i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn tốt nghiệp “Giải pháp quản lý tác động của
người dân địa phương vào tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Nà
Hẩu, Huyện Văn Yên, Tỉnh Yên Bái” là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu khảo sát tình
hình thực tiễn và dưới sự hướng dẫn khoa học của TS.Đỗ Anh Tuân.
Các số liệu, các kết quả trong đề tài là trung thực, các giải pháp đưa ra
xuất phát từ thực tiễn kinh nghiệm, chưa từng được công bố dưới bất cứ hình
thức nào trước khi trình, bảo vệ và công nhận bởi “Hội đồng đánh giá luận văn
tốt nghiệp Thạc sỹ lâm nghiệp”.
Một lần nữa tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam kết trên.
Hà Nội, ngày 12 tháng 12 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Hồng Văn
ii
LỜI CẢM ƠN
Luận văn là kết quả của quá trình nghiên cứu, phân tích, tổng hợp và
đánh giá, kết hợp với kinh nghiệm trong quá trình công tác cụ thể, sự chịu khó
và cố gắng của bản thân.
Kết quả đạt được ngày hôm nay tôi xin chân thành bày tỏ sự biết ơn
đến thầy giáo, cô giáo Trường Đại Học Lâm Nghiệp Việt Nam đã nhiệt tâm
giúp đỡ, chỉ bảo tận tình cho tôi. Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến TS.Đỗ Anh Tuân, người đã chỉ bảo, hướng dẫn, đóng góp ý kiến cho tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu và tất cả bà con
nhân dân đã tạo điều kiện, giúp đõ tôi trong quá trình phỏng vấn, thu thập, xác
minh số liệu, nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Trong quá trình thực hiện, tuy bản thân có nhiều cố gắng, song do thời
gian thực hiện và kinh nghiệm bản thân còn nhiều hạn chế, nên luận văn
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được các ý kiến bổ sung,
đóng góp của các thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp để luận văn được hoàn
thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 12 tháng 12 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Hồng Văn
iii
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC........................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC HÌNH................................................................................ vi
DANH MỤC CÁC BẢNG .............................................................................. vi
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ........................................ 3
1.1. Trên thế giới ........................................................................................... 3
1.2. Ở Việt Nam............................................................................................. 9
Chương 2. MỤC TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..... 17
2.1. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................. 17
2.1.1. Mục tiêu chung............................................................................... 17
2.1.2. Mục tiêu cụ thể............................................................................... 17
2.2. Đối tượng, thời gian, phạm vi nghiên cứu ........................................... 17
2.3. Nội dung nghiên cứu ............................................................................ 17
2.4.Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 18
2.4.1. Quan điểm và phương pháp luận ................................................... 18
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................... 23
Chương 3. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI ........................ 32
3.1.Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên .......................................................... 32
3.1.1.Vị trí địa lý, diện tích và ranh giới .................................................. 32
3.1.2. Địa hình - địa thế............................................................................ 32
3.1.3. Địa chất, thổ nhưỡng ...................................................................... 33
3.1.4. Khí hậu, thủy văn ........................................................................... 34
iv
3.1.5. Hiện trạng rừng và sử dụng đất...................................................... 35
3.1.6. Hệ động vật, thực vật và phân bố của các loài quý hiếm .............. 36
3.1.7. Tài nguyên nước ............................................................................ 41
3.1.8. Tài nguyên nhân văn ...................................................................... 42
3.1.9. Các giá trị cảnh quan, môi trường, bảo tồn và du lịch ................... 42
3.1.10. Đánh giá đặc điể m tự nhiên và tài nguyên rừng .......................... 42
3.2. Khái quát đặc điểm kinh tế, xã hội ....................................................... 44
3.2.1. Dân tộc, dân số, lao động và phân bố dân cư ................................ 44
3.2.2. Tập quán sinh hoạt, sản xuất .......................................................... 45
3.2.3. Thực trạng cơ sở hạ tầng ................................................................ 46
3.3. Tiềm năng du lịch ................................................................................. 48
Chương 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 49
4.1. Tình hình công tác quản lý bảo vệ TNR tại KBTTN Nà Hẩu.............. 49
4.1.1. Đánh giá tình hình chung về bảo tồn ............................................. 49
4.1.2. Đánh giá tình hình phát triển ......................................................... 50
4.1.3.Công tác tổ chức ............................................................................ 53
4.1.4. Đánh giá về quản lý ....................................................................... 53
4.1.5. Đánh giá hiệu quả tổ chức quản lý và thực thi nhiệm vụ .............. 54
4.2. Các hình thức và mức độ tác động của người dân địa phương đến TNR
tại KBTTN Nà Hẩu ..................................................................................... 55
4.2.1. Sử dụng đất rừng để canh tác nương rẫy ....................................... 55
4.2.2. Khai thác gỗ ................................................................................... 59
4.2.3. Khai thác gỗ củi ............................................................................. 64
4.2.4. Khai thác các LSNG khác .............................................................. 66
4.2.5. Chăn thả gia súc trên rừng và đất rừng .......................................... 70
4.3. Nguyên nhân dẫn tới những tác động bất lợi của người dân địa phương
đến TNR tại KBTTN Nà Hẩu. .................................................................... 72
v
4.3.1. Cơ cấu đất canh tác ........................................................................ 72
4.3.2. Cơ cấu thu nhập ............................................................................. 74
4.3.3. Cơ cấu chi phí ................................................................................ 78
4.4.Một số giải pháp góp phần hình thành sinh kế bền vững cho người dân
và giảm thiểu những tác động bất lợi của người dân địa phương đến TNR 82
4.4.1.Nhóm giải pháp chung cho các nhóm hộ gia đình.......................... 82
4.4.2.Nhóm giải pháp cụ thể cho từng nhóm hộ gia đình ........................ 89
KẾT LUẬN,TỒN TẠI,KHUYẾN NGHỊ ....................................................... 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
vi
DANH MỤC CÁC HÌNH
TT
Tên bảng
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) và Vườn quốc gia (VQG) có
vai trò quan trọng trong việc bảo tồn nguồn gen, đa dạng sinh học và mang lại
lợi ích cho con người. Hiện nay các Khu bảo tồn đã và đang gặp rất nhiều khó
khăn từ phía các cộng đồng địa phương, đặc biệt đối với những nước đang
phát triển.
Nguồn tài nguyên này không những có vai trò quan trọng đối với thế
giới nói chung, Việt nam nói riêng, mà còn là nguồn sinh kế chủ yếu của cộng
đồng, đặc biệt đối với những cộng đồng sống trong và gần rừng. Tuy nhiên
việc bảo vệ, quản lý các khu bảo tồn đã và đang gặp không ít những khó khăn
từ phía người dân và cộng đồng địa phương. Khó khăn lớn nhất gặp phải
trong việc quản lý KBT là số dân sinh sống bên trong KBT đã tạo sức ép rất
lớn. Tài nguyên rừng là nguồn sống chủ yếu của người dân sống trong và gần
rừng từ bao đời nay nhưng từ khi thành lập KBTTN thì những thói quen,
phong tục tập quán phát nương làm rẫy, săn bắt động vật, chặt gỗ, lấy củi, thu
lượm các sản phẩm từ rừng đã bị hạn chế và kiểm soát. Với tỷ lệ HGĐ nghèo
lớn, dân trí thấp, họ cho rằng việc thành lập Khu bảo tồn không đem lại lợi
ích gì hoặc rất ít cho họ, mà chỉ bị thiệt thòi vì không được tự do khai thác
nguồn TNR như trước đây. Trong khi đó các sinh kế tạo nguồn thu nhập khác
cho người dân địa phương chưa bù đắp được sự thiếu hụt này. Cho nên đã gây
ra mâu thuẫn giữa Khu bảo tồn với người dân địa phương - những người đang
sống phụ thuộc một phần vào nguồn tài nguyên rừng. Do đó, việc tồn tại
những tác động bất lợi của người dân vào tài nguyên rừng như là một tất yếu
và Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu cũng trong tình trạng chung như thế.
Khu Bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu - huyện Văn Yên-tỉnh Yên Bái được
thành lập theo Quyết định số 512/QĐ – UB ngày 09 tháng 10 năm 2006 của
2
Uỷ ban nhân dân tỉnh Yên Bái với diện tích 16.950 ha [31], trong đó phân khu
bảo vệ nghiêm ngặt 7.250 ha,phân khu phục hồi sinh thái 9.700 ha, khu vực
dịch vụ hành chính 95,5 ha, với nhiệm vụ chủ yếu là: Bảo tồn tài nguyên
thiên nhiên và đa dạng sinh học, quần thể của các loài động thực vật quý
hiếm, các loài đang bị đe doạ và các loài đặc hữu; phục hồi, tái tạo vốn rừng
nhằm nâng cao độ che phủ của rừng.KBTTN Nà Hẩu không những có giá trị
cao về đa dạng sinh học, về sinh thái, môi trường mà còn có ý nghĩa về du
lịch sinh thái, phục vụ tham quan, học tập nghiên cứu. Với thành phần dân tộc
chủ yếu là Mông, Tày và Dao với những tập quán truyền thống như canh tác
nương rẫy, du canh du cư, săn bắn động vật, chặt gỗ, lấy củi, thu lượm các
sản phẩm từ rừng. Đời sống của người dân địa phương phần lớn dựa vào
chính là nguồn tài nguyên rừng.
Từ những thực tế trên cho thấy việc tìm ra các giải pháp,đồng thời bảo
vệ,phát triển TNR và đảm bảo đời sống của người dân sống ở gần và trong
KBT là vấn đề cấp thiết.Chính vì vậy,đề tài “Giải pháp quản lý tác động của
người dân địa phương vào tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Nà
Hẩu, Huyện Văn Yên, Tỉnh Yên Bái” được thực hiện nhằm đề xuất các giải
pháp quản lý bền vững tài nguyên rừng tại KBT xét từ góc độ phân tích các
tác động của người dân địa phương.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
Trong nhiều thập kỷ qua, cộng đồng quốc tế đã có những công trình
nghiên cứu nhằm nỗ lực làm thay đổi chiến lược bảo tồn. Một chiến lược bảo
tồn mới dần được hình thành và khẳng định tính ưu việt, đó là liên kết quản lý
KBT với các hoạt động sinh kế của người dân địa phương, cần thiết có sự
tham gia bình đẳng của các cộng đồng trên cơ sở tôn trọng nền văn hoá trong
quá trình xây dựng các quyết định.
Nhìn chung các Khu bảo tồn (KBT) đều được thiết lập vì mục đích
chung của các Quốc gia, mà ít nghĩ đến các nhu cầu và mong muốn của người dân
địa phương. Phương thức quản lý của nhiều VQG và KBT chủ yếu bao gồm việc
ngăn cấm người dân địa phương xâm nhập vào KBT và khai thác tài nguyên rừng
(TNR). Tại các nước Đông Nam Á, phương thức này tỏ ra không thích hợp vì để
duy trì sự đa dạng sinh học thì người dân địa phương bị mất quyền tiếp cận với
nguồn TNR, trong khi sự phụ thuộc của họ vào TNR là rất lớn.
Theo định nghĩa của IUCN (1994) đã khẳng định bảo tồn đa dạng sinh
học là mục tiêu cơ bản của KBTTN:
“Khu bảo tồn thiên nhiên là một khu vực trên đất liền hoặc trên biển được
khoanh vùng để bảo vệ đa dạng sinh học, các tài nguyên thiên nhiên và văn
hoá đi kèm, được quản lý bằng các công cụ pháp luật hoặc các hình thức
quản lý có hiệu quả khác”.(IUCN 1994 ) [12]
Nguồn gốc của KBTTN “hiện đại” có từ thế kỷ thứ 19. VQG
Yellowstone là VQG đầu tiên trên thế giới, được thành lập tại Mỹ năm 1872.
VQG này nằm trên vùng đất do người Crow và người Shoshone sinh sống
trên cơ sở sử dụng bạo lực ép buộc hai cộng đồng tộc người này phải rời bỏ
4
mảnh đất của họ. Nhiều KBTTN và VQG được thành lập sau đó ở các nước
khác nhau trên thế giới cũng sử dụng phương thức quản lý theo mô hình này,
có nghĩa là ngăn cấm người dân địa phương thâm nhập vào KBTTN và tiếp
cận tài nguyên trong đó. Điều đó dẫn đến những hiệu quả tất yếu là làm nảy
sinh nhiều mâu thuẫn giữa cộng đồng địa phương và KBT và mục đích bảo
tồn tài nguyên đã không đạt được [12]. Hầu hết các KBT đều được thiết lập vì
mục đích Quốc gia, mà ít nghĩ đến các nhu cầu và mong muốn của người dân
địa phương. Dựa trên mô hình của Hoa Kỳ, phương thức quản lý của nhiều
VQG và KBT chủ yếu bao gồm việc ngăn cấm người dân địa phương xâm
nhập vào KBT và khai thác TNR. Tại các nước Đông Nam Á phương thức
này tỏ ra không thích hợp vì để duy trì sự đa dạng sinh học thì người dân địa
phương bị mất quyền tiếp cận với nguồn TNR, trong khi sự phụ thuộc của họ vào
TNR là rất lớn [10].
Ở Nepal, đã có một số mô hình thành công về chương trình bảo tồn đa
dạng sinh học (ĐDSH) theo hướng toàn cầu. Tuy nhiên, do sự ảnh hưởng của
cuộc xung đột vũ trang trong gần một thập kỷ đã tác động xấu đến các hoạt
động bảo tồn và động vật hoang dã. Chính vì vậy, một số nghiên cứu về đánh
giá tác động của những hoạt động này đến bảo tồn đa dạng sinh học tại VQG
Bardia và vùng đệm phía tây Nepal đã được thực hiện. Nghiên cứu đã khẳng
định, 73% người dân địa phương sống trong khu vực phụ thuộc vào nông
nghiệp, nguồn chất đốt và thức ăn [39].
Ở Ấn Độ, nơi ước tính có 275 triệu người dân địa phương ở các vùng
nông thôn phụ thuộc vào rừng (ít nhất là một phần sinh kế của họ). Theo
Gadgil và VP.Vartok năm 1976 trong tác phẩm: “Những lùm cây thiêng miền
Tây dãy Ghats ở Ấn Độ” cho rằng: Người dân địa phương ở Ấn Độ đã bảo vệ
được các đám rừng từ dưới 0,5 ha đến 10 ha dưới dạng lùm cây thiêng để thờ
các vị thần của lùm cây. Việc thờ cúng tại những lùm cây thiêng đó được hình
5
thành từ các xã hội chuyên về săn bắn và hái lượm. Việc lấy ra bất cứ sản
phẩm nào đều bị cấm kỵ. Với nạn phá rừng ngày càng tăng, những lùm cây đó
đã trở thành những di sản còn lại của rừng tự nhiên và do đó đã trở nên quan
trọng trong việc thu lượm một số sản phẩm như: Cây thuốc, lá rụng, gỗ
khô…Việc khai thác gỗ đã bị cấm nhưng đôi khi vẫn xảy ra tình trạng khai
thác gỗ trộm (FAO, 1996). Một nghiên cứu về lâm nghiệp cộng đồng bên
ngoài khu rừng đặc dụng đã chỉ ra rằng các khu rừng không chỉ cung cấp tiềm
năng to lớn để xoá đói giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế nông thôn ở Ấn Độ
mà vẫn hỗ trợ tốt mục tiêu quan trọng là bảo tồn [40].
Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển đã trở
thành vấn đề nổi lên trong các cuộc hội thảo, diễn đàn khoa học trong những
năm gần đây. Vào tháng 6 năm 1992, tại Hội nghị Liên hiệp quốc về Môi
trường và Phát triển bền vững ở Rio De Janeiro, vấn đề này đã chính thức được
công nhận [25, tr6].
Các mô hình ở Đông Nam Á đã chỉ ra rằng: Nỗ lực của các cơ quan
Chính phủ nhằm đưa dân chúng ra khỏi các KBT đã không mang lại kết quả
như mong muốn trên cả phương diện quản lý TNR và kinh tế xã hội (KTXH). Việc đưa người dân vốn quen sống trên địa bàn của họ đến một nơi mới
chẳng khác nào "bắt cá khỏi nước" và khi đó lực lượng khác có thể xâm lấn
và khai thác TNR mà không có người bảo vệ. Người dân địa phương có nhiều
kiến thức cổ truyền về việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và các thể chế
cộng đồng đã tỏ ra có hiệu quả trong việc quản lý các nguồn tài nguyên này
[30].
Trước những bất cập trong công tác bảo tồn ở các VQG, KBT trên thế
giới, từ những năm đầu của thập kỷ 80 nhiều dự án nghiên cứu, hội thảo quốc
tế với sự đóng góp của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu về bảo tồn đã đề
xuất những thay đổi trong chiến lược bảo tồn. Một chiến lược bảo tồn mới
6
dần được hình thành và khẳng định tính ưu việt, đó là liên kết quản lý
KBTTN và VQG với các hoạt động sinh kế của người dân địa phương, cần
thiết có sự tham gia bình đẳng của các cộng đồng trên cơ sở tôn trọng nền văn
hoá trong quá trình xây dựng các quyết định.
Nhiều kết quả nghiên cứu trên thế giới và kinh nghiệm thực tiễn của
các KBT và VQG khẳng định rằng để quản lý thành công cần dựa trên mô
hình quản lý gắn bảo tồn đa dạng sinh học với bảo tồn văn hoá của người dân
địa phương. Ở VQG Kakadu (Australia), những người thổ dân chẳng những
được chung sống với VQG một cách hợp pháp mà họ còn được thừa nhận là
chủ hợp pháp của VQG và được tham gia quản lý VQG thông qua các đại
diện của họ trong ban quản lý. Tại VQG Wasur (Indonesia) vẫn tồn tại 13
làng bản với cuộc sống gắn với săn bắn cổ truyền [35].
Ở Thái Lan, một thử nghiệm của Dự án “Quản lý rừng bền vững thông
qua sự cộng tác” thực hiện tại Khu bảo tồn động vật hoang dã Phu Kheio, tỉnh
Chaiyaphum ở Đông Bắc Thái Lan. Kết quả chỉ ra rằng, điều căn bản để quản
lý bền vững tài nguyên là phải thu hút sự tham gia của các bên liên quan và
đặc biệt là phải bao gồm cả phát triển cộng đồng địa phương bằng các hoạt
động làm tăng thu nhập của họ [25]. Hệ thống quản lý khu bảo vệ trước đây
đã nhấn mạnh các quyền sở hữu và kiểm soát rừng của Nhà nước mà không
chú ý tới ảnh hưởng giữa con người và các nguồn tài nguyên, đã dẫn tới
những thất bại vì tỉ lệ phá rừng hàng năm vẫn ở mức cao 2,6%. Một nghiên
cứu tại vùng đệm của KBT động vật hoang dã Phu Kheio, Đông Bắc Thái Lan
đã giới thiệu một cách tiếp cận mới để quản lý chúng trên cơ sở thu hút sự
tham gia của người dân địa phương trong tiến trình. Kết quả thảo luận ở đây
cũng đã khẳng định rằng, có một cơ hội để tạo ra một sự hiểu biết tốt hơn giữa
người dân nông thôn về tầm quan trọng của trồng rừng và bảo tồn thiên nhiên
sẽ dẫn đến một cách quản lý tốt hơn các nguồn tài nguyên trong tương lai
7
[30]. Bink Man W. (1988) trong nghiên cứu của mình thực hiện tại làng Ban
Pong, tỉnh S. Risaket, Thái Lan chỉ ra rằng các tầng lớp nghèo phải phụ thuộc
vào rừng để chăn thả gia súc và thu hái tài nguyên lâm sản như: củi đun và
hoa quả trong rừng. Tuy nhiên đây là một minh hoạ rất cần thiết của người
dân địa phương tham gia vào việc lập kế hoạch và thiết kế các dự án phát
triển (FAO, 1996).Theo Poffenberger, M. và McGean, B( 1993) trong báo
cáo: “Liên minh cộng đồng: đồng quản lý rừng ở Thái Lan” đã có nghiên cứu
điểm tại VQG Dang Yai nằm ở đông bắc và khu phòng hộ Nam Sa ở phía bắc
Thái Lan. Tại Dang Yai người dân đã chứng minh được khả năng của họ
trong việc tự tổ chức các hoạt động bảo tồn đồng thời phối hợp với cục lâm
nghiệp Hoàng gia xây dựng hệ thống quản lý rừng đảm bảo ổn định về môi
trường sinh thái đồng thời phục vụ lợi ích của người dân trong khu vực. Tại
Nam Sa cộng đồng người dân cũng rất thành công trong công tác quản lý
rừng phòng hộ. Họ khẳng định nếu chính phủ có chính sách khuyến khích và
chuyển giao quyền lực cho họ thì chắc chắn họ sẽ thành công trong việc kiểm
soát tài nguyên rừng.
Ở Philippines, chiến lược Quốc gia về bảo tồn ĐDSH nêu rõ rằng:
"Điều chủ chốt dẫn đến thắng lợi cho bảo tồn ĐDSH là phải bảo đảm rằng các
cộng đồng địa phương, những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi mọi quyết
định về chính sách liên quan đến môi trường, sẽ tham gia vào quá trình lập kế
hoạch và quản lý đối với bảo tồn ĐDSH" (Denr và TCSD, 1994) [30].
Ở Indonesia, kế hoạch hành động ĐDSH ghi nhận rằng "Việc tăng
cường sự tham gia của công chúng, đặc biệt là cộng đồng sinh sống bên trong
và phụ thuộc vào các vùng có tính đa dạng sinh học cao, là mục tiêu chính của
kế hoạch hành động và là điều kiện tiên quyết đối với việc thực hiện kế hoạch
(Bappenas, 1993) [30].
8
Về chính sách lâm nghiệp, Sheppherd G(1986) cho rằng đối với cộng
đồng dân cư sống trong và gần các KBTTN, một giải pháp đề nghị là cho
phép người dân địa phương củng cố quyền lợi của họ theo cách hiểu của các
hệ quản lý nông nghiệp hiện đại, bằng cách trồng cây, cho và nhận đất, nhà
nước cần xác định rõ các quyền lợi chính trị của dân trên mảnh đất mà họ
nhận với mục đích tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập và giảm tác động
đến tài nguyên rừng [21].
Dilmour D.A. (1999) lại cho rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tính
kém hiệu quả của các chương trình, dự án quản lý tài nguyên thiên nhiên là
chưa giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa các cá nhân trong cộng đồng,
giữa lợi ích cộng đồng địa phương với lợi ích quốc gia. Do đó chưa phát huy
được năng lực nội sinh của các cộng đồng cho quản lý tài nguyên. Vì vậy,
quản lý tài nguyên cần phát triển theo hướng kết hợp giữa hoạt động bảo tồn
và phát triển tài nguyên với hoạt động sản xuất để cải thiện chất lượng cuộc
sống người dân, thống nhất lợi ích của người dân với lợi ích quốc gia trong
hoạt động bảo tồn và phát triển tài nguyên rừng [21].
Theo Nick Salafky và các đồng sự (trong Biodiversity Support Program
Washington, DC, USA, 2000) cho rằng vào những năm 90 của thế kỷ trước,
các nhà bảo tồn bắt đầu phát triển một cách tiếp cận mới nhằm đáp ứng nhu
cầu về lợi ích kinh tế và bảo tồn. Những cách tiếp cận này dựa vào việc thực
hiện các hoạt động sinh kế độc lập và có mối liên hệ trực tiếp với bảo tồn.
Đặc điểm cơ bản của chiến lược này là mối liên hệ giữa ĐDSH và con người
xung quanh. Các chủ thể địa phương có cơ hội hưởng lợi ích trực tiếp từ
ĐDSH và như vậy sẽ có thể hạn chế được các tác nhân gây hại từ bên ngoài
đối với ĐDSH. Sinh kế sẽ giúp cho bảo tồn ĐDSH chứ không phải cạnh tranh
với nhau. Hơn nữa chiến lược này công nhận vai trò của người dân địa
phương trong bảo tồn ĐDSH. Cũng trong chiến lược này, các nhà bảo tồn có
9
thể giúp cho người dân địa phương khai thác sử dụng LSNG hoặc phát triển
du lịch sinh thái [21].
Tổ chức bảo tồn động thực vật hoang dã quốc tế (WWF) 2001 đã đưa ra
một thông điệp chung rất đơn giản: “Hoạt động bảo tồn phải đề cập đến vấn đề
xóa đói giảm nghèo như là một phần quan trọng của chính sách bảo tồn tài
nguyên rừng”
1.2. Ở Việt Nam
So với nhiều nước trên thế giới và khu vực thì lịch sử thành lập các khu
rừng đặc dụng ở Việt Nam tương đối sớm. Tháng 7/1962, Quyết định số
72/TTg của thủ tướng chính phủ thành lập khu rừng cấm Cúc Phương rộng
22.000 ha, sau này trở thành VQG đầu tiên của nước ta. Bên cạnh đó, Chính
phủ còn ra các quyết định thành lập các khu rừng đặc dụng khác. Từ đó đến
nay, Việt Nam đã có 164 khu rừng đặc dụng được thành lập(có 30 Vườn quốc
gia và 134 Khu bảo tồn thiên nhiên) với diện tích 2.265.753,88 ha. Trong đó
diện tích có rừng 1.941.452,85 ha; diện tích chưa có rừng 257.291,03 ha; diện
tích mặt nước biển 67.010,00 ha. [17].
Trước hết để công tác bảo tồn đạt hiệu quả thì các quy định phải được
thể chế hóa. Trong đó bao gồm luật và các văn bản dưới luật. Đó là các điều
khoản được ghi trong Luật bảo vệ và phát triển rừng ban hành ngày
12/08/1991, Luật bảo vệ và phát triển rừng sửa đổi ban hành ngày
03/12/2004;Nghị định số 117/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ
quy định về tổ chức và quản lý hệ thống rừng đặc dụng; Quyết định số
08/2001/QĐ - TTg ban hành ngày 11/01/2001 đã đề cập đến việc Ban quản lý
các khu bảo vệ được xây dựng các quy định về phạm vi sử dụng rừng đối với
người dân địa phương sinh sống trong các KBT; Thông tư số 78/2011/TTBNNPTNT ngày 11/11/2011 của Bộ NN và PTNT về hướng dẫn việc thi
hành Nghị định số 117/2010/NĐ-CP. Gần đây nhất, Thủ tướng chính phủ có
10
Quyết định số 186/2006/QĐ - TTg ban hành ngày 14/08/2006 (Quyết định số
34/2011/QĐ-TTg ngày 24/6/2011 sửa đổi bổ sung một số điều của Quyết định
số 186/2006/QĐ - TTg ban hành ngày 14/08/2006) về quy chế quản lý rừng,
thay thế Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg; Quyết định số 24/2012/QĐ-TTg
ngày 01/6/2012 của Thủ tướng chính phủ về chính sách đầu tư phát triển rừng
đặc dụng giai đoạn 2011-2020. Trong đó, quản lý rừng đặc dụng được quy định
rất cụ thể.
Trong nhiều năm qua, đã có rất nhiều nhà khoa học quan tâm tới việc
nâng cao hiệu quả của các KBTTN và VQG theo quan điểm bảo tồn - phát
triển. Đó là việc dung hoà mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và
phát triển kinh tế - xã hội của người dân địa phương.
Theo Donovan D., Rambo A.T, Fox J., Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên
(1997), đã đề cập đến các sản phẩm từ rừng và sức ép của người dân địa
phương vào rừng. Tác giả đã chỉ ra rằng: Diện tích rừng già ở miền núi phía
Bắc Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng do việc khai thác gỗ, củi và các lâm
sản khác như: tre nứa, nấm, cây dược liệu, động vật hoang dã và được xem
như là nguồn sinh kế chủ yếu của người dân miền núi [10].
Đánh giá hiệu quả của công tác bảo vệ các KBT ở Việt Nam, Nguyễn
Bá Thụ (1997) đã nhận định: Công tác này phụ thuộc rất nhiều vào việc giải
quyết những vấn đề tồn tại trên vùng đệm gồm nâng cao đời sống của nhân
dân vùng đệm, chuyển đổi hoặc thay thế tập quán dùng củi, gỗ bừa bãi lãng
phí của người dân sống trên vùng đệm; nâng cao trình độ kỹ thuật canh tác
nông lâm nghiệp, đẩy mạnh thâm canh, nâng cao năng suất cây trồng, nhanh
chóng từ bỏ lối canh tác du canh, quảng canh, nâng cao trình độ hiểu biết về
bảo tồn, sử dụng hợp lý và bền vững tài nguyên cho người dân địa phương
[21].
11
D.A. Gilmour và Nguyễn Văn Sản (1999), đã thực hiện một nghiên cứu
về quản lý vùng đệm tại 3 VQG: Ba Vì, Bạch Mã và Cát Tiên. Kết quả nghiên
cứu đã phản ánh khá rõ nét thực trạng vùng đệm ở Việt nam như: Tình hình
KT-XH, tình trạng bảo tồn tại các VQG và vùng đệm; hoạt động phát triển
trong các vùng đệm; tổ chức, thể chế cho quản lý vùng đệm [9].
Về quan hệ đồng tác trên cơ sở cộng đồng trong vùng đệm các
KBTTN, Lê Quý An (2001) đã khẳng định quản lý và phát triển vùng đệm
trên cơ sở cộng đồng là phát huy lợi thế của cộng đồng, hạn chế tác động tiêu
cực trong các hoạt động bảo tồn. Cộng đồng còn có thể phát huy những mặt
hay của phong tục, tập quán trong mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng
đồng, trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên để xây dựng nề nếp
của cuộc sống lành mạnh về mặt môi trường, góp sức cho việc bảo tồn [1].
Năm 2001, Đỗ Anh Tuân thực hiện một nghiên cứu điểm tại KBTTN
Pù Mát cho đề tài ảnh hưởng của bảo tồn tới sinh kế của các CĐĐP và thái
độ của họ về các chính sách bảo tồn. Tác giả chủ yếu đánh giá sự thay đổi
sinh kế của người dân địa phương do sự ảnh hưởng của KBT và mức độ chấp
nhận của cộng đồng thông qua việc phân tích mối quan hệ giữa cộng đồng và
tài nguyên. Nghiên cứu cho rằng hầu hết người dân địa phương vẫn còn sử
dụng TNR một cách bất hợp pháp. Tại thời điểm nghiên cứu, trung bình, 34%
tổng thu nhập hàng năm của một hộ gia đình trong vùng đệm và 62% tổng thu
nhập của một hộ gia đình (HGĐ) trong vùng bảo vệ nghiêm ngặt là từ rừng.
Việc thành lập KBTTN (năm 1997) đã làm giảm 30% - 71,4% diện tích đất và
khoảng 50% thu nhập từ rừng của người dân địa phương. Mặc dù đã có một
vài chương trình hỗ trợ được thực hiện tại KBTTN, nhưng chúng chưa bù lại
được những mất mát do thành lập KBTTN [26].
Nguyễn Bá Ngãi và cộng sự (2002) dưới sự hỗ trợ của chương trình hỗ
trợ lâm nghiệp xã hội, trung tâm đào tạo Lâm nghiệp xã hội đã thực hiện một
12
nghiên cứu về khả năng thu hút các cộng đồng địa phương vào quản lý và sử
dụng đất lâm nghiệp tại khu phục hồi sinh thái (PHST). Các tác giả cho rằng
hệ thống chính sách hiện nay là đầy đủ để có thể thu hút CĐĐP vào quản lý,
sử dụng các khu rừng đặc dụng, không thể loại trừ cộng đồng ra khỏi quyền
hưởng lợi từ VQG và đề xuất mô hình quản lý đất đai trong khu PHST của
VQG Ba Vì [15].
Nguyễn Thị Phương (2003) khi “Nghiên cứu tác động của cộng đồng
địa phương vùng đệm đến tài nguyên rừng VQG Ba Vì- Hà Tây” đã vận dụng
phần mềm SPSS trong việc tổng hợp và xử lý số liệu về hình thức tác động và
các nguyên nhân tác động và chỉ ra rằng: Cộng đồng ở đây sống chủ yếu bằng
nghề nông nhưng diện tích đất nông nghiệp rất ít và năng suất lúa thấp. Vì
vậy, để giải quyết nhu cầu cuộc sống hàng ngày họ tác động tới tài nguyên
rừng dưới nhiều hình thức như: sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hoá, khai
thác sản phẩm với mục đích tiêu dùng, chăn thả gia súc….trong đó hình thức
sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hoá cho tỷ trọng thu nhập cao nhất trong
cơ cấu thu nhập của cộng đồng (36,4%). Tuy nhiên, đề tài chưa đánh giá được
mức độ tác động tới tài nguyên rừng của các dân tộc, các nhóm hộ khác nhau
[16].
Hoàng Quốc Xạ (2005) đã có sự kết hợp tốt giữa phân tích định tính và
định lượng trong việc xác định các hình thức tác động và nguyên nhân tác
động khi nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương đến TNR tại vùng
đệm VQG Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ. Các giải pháp được tác giả đưa ra tuy bao
hàm nhiều lĩnh vực song chưa dựa trên các yếu tố đã được phân tích cụ thể tại
khu vực nghiên cứu và chưa thể hiện được tính khả thi của các giải pháp đưa
ra [37].
Ngô Ngọc Tuyên (2007) đã lượng hoá tốt và thể hiện sinh động ảnh
hưởng của các yếu tố sản xuất đển tổng thu nhập của hộ gia đình cũng như
13
mối quan hệ giữa tổng thu nhập với các nhân tố trong khai thác TNR thông
qua việc thực hiện nghiên cứu tác động của người dân địa phương đến TNR
tại KBTTN Na Hang, Tuyên Quang. Tác giả đã lựa chọn 4 dân tộc chính
trong khu vực, mỗi dân tộc 30 HGĐ để phỏng vấn, nhưng chưa chỉ ra cho
người đọc cách thức và nguyên tắc chọn mẫu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng,
để giải quyết nhu cầu cuộc sống hàng ngày người dân đã tác động tới TNR
dưới nhiều hình thức song “sử dụng tài nguyên rừng” là hình thức có tác
động bất lợi nhất, các dân tộc khác nhau thì mức độ tác động cũng khác nhau.
Nghiên cứu đã sử dụng hàm Cobb-Douglas để phân tích ảnh hưởng của các
yếu tố đến thu nhập của HGĐ, tuy nhiên phân tích mới dừng lại ở 3 yếu tố
nguồn lực mà chưa phân tích đến các yếu tố hiệu quả [25].
Khuất Thị Lan Anh (2009) khi: “Nghiên cứu tác động của cộng đồng
địa phương đến tài nguyên rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ - tỉnh
Bắc Kan” đã nghiên cứu các yếu tố kinh tế và xã hội chi phối các hình thức và
mức độ tác động bất lợi của người dân địa phương tới tài nguyên rừng. Đề tài
đã phần nào lượng hóa được mức độ tác động của người dân tới KBT như: Sử
dụng tài nguyên rừng, khai thác các sản phẩm rừng, sử dụng đất rừng để chăn
thả gia súc, tác động đến TNR do các nguyên nhân rủi ro, các hoạt động khai
thác vàng…Tuy nhiên đề tài chưa đi sâu nghiên cứu các tác động tích cực của
người dân. Thêm vào đó, các giải pháp đưa ra còn chung chung, chỉ mang
tính chất định hướng, chưa đi sâu vào các giải pháp mang tính khả thi đối với
địa phương [2].
Trần Ngọc Thể (2009) khi: “Nghiên cứu tác động của người dân địa
phương tới tài nguyên rừng tại VQG Ba Bể - tỉnh Bắc Kạn” đã đưa ra 1 hệ
thống cơ sở lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu tác động của người dân tới
các KBT. Ngoài ra đề tài còn lượng hóa được mức độ tác động của người dân
tới tài nguyên rừng ở VQG Ba Bể bằng cách phân tích các yếu tố sản xuất ảnh
14
hưởng tới tổng thu nhập của các HGĐ thông qua hàm Cobb-Douglas (hàm
sản xuất có độ co giãn không đổi). Nghiên cứu đã đưa 7 biến sản xuất (diện
tích đất, số lao động chính, phân bón, đầu tư bằng công, khai thác gỗ, chăn
thả gia súc, số khẩu), 11 biến hiệu quả (Học vấn chủ hộ, độ cao, loại kinh tế
hộ, mức độ gần rừng, dân tộc DT1T, dân tộc DT2T, mức độ thuận tiện giao
thông, khả năng tiếp cận thị trường, tỷ lệ LĐC/số khẩu, số lần đốt nương rẫy,
sử dụng giống) vào mô hình để phân tích, kết quả cho 4 biến sản xuất và 6
biến hiệu quả tồn tại trong mô hình. Kết quả cho thấy: Tồn tại mối quan hệ rất
chặt giữa tổng thu nhập từ rừng với 4 yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất và
6 yếu tố hiệu quả với hệ số xác định R2 =0.93( F=14.601, Sig.F=0.000); và
93% biến động của thu nhập được giải thích bởi các yếu tố này. Tuy nhiên, đề
tài chỉ tập trung phân tích các tác động bất lợi của người dân địa phương tới
tài nguyên rừng( TNR) của VQG Ba Bể mà chưa quan tâm tới những tác
động tích cực của người dân, trong khi đó sự tham gia của người dân theo
hướng tích cực là phần không thể thiếu đối với công tác bảo tồn ở bất kỳ
VQG nào [29].
Đỗ Thị Hường (2010) khi: “Nghiên cứu các tác động của người dân địa
phương đến tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Thượng Tiến –
huyện Kim Bôi - tỉnh Hòa Bình” đã đánh giá được tình hình hiện trạng công
tác quản lý bảo vệ TNR, phân tích kinh tế HGĐ, nghiên cứu các hình thức và
mức độ tác động của người dân đến TNR và tổng thu nhập của các HGĐ ở
khu vực nghiên cứu. Đã phân tích sự phụ thuộc, các nguyên nhân dẫn đến sự
tác động bất lợi của người dân đến TNR. Đề tài đã đề xuất được một số giải
pháp tác động tích cực và hạn chế các tác động bất lợi của cộng đồng người
dân tới TNR của KBT, các giải pháp có cơ sở khoa học và thực tiễn có thể
làm tài liệu tham khảo tốt [11].
15
Trong hội thảo Đồng quản lý rừng đặc dụng Việt Nam 24/5/2013. Tại
Hà Nội, Việt Nam. Tổ chức FFI Việt Nam ( Tổ chức động vật hoang dã thế
giới) và FanNuTure (Trung tâm con người và thiên nhiên) đã xây dựng,
nghiên cứu thí điểm dự án thực hiện đồng quản lý tại 3 khu bảo tồn ở vùng
núi phía bắc là : Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Chế Tạo, Khu bảo tồn loài và
sinh cảnh Voọc mũi hếch Hà Giang ; Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn –
Ngổ Luông Mục tiêu nhằm hài hòa giữa nhiệm vụ bảo vệ rừng đặc dụng và
nhu cầu sinh kế của người dân địa phương cũng như nâng cao hiệu quả quản
lý các khu bảo tồn. Các thành viên tham dự đều đi đến thống nhất Mô hình
đồng quản lý rừng đặc dụng có sự tham gia của người dân là hướng đi mới và
phù hợp với tình hình quản lý bảo vệ rừng hiện nay [38].
KBT thiên nhiên Nà Hẩu từ khi thành lập đến nay chưa có một nghiên
cứu nào về tác động của người dân tới TNR của khu bảo tồn. Một số nghiên
cứu mới điều tra, giám sát các loài chỉ đề cập đến giải pháp bảo tồn đa dạng
sinh học.Vì vậy việc tiến hành thực hiện nghiên cứu này làm cơ sở cho quản
lý bền vững tài nguyên rừng ở KBT.
* Một số kết luận phục vụ cho nghiên cứu
Mối quan hệ giữa người dân với công tác bảo tồn ở các KBT và VQG
đã và đang được nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau. Qua một số
nghiên cứu, đã xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn khá đầy đủ cũng như đã
lượng hóa được hình thức và mức độ tác động của người dân địa phương tới
tài nguyên rừng của các khu rừng đặc dụng. Ở một số nghiên cứu khác lại tập
trung vào phân tích mức độ phụ thuộc của người dân vào TNR. Tuy nhiên,
cách tiếp cận của các nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở khía cạnh phân tích các
tác động bất lợi mà chưa đề cập tới các tác động tích cực từ phía người dân
trong công tác bảo tồn.
16
Tính đến thời điểm này, vấn đề về biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học
đang là những mối quan tâm lớn của mọi quốc gia, vì vậy diện tích rừng và
chất lượng rừng cần được bảo vệ và nâng cao. Số lượng khu rừng đặc dụng
của nước ta ngày càng tăng lên, trong khi đó mỗi khu rừng đặc dụng lại có
đặc trưng về quy mô, sinh thái, phân bố dân cư, tình hình kinh tế, xã hội,
phong tục tập quán khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa
cộng đồng người dân với các khu rừng đặc dụng nhằm đề xuất các giải pháp
thu hút người dân tham gia công tác bảo tồn ở mỗi KBT, VQG trên phạm vi
cả nước là việc cần thiết. Hiện nay hầu hết các giải pháp đưa ra trong những
nghiên cứu dạng này còn chung chung, tuy gần đây nhất (năm 2010) có một
nghiên cứu đã đưa ra được các giải pháp có cơ sở khoa học và thực tiễn có thể
tham khảo tốt nhưng chỉ ở một địa điểm, điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội cụ
thể. Vì vậy, những nghiên cứu về vấn đề này cần tiếp tục được nghiên cứu và
qua thời gian đúc rút sẽ hoàn thiện dần.
17
Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu chung
Góp phần xây dựng cơ sở lý luận đưa ra giải pháp quản lý tác động
của người dân địa phương vào tài nguyên rừng tại khu bảo tồn Nà Hẩu,
Huyện Văn Yên,Tỉnh Yên Bái.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định được hình thức và mức độ tác động vào tài nguyên của cộng
đồng địa phương vào tài nguyên rừng tại khu bảo tồn.
- Xác định được các nguyên nhân chính dẫn đến tác động tích cực và
bất lợi tới tài nguyên rừng.
- Đề xuất các giải pháp giảm thiểu tác động bất lợi của người dân vào tài
nguyên rừng.
2.2. Đối tượng, thời gian, phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng: Các hộ gia đình dân tộc H’Mông, Dao,Tày sống trong khu bảo
tồn.
+ Phạm vi nghiên cứu: Thực hiện nghiên cứu tại xã vùng đệm Mỏ Vàng, Đại
Sơn và vùng lõi là xã Nà Hẩu.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Phân tích và đánh giá thực trạng tác động của các hộ gia đình vào tài
nguyên rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu, tỉnh Yên Bái .
- Phân tích các nguyên nhân dẫn đến những tác động tới tài nguyên rừng.
- Phân tích ảnh hưởng và các nhân tố do công đồng người dân ảnh hưởng
tới tài nguyên rừng.
- Đề xuất các giải pháp giảm thiểu tác động bất lợi của người dân vào tài
nguyên rừng tại khu bảo tồn.
18
2.4.Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Quan điểm và phương pháp luận
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên: (1) Lý luận về lý thuyết hệ thống; (2)
Quan điểm sinh thái - nhân văn; (3) Quan điểm bảo tồn - phát triển và (4)
Tiếp cận có sự tham gia.
Một là, vận dụng lý luận về lý thuyết hệ thống: Hệ thống được hiểu là
một cấu trúc hoàn chỉnh của tự nhiên, nó bao gồm nhiều bộ phận chức năng
liên kết với nhau một cách có tổ chức và trật tự, tồn tại và vận động theo
những quy luật thống nhất. Một hệ thống luôn bao gồm những hệ thống
thành phần (nhỏ hơn) hay còn gọi là hệ thống phụ. Mọi sự vật, hiện tượng
đều nằm trong hệ thống và mỗi hệ thống lại nằm trong hệ thống lớn hơn.
Sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt động trong hệ
thống kinh tế xã hội và tác động tới hệ thống tự nhiên.
Sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt động trong
hệ thống kinh tế, bởi vì mức độ tác động của người dân địa phương gắn liền
với các hoạt động kinh tế của con người như sử dụng đất rừng canh tác,
khai thác lâm sản, chăn thả gia súc… Sự tác động này cũng phụ thuộc vào
sinh kế, mức sống, nhu cầu thị trường, khả năng đầu tư, lợi nhuận trước mắt
và hiệu quả kinh tế thường quyết định tới hình thức sử dụng TNR của
người dân địa phương.Ngược lại, mức độ giàu có và đa dạng của TNR cũng
tác động mạnh mẽ tới nguồn thu của người dân địa phương. Chính vì mối
quan hệ chặt chẽ giữa những tác động của người dân địa phương đến TNR
với các yếu tố kinh tế nên có thể làm giảm thiểu tác động bất lợi tới TNR
bằng cách tác động vào những yếu tố kinh tế. Đây là lý do đề tài hướng vào
tìm hiểu các nguyên nhân kinh tế có liên quan tới những tác động bất lợi
của người dân địa phương vào TNR và nghiên cứu đề xuất giải pháp kinh
tếđể giảm thiểu sự tác động bất lợi này.
19
Sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt động xã hội
vì các hoạt động này là của con người. Sự tác động này bị chi phối bởi
nhiều yếu tố xã hội như nhận thức của người dân về tầm quan trọng của
TNR, ý thức về luật pháp, trách nhiệm của cộng đồng, những thói quen
trong sử dụng TNR… Sự tác động của người dân địa phương đến TNR còn
phụ thuộc vào những vấn đề về thể chế và chính sách như chính sách đối
với người dân trong KBT, KBTTN, hệ thống quản lý TNR, việc thực thi
luật BVPTR. Các tổ chức cộng đồng và những quy định của cộng đồng
cũng có ảnh hưởng tới những tác động của người dân địa phương vào TNR.
Sự hiện diện của chúng sẽ hỗ trợ Nhà nước trong việc tuyên truyền các
chính sách, gắn kết người dân thành cộng đồng thống nhất trong việc thực
thi quản lý bảo vệ TNR. Những tác động của người dân địa phương đến
TNR liên quan chặt chẽ với các yếu tố xã hội, vì vậy đề tài tiến hành nghiên
cứu các nguyên nhân xã hội chi phối sự tác động của người dân địa phương
đến TNR và nghiên cứu đề xuất giải pháp xã hội nhằm làm giảm thiểu
những tác động bất lợi này.
TNR là một hệ thống tự nhiên, trong đó các thành phần có mối quan
hệ tương tác chặt chẽ. Bất kỳ một tác động nào từ bên ngoài tới TNR cũng
dẫn đến sự thay đổi các thành phần và chức năng của hệ thống. TNR vốn
tồn tại khách quan và vận động theo những quy luật tự nhiên. Vì vậy, để
bảo tồn TNR, những tác động của con người phải phù hợp với quy luật tự
nhiên và giảm thiểu những tác động bất lợi tới nó.
Hai là, quan điểm sinh thái - nhân văn: Thực tế cho thấy, các hoạt
động kinh tế xã hội trong cộng đồng hay trong mỗi HGĐ đều rất đa dạng và
phong phú. Nó phản ánh đặc điểm sinh thái và mối quan hệ KT-XH. Điều
này chỉ ra rằng, các hoạt động trong cộng đồng chịu sự chi phối của nhiều
yếu tố và có một yếu tố nào đó giữ vai trò quan trọng trong cộng đồng này
vào thời điểm này nhưng lại không phải quan trọng trong thời điểm khác