Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.05 KB, 22 trang )

Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

LỜI MỞ ĐẦU

Có thể nói, “lý luận” và “thực tiễn” là hai phạm trù thường xuyên được đề
cập đến trong các hoạt động của con người. Giữa lý luận và thực tiễn có mối
quan hệ rất chặt chẽ với nhau và nó là một trong những vấn đề cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin nói chung và của lý luận nhận thức macxit nói riêng.
Trong bất kỳ một lĩnh vực hoạt động nào của con người thì những vấn đề
về lý luận và thực tiễn phải được đưa ra xem xét trong mối liên hệ với nhau. Có
như vậy hoạt động của con người mới có thể đi đúng hướng và đạt được hiệu
quả cao. Lịch sử phát triển đã chứng minh rằng phải luôn kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn trong mọi hoạt động. Nếu có sự vi phạm nguyên tắc này thì kết quả thu
được sẽ không được như mong muốn.
Đối với Việt Nam, chúng ta đã từng đi qua những cuộc chiến tranh để bảo
vệ nền độc lập của đất nước.Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta
bắt tay vào khôi phục nền kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình
này, chúng ta gặp vô vàn khó khăn những cũng có những điều kiện thuận lợi
nhất định. Trong từng giai đoạn phát triển, Đảng và Nhà nước có những đường
lối chiến lược phát triển đất nước khác nhau. Trải qua nhiều thay đổi về đường
lối quản lý, hiện nay nền kinh tế nước ta đã tìm được hướng đi đúng mặc dù vẫn
còn không ít sai lầm cần phải sửa đổi. Đạt được những thành tựu như vậy là do
Đảng và Nhà nước ta đã đi từ thực tiễn hoàn cảnh đất nước mà có được những lý
luận đúng đắn để đưa ra những chính sách kinh tế - xã hội phù hợp.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ
bản, là linh hồn của triết học Mác - Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học,
C.Mác đã phát hiện ra sức mạnh của lý luận chính là mối liên hệ của nó với thực
tiễn, cũng như sức mạnh của thực tiễn là ở mối quan hệ của nó với lý luận. Sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là thống nhất biện chứng và cơ sở của sự tác
động qua lại ấy chính là thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận động, biến đổi, do đó
HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN



Trang 1


Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

lý luận cũng không ngừng đổi mới, phát triển; sự thống nhất biện chứng giữa
chúng vì thế cũng có những nội dung cụ thể và những biểu hiện khác nhau trong
mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử. Với tư cách là lực lượng lãnh đạo Nhà nước
và xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước tiến hành thành công
công cuộc đổi mới, đưa nước ta bước đầu thoát khỏi tình trạng khủng hoảng
kinh tế xã hội, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Trong công
cuộc đổi mới này, Đảng xác định trước hết phải đổi mới về tư duy, trong đó lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm
Chính vì thế, tôi đã chọn “Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và
thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh” làm tên đề cho bài tiểu luận
kết thúc chuyên đề của mình.

HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 2


Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

PHẦN NỘI DUNG
1. Biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong chủ nghĩa Mác – Lênin
– cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về biện chứng trong mối quan hệ
giữa lý luận và thực tiễn.
Vấn đề quan hệ giữa lý luận và thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt trong

triết học xã hội của chủ nghĩa Mác. Tầm quan trọng đó không chỉ ở chỗ: “Quan
điểm về đời sống về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận
về nhận thức”. Kinh nghiệm đấu tranh, bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã hội chủ
nghĩa đã đem lại cho chúng ta bài học vô giá là: “Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành
động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của đảng”. Chính
vì vậy việc tìm hiểu mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là cần
thiết.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, giữa lý luận và thực tiễn có
mối quan hệ biện chứng với nhau, quy định, tác động qua lại với nhau, trong đó:
- Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận và là tiêu chuẩn của
chân lý; sự hình thành và phát của lý luận xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn; lý luận phải được kiểm nghiệm, được bổ sung và phát triển
trong thực tiễn
Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ thực tiễn là cơ sở,
động lực và mục đích của nhận thức. Chính trong quá trình cải tạo thế giới mà
nhận thức, lý luận ở con người mới được hình thành và phát triển. Thực tế lịch
sử cho thấy, con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà
bằng thực tiễn. Trong quá trình này, con người sử dụng các công cụ, phương tiện
tác động vào các sự vật, hiện tượng, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính và
tính qui luật, nhờ đó mà con người có được những hiểu biết về thế giới khách
quan. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm,
sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa... để
HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 3


Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.


xây dựng thành lý luận. Do đó, có thể nói, thực tiễn cung cấp những tài liệu cho
nhận thức, cho lý luận. Không có thực tiễn thì không có nhận thức, không có lý
luận. Những tri thức mà chúng ta có được cho đến hôm nay hoặc trực tiếp, hoặc
gián tiếp đều nảy sinh từ hoạt động thực tiễn.
Quá trình cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn cũng chính là quá trình
hoàn thiện bản thân con người. Thông qua thực tiễn, con người phát triển năng
lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Ph.Ăngghen viết: “Từ trước đến nay,
khoa học tự nhiên cũng như triết học đã coi thường ảnh hưởng của hoạt động
con người đối với tư duy của họ. Hai môn ấy một mặt chỉ biết tự nhiên mặt khác
chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự nhiên... là cơ sở chủ
yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người phát đã
phát triển song song với việc người ta người đã học cải biến tự nhiên”[1].
Như vậy, trong quá trình hoạt động thực tiễn, trí tuệ con người được phát
triển, được nâng cao dần cho đến lúc có lý luận, khoa học. Nhưng bản thân lý
luận không có mục đích tự thân. Lý luận khoa học ra đời vì chúng cần thiết cho
hoạt động cải tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói một cách khác, thực tiễn là mục
đích của nhận thức, lý luận. Lý luận sau khi ra đời phải quay về phục vụ thực
tiễn, hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, phải biến thành hành động thực tiễn của quần
chúng. Lý luận chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn,
đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn.
Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp, đòi hỏi lý luận phải đi sâu
nghiên cứu để đáp ứng những yêu cầu đó. Chẳng hạn, đó là những vấn đề lý
luận về CNXH và con đường đi lên ở nước ta, về kinh tế thị trường, về hoàn
chỉnh hệ thống quan điểm đổi mới, v.v.. Qua việc làm sáng tỏ những vấn đề trên,
chắc chắn lý luận sẽ góp phần đắc lực vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận còn thể hiện ở chỗ thực
tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. C. Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con
HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN


Trang 4


Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn
đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải
chứng minh chân lý”[2].
Chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được tri thức đạt được là
đúng hay sai, là chân lý hay sai lầm. Thực tiễn sẽ nghiêm khắc chứng minh chân
lý, bác bỏ sai lầm. Tuy nhiên, cần phải hiểu tiêu chuẩn thực tiễn một cách biện
chứng: tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối
là ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm nghiệm chân lý,
thực tiễn ở mỗi gia đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý. Nhưng tiêu chuẩn
thực tiễn có tính tương đối vì thực tiễn không đứng im một chỗ mà biến đổi và
phát triển; thực tiễn là một qúa trình và được thực hiện bởi con người nên không
tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan. Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến
những tri thức của con người trở thành những chân vĩnh viễn, tuyệt đích cuối
cùng. Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt
được trước kia và hiện nay vẫn phải được kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo.
Vì vậy, những tri thức được thực tiễn chứng minh ở một giai đoạn lịch sử nhất
định phải tiếp tục được bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện
hơn. Việc quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp ta tránh khỏi
những cực đoan sai lầm như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa chủ
quan, chủ nghĩa tương đối.
Sự phân tích trên đây về vai trò của thực tiến đối với lý luận đòi hỏi chúng
ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức
phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát thực tiễn, coi
trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học
đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo

điều, máy móc, bệnh quan liêu, chủ nghĩa xét lại.
- Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận khoa học; lý luận đề ra mục
tiêu, phương hướng, biện pháp cho thực tiễn.
HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 5


Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

Coi trọng thực tiễn không có nghĩa là xem thường lý luận, hạ thấp vai trò
của lý luận. Không nên đề cao cái này, hạ thấp cái kia và ngược lại. Không thể
dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận lại trực tiếp từ thực tiễn mà phải nâng
lên thành lý luận bởi lý luận là một trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm.
Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp phần
làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận là “kim chỉ
nam” cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Đánh giá vai trò và ý
nghĩa lớn lao của lý luận, Lênin viết: “Không có lý luận cách mạng thì cũng
không thể có phong trào cách mạng”[3].
Lý luận một khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành "lực lượng vật
chất". Lý luận có thể dự kiến được sự vận động trong tương lai, từ đó vạch ra
phương hướng cho thực tiễn, chỉ rõ những phương pháp hành động có hiệu quả
nhất để đạt mục đích của thực tiễn. Nhờ có lý luận khoa học mà hoạt động của
con ngươi nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mậm, tự phát. Sức mạnh
của chủ nghĩa Mác - Lênin là ở chỗ, trong khi khái quát thực tiễn cách mạng,
lịch sử xã hội, nó vạch rõ qui luật khách quan của sự phát triển, dự kiến những
khuynh hướng cơ bản của sự tiến hóa xã hội. Điều đó làm cho các Đảng của giai
cấp công nhân có thể vạch ra đường lối, phương hướng, nhiệm vụ, biện pháp
hành động cho phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mỗi nước
một cách sáng tạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh ví "không có lý luận thì lúng túng như

nhắm mắt mà đi".[4]
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong
sự phản ánh hiện thực, do sự chi phối của hệ tư tưởng và thái độ không khoa học
nên lý luậncó nguy cơ xa rời cuộc sống và trở nên ảo tưởng, giáo điều. Trong
khi nhấn mạnh vai trò quan trọng của lý luận, V.I. Lênin nhắc đi nhắc lại rằng, lý
luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là "kim chỉ nam" cho hành động
cách mạng; và lý luậnkhông lại là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo; lý
luậnluôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn
sinh động. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu
HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 6


Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

cách học tập không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý
luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế.
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luậnsuông.
Sự hình thành và triển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thể hiện tiêu biểu
cho sự gắn bó mật thiết giữa lý luậnvà thực tiễn. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái
quát thực tiễn cách mạng, lịch sự xã hội để xây dựng nên hệ thống lý luận của
mình. V.I.Lênin đã nêu một tấm gương sáng về sự phát triển chủ nghĩa Mác
trong điều kiện thực tiễn mới. Trên cơ sở nghiên cứu điều kiện nước Nga lúc đó,
V.I. Lênin đã đưa ra chính sách kinh tế mới (NEP) và Người nhận xét: “toàn bộ
quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản”[5].
Như vậy, sức mạnh của lý luậnlà ở chỗ nó gắn bó mật thiết với thực tiễn,
được kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển trong thực tiễn.

2. Biện chứng trong mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư
tưởng triết học Hồ Chí Minh
Theo Hồ Chí Minh, "lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài
người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên, xã hội tích lũy lại trong quá
trình lịch sử" (6). Và lý luận Mác - Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh
cách mạng của giai cấp công nhân thế giới. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc,
Hồ Chí Minh nói một cách cụ thể: "lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong
kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng,
làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế" (7) Lý luận được
khái quát từ những kinh nghiệm thực tiễn, nhưng lý luận là trình độ cao hơn về
chất so với kinh nghiệm.
[1] C.Mác và Ph.Ăngnghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994, t. 20, tr. 270
[2] C.Mác và Ph.Ăngnghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1995, t.3, tr. 9-10.
[3]V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxxcơva. 1978, tr 30.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 234.
[5] V.I.Lênin: Toàn tập, T 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 1978, t.45, tr 428.

HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 7


Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

Tri thức lý luận thể hiện trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, qui luật.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao, nhờ đó,
nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính tất nhiên, tính qui luật của các
sự vật, hiện tượng khách quan. Lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính
xác hơn, hệ thống hơn, nghĩa là có tính bản chất sâu sắc hơn và do đó, phạm vi
ứng dụng của nó cũng phổ biến hơn, rộng hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm.

Chính C.Mác và Ph.Ăngghen cũng từng chỉ rõ: “Sự quan sát theo kinh nghiệm
tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu và nhiệm vụ
của nhận thức lý luận là đem quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện
tượng về sự vận động bên trong thực sự” (8)
Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp
phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận một khi
thâm nhập vào quần chúng thì biến thành "lực lượng vật chất". V.I.Lênin khẳng
định: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách
mạng” (9) Lý luận có thể dự kiến được sự vận động trong tương lai, từ đó vạch
ra phương hướng cho thực tiễn, chỉ rõ những phương pháp hành động có hiệu
quả nhất để đạt mục đích của thực tiễn. Nhờ có lý luận khoa học mà hoạt động
của con người nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát. Đánh
giá vai trò và ý nghĩa lớn lao của lý luận đối với thực tiễn, Hồ Chí Minh chỉ ra
rằng: "Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong
công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mặt mà đi" (10)
"Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm
chạp vừa hay vấp váp" (11).

(6). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, t.17, tr.789.
(7). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,1995, t.5, tr.233.
(8). C.Mác, Ăngghen: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1981, t.25, ph.I, tr.343.
(9). V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.30.
(10). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,1995, t.5, tr.233-234.
(11). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,1995, t.6, tr.47.

HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 8



Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập từ tay Thực dân Pháp, Hồ Chí
Minh đã cảnh báo rằng, do "kém về lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận
suông "mà nhiều cán bộ, đảng viên của ta mắc phải bệnh chủ quan. Cũng vì kém
lý luận mà cán bộ ta "gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho
đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý
mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại"(12)
Hồ Chí Minh dùng nhiều cách diễn đạt khác nhau: “Lý luận đi đôi với
thực tiễn”, “Lý luận kết hợp với thực hành”, “Lý luận và thực hành phải luôn
luôn đi đôi với nhau”, “Lý luận phải liên hệ với thực tế”[13] . Dù nói “đi đôi”,
“gắn liền”, “kết hợp” nhưng điều cốt lõi nhất mà Người muốn nhấn mạnh là:
“Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”[14]. Như
vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được Hồ Chí Minh hiểu trên tinh thần
biện chứng: thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn,
định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ
sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ
mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương tựa
vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau. Người chỉ rõ, “lý luận rất cần thiết,
nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ không có kết quả”[15]. Do đó, trong
lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế.
Nhấn mạnh vai trò của lý luận trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người mở
đầu một câu theo ý của Lê nin “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách
mệnh vận động…Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiên phong, đảng cách mệnh
mới mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiên phong”. Điều quan trọng nữa theo
Người là phải thống giáo điều ngay trong học tập chủ nghĩa Lênin. Khi còn sống
Người luôn phê phán kiểu học học thuộc lòng chủ nghĩa Mác- Lênin, “học sách
vở Mác – Lênin nhưng không học tinh thần Mác – Lênin”[16]. Đó là học theo

kiểu “mượn những lời của Mác, Lênin dễ làm cho người ta lầm lẫn”[17]. Theo
HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 9


Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là “phải học tinh thần của chủ
nghĩa Mác – Lênin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ
nghĩa Mác – Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà
giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng
ta”[18]. “Học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc,
đối với mọi người và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý phổ biến
của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế
của nước ta. Học để mà làm”[19].
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, đó là quan điểm cốt lõi nhất của nhận
thức luận macxít và cũng là nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Theo quan điểm của C.Mác: Ở mỗi dân tộc, lý luận bao giờ cũng chỉ được thực
hiện theo mức độ mà nó là sự thực hiện những nhu cầu của dân tộc ấy. Nói cách
khác, lý luận chỉ được coi là đúng đắn khi nó đáp ứng được nhu cầu thực tiễn
của mỗi dân tộc. Hồ Chí Minh cũng quan niệm: "Lý luận là đem thực tế trong
lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét so sánh thật kỹ
lượng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế, đó là
lý luận chân chính". Theo quan niệm đó, Hồ Chí Minh luôn luôn lấy thực tiễn,
lấy sự kiện của đời sống dân tộc và thời đại làm định hướng cho tư duy và hành
động, lấy mục tiêu độc lập và phát triển của dân tộc làm căn cứ để xem xét lý
luận, để lựa chọn con đường và bước đi cho cách mạng Việt Nam, nhờ đó mà
tránh được giáo điều, rập khuôn (do chỉ biết lặp lại cái chung), đồng thời cũng
tránh để không rơi vào cơ hội, xét lại (do quá nhấn mạnh cái riêng, cái đặc thù).


(12). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,1995, t.6, tr. 233-.234.
[13] Hồ Chí Minh, Toàn tập (1995), Nxb CTQG, HN, tập 9, tr. 292
[14] Sđd, tập 8, tr. 496
[15] Sđd, tập 8, tr. 496
[16] Sđd, tập 9, tr. 292
[17] Sđd, tập 6, tr. 247
[18] Sđd, tập 8, tr. 497
[19] Sđd, tập 9, tr. 292
HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 10


Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

Đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản, nhưng Hồ Chí Minh biết rút ra từ học thuyết
cách mạng và khoa học rộng lớn này những vấn đề cần thiết cho giai đoạn trước
mắt của cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam: từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp và giải phóng con người, tức
là từ độc lập dân tộc tiến lên CHXH.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong
sự phản ánh hiện thực, do sự chi phối của hệ tư tưởng và thái độ không khoa học
nên lý luận có nguy cơ xa rời cuộc sống và trở nên ảo tưởng, giáo điều. Vì vậy,
trong khi nhấn mạnh vai trò quan trọng của lý luận, Hồ Chí Minh cũng đồng
thời nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ: lý luận cách mạng không phải là
giáo điều, nó là "kim chỉ nam" cho hành động cách mạng; và "…lý luận không
phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo; lý luận luôn cần được bổ
sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động"(20). Chủ tịch

Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: "Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập không
đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần
nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý
luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với
thực tiễn là lý luận suông"(21). Lý luận mà xa rời thực tiễn, tách khỏi thực tiễn
thì sớm muộn sẽ trở nên giáo điều, sách vở, là lý luận suông. Đồng thời, thực
tiễn mà không được hướng dẫn, chỉ đạo, soi sáng bởi lý luận thì dễ trở thành
"mảnh đất màu mỡ" cho bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa nảy sinh và phát triển.
Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi
thường, hạ thấp vai trò lý luận lý luận khoa học. Chúng ta đi lên từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, trình độ dân trí thấp, khoa học kỹ thuật chưa phát triển. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho bệnh kinh nghiệm
nảy sinh. Hồ Chí Minh nhận xét rằng, trong Đảng ta còn "có những cán bộ,
những đảng viên cũ, được làm việc, có kinh nghiệm. Cố nhiên, những anh em đó
HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 11


Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

rất qúi báu cho Đảng. Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh coi khinh lý luận. Họ
quên rằng: kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận
mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi. Có kinh nghiệm mà không có lý luận thì
cũng như một mắt sáng, một mắt mờ" (22). Bởi vậy, Hồ Chí Minh nhắc nhở cán
bộ, đảng viên phải ra sức học tập lý luận, nâng cao trình độ lý luận cũng như
chuyên môn, nghiệp vụ.
Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa vai trò của lý
luận, tách lý luận với thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể. Biểu hiện của
bệnh giáo điều là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ dừng ở câu chữ theo kiểu “tầm

chương trích cú”, hiểu lý luận một cách trừu tượng mà không thâu tóm được
thực chất cách mạng và khoa học của nó, nặng về diễn giải những gì đã có sách
vở mà không bám sát thực tiễn, thoát ly đời sống hiện thực; tiếp nhận những
nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học một cách đơn giản, phiến diện mang
tính chất cảm tính, từ đó, biến chúng trở thành những tín điều. Hồ Chí Minh phê
phán kiểu học thuộc lòng sách vở về chủ nghĩa Mác - Lênin mà không học tinh
thần Mác - Lênin. Theo Hồ Chí Minh, học tập lý luận Mác - Lênin là "phải học
tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, học lập trường, quan điểm, phương
pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương
pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng
của chúng ta"(23). Như vậy, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin để nắm được
linh hồn sống, bản chất khoa học và cách mạng của nó chứ không phải đơn
thuần là học thuộc lòng, học vẹt. Đồng thời, "chúng ta phải luôn luôn nhấn mạnh
nguyên tắc lý luận phải liên hệ với thực tế" để chống chủ nghĩa giáo điều.
Một biểu hiện khác của bệnh giáo điều là áp dụng một cách rập khuôn, máy móc
kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước khác; là áp dụng kinh nghiệm
tiến hành chiến tranh cách mạng vào quá trình xây dựng kinh tế trong thời kỳ
hòa bình; áp dụng máy móc kinh nghiệm của địa phương này vào địa phương
khác, v.v.. ở đây, bệnh giáo điều thể hiện thành "giáo điều kinh nghiệm". Hồ Chí
Minh lưu ý rằng, "không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học
HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 12


Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

tập kinh nghiệm của các nước anh em là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ
nghĩa giáo điều" (24)
Khắc phục bệnh giáo điều là công việc khó khăn, phức tạp, thường xuyên,

liên tục vì căn bệnh này luôn có nguy cơ tái phát dưới những hình thức mới.
Hiện nay không ít người có lối tư duy bắt chước, sao chép, rập khuôn những
"cái mới" từ nước ngoài, bất chấp thực tế lịch sử, truyền thống, văn hóa và hoàn
cảnh cụ thể của dân tộc ta. Sao chép cái mới như vậy không phải là đổi mới tư
duy, mà là "bệnh giáo điều mới" và nó cũng tai hại không kém các biểu hiện của
chủ nghĩa giáo điều từ trước đến nay.
Sự yếu kém và coi khinh lý luận, bệnh lý luận suông là nguyên nhân làm
cho con người mắc cả bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều. Vì vậy,
theo Hồ Chí Minh phải chấm dứt được "bệnh kém lý luận, bệnh coi khinh lý
luận, bệnh lý luận suông" trong cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc
rằng, biện pháp cơ bản để khắc phục và ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm và bệnh
giáo điều là phải thường xuyên quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn.
3. Vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay.
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng đã thu được những
thành tựu bước đầu rất quan trọng. Tuy nhiên, tính chất khó khăn và phức tạp
của sự nghiệp đổi mới cũng như chiều sâu và tầm cỡ của nó đang đặt ra rất
nhiều vấn đề lý luận lớn lao và gay cấn, đòi hỏi phải được giải quyết. Có thể
nói, chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà thực tiễn đang đặt ra rất nhiều vấn
đề đòi hỏi lý luận luận phải lí giải một cách thấu đáo, có căn cứ khoa học; hơn
nữa lý luận phải mở đường cho thực tiễn phát triển. Chưa bao giờ lý luận lại cần
thiết và có tầm quan trọng lớn lao như hiện nay.
(20).
(21).
(22).
(23).
(24).

Hồ
Hồ

Hồ
Hồ
Hồ

Chí
Chí
Chí
Chí
Chí

Minh,
Minh,
Minh,
Minh,
Minh,

Toàn
Toàn
Toàn
Toàn
Toàn

tập,
tập,
tập,
tập,
tập,

Nxb
Nxb

Nxb
Nxb
Nxb

Chính trị quốc gia, 2000, t.8, tr.496.
Sự thật, Hà Nội, 2002, t.8, tr.496.
Sự thật Hà Nội, 2002, t.5, tr.234.
Sự thật Hà Nội, 2002, t.8, tr.497.
Sự thật Hà Nội, 2002, t.8, tr.499.

HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 13


Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

Lý luận trở thành thiết thân đối với sự nghiệp đổi mới nói riêng, đối với
toàn bộ vận mệnh của chủ nghĩa xã hội nói chung. Giai đoạn hiện nay của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi “Đảng phải nắm vững, vận dụng
sáng tạo và góp phần phát triển lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức của mình để
đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra” (25)
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của lý luận, trong những năm
qua, công tác tư tưởng, lý luận được Đảng ta hết sức chú trọng. Chúng ta coi đổi
mới tư duy lý luận là khâu đột phá, là điều kiện và tiền đề cho những đổi mới
trong hoạt động thực tiễn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đặt
ra vấn đề phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, coi đó là điểm khởi
đầu để đi đến xác định đường lối đổi mới của Đảng. Nhiệm vụ đổi mới tư duy
đòi hỏi chúng ta phải không ngừng bồi dưỡng tư duy lý luận để khắc phục tư

duy giáo điều, tư duy kinh nghiệm, những căn bệnh làm cho chúng ta không
nhận thức được đúng những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ đó đến nay, các Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng và các Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương đều đặt ra nhiều yêu cầu
mới đối với công tác lý luận. Đảng ta đã có hai nghị quyết riêng về công tác tư
tưởng, lý luận: Nghị quyết 01 - NQ/TW ngày 28 tháng 3 năm 1992 của Bộ
Chính trị khóa VII "Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay" và Nghị quyết
16 - NQ/TW ngày 18 tháng 3 năm 2002 của Ban Chấp hành Trung ương khóa
IX (Hội nghị Trung ương 5) "Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý
luận trong tình hìmh mới".
Đánh giá về tình hình tư tưởng, lý luận, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX chỉ ra rằng: từ Đại hội lần thứ VI của
Đảng đến nay, trình độ lý luận của Đảng ta đã có bước phát triển rõ rệt. Đảng đã
không ngừng đổi mới phương pháp tư duy, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mở ra bước chuyển biến quan
trọng trong trong tư duy lý luận. "Tuy nhiên, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 14


Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mới dừng lại ở những nét khái quát chung,
còn không ít vấn đề cụ thể được đặt ra từ thực tiễn cha có lời giải đáp hoặc giải
đáp chưa có sức thuyết phục; nhiều cán bộ, đảng viên nhận thức về chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh còn giản đơn, hiểu biết về chủ nghĩa tư
bản hiện đại chưa sâu sắc, có mặt còn lệch lạc; phương pháp tư duy chưa vươn
tới tầm biện chứng, còn dừng lại ở trình độ cảm tính, ở chủ nghĩa kinh nghiệm
hoặc thực dụng"(26). "Công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong hơn 15 năm

qua đã đạt được thành tựu quan trọng: những kết quả nghiên cứu lý luận gắn với
tổng kết thực tiễn đã cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc xây dựng, bổ
sung và phát triển đường lối đổi mới của Đảng; góp phần tăng cường sự thống
nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội"(27). Tuy vậy, công tác tư tưởng, lý
luận, công tác tổ chức, cán bộ nhìn chung vẫn có nhiều yếu kém, bất cập. "Công
tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cách
mạng"(16), chưa làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới
để phục vụ việc hoạch định chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng, tăng
cường sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong xã hội.
Nguyên nhân của những yếu kém, bất cập nêu trên là do "Đảng ta chưa
đặt đúng mức việc chỉ đạo đổi mới nội dung, phương pháp công tác tư tưởng, lý
luận trong giai đoạn mới. Chưa xây dựng được quy chế bảo đảm dân chủ, phát
huy tự do tư tưởng trong hoạt động lý luận và công tác tư tưởng. Chậm tăng
cường, đổi mới công tác xây dựng đội ngũ làm công tác tư tưởng, lý luận. Cơ sở
vật chất kỹ thuật, điều kiện làm việc ở nhiều cơ quan, đơn vị làm công tác tư
tưởng, lý luận còn nhiều thiếu thốn, lạc hậu"(28).
Vì vậy, Hội nghị chỉ ra rằng, để đẩy nhanh quá trình đổi mới đất nước,
chúng ta cần phải tăng cường công tác lý luận. Công tác lý luận phải theo kịp sự
phát triển và yêu cầu của cách mạng; góp phần khơi dậy mạnh mẽ các nguồn lực
trong xã hội, tận dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 15


Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.

Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ
hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
là nhiệm vụ chủ yếu, thường xuyên của công tác lý luận trong thời kỳ đổi mới.
Qua ba năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX, nhiều vấn đề nóng hổi, quan trọng nảy sinh từ thực
tiễn đã được quan tâm nghiên cứu và đã có những kết luận kịp thời như: phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới và hoàn thiện hệ
thống chính trị; xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới, phát triển văn
hóa, con người và nguồn nhân lực, v.v.. Có những vấn đề được tổ chức nghiên
cứu và thảo luận sổi trong mọi tầng lớp nhân dân như vấn đề đảng viên làm kinh
tế tư bản tư nhân.
Để việc tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận có hiệu quả, cần phải bảo
đảm được các yêu cầu cơ bản sau:
- Tính khách quan. Trong tổng kết thực tiễn và nghiên cứ lý luận đòi phải
có thái độ trung thực, tránh tổng kết thực tiễn theo kiểu "tô hồng" hoặc "bôi
đen"; không được lấy ý đồ sắn có để áp đặt cho việc tổng kết thực tiễn; không
được lấy việc tổng kết thực tiễn để chứng minh cho suy nghĩ chủ quan cá nhân.
- Tính khái quát cao. Khi phân tích, đánh giá, khái quát thục tiễn phải rút
ra được những kết luận có tính quy luật, chỉ ra được các mối liên hệ có tính bản
chất. Đó là những kết luận có tính phổ biến, tính điển hình và phải có giá trị thực
tiễn cao.
- Tính mục đích đúng đắn. Công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý
luận cần phải đạt những yêu cầu như: phát triển lý luận, sớm làm rõ và kết luận
những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn, từng bước cụ thể, bổ sung,
phát triển đường lối, chính sách của Đảng. Nói một cách khác, tổng kết thực tiễn
HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 16



Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

và nghiên cứu lý luận phải hướng tới mục đích xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều
kiện mới.
Trong giai đoạn hiện nay của cách mạng, việc nâng cao vai trò của lý luận
cần tập trung vào mấy nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, lý luận phải thật sự làm cơ sở khoa học cho sự lãnh đạo của
Đảng và quản lý của Nhà nước. Lý luận phải cung cấp được những căn cứ khoa
học đáng tin cậy cho việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách của Nhà nước. Muốn vậy, Đảng và Nhà nước cần coi trọng lý luận, coi
trọng đội ngũ cán bộ lý luận, cán bộ khoa học, biết sử dụng họ vào công tác
nghiên cứu, đề xuất các chủ trương, đường lối, chính sách.
Thứ hai, lý luận phải làm cơ sở khoa học cho việc định hướng xã hội chủ
nghĩa của công cuộc đổi mới đất nước. Đổi mới là tất yếu, nhưng đổi mới không
phải là từ bỏ con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, mà ngược lại phải khẳng
định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội với những bước đi, hình thức, biện pháp
phù hợp. Lý luận cần làm sáng tỏ, giải đáp đúng đắn những vấn đề quan trọng
hiện nay như: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo
đảm tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội; đổi mới và
hoàn thiện hệ thống chính trị; xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới;
kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, v.v..
Thứ ba, lý luận phải dự báo xu hướng vận động của sự nghiệp đổi mới. Sự
nghiệp đổi mới của chúng ta diễn ra trong điều kiện khó khăn, phức tạp, trong
bối cảnh thế giới có nhiều biến động khó lường. Lý luận phải biết dự kiến nhiều
khả năng có thể xảy ra để có những biện pháp tác động, các phương án giải
quyết chủ động, thích hợp nhất.
Thứ tư, lý luận phải định hướng cho hoạt động thực tiễn của cán bộ, đảng

viên. Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, làm "kim chỉ nam" cho hoạt
HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 17


Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

động của cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện hiện nay, nếu không có sự định
hướng đúng đắn của lý luận khoa học thì hoạt động thực tiễn của cán bộ, đảng
viên sẽ trở nên mò mẫm, mất phương hướng.
Để lý luận phát huy vai trò định hướng cho hoạt động thực tiễn của cán
bộ, đảng viên, chúng ta phải thường xuyên bổ sung, phát triển lý luận; kết hợp
nghiên cứu lý luận với tuyên truyền, giáo dục, học tập lý luận; vận dụng lý luận
để giải đáp những vấn đề do thực tiễn đổi mới đặt ra.

(25). Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương Đảng khóa IX, Nhà xuất bản CTQG, H, 2002,
tr.132.
(26). Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương Đảng khóa IX, Nhà xuất bản CTQG, H, 2002,
tr.132.
(27). Sđd, tr.133.

HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 18


Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.
(28). Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương Đảng khóa IX, Nhà xuất bản CTQG, H, 2002,
tr.132.


KẾT LUẬN
Con đường đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay có
những đặc điểm những vấn đề riêng của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh
điểm xuất phát kinh tế của nước ta thấp lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa và không còn các nước xã hội chủ nghĩa đi trước
giúp đỡ do điều kiện chính trị thế giới biến đổi một cách căn bản; phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế đang lâm vào thoái trào tạm thời. Mặc dù vậy,
sau cơn biến động lớn về chính trị trên thế giới, các đảng cộng sản cầm quyền ở
Trung Quốc, Cuba... vẫn tiếp tục lãnh đạo cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội,
song mỗi nước lại có hoàn cảnh rất khác nhau, những bước đi và cách làm khác
nhau. Việc học tập và vận dụng kinh nghiệm tốt, những mô hình hiệu quả trong
công cuộc xây dựng đất nước của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới giúp
chúng ta đỡ mò mẫm, đỡ phạm những sai lầm của người đi trước. Nói cách
khác, những tìm kiếm, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội, con đường và các
giải pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước có thể là kinh nghiệm tham
khảo chứ không thể áp dụng máy móc, rập khuôn.
Trong nguyên tắc lý luận liên hệ với thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
nhấn mạnh rằng “phải có sự kết hợp biện chứng giữa việc chú trọng đặc điểm
riêng của dân tộc với giá trị phổ biến trong kinh nghiệm các nước”. Đồng thời,
việc hình thành những quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội là công việc rất khó khăn. Mô hình xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa chưa có trong thực tiễn lịch sử, càng chưa có khi chúng ta xây dựng một
nước có nền kinh tế chưa phát triển như nước ta. Đây là một vấn đề rất mới mẻ.
Xuất phát từ đặc điểm đó, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đảng ta đã nêu: chúng ta phải tiếp tục nâng
cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc
đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện
HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN


Trang 19


Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng làm một xã hội: do nhân dân lao động làm chủ, có một
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân, các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất
cả các nước trên thế giới. Các đặc trưng nêu trên thể hiện bản chất tốt đẹp của
chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta sẽ xây dựng.
Tóm lại, trước những thách thức của thời kỳ đổi mới và hội nhập, trước
thực trạng trình độ lý luận của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, cần thấm
nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là học lý luận, gắn lý luận với thực
tiễn, học “để làm việc, làm người, làm cán bộ” (9/1949). Bởi vậy, mỗi cán bộ,
đảng viên, mỗi người phải coi trọng và quán triệt nguyên tắc “học đi đôi với
hành, lý luận gắn liền với thực tiễn”. Đồng thời, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động;
và hơn bao giờ hết, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng không chỉ thấm nhuần
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn phải dám nghĩ, dám
làm, để lãnh đạo quần chúng, biến đường lối của Đảng thành kết quả và thành
công trong cuộc sống./.

HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 20



Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS, TS. Lê Văn Yên, “Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trên đường
sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2009.
2. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2009.

3. C.Mác và Ph.Ăngnghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội,
1994, t. 20, tr. 270
4. C.Mác và Ph.Ăngnghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội,
1995, t.3, tr. 9-10.
5. V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxxcơva. 1978, tr 30.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.
234
7. V.I.Lênin: Toàn tập, T 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 1978, t.45, tr 428.
8. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb.
Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.5.
9. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương Đảng khóa IX, Nhà
xuất bản CTQG, H, 2002, tr.132.
10. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương Đảng khóa IX, Nhà
xuất bản CTQG, H, 2002, tr.132.
11. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, X, XI,
Nhà xuất bản CTQG, H, 2001, 2006, 2011.

HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 21



Biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.

MỤC LỤC

HVTH: Lê Đức Thọ - K25.TRI.ĐN

Trang 22



×