- Tri thức bản địa rất phong phú và đa dạng, tồn tại dưới nhiều hình thức:
bằng văn bản, bằng các sản vật cụ thể, những sản phẩm của trí tuệ…
- Tri thức bản địa dễ bị thất truyền. Có nhiều nguyên nhân: người giàu tri
thức trong cộng đồng bị chết do tuổi già, chiến tranh hay dịch bệnh; có tri thức bị
mất đi một cách tự nhiên do kỹ thuật không còn phù hợp hoặc công cụ sản xuất
được cải tiến, các tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng, hoặc do cơ sở xã hội đã
thay đổi…
- Một số loại tri thức bản địa mang tính bí truyền. Tri thức loại này thường
hướng về cây thuốc, việc chữa bệnh hoặc những bí quyết trong công nghệ sản xuất
một loại sản phẩm nào đó trong cộng đồng. Do đó, độ rủi do trong việc thất truyền


11

là rất lớn và điều này liên quan tới vấn đề bản quyền hay còn gọi là quyền sở hữu
sản phẩm trí tuệ của một số người trong cộng đồng.

- Tri thức bản địa thường có nhiều dị bản. Mỗi tri thức được một người (hay
một nhóm người) tiếp nhận thông qua “lăng kính” chủ quan của mình, rồi lại truyền
lại cho thế hệ sau theo cách hiểu, cách vận dụng của mình. Cứ như thế, nội dung tri
thức ban đầu sau nhiều thế hệ bị biến dạng thành nhiều nội dung khác nhau (dị bản).
Điều này cũng ảnh hưởng tới việc bảo tồn các giá trị của tri thức bản địa.
- Mỗi loại tri thức bản địa thường phù hợp với văn hóa, môi trường tự nhiên,
môi trường sống của một cộng đồng cụ thể. Nó là kết quả của việc đúc rút kinh
nghiệm trong cuộc sống của các thành viên trong cộng đồng. Ở mỗi địa phương, tri
thức của người dân thường hướng tới một vài lĩnh vực nhất định. Ví dụ, những
người sống ở vùng biển thì có tri thức về biển, về cá, về thời tiết…; những người
sống ở miền núi có tri thức về rừng, về cây, về canh tác trên đất đồi núi… rất phong
phú. Vốn tri thức này cũng thay đổi theo sự phát triển của cuộc sống và nhận thức
của người dân trong cộng đồng.
1.3. Tình hình nghiên cứu tri thức bản địa
1.3.1. Trên thế giới
Thuật ngữ “tri thức bản địa” được Robert Chambers dùng lần đầu tiên trong
ấn phẩm “Indigenous Technical Knowledge: Analysis, Implications and Issues”
xuất bản năm 1979. Sau đó, thuật ngữ này được Brokensha và D.M.Warren sử dụng
vào năm 1980 trong tác phẩm “Indigenous knowledge systems and development”
và tiếp tục được sử dụng, phát triển cho đến ngày nay (trích dẫn theo Hoàng Xuân
Tý và Lê Trọng Cúc, 1998).
Trong phạm vi những tài liệu mà chúng tôi đã được tiếp cận, có thể kể các
tác giả và những công trình nghiên cứu sau:
Trong tác phẩm “Làm việc với kiến thức bản địa: một chỉ dẫn cho nhà
nghiên cứu” của Louise Grenier (1998) đã trình bày một số nội dung: 1) Kiến thức


12

bản địa là gì); 2) Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; 3) Sự phát triển một tổ chức nghiên

cứu; 4) Sưu tầm tư liệu; 5) Nghiên cứu trường hợp; 6) Đánh giá, công nhận và
thử nghiệm cùng tri thức bản địa [40].
Ngân hàng Thế giới thiết lập chương trình Tri thức bản địa cho sự phát triển
(1998). Chương trình này có mục đích học tập từ các hệ thống tri thức địa phương
phục vụ cho các thực hành phát triển tại các cộng đồng đó và từ đó, mở rộng tính
ứng dụng của các tri thức này. Ngân hàng Thế giới tuyên bố rằng họ cần trao cho
những người nghèo trên thế giới cái quyền không chỉ là người tiếp nhận các tri thức
khoa học phát triển mà họ phải là những người đóng góp, những người đóng vai trò
chủ đạo trong phát triển của chính họ. James D. Wolfensohn, Chủ tịch Ngân hàng
thế giới cho rằng: “Tri thức bản địa là một phần không thể thiếu trong văn hoá và
lịch sử của một cộng đồng địa phương. Chúng ta cần thiết phải học hỏi từ các cộng
đồng địa phương để có thể thúc đẩy quá trình phát triển” [46].
Trong bài viết "Sự phát triển của tri thức bản địa, một ngành nhân học ứng
dụng mới", Paul Sillitoe (2000) đã đề cập đến các nội dung: 1) Những quan điểm
địa phương và nghiên cứu khoa học; 2) Khoa học, công nghệ và tri thức bản địa: sự
bổ sung cho nhau; 3) Diễn giải tri thức bản địa cho phát triển: những vấn đề trên
giao diện chung; 4) Tăng cường sự giao lưu giữa các bên hữu quan; 5) Trao quyền
cho ai qua sự tham dự của người dân; 6. Những vấn đề của kỳ vọng.
Trong cuốn sách “Sổ tay lưu giữ và sử dụng tri thức bản địa của Viện nghiên
cứu lúa quốc tế (IRRI) do Nhà xuất bản Nông nghiệp dịch (2000) đã trình bày một
số vấn đề: 1) Kiến thức bản địa với sự nghiệp phát triển; 2) Các phương pháp ghi
chép và đánh giá; 3) Đánh giá kiến thức bản địa; 4) Những trường hợp nghiên cứu
cụ thể; 5) Những câu hỏi hướng dẫn; 6) Các từ viết tắt và định nghĩa [36].
Trong bài viết “Tri thức bản địa và phát triển - Sự cẩn trọng hậu thuộc địa”,
John Briggs và Joanne Sharp (2004) đã trình bày các nội dung: 1) Tri thức bản địa;
2) Lắng nghe tiếng nói khác; 3) Tri thức của những tri thức bản địa; 4) Tri thức bản
địa về môi trường; 5) Định vị tri thức bản địa…[17].


13


1.3.2. Ở Việt Nam
Trần Bình (1996) nghiên cứu về “Tri thức địa phương, tiềm lực phát triển đất
nước” đã trình bày các nội dung: 1) Quan niệm và nội hàm của tri thức địa phương;
2) Vai trò của tri thức địa phương trong phát triển kinh tế - xã hội [2].
Hoàng Xuân Tý - Lê Trọng Cúc (1998), trong tác phẩm "Kiến thức bản địa
của đồng bào vùng cao trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên" đã
trình bày: 1) Các khái niệm và vai trò của kiến thức bản địa; 2) Kiến thức bản địa
của đồng bào vùng cao trong một số lĩnh vực cụ thể. Cuốn sách là một tài liệu tham
khảo rất tốt trong nghiên cứu về tri thức bản địa [35].
Hoàng Hữu Bình (1998), trong bài viết "Tri thức địa phương và vấn đề phát
triển bền vững miền núi Việt Nam" đã làm rõ một số vấn đề: 1) Khái niệm tri thức
địa phương; 2) Tri thức địa phương trong bảo vệ môi trường và khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên [1].
Nguyễn Duy Thiệu (1999) trong bài viết “Tri thức bản địa nguồn lực quan
trọng cho sự phát triển” đề cập hai nội dung chính: 1) Quan niệm về tri thức bản
địa; 2) Tri thức bản địa của một số tộc người trong khai thác nguồn tài nguyên thiên
nhiên, sản xuất nông nghiệp…[30].
Nguyễn Thanh Thự (2000), trong bài viết "Một vài suy nghĩ về việc giảng
dạy tri thức bản địa" đã bàn về :1) Suy nghĩ về khái niệm tri thức bản địa; 2) Sự cần
thiết phải giáo dục tri thức bản địa; 3) Nội dung và phương pháp giảng dạy.
Ngô Đức Thịnh (2002) trong bài viết "Tri thức dân gian và phát triển" đã
trình bày một số nội dung: 1) Khái niệm tri thức dân gian; 2) Các loại tri thức dân
gian của các tộc người; 3) Vai trò của tri thức dân gian; 4) Bảo tồn tri thức dân gian.
Trong bài viết "Thế giới quan bản địa" ông cũng đã trình bày một số nội dung: 1)
Khái niệm tri thức bản địa; 2) Các lĩnh vực của tri thức bản địa; 3) Những nghiên
cứu trường hợp…Hai bài viết trên của tác giả Ngô Đức Thịnh trình bày tương đối
đầy đủ về khái niệm, nội hàm và các lĩnh vực liên quan của tri thức bản địa [32].



14

Vũ Trường Giang (2002) nghiên cứu “Về tri thức bản địa và phát triển” đã
đưa ra một số khái niệm và quan điểm: 1) Khái niệm tri thức bản địa; 2) Tầm quan
trọng của tri thức bản địa trong phát triển [10].
Phạm Quang Hoan (2003&2005), trong một số bài viết như: “Tri thức địa
phương của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam”; "Tri thức địa phương (tri thức truyền
thống) của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong đời sống xã hội đương đại”; "Tri
thức địa phương về quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên của các dân tộc ở các tỉnh
miền núi Việt Nam" đã trình bày tương đối đầy đủ về khái niệm, nội hàm và các
lĩnh vực liên quan của tri thức bản địa nói chung, tri thức bản địa của các tộc người
thiểu số ở Việt Nam [14&15].
Hà Đình Thành (2006) khi nghiên cứu về "Tác động của tri thức dân gian" đã
làm rõ ba nội dung: 1) Khái niệm và vai trò của tri thức dân gian; 2) Tri thức dân
gian của các tộc người ở Việt Nam; 3) Tác động của tri thức dân gian trong quản lý
nhà nước đối với tài nguyên môi trường [29].
Trung tâm nghiên cứu và phát triển cây thuốc dân tộc cổ truyền năm 2005 tổ
chức Hội thảo tri thức bản địa tại Ba Vì, Hà Tây (cũ). Các tham luận hội thảo trình
bày: phương pháp nghiên cứu, đánh giá tri thức bản địa; tài nguyên sinh vật và sự
chia sẻ lợi ích; ngăn ngừa việc chiếm dụng văn hóa vật thể, bảo vệ tri thức cổ
truyền, tri thức bản địa; y học dân gian và tri thức bản địa trong chăm sóc sức khoẻ
cộng đồng của một số tộc người thiểu số…[23].
Trần Hồng Hạnh (2005), "Tri thức địa phương - tiếp cận lý thuyết". Trên cơ
sở tổng hợp nhiều nguồn tài liệu ở trong và ngoài nước, trình bày đầy đủ và có hệ
thống các nội dung: 1) Khái niệm tri thức địa phương; 2) Tri thức địa phương và cư
dân địa phương; 3) Tri thức địa phương và bối cảnh; 4) Phân loại tri thức địa
phương [13].
Nguyễn Thị Thu Hà (2008) trong bài viết “Tri thức bản địa - những bước
thăng trầm” đã trình bày các nội dung: 1) Tri thức bản địa và những đặc điểm
chung; 2) Tri thức bản địa và những bước thăng trầm [11].



15

Bùi Hoài Sơn (2008) viết về “Một đôi nét về khái niệm trị thức bản địa”. Bài
viết của tác giả trình bày các nội dung: 1) Sự phát triển khái niệm tri thức bản địa;
2) Mối quan hệ giữa tri thức bản địa và khoa học [28].
1.3.3. Nghiên cứu về tri thức bản địa có liên quan về rừng
Hoàng Xuân Tý và các cộng tác viên (1997 - 1998) trong khuôn khổ dự án
“Đánh giá kiến thức bản địa của đồng bào dân tộc trong nông nghiệp và quản lý tài
nguyên thiên nhiên ở Việt Nam” do Trung tâm nghiên cứu phát triển quốc tế Canada (IDRC) và quỹ FORD tài trợ (1997-1999) đã nghiên cứu về kiến thức bản địa
của đồng bào dân tộc trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên ở Việt
Nam và xuất bản ấn phẩm cùng tên [35].
Đỗ Đình Sâm và các cộng tác viên (1994-1998), Trong chương trình nghiên
cứu về nông nghiệp du canh được tài trợ bởi Viện quốc tế về Môi trường và Phát
triển Anh (IIED), Tổ chức hợp tác lâm nghiệp hải ngoại Nhật Bản (JOFCA) cũng đã
nghiên cứu những kiến thức bản địa về canh tác nương rẫy, nông lâm kết hợp, các
quy định về làm rẫy, chọn rừng...[27].
Trong chương trình Thái học Việt Nam do Trung tâm nghiên cứu Việt Nam
và giao lưu văn hoá thuộc Đại học quốc gia Hà Nội thực hiện (1989) và kết quả
nghiên cứu đã được xuất bản trong ấn phẩm “Văn hoá và lịch sử người Thái ở Việt
Nam”, do Cầm Trọng (1998) chủ biên cũng đã đề cấp tới một số quy ước quản lý,
bảo vệ rừng, rẫy.
Đỗ Đình Sâm và các tác giả khác (2005), Điều tra nghiên cứu kiến thức bản
địa về quản lý, phát triển tài nguyên rừng của một số cộng đồng thôn bản miền núi
phía Bắc Việt Nam [27]. Nghiên cứu tiến hành điều tra, khảo sát và đánh giá kinh
nghiệm bản địa của đồng bào Thái, H’Mông ở Sơn La, đồng bào Dao ở Quảng Ninh
trong bảo vệ, quản lý và phát triển rừng trên các đối tượng rừng đầu nguồn, rừng
thiêng, rừng ma, rừng lấy gỗ và lâm sản ngoài gỗ và đã đưa ra nhiều chỉ dẫn quan
trọng trong việc áp dụng tri thức bản địa vào công tác quản lý bảo vệ rừng.



16

Phạm Quốc Hùng, Hoàng Ngọc Ý (2009) trong khuôn khổ dự án Thí điểm
tiếp cận thị trường tổng hợp nhằm hỗ trợ công tác bảo tồn thiên nhiên: Nâng cao đời
sống cộng đồng vùng đệm để giảm thiểu tác động lên tài nguyên tại Khu bảo tồn
thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình, được tài trợ bởi
Quỹ Blue Moon đã nghiên cứu tri thức bản địa trong bảo vệ rừng của người
H’Mông tại khu BTTN Hang Kia - Pà Cò, tỉnh Hòa Bình [16]. Nghiên cứu đã đưa
ra các kiến thức bản địa liên quan tới hoạt động quản lý bảo vệ rừng: Các quy ước
về quản lý bảo vệ rừng; kiến thức, kinh nghiệm trồng trọt; kinh nghiệm chăn nuôi,
kinh nghiệm khai thác sử dụng lâm sản. Kiến thức/phong tục bản địa đã mất, hoặc
không còn phổ biến. Đặc điểm văn hoá và vấn đề quản lý bảo vệ rừng và những vận
dụng kiến thức bản địa trong quản lý bảo vệ rừng.
Hàn Tuyết Mai (2007) đã tiến hành nghiên cứu “Kiến thức bản địa trong
quản lý và sử dụng thực vật lâm sản ngoài gỗ của cộng đồng người Vân Kiều ở thôn
Là Tó, xã Húc Nghì, huyện Đa Krông, tỉnh Quảng Trị”; nghiên cứu đã hệ thống
kiến thức của người Vân Kiều trong sử dụng và quản lý tài nguyên rừng dưới các
dạng kiến thức về thông tin, về kỹ thuật/công nghệ, tín ngưỡng, phong tục tập quán.
Tác giả cũng đã đề xuất các giải pháp về nông lâm kết hợp, khôi phục nghề thủ
công để nâng cao sinh kế và bảo tồn kiến thức bản địa ở khu vực nghiên cứu.
Đỗ Tiến Thuần và các tác giả khác (2008), Kiến thức .bản địa trong quản lý
bền vững tài nguyên đất của cộng đồng dân tộc Ê-Đê sinh sống tại huyện Ea Kar,
tỉnh Đăk Lăk [34]. Cũng đã tư liệu hóa tri thức bản địa của cộng đồng dân tộc Êđê
trong sử dụng đất và đề xuất một số giải pháp nhằm vận dụng nguồn tri thức này
cho công tác quản lý bền vững tài nguyên đất tại khu vực nghiên cứu.
Ngoài ra có một số nghiên cứu khác như: nghiên cứu kiến thức và kỹ thuật
bản địa về sử dụng đất, quản lý lâm sản ngoài gỗ và rừng bởi cộng đồng người Tày
và Dao quanh vườn Quốc Gia Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn do Viện kinh tế sinh thái thực

hiện năm 2002; nghiên cứu về kiến thức bản địa trong bảo tồn đa dạng sinh học các
loại lan rừng tại khu bảo tồn quốc gia Ba Bể do Vũ Thanh Thuỷ và các tác giả khác


×