Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Khảo sát thông tin về chính sách dân tộc thiểu số miền núi trên báo dân tộc và phát triển năm 2012”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.92 KB, 83 trang )

MỤC LỤC
1.Tính cấp thiết của đề tài........................................................................................................................2
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài..........................................................................................5
3.Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu................................................................................................6
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................................................7
5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..........................................................................................7
6.Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của khóa luận.................................................................................7
7.Kết cấu của khóa luận...........................................................................................................................8
Chương 1: Những chính sách, văn kiện nổi bật hiện nay liên quan đến dân tộc thiểu số miền núi.......12
1.1.Các chính sách về dân tộc thiểu số miền núi..................................................................................12
1.2.Hệ thống báo chí viết cho đồng bào dân tộc thiểu số miền núi....................................................22
1.3.Sự ra đời và phát triển của báo Dân tộc và Phát triển...................................................................33
Tiểu kết chương..........................................................................................................................................38
Chương 2: Khảo sát Thông tin về Chính sách dân tộc thiểu số miền núi trên Báo Dân tộc và phát triển
năm 2012....................................................................................................................................................39
2.1.Tần suất xuất hiện............................................................................................................................39
2.2.Phân loại các tác phẩm về thông tin...............................................................................................41
2.3.Hình thức thể hiện trên báo Dân tộc và Phát triển........................................................................60
Tiểu kết chương..........................................................................................................................................67
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng báo Dân tộc và Phát triển............................68
3.1.Đánh giá chung về báo Dân tộc và Phát triển.................................................................................68
3.2.Một số đề xuất nâng cao chất lượng báo Dân tộc và Phát triển....................................................71
Tiểu kết chương..........................................................................................................................................77
KẾT LUẬN....................................................................................................................................................78

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Cả nước ta hiện nay có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống. Trải qua bao nhiêu
cuộc chiến tranh xâm lược, nhân dân trong cả nước vẫn luôn là một khối đại
đoàn kết, tạo thành sức mạnh to lớn, vững mạnh giữ vững độc lập, chủ quyền
cho quốc gia. Cho đến nay, các dân tộc thiểu số chỉ chiếm 1/5 dân số của cả nước
nhưng dân tộc thiểu số lại được phân bố trên hơn 3/4 diện tích lãnh thổ quốc gia,
tại các vùng trọng yếu về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng, môi trường sinh
thái. Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, dân số giữa các dân tộc rất không đều
nhau, có dân tộc có số dân trên một triệu người như Tày, Thái... nhưng cũng có
dân tộc chỉ có vài trăm người như PuPéo, Rơ-măm, Brâu... Trong đó, dân tộc
Kinh là dân tộc đa số, chiếm tỷ lệ lớn nhất trong dân cư nước ta, có trình độ phát
triển cao hơn, là lực lượng đoàn kết, đóng vai trò chủ lực và đi đầu trong quá
trình đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước, góp phần to lớn vào việc hình
thành, củng cố và phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tuy số dân có sự
chênh lệch đáng kể, nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như anh em một nhà, quý
trọng, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cả
khi thuận lợi cũng như lúc khăn.
Do những nguyên nhân lịch sử, xã hội và hoàn cảnh tự nhiên mà các dân tộc
nước ta có có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau. Các dân tộc
thiểu số sinh sống ở các vùng thấp như đồng bằng, trung du có trình độc phát
triển kinh tế - xã hội cao hơn các dân tộc sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
Từ thời chiến cho đến thời bình, nhiều thế lực thù địch trong và ngoài nước
luôn ra sức chống phá, bôi nhọ, xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam, các chủ
trương, đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước, chia rẽ đoàn
kết dân tộc. Các dân tộc thiểu số miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn do kinh tế kém phát triển, nhận thức chưa cao, đời sống còn nghèo nàn, lạc
2


hậu, điều kiện tiếp xúc với các phương tiên thông tin truyền thông còn hạn chế.
Kẻ xấu đã lợi dụng điểm yếu đó, tiến hành diễn biến hòa bình, lôi kéo bà con làm

mai một lòng tin vào Đảng, Nhà nước, đi ngược, chống đối lại các chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Các dân tộc thiểu số còn cư trú ở
các vùng biên giới, tiếp giáp với lãnh thổ nhiều quốc gia, nếu không có sự quản
lý chặt chẽ, rất dễ dẫn đến việc xâm phạm chủ quyền, truyền bá những tệ nạn xã
hội như ma túy, buôn lậu… vào đất nước. Giai đoạn hiện nay, vấn đề về nhân
quyền, dân tộc, tôn giáo đang là những chủ đề “nhạy cảm” và “bức xúc”,
không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn được cả cộng đồng quốc tế quan tâm.
Nắm được tình hình đó, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, chú trọng xây
dựng các chính sách, chương trình, dự án nhằm hỗ trợ nâng cao hơn đời sống của
các dân tộc thiểu số miền núi, giúp cho kinh tế - xã hội các vùng dân tộc phát
triển đồng đều với cả nước. Muốn nâng cao đời sống của đồng bào dân tộc, Đảng
và Nhà nước không chỉ quan tâm đến kinh tế mà còn cần nâng cao dân trí, nhận
thức, củng cố đời sống chính trị, văn hóa của bà con.
Trong nhiều năm qua, Chính phủ chỉ đạo các tỉnh, địa phương phối hợp cùng
các bộ, ban, ngành, các cơ quan chức năng triển khai nhiều chương trình, dự án
trọng điểm quốc gia nhằm xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống đồng bào dân
tộc thiểu số. Công cuộc đấu tranh bảo vệ quốc gia không chỉ nằm ở kinh tế mà
quan trọng hơn hết là giáo dục tư tưởng chính trị cho nhân dân. Các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước với mục tiêu hỗ trợ, giúp đỡ bà con trong lĩnh
vực kinh tế, giáo dục, y tế… còn bào hàm ý nghĩa thể hiện sự quan tâm sâu sắc
của Đảng và Nhà nước tới đồng bào, củng cố lòng tin Đảng, yêu nước, nêu cao
tình thân đấu tranh bảo vệ đất nước.
Để bà con dân tộc hiểu được thông tin, hiểu biết về các chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước, ngoài lực lượng truyên truyền còn hạn chế tại
địa phương thì báo chí chính là kênh thông tin truyền thông chuyên nghiệp, hiệu
3


quả trong công tác truyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước đến đồng bào dân tộc thiểu số. Tác động vào nhận thức, tâm tư, tình cảm,

thay đổi suy nghĩ của bà con. Để các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước được đến với bà con, được đồng bào thực hiện hiệu quả nhất, báo chí là lực
lượng quan trọng trọng làm công tác đó.
Nhiệm vụ của báo chí truyền thông trong công tác tuyên truyền chính sách tới
đồng bào dân tộc thiểu số là rất quan trọng và cần thiết. Đảng và Nhà nước ngay
từ những năm đầu đổi mới đã nắm bắt được tầm quan trọng của báo chí, từ đó
đưa ra những chỉ đạo để báo chí hoàn thành nhiệm vụ cách mạng của mình, đó là
thông tin tuyền truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, phản ánh
chân thực, sâu sắc đời sống của nhân dân, làm tốt nhiệm vụ thông tin, tuyên
truyền.
Xác định được yêu cầu đó, tôi chọn đề tài: “Khảo sát thông tin về chính
sách dân tộc thiểu số miền núi trên báo Dân tộc và Phát triển năm 2012”.
Báo Dân tộc và Phát triển là cơ quan ngôn luận của Ủy ban Dân tộc, có chức
năng thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà
nước và chỉ đạo của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc về lĩnh vực công tác
dân tộc. Chính vì thế, thông tin về chính sách dân tộc được ví như xương sống
của Báo Dân tộc và Phát triển. Thông tin về chính sách dân tộc cần phải nhanh,
kịp thời, đảm bảo tính chính xác của thông tin.
Từ năm 1993, Chính phủ đã ra quyết định cấp một số loại báo (không thu
tiền) cho đồng bào dân tộc thiểu số miền núi. Quyết định mới nhất đó là quyết
định số 2472 ngày 28/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ về “Cấp một số ấn
phẩm báo, tạp chí cho dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn giai
đoạn 2012 – 2015”. Hệ thống các tờ báo, tạp chí, ấn phẩm cho dân tộc ngày càng
được nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Trước tình hình trên, việc nghiên

4


cứu, khảo sát thông tin về chính sách dân tộc trên báo Dân tộc và Phát triển là
cần thiết.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng và đề ra nhiều chính sách để
hỗ trợ về báo chí, thông tin tuyên truyền cho vùng dân tộc thiểu số miền núi. Hệ
thống báo, tạp chí, các ấn phẩm, phát thanh – truyền hình dành cho đồng bào dân
tộc thiểu số miền núi ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Tuy
nhiên, những công trình nghiên cứu về mảng báo chí đề tài dân tộc thiểu số miền
núi còn chưa nhiều, nhất là về báo in, tạp chí còn chưa nhiều. Các tờ báo Trung
ương viết cho dân tộc thiểu số miền núi còn chưa được nghiên cứu, mà vẫn chỉ
tập trung ở một vài báo địa phương. Liên quan đến đề tài nghiên cứu này, có một
số đề tài và hội thảo đáng chú ý sau:
- Năm 1995, tác giả Phạm Ngọc Quyết có luận văn với đề tài nghiên cứu:
“Mấy vấn đề chủ yếu góp phần tiếp tục đổi mới báo chí tỉnh miền núi Tuyên
Quang”. Luận văn đã nêu lên một vài vấn đề về đổi mới báo chí tỉnh miền núi
Tuyên Quang từ năm 1995, những năm đầu đổi mới, do đó, luận văn tập trung đề
ra hướng đi, định hướng phát triển cho báo chí tỉnh miền núi nói chung, gồm cả
báo in, phát thanh – truyền hình mà chưa chú trọng và mảng báo in và tờ báo cụ
thể nào cả.
- Năm 2004, Phùng Quốc Việt đã có đề tài nghiên cứu luận án thạc sỹ: “Báo
Biên phòng với chủ đề bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia”. Ở luận án
này, tác giả tập trung nghiên cứu dựa trên phương pháp khảo sat – điều tra, thống
kê qua các bài báo của bạn đọc, ý kiến của lãnh đạo và các đồng nghiệp. Do đó,
kết quả khảo sát là khách quan, mang tính thực tế cao. Luận án đã đưa ra những
góp ý rất thực tế để góp phần nâng cao chất lượng của báo Biên phòng.
- Năm 2010, tác giả Lữ Thị Ngọc đưa ra đề tài nghiên cứu bảo vệ luận án
thạc sỹ: “Nâng cao chất lượng báo in phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số (Khảo
5


sát trường hợp người Thái ở Tương Dương, Nghệ An)”. Luận án đưa ra một số

giải pháp để nâng cao chất lượng báo in cho đồng bào dân tộc thiểu số dựa trên
khảo sát dân ở một vùng nhất định, do đó, luận án có tính chính xác cao, cụ thể.
- Ngày 7/9/2012, báo Dân tộc và Phát triển tổ chức Hội thảo “Nâng cao hiệu
quả thông tin tuyên truyền thực hiện chính sách dân tộc và biển đảo”. Hội thảo
nêu ra nhiệm vụ của báo Dân tộc và Phát triển trong giai đoạn hiện nay, đó là
phải tăng cường thông tin tuyên truyền không chỉ cho đồng bào dân tộc thiểu số
mà còn chú trọng vào các vùng biển đảo.
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu:
Khảo sát thực trạng đăng tải thông chính về chính sách dân tộc thiểu số miền
núi trên báo Dân tộc và Phát triển, từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp nâng
cao chất lượng thông tin trên báo.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được kết quả nghiên cứu của đề tài, tác giả khóa luận đã phải hoàn
thành những nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ và
Ủy ban Dân tộc liên quan đến vấn đề dân tộc thiểu số miền núi.
+ Tìm hiểu, nghiên cứu về hệ thống báo chí viết cho đồng bào dân tộc thiểu
số.
+ Tiến hành khảo sát các tờ báo của báo Dân tộc và Phát triển năm 2012, từ
đó rút ra những điểm mạnh, điểm yếu, hạn chế về nội dung và hình thức thể hiện.
+ Thông qua nghiên cứu tài liệu, điều tra xã hội học nhằm đánh giá chất
lượng nội dung và hình thức của tờ báo, đồng thời tìm hiểu hiệu quả và sự tác
động của các thông tin về chính sách dân tộc thiểu số đối với cán bộ, đồng bào
sinh sống tại vùng cao, vùng sâu, vùng xa…
+ Từ những nghiên cứu trên, đề ra kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng thông tin về chính sách dân tộc thiểu số miền núi trên báo Dân tộc và Phát
triển.
6



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu:
Thông tin về chính sách dân tộc thiểu số miền núi trên báo Dân tộc và Phát triển.
- Phạm vi nghiên cứu:
Khảo sát thông tin về chính sách dân tộc thiểu số miền núi trên báo Dân tộc và
Phát triển.
Thời gian khảo sát từ tháng 1 năm 2012 đến tháng 12 năm 2012.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận:
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả dựa trên phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – LêNin, cụ thể là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Đồng thời, tác giả cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh về
đường lối dân tộc; dựa trên những quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề dân tộc thiểu số miền núi.
- Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu đề tài này, tác giả khóa luận đã sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau:
+ Phương pháp tổng hợp
+ Phương pháp phân tích tài liệu
+ Phương pháp thống kê
+ Phương pháp phân loại
+ Phương pháp phỏng vấn
+ Phương pháp điều tra xã hội học
6. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của khóa luận

- Ý nghĩa lý luận của đề tài:

Đề tài nghiên cứu này sẽ khẳng được được vai trò, nhiệm vụ của báo Dân tộc
và Phát triển trong công tác thông tin, tuyên truyền về chính sách các dân tộc
thiểu số miền núi. Đồng thời, đề tài cũng phát hiện ra những điểm hạn chế, thiếu
sót, đề ra kiến nghị, phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của báo
trong công tác thông tin về chính sách dân tộc thiểu số.
- Ý nghĩa thực tiễn của khóa luận:
7


Luận văn sẽ là đề tài tham khảo cho các đồng nghiệp, các nhà quản lý, nhà
nghiên cứu về dân tộc thiểu số miền núi, các sinh viên báo chí tại các cơ sở đào
tạo chuyên ngành báo chí, đặc biệt là các phóng viên, biên tập viên trực tiếp
tham gia sản xuất, phát hành tờ báo Dân tộc và Phát triển.
7. Kết cấu của khóa luận

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận
văn này gồm có 3 chương và 8 mục lớn.

8


Chương 1
Những chính sách, văn kiện nổi bật hiện nay liên quan đến vấn đề dân tộc
thiểu số miền núi.
1.1.

Các chính sách về dân tộc thiểu số miền núi

1.1.1. Các chính sách kinh tế - xã hội
1.1.2. Các chính sách về thông tin, tuyên truyền

1.2.

Hệ thống báo chí viết cho đồng bào dân tộc thiểu số miền núi

1.2.1. Các loại báo, tạp chí
1.2.2. Phát thanh – truyền hình
1.2.3. Nội dung thông tin tuyên truyền phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số miền
núi của báo chí
1.2.4. Công tác phát hành báo chí phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số miền núi
1.3.

Sự ra đời và phát triển của báo Dân tộc và Phát triển

1.3.1. Một vài nét về tờ báo Dân tộc và phát triển
1.3.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của báo Dân tộc và Phát triển
1.3.3. Cơ cấu tổ chức
Tiểu kết chương
Chương 2
Khảo sát thông tin về chính sách dân tộc thiểu số miền núi trên báo Dân tộc
và Phát triển năm 2012
2.1. Tần xuất xuất hiện
2.2. Phân loại tác phẩm về thông tin
2.2.1. Đề tài phản ánh
9


2.2.2. Vấn đề phản ánh
2.2.2.1. Thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn việc thực hiện chủ đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước
2.2.2.2. Thông tin về các hoạt động công tác dân tộc trong nước và các hoạt động

hợp tác quốc tế trong xây dựng và triển khai thực hiện chính sách dân tộc
2.2.2.3. Phản ánh tình hình thực hiện chính sách dân tộc tại các địa phương; định
hướng dư luận xã hội trong việc thực hiện, xây dựng và phát triển chính sách dân
tộc theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước
2.2.2.4. Nêu gương người có uy tín trong cộng đồng dân tộc; phát hiện, tuyên
truyền, nêu gương tập thể, cá nhân làm kinh tế giỏi, thực hiện mô hình sản xuất
tiên tiến, hiệu quả
2.3. Hình thức thể hiện trên báo Dân tộc và Phát triển
2.3.1. Thể loại
2.3.2. Kết cấu tác phẩm
2.3.2.1. Đầu đề
2.3.2.2. Sapô (Chapeau)
2.3.2.3. Cách triển khai vấn đề
2.3.2.4. Hình thức thể hiện
2.3.2.5. Ngôn ngữ
2.3.2.6. Box, tranh (ảnh) minh họa
Tiểu kết chương

Chương 3
10


Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng báo Dân tộc và Phát triển
3.1. Đánh giá chung về báo Dân tộc và Phát triển
3.1.1. Những ưu điểm của thông tin về chính sách dân tộc thiểu số miền núi
3.1.2. Những nhược điển của thông tin về chính sách dân tộc thiểu số miền núi
3.2. Một số đề xuất nâng cao chất lượng báo Dân tộc và Phát triển
3.2.1. Lựa chọn và phát hiện đề tài phản ánh phong phú, đa dạng hơn
3.2.2. Vấn đề phản ánh phải sâu sát, thông tin khách quan, cụ thể, dễ hiểu đối với
đồng bào

3.2.3. Các vấn đề phải có tính khái quát, điển hình, có thể áp dụng vào thực tiễn
3.2.4. Nội dung phải có tính chiến đấu, thông tin đa chiều
3.2.5. Nâng cao tính thẩm mỹ trong hình thức trình bày
3.2.6. Vấn đề nhân lực
3.2.6.1. Phóng viên, biên tập viên
3.2.6.2. Tăng cường xây dựng mạng lười cộng tác viên
3.2.7. Tăng kỳ, tăng số lượng phát hành, phạm vi phát hành rộng rãi
Tiểu kết chương
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

11


Chương 1: Những chính sách, văn kiện nổi bật hiện nay liên quan đến dân
tộc thiểu số miền núi.
1.1. Các chính sách về dân tộc thiểu số miền núi
1.1.1. Các chính sách kinh tế - xã hội

Đồng bào dân tộc và miền núi là một bộ phận dân cư quan trọng đối với đất
nước cả về chính trị, kinh tế và văn hóa, chính vì thế Đảng và Nhà nước luôn tạo
điều kiện để đồng bào DTTSMN phát triển toàn diện mọi mặt. Ngay trong Hiến
pháp và hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ mục tiêu bao
trùm đó là thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau
giữa các dân tộc là trách nhiệm của Nhà nước. Chính vì vậy, chính sách dân tộc
là chính sách tổng hợp, có nội dung toàn diện và đa ngành. Nội dung về các
chính sách dân tộc hiện nay tập trung vào 3 vấn đề chủ yếu là:
- Chính sách phát triển kinh tế vùng dân tộc, nhằm xóa đói, giảm nghèo, cải
thiện đời sống của đồng bào, phát huy thế mạnh, tiềm năng của vùng đồng bào

dân tộc, từ đó gắn với kế hoạch phát triển kinh tế chung của cả nước.
- Chính sách đời sống, xã hội, tập trung vào các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, y
tế, môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội,… hướng đến nâng cao năng lực,
dân trí, đời sống cho đồng bào dân tộc để cân bằng với mặt bằng chung của cả
nước.
- Chính sách liên quan đến các lĩnh vực quốc phòng, an ninh nhằm củng cố địa
bàn chiến lược, giải quyết tốt vấn đề các dân tộc, quan hệ dân tộc qua biên
giới…
Từ những năm đầu đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã xác định được rằng phát
triển vùng dân tộc thiểu số miền núi là một trong những mục tiêu quan trọng,
thiết yếu đối với đất nước, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách dành cho vùng dân tộc thiểu số miền núi. Nghị quyết 22 của Bộ
Chính trị (27/11/1989) về “Một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế
12


- xã hội miền núi”, các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII,
IX. Quán triệt những chủ trường, đường lối chỉ đạo của Đảng, nội dung chính
sách dân tộc được cụ thể hóa với hàng loạt các chương trình kế hoạch được bạn
hành và đi vào cuộc sống.
Mới đây nhất, trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI, Đảng
xác định: “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ” (Đại
hội X) và “Cộng đồng các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp
nhau cùng phát triển” (Đại hội XI). Đảng ta chỉ rõ hướng phát triển cụ thể đối
với các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn. Về chính sách
kinh tế - xã hội, văn hóa – xã hội cũng như an ninh – quốc phòng: “… Tăng
cường chính sách hỗ trợ phát triển các vùng còn nhiều khó khăn, nhất là vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số…. Nâng cao dân trí, đẩy mạnh xoá
đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân; có chế độ, chính sách hợp lý đối
với cán bộ, bộ đội, công an, nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vùng biên

cương của Tổ quốc, bảo vệ rừng và nguồn nước…. Bảo đảm công bằng xã hội
trong giáo dục; thực hiện tốt chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với người và gia đình
có công, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh giỏi, học sinh nghèo, học sinh
khuyết tật, giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn.”
Quyết định 72 ngày 13/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) là
bước cụ thể hóa Nghị quyết 22 của Đảng; Quyết định 327 (1992) của Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng về một số chủ trương chính sách sử dụng đất trống, đồi núi
trọc; Nghị quyết 64 (1993) ban hành bản quy chế về việc giao đất nông nghiệp
cho hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông
nghiệp; Quyết định 02/CP (1994) của Chính Phủ ban hành quy định về việc giao
đất lâm nghiệp cho tổ chức, cá nhân, hộ gia đình sử dụng ổn định, lâu dài vào
mục đích lâm nghiệp; Chương trình Mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo;
13


Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; Chương trình 135
về đầu từ phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn…
Theo rà soát của Ủy ban Dân tộc, hiện có 20 nhóm chính sách của Nhà nước
với hơn 50 chương trình, chính sách cụ thể do các bộ, ngành, địa phương quản
lý, chỉ đạo thực hiện trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi. Trong phạm vi khóa
luận này xin được trình bày một số chính sách, chương trình cơ bản được đề cập
nhiều nhất trong nội dung báo Dân tộc và Phát triển.
Về chính sách kinh tế - xã hội, Nhà nước luôn chú trọng hỗ trợ nhằm tạo điều
kiện phát huy thế mạnh của từng vùng, địa phương từ đó từng bước nâng mặt
bằng phát triển kinh tế đồng đều trên cả nước. Trong các chương trình phát triển
về kinh tế dành cho đồng bào DTMN, Chương trình 135 hiện đang được thực
hiện sâu rộng ở nhiều địa phương trên khắp cả nước. “Chương trình 135” lấy tên
gọi từ quyết định 135 ngày 31/7/1998 của Chính phủ “Phê duyệt Chương trình
phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng
xa”. Quyết định 135 đề ra mục tiêu tổng quát: nâng cao nhanh đời sống vật chất,

tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng
sâu, vùng xa; tạo điều kiện để đưa nông thôn các vùng này thoát khỏi tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hòa nhập vào sự phát triển chung của cả
nước; góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phòng. Chương
trình 135 bước đầu đã tạo được nhiều biến chuyển trong tình hình kinh tế - xã
hội ở các vùng đồng bào DTMN đặc biệt khó khăn, là bước “khởi động” cho cả
một quá trình đầy gian nan, thử thách.
Nhận thấy nhiều biến chuyển khả quan trong tình hình kinh tế - xã hội tại các
địa phương sau quá trình thực hiện Chương trình 135 giai đoạn 1998-2005, ngày
10/01/2006, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 07 “Phê duyệt Chương trình
phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền
núi và vùng sâu, vùng xa giai đoạn từ năm 2006-2010”. Chương trình được tiến
14


hành tại 1644 xã nghèo trong 45 tỉnh, phần lớn là các vùng dân tộc miền núi,
ngân sách dành cho Chương trình khoảng 800 triệu USD.
Mới đây nhất, vào ngày 04/04/2013, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số
551 “Phê duyệt Chương trình 135 về hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ đầu tư
phát triển sản xuất cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu,
các thôn, bản đặc biệt khó khăn”, quyết định đề ra kế hoạch tiếp tục thực hiện
Chương trình 135 giai đoạn 2012-2015 và 2015-2020.
Song song với Chương trình 135, đồng bào DTMN cũng được hưởng hỗ trợ
từ quyết định 134 “Về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và
nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn” (gọi
tắt là Chương trình 134). Nhân dân ta có câu “an cư lạc nghiệp”, phải “an cư” rồi
mới “lạc nghiệp”, nơi ở, nơi sinh hoạt là yếu tố quan trọng để đồng bào DTMN
có thể ổn định được cuộc sống, sản xuất, phát triển kinh tế, thoát nghèo.
Đồng bào DTMN nhiều tỉnh trên cả nước và nhất là các tỉnh miền núi phía
Bắc nước ta thường có tập quán du canh, du cư. Chính việc không ổn định được

nơi ở, nơi sản xuất là một trong những nguyên nhân khiến cuộc sống của đồng
bào luôn trong tình trạng nghèo đói, khó khăn, thiếu lương thực. Nhận biết được
tình hình đó, Chính phủ đã ra quyết định đúng đắn, hỗ trợ về nhà ở, cung cấp
nước sạch để sinh hoạt, hỗ trợ đất sản xuất, giúp cho đồng bào DTMN ổn định
nơi ở, cải thiện đời sống. Cùng với việc hỗ trợ chính sách, thông tin tuyên truyền
cho đồng bào hiểu được chính sách, dần dần thay đổi tập quán, phong tục du
canh, du cư của dân tộc mình cũng là yếu tố quyết định để chính sách có thể
thành công.
Cùng với Chương trình 134, đồng bào dân tộc thiểu số miền núi và các hộ
nghèo trên khắp cả nước cũng được hưởng nhiều ưu đãi về nhà ở tại quyết định
số 167 ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về “Chính sách Hỗ trợ hộ

15


nghèo về nhà ở”. Trong đó, các hộ đồng bào DTMN thuộc diện ưu tiên được
nhận hỗ trợ về nhà ở, số hộ được hỗ trợ theo quyết định là 500.000 hộ.
Đặc biệt, tại vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, ngày 9/6/2008, Chính phủ ban
hành Quyết định 74 “Về một số chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất
và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn
vùng ĐBSCL, giai đoạn 2008 – 2010”. Đây là sự tiếp nối nhằm tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc tại các địa phương trong việc thực hiện Chương trình 134
của Chính phủ về hỗ trợ vùng đồng bào dân tộc, thể hiện sự quan tâm đặc biệt
của Chính phủ đến đời sống đồng bào dân tộc nghèo, đặc biệt là người Khmer.
Quyết định 74 dành nhiều khoản ưu đãi nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc
hỗ trợ vùng đồng bào dân tộc, qua đây cũng có những quy định mang tính ràng
buộc, nhằm hướng đến sự phát triển vùng đồng bào dân tộc một cách bền vững.
Thời gian qua, tình hình thực hiện các chính sách hỗ trợ xóa đói giảm nghèo
đã đóng góp những biến chuyển nhất định trong tình hình xóa đói giảm nghèo
chung của cả nước. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, chênh lệch

giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, đặc biệt là ở những
huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao.
Tình hình trên do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra, nhưng chủ yếu là do
vị trí địa lý của những vùng này phức tạp, đường sá giao thông chưa phát triển,
nguồn vốn đầu tư của Nhà nước đến đây còn thiếu tập trung, vốn mỏng, dàn trải
dẫn đến hiệu quả thấp. Trước tình hình đó, Chính phủ ra nghị quyết số 30a ngày
27/12/2008 “Về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61
huyện nghèo”. Mục tiêu của Chương trình là tạo sự chuyển biến nhanh hơn về
đời sống vật chất, tinh thần của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc
các huyện nghèo, đảm bảo đến năm 2020 ngang bằng các huyện khác trong khu
vực.

16


Trong thời gian qua, để thực hiện tốt những chính sách dành cho đồng bào
DTMN, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Ủy ban Dân tộc và cơ quan ngôn luận là
báo Dân tộc và Phát triển đã thực hiện tích cực nhiệm vụ phổ biển rộng rãi quyết
định 30 “Về tiêu chí xác định thôn đặc biệt khó khăn, xã thuộc vùng dân tộc
miền núi giai đoạn 2012-2015”, ban hành ngày 18/7/2012. Đây có thể coi là một
quyết định tương đối quan trọng, cần được phổ biến rộng rãi tới các xã, thôn,
vùng đồng bào DTMN trên cả nước.
Các chính sách, chương trình của Chính phủ thường hướng tới đối tượng là
các hộ nghèo, tuy nhiên, đối tượng là các hộ cận nghèo cũng có cuộc sống rất
khó khăn. Các hộ nhận được hỗ trợ phải nằm trong “chuẩn” xét hộ nghèo, nhiều
hộ cận nghèo tuy không “nghèo” theo “chuẩn” nhưng họ cũng rất cần những hỗ
trợ từ các chính sách bởi đời sống vẫn tồn tại nhiều khó khăn, tuy nhiên cho đến
giờ, các chính sách cho hộ cận nghèo vẫn chưa được chú trọng.
Cho đến nay, Chính phủ đã đầu tư nhiều chương trình, ra quyết định ban hành
các chính sách hỗ trợ cho đời sống của các hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số.

Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 –
2020 (Quyết định 800 ngày 4/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ) hiện đang được
triển khai sâu rộng tại nhiều vùng trên cả nước. Mục tiêu tổng quát của Chương
trình là từng bước thay đổi toàn diện bộ mặt nông thôn, cải thiện đời sống của
người dân. Chương trình được triển khai trên địa bàn nông thôn của toàn quốc,
từ năm 2010 đến năm 2020.
Tại Hội nghị toàn quốc đánh giá và triển khai thực hiện chính sách vùng dân
tộc miền núi, do Ủy ban dân tộc tổ chức ngày 11/4/2013, theo báo cáo tổng kết
của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Giàng Seo Phử, trong những năm
qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách ngày càng toàn diện và đồng bộ
cho vùng dân tộc và miền núi, với nguồn lực đầu tư nhiều hơn, thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng
17


bào. Về kinh phí, trong giai đoạn 2006 - 2012, Chính phủ đã bố trí nguồn cho
các chương trình, chính sách vùng dân tộc và miền núi với tổng kinh phí trên
54.770 tỷ đồng. Bên cạnh những thành tựu, ông Giàng Seo Phử thừa nhận 8
điểm hạn chế, yếu kém cần được khắc phục trong xây dựng và thực hiện các
chính sách phát triển vùng DTMN thời gian qua.
Về chính sách đời sống, để đời sống của đồng bào DTMN ngày càng được cải
thiện, giáo dục là nhiệm vụ quan trọng, thiết yếu đặt ra. Giáo dục để đem lại kiến
thức không chỉ về khoa học – kĩ thuật mà còn đem lại kiến thức về văn hóa, xã
hội, nâng cao nhận thức, dân trí cho đồng bào DTMN. Chính vì thế, bên cạnh
các chính sách đầu tư hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, đất sản xuất, nhà ở, cơ sở vật chất,
Chính phủ ban hành nghị định số 82 ngày 15/7/2010 về “Quy định dạy và học
tiếng nói của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm
giáo dục thường xuyên”.
Nhiều dân tộc thiểu số ở nước ta, do hoàn cảnh kinh tế quá khó khăn, việc
dạy và học chính ngôn ngữ của mình cũng gặp nhiều cản trở dẫn đến ngôn ngữ

của nhiều dân tộc bị mai một dần, những giá trị văn hóa, bản sắc của dân tộc do
đó cũng bị mai một dần. Xét tình hình trên, Chính phủ ban hành Nghị định 82 là
phù hợp với điều kiện thực tế. Tuy nhiên, công tác dạy tiếng, chữ viết dân tộc tại
các trường phổ thông tại nhiều vùng còn gặp nhiều hạn chế, khó đảm bảo tính
liên tục và bền vững. Bởi đội ngũ giáo viên đạt chuẩn dạy được tiếng, chữ viết
dân tộc còn ít so với nhu cầu thực tế; sách giáo khoa, tập viết chữ dân tộc của
học sinh còn ít, chậm được đầu tư, hỗ trợ trong khi ngoài thị trường chưa có bán
loại sách giáo khoa, tập viết tiếng dân tộc…
Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số miền núi
cũng là vấn đề gai góc được đặt ra. Do điều kiện cơ sở hạ tầng, đường sá giao
thông, bệnh viện trạm xá còn thiếu thốn nên việc khám chữa bệnh tại các vùng
dân tộc là tương đối khó khăn. Bên cạnh đầu tư cơ sở hạ tầng về y tế, tuyên
18


truyền, giáo dục cho người dân về ý thức, thói quen khám chữa bệnh cũng là
nhiệm vụ cấp thiết được đề ra. Ngoài việc tăng cường đội ngũ y bác sĩ tại các
vùng dân tộc, chính sách y tế cũng chú trọng đến việc giáo dục kiến thức về sức
khỏe, phòng chống dịch bệnh cho đồng bào.
Về phương diện văn hóa, nội dung bao trùm của lĩnh vực văn hóa trong chính
sách dân tộc là xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Nền văn hóa bao gồm các giá trị và bản sắc của 54 dân tộc đang cư trú trên
khắp mọi miền đất nước, tạo nên sự thống nhất đa dạng của nền văn hóa Việt
Nam. Nội dung chính sách văn hóa cụ thể như: phát triển ngôn ngữ; phát triển
văn hóa, giáo dục, xây dựng đời sống văn hóa mới; chính sách thông tin tuyên
truyền cho miền núi, vùng sâu, vùng xa; bài trừ hủ tục, chống và đẩy lùi các tệ
nạn xã hội. Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) chỉ rõ: giữ gìn bản sắc văn hóa
các dân tộc; nâng cao trình độ dân trí; xây dựng các thiết chế văn hóa phù hợp;
phát triển văn hóa các dân tộc trong mối quan hệ kết hợp truyền thống và hiện
đại; đào tạo, bồi dường cán bộ văn hóa; nâng cao công tác thông tin tuyên truyền

báo chí; đấu tranh chống tệ nạn xã hội, chống diễn biến hòa bình trên mặt trận tư
tưởng – văn hóa.
Trong các chính sách về thông tin, tuyên truyền cho đồng bào dân tộc thiểu số
trong giai đoạn hiện nay, nổi bật lên là quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày
12/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ ban hành phê duyệt Chương trình phổ biến,
giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012 và Đề án 554 về tuyên truyền,
phổ biến pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số giai
đoạn 2009 – 2012. Đề án này được phê duyệt theo quyết định số 554/QĐ-TTg
ngày 04/05/2009 với mục tiêu: tuyên truyền, phổ biến các nội dung pháp luật đã
lựa chọn thông qua các hình thức phù hợp cho người dân nông thôn và đồng bào
dân tộc thiểu số nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
19


về ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, từng bước hình thành nếp sống và
làm việc theo pháp luật của người dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số.
Về quốc phòng, an ninh: đồng bào dân tộc thiểu số miền núi nước ta chủ yếu
sinh sống ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới,… có vị trí chiến lược quan
trọng về an ninh chính trị, an ninh quốc phòng. Các thế lực thù địch luôn lợi
dụng nhưng điểm yếu của dân tộc sống ở những vùng này như đói nghèo, lạc hậu
để thực hiện những hành vi không chỉ ảnh hưởng đến an ninh trật tự của đất
nước, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc phòng, toàn vẹn chủ quyền
lãnh thổ của quốc gia. Chính vì vậy, thực hiện chính sách dân tộc có ý nghĩa rất
quan trọng đối với an ninh quốc phòng.
Trong các Chương trình hỗ trợ dành cho đồng bào dân tộc thiểu số miền núi,
công tác nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, Chính quyền, đoàn thể chính trị - xã
hội luôn được nhấn mạnh, gắn liền với quá trình phát triển kinh tế. Để bảo vệ an
ninh quốc phòng, không chỉ có sức mạnh về kinh tế, về quân sự mà cái cốt yếu,
đi đầu chính là sức mạnh chính trị. Chính sách dân tộc trong lĩnh vực quốc
phòng an ninh đặt ra yêu cầu phải xây dựng cơ sở chính trị trong lòng đồng bào

dân tộc, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các lực lượng trên địa bàn. Các lực
lượng vũ trang đóng trên địa bàn là các chiến sĩ tuyên truyền, tổ chức và vận
động quần chúng. Tăng cường mối quan hệ nhân dân, đi sâu, bám rễ vào trong
lòng quần chúng.
1.1.2. Các chính sách về thông tin, tuyên truyền

Trong những năm qua, báo chí truyền thông đóng một vai trò quan trọng
trong việc tuyền truyền sâu rộng những chủ trương, chính sách và pháp luật của
Đảng và Nhà nước, phổ biến kiến thức về khoa học kỹ thuật, cung cấp thông tin
về mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội cho đồng bào dân tộc miền núi.
Ngay từ những ngày đầu đổi mới, trong Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị ban
hành ngày 27/11/1989, nội dung chính sách phát triển kinh tế - xã hội đã nếu rõ:
20


“Tăng cường các phương tiện thông tin đại chúng, kể cả các phương tiện hiện
đại như máy thu thanh cát - sét, máy thu hình, băng ghi hình, để cải tiến và nâng
cao các chương trình phát thanh, truyền hình ở địa phương, phổ biến các văn
hóa phẩm và tài liệu có nội dung thiết thực, phù hợp với yêu cầu và truyền
thống của đồng bào các dân tộc. Chú trọng sử dụng ngôn ngữ dân tộc (và các
chữ viết nếu có) trong công tác thông tin tuyên truyền”. Đảng và Nhà nước đã
nhận thực được tầm quan trọng của thông tin truyền thông, của báo chí trong
công cuộc phát triển kinh tế - xã hội cùng đồng bào dân tộc miền núi.
Trong Quyết định 72 (13/03/1990) của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) chỉ rõ: “Giúp đỡ các tỉnh, các huyện miền núi kinh phí xây dựng trạm tiếp
sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam”, “các tỉnh cần cải tiến
nâng cao chất lượng nội dung và hình thức báo địa phương, chú trọng giới thiệu
các cá nhân, hộ gia đình, các bản làng về làm ăn giỏi, xây dựng nông thôn mới
trong vùng để đồng bào học tập…”.
Ngày 03/12/1998, Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị 39 về việc “Đẩy mạnh

công tác văn hóa, thông tin ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số”.
Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định, ngày càng có tính chất đi sâu vào thực
tiễn, dần dần đáp ứng được nhu cầu về các ấn phẩm báo, tạp chí cho đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi. Được sự quan tâm và hỗ trợ từ các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, các cơ quan làm công tác thông tin tuyên
truyền, số lượng báo, tạp chí, bản tin, các chương trình phát thanh, truyền hình,
các chuyên mục về dân tộc thiểu số miền núi ngày càng được nâng cao cả về số
lượng và chất lượng, nội dung phong phú, hấp dẫn hơn. Các phương tiện thu
phát, phủ sóng phát thanh truyền hình được mở rộng và mạng lưới phát hành báo
chí ngày càng được mở rộng tới các vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới, hải
đảo.
21


Nhận thức được vai trò của báo chí trong thôn tin tuyền truyền chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước, trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã nêu rõ:
“Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng. Báo chí, xuất
bản... làm tốt chức năng tuyên truyền thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước; phát hiện những nhân tố mới, cái hay, cái đẹp trong
xã hội, giới thiệu gương người tốt việc tốt, những điển hình tiên tiến, phê phán
các hiện tượng tiêu cực, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những
quan điểm sai trái; coi trọng nâng cao tính chân thật, tính giáo dục và tính chiến
đấu của thông tin. Sử dụng Internet đẩy mạnh thông tin đối ngoại, đồng thời hạn
chế, ngăn chặn những hoạt động tiêu cực qua mạng. Khắc phục khuynh hướng
"thương mại hoá" trong hoạt động báo chí, xuất bản. Nâng cao bản lĩnh chính trị,
tư tưởng, ý thức trách nhiệm, trình độ văn hoá và nghề nghiệp, phẩm chất đạo
đức của đội ngũ báo chí, xuất bản”.
1.2. Hệ thống báo chí viết cho đồng bào dân tộc thiểu số miền núi
1.2.1. Các loại báo, tạp chí


Theo con số thống kê chính thức của Nhà nước, tính đến ngày 30/11/2012,
Việt Nam hiện có 812 cơ quan báo chí in với 1.084 ấn phẩm, trong đó có 197
báo in (84 cơ quan Trung ương và 113 cơ quan địa phương); 615 tạp chí (488 tạp
chí Trung ương và 127 tạp chí Địa phương); 62 trang tin điện tử; 67 đài phát
thanh truyền hình trên cả nước; 1024 trang tin điện tử tổng hợp chung (trong đó
có 300 trang của các cơ quan báo chí) và 17.000 nhà báo được cấp thẻ hành
nghề. Với đội ngũ các cơ quan báo chí và lực lượng nhà báo đông đảo, các ấn
phẩm báo chỉ không ngừng phát triển về số lượng, cập nhật thông tin thời sự
nóng hổi, phục vụ nhu cầu của đông đảo bạn đọc.

22


Hầu hết các báo Trung ương như Nhân Dân, Lao động, Tiền phong, Quân đội
Nhân dân, Đại đoàn kết, Phụ nữ Việt Nam, Văn nghệ, Công an nhân dân, Nông
thôn ngày nay, Nông nghiệp Việt Nam, Pháp luật Việt Nam… và các từ báo tỉnh
của miền núi đều thường xuyên đăng tải các tin, bài, chuyên mục về các vấn đề
dân tộc, miền núi. Một số tờ báo còn ra các số chuyên đề, phụ trương, chuyên
trang, bản tin riêng phục vụ đồng bào dân tộc miền núi với số lượng ngày càng
tăng. Ngoài ra, cồn nhiều ấn phẩm chuyên biệt dành riêng cho dân tộc miền núi
như báo Dân tộc và Phát triển, Tạp chí dân tộc, Bản tin ảnh Dân tộc thiểu số
miền núi, Chuyên đề Dân tộc thiểu số và miền núi, …
Do hoàn cảnh kinh tế còn khó khăn, việc tiếp cận với các ấn phẩm thông tin
còn hạn chế, Chính phủ đã ra nhiều quyết định hỗ trợ, cấp báo (không thu tiền)
cho các vùng dân tộc thiểu số miền núi, góp phần phổ cấp kiến thức, thông tin
cho đồng bào vùng sâu, vùng xa. Từ quyết định số 21 ngày 16/01/1993 của Thủ
tướng Chính phủ về việc “Quyết định về chính sách đối với việc phát hành sách,
báo, phim ảnh cho thiếu nhi”, chỉ đạo cấp báo (không thu tiền) cho đối tượng là
thiếu nhi, qua các năm, đối tượng được cấp báo, tạp chí đã được mở rộng hơn,

phù hợp với tình hình thực tiễn, đáp ứng nhu cầu được tiếp nhiện thông tin của
đồng bào thiểu số miền núi, đồng thời thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền
phục vụ sự nghiệp phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cho đồng bào dân
tộc thiếu số và các vùng khó khăn.
Thiếu nhi là đối tượng cần được xã hội đặc biệt quan tâm và thiếu nhi có nhu
cầu lớn về việc thông tin qua sách, báo, phim ảnh. Việc làm ra và cung cấp các
loại sách, báo, phim ảnh, các chương trình phát thanh truyền hình, các chương
trình vui chơi giả trí dành riêng cho thiếu nhi là việc làm quan trọng và cần thiết.
Để đáp ứng nhu cầu sách, báo cho thiếu nhi ở những vùng nông thôn miền núi và

23


Tây Nguyên, vùng xa và hải đảo, Nhà nước cấp (không thu tiền) một số loại
sách, báo cho các trường phổ thông cấp I, II và các trường dân tộc nội trú.
Từ thời gian này, Nhà nước đã quan tâm đến việc thông tin, giáo dục cho
thiếu nhi, đặc biệt là trẻ em ở các vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số miền núi,
hải đảo. Qua thời gian, đối tượng của chính sách tài trợ báo, tạp chí đã được mở
rộng, không chỉ dành cho trẻ em mà là dành cho đông đảo đồng bào dân tộc
thiểu số miền núi. Ngày 31/12/2001, Chính phủ ban hành Quyết định 1637 về
việc “Nhà nước cấp (không thu tiền) một số loại báo, tạp chí cho vùng dân tộc
thiểu số và miền núi”.
Chủ trương cấp báo (không thu tiền) cho các vùng đồng bào dân tộc thiểu số
miền núi được tiếp nối bằng nhiều quyết định đó là Quyết định số 975 ngày
20/7/2006 về việc “Cấp một số loại báo, tạp chí cho vùng dân tộc thiểu số miền
núi, vùng đặc biệt khó khăn”; Quyết định số 2472 ngày 28/12/2011 về “Cấp một
số ấn phẩm báo, tạp chí cho dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó
khăn giai đoạn 2012 – 2015”. Điểm mới trong quyết định 975 (giai đoạn 20062010) so với quyết định 1637 năm 2001 đó là tăng số lượng báo, tạp chí và mở
rộng đối tượng được hưởng lợi từ chính sách này . Các ấn phẩm được cấp ngày
càng được mở rộng về nội dung, dành cho nhiều đối tượng từ trẻ em đến người

cao tuổi, nội dung cung cấp kiến thức phong phú về sản xuất, sức khỏe, pháp
luật, an ninh quốc phòng…. Ấn phẩm dành cho dân tộc thiểu số miền núi được
in bằng Tiếng Việt và nhiều thứ tiếng khác nhau như: Tày, Thái, Khmer, Mường,
Dao, Mông, Hoa, H’re, Ba Na, Chăm, Cao Lan… Các Bộ, ban ngành Trung
ương phối hợp thực hiện, triển khai các chính sách của Chính phủ mà cơ quan
chủ quản là Ủy ban Dân tộc.
Với nội dung thông tin đa đạng, phong phú phản ánh nhiều mặt của đời sống
xã hội, các ấn phẩm báo chí như Nông thôn ngày nay, Đại đoàn kết, Tạp chí Dân
tộc, Thanh niên, chuyên đề Dân tộc thiểu số, nông nghiệp, xóa đói giảm nghèo…
24


luôn bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, các sự kiện chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng diễn ra trong nước và trên thế giới.
Báo chí đã tập trung phản ánh những thành tựu đổi mới, sự phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Các kiến thức về bảo tồn các giá trị văn
hóa dân tộc; Phê phán những phong tục tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan, các tệ
nạn xã hội; Kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi; Nêu gương điển hình tiên tiến về lao
động sản xuất, kinh doanh giỏi; Hiệu quả từ việc thực hiện các chính sách của
Đảng và Nhà nước thông qua các chương trình 134, 135, chính sách trợ giá, trợ
cước, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội đã góp phần tuyên truyền, phổ biến
đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và cung cấp
những thông tin bổ ích trong lao động, sản xuất cho bà con. Các ấn phẩm báo chí
đã thực sự trở thành kênh thông tin hữu ích đối với bà con dân tộc thiểu số.
Từ năm 1992, Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) đã xuất bản Bản tin ảnh và
năm 1995 xuất bản thêm chuyên đề Dân tộc miền núi với số lượng bản tin
720.000 số/kỳ, chuyên đề 120.000 số/kỳ phát hành tới các xã thuộc miền núi trên
cả nước. Tạp chí Dân tộc và Miền núi xuất bản năm 1999 với số lượng phát hành
60.000 bản/năm, phát hành không thu tiền đến các cán bộ xã, trụ sở làm việc của
tất cả các xã trong cả nước.
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, từ tháng 7-2012, “Báo ảnh Dân

tộc và Miền núi” song ngữ Việt-Khmer, Việt-Chăm, Việt-Ba Na, Việt-Jrai, ViệtÊđê của TTXVN số đầu tiên đã ra mắt bạn đọc cả nước, đặc biệt là đồng bào các
dân tộc thiểu số có chữ viết. Bảo ảnh xuất bản bằng hai thứ tiếng nên đã nhanh
chóng có sức lan tỏa rộng rãi trong cộng đồng các dân tộc thiểu số. Đến nay, ấn
phẩm song ngữ này đã có mặt tại 52 tỉnh, thành miền núi và vùng đồng bào dân
tộc trọng điểm với số lượng phát hành lên tới 35.000 bản/ kỳ. Hiện TTXVN
đang khẩn trương khảo sát và chuẩn bị các điều kiện để trong quí 2 năm 2013
25


×