Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Nghiên cứu tác động của chính sách dồn điền đổi thửa đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện chương mỹ, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 133 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN PHÚC YÊN

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH DỒN ĐIỀN ĐỔI THỬA
ĐẾN HIỆU QUẢ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Hà Nội, 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN PHÚC YÊN

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH DỒN ĐIỀN ĐỔI THỬA
ĐẾN HIỆU QUẢ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60.62.10.15



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN VĂN TUẤN

Hà Nội, 2013



1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không thể thay thế trong
sản xuất nông nghiệp. Việc quản lý, sử dụng đất bền vững, tiết kiệm và có
hiệu quả đã trở thành chiến lược quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của xã hội bởi nhiều nguyên nhân: Tài nguyên đất có hạn, đất có khả năng
canh tác càng ít ỏi, áp lực dân số, sự phát triển đô thị hóa, công nghiệp hóa và
các hạ tầng kỹ thuật; do điều kiện tự nhiên và hoạt động tiêu cực của con
người dẫn tới đất bị ô nhiễm, thoái hoá, mất khả năng canh tác, trong khi
đó để phục hồi độ phì nhiêu cần thiết cho canh tác nông nghiệp phải trải
qua hàng trăm năm.
Đối với Việt Nam, là quốc gia đất chật, người đông, đời sống của đại
bộ phận nhân dân dựa vào SXNN, thì đất đai lại càng quý giá hơn. Việc sử
dụng, khai thác có hiệu quả các loại quỹ đất hiện có là việc làm hết sức có ý
nghĩa, bởi Việt Nam đi lên xây dựng CNXH từ một nước nông nghiệp, lạc
hậu nghèo nàn, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, tiềm năng chính của Việt
Nam chủ yếu dựa vào lao động và đất đai.
Thực tế ở nhiều địa phương ruộng đất còn quá manh mún, nhỏ lẻ, phân

tán tồn tại đã khá lâu. Nguyên nhân chính là do trước đây nhận thức của việc
chia ruộng mang hình thức cào bằng. Hộ nông dân có ruộng được chia ở
nhiều xứ đồng, hộ nào cũng có ruộng theo kiểu có tốt - có xấu, có gần - có xa,
có cao - có thấp, dẫn đến việc canh tác trong mỗi hộ và từng địa bàn bị phân
tán, khó áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, khó thực hiện cơ giới hoá vào sản
xuất. Hơn nữa do ruộng đất manh mún, nông dân vẫn còn tư tưởng tiểu nông,
sản xuất mang tính tự do, thiếu sự gắn kết với nhau trong quá trình sản xuất
nên sản phẩm sản xuất ra không trở thành hàng hoá, chất lượng kém, số lượng
không đủ lớn, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Những yếu kém, tồn
tại trên đã làm cho hiệu quả sử dụng đất không cao, cản trở sự phát triển của


2

lực lượng sản xuất, cản trở sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Điều đó cần phải được xem xét một cách nghiêm túc, khách quan, kịp thời cả
về phương diện lý luận và trong thực tiễn.
Trong những năm đổi mới, nhờ có những chính sách quan trọng của
Nhà nước theo hướng gắn liền quyền và trách nhiệm của người nông dân với
quyền sử dụng đất, đã làm cho nông nghiệp của nước ta đạt được những thành
tựu vô cùng to lớn…. Hiện tại nền kinh tế nước ta đã và đang phát triển mạnh
mẽ theo hội nhập ngày càng sâu với nền kinh tế toàn cầu, đòi hỏi nông nghiệp
phải phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa lớn và có hiệu quả cao. Để phát
triển SXNN theo hướng này, chúng ta đang đứng trước một rào cản thực tế là
ruộng đất trong nông nghiệp rất manh mún và phân tán, đòi hỏi cần phải được
tập trung và tích tụ từng bước…Để giải quyết thách thức này, Nhà nước đã có
chính sách khuyến khích các nông hộ thực hiện việc dồn điền đổi thửa. Chính
sách này đã được triển khai áp dụng ở nhiều địa phương và đã có những tác
động tích cực đến năng suất, chất lượng, hiệu quả của SXNN.
Chương Mỹ là một trong các huyện trọng điểm nông nghiệp của TP Hà

Nội đã triển khai khá sớm việc thực hiện việc tích tụ, tập trung đất đai và
chính sách dồn điền đổi thửa, trong quá trình triển khai đã đạt được những
thành công nhất định, tuy nhiên cũng có một số khó khăn bất cập cần nghiên
cứu giải pháp tháo gỡ.
Từ những nhận thức cơ bản trên tôi đã lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu
tác động của chính sách dồn điền đổi thửa đến hiệu quả sản xuất nông
nghiệp trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội” làm luận văn
tốt nghiệp của mình.


3

2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát:
Trên cơ sở nghiên cứu kết quả và tác động của việc thực hiện chính
sách dồn điền đổi thửa, luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp góp phần đẩy
mạnh quá trình thực hiện chính sách này nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất
nông nghiệp cho các hộ nông dân trên địa bàn huyện Chương Mỹ - TP. Hà
Nội.
2.2. Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thống hóa được cơ sở lý luận về tích tụ, tập trung đất đai trong
nông nghiệp.
- Đánh giá được thực trạng kết quả thực hiện chính sách dồn điền đổi
thửa trên địa bàn huyện Chương Mỹ - TP. Hà Nội.
- Đánh giá tác động của việc thực hiện chính sách đồn điền đổi thửa tới
hiệu quả SXNN trên địa bàn.
- Chỉ ra được những nhân tố ảnh hưởng tới kết quả thực hiện chính
sách dồn điền đổi thửa trên địa bàn nghiên cứu.
- Đề xuất được một số giải pháp đẩy mạnh thực hiện dồn điền đổi thửa
nhằm nâng cao hiệu quả SXKD trên địa bàn huyện Chương Mỹ - TP. Hà Nội.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là:
- Kết quả thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa trên địa bàn huyện
Chương Mỹ.
- Những tác động của việc dồn điền đổi thửa đến hiệu quả SXNN trên
địa bàn huyện Chương Mỹ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Phạm vi về nội dung:


4

Chính sách dồn điền đổi thửa có nhiều tác động đến nông nghiệp và
nông thôn (kinh tế, xã hội, môi trường…), nhưng Luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu những tác động chủ yếu của chính sách dồn điền đổi thửa đến hiệu
quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp của các nông hộ khi thực hiện chính
sách này.
- Phạm vi về không gian:
Đề tài tiến hành nghiên cứu trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố
Hà Nội trong đó đi sâu khảo sát tại một số xã điển hình.
- Phạm vi về thời gian:
Luận văn thu thập số liệu thông tin về SXKD của các nông hộ tại các
điểm nghiên cứu trong khoảng thời gian từ tháng 01/2012 đến tháng 3/2013.
4. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận về tích tụ và tập trung đất đai trong sản xuất nông
nghiệp.
- Kết quả thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa tại huyện Chương Mỹ
- Những tác động chủ yếu của chính sách DĐĐT đến hiệu quả SXNN
trên địa bàn huyện Chương Mỹ.

- Những nhân tố ảnh hưởng tới kết quả thực hiện chính sách dồn điền
đổi thửa trên địa bàn nghiên cứu.
- Giải pháp đẩy mạnh thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa để nâng
cao hiệu quả SXNN tại huyện Chương Mỹ - TP. Hà Nội.


5

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ DỒN ĐIỀN ĐỔI THỬA VÀ VAI TRÒ CỦA DỒN ĐIỀN
ĐỔI THỬA ĐẤT NÔNG NGHIỆP

1.1. Cơ sở lý luận về tích tụ, tập trung đất đai và dồn điền đổi thửa trong
sản xuất nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm về tích tụ, tập trung đất đai
Theo từ điển từ và ngữ Việt Nam thì:
- Tập trung (tập: tụ họp; trung: giữa) là dồn tất cả vào một chỗ để tăng
cường sức mạnh.
- Tích tụ: dồn vào, tập trung nhiều vào một chỗ.
- Ruộng đất: là đất đai trồng trọt nói chung [1].
Để hiểu rõ về tích tụ và tập trung ruộng đất, trước tiên ta nên tìm hiểu
về tích tụ và tập trung tư bản (tích lũy tư bản).
Khi nghiên cứu về “tích luỹ tư bản”, một khái niệm trong lý luận của
chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng: tích luỹ tư bản là đầu tư tăng thêm vào tư bản
đã có, làm cho tổng số tư bản tăng lên. Quá trình làm cho quy mô tư bản tăng
lên được thực hiện bằng hai phương thức tích tụ tư bản và tập trung tư bản.
“Tích tụ tư bản là làm cho quy mô tư bản xã hội tăng lên nhờ có tích
luỹ tư bản cá biệt”.
“Tập trung tư bản là hợp nhất một số tư bản cá biệt đã có thành một tư

bản lớn hơn, thông qua việc các nhà tư bản thôn tính nhau hay liên doanh, liên
kết với nhau” [2].
Hai phương thức này đều làm tăng quy mô tư bản, chúng có liên quan
chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện và thúc đẩy nhau.
Như vậy, tập trung đất đai trong nông nghiệp là phương thức làm tăng
quy mô diện tích của thửa đất và chủ thể sử dụng đất thông qua các hoạt động


6

dẫn tới tập trung ruộng đất như: chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê đất, thuê lại
đất, thừa kế, thế chấp...
Hay nói cách khác, tập trung ruộng đất là việc sát nhập hoặc hợp nhất
ruộng đất của những chủ sở hữu khác nhau vào một chủ sở hữu hoặc hình
thành một chủ sở hữu mới có quy mô ruộng đất lớn hơn. Tập trung ruộng đất
diễn ra theo hai con đường: một là hợp nhất ruộng đất của các chủ sở hữu cá
biệt nhỏ hơn thành một chủ sở hữu cá biệt khác lớn hơn. Con đường này được
thực hiện thông qua việc xây dựng HTX sản xuất nông nghiệp ở nước ta trước
đây.
Hai là, con đường sát nhập ruộng đất của các chủ sở hữu nhỏ cá biệt để
tạo ra quy mô lớn hơn. Con đường này được thực hiện thông qua biện pháp
tước đoạt hoặc chuyển nhượng mua bán ruộng đất. Con đường này diễn ra
mạnh mẽ ở các nước tư bản.
Việc tập trung ruộng đất vào tay chủ sở hữu mới tạo ra kết quả hai mặt
là: Một mặt làm cho một bộ phận nông dân trở thành không có ruộng đất,
buộc họ phải đi làm thuê hoặc rời quê hương tìm kế sinh nhai. Mặt khác, tạo
cho chủ đất có điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật đầu tư thâm canh
tăng năng suất cây trồng, chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang các
kinh tế ngành khác, mà trước hết là công nghiệp.
1.1.2. Sự cần thiết khách quan của tích tụ, tập trung đất đai

Đất đai được coi là tư liệu sản xuất đặc biệt và không thể thay thế được
trong sản xuất nông nghiệp. Không có đất đai thì không thể có sản xuất nông
nghiệp, vì vậy quy mô và trình độ phát triển sản xuất nông nghiệp phụ thuộc
rất chặt chẽ vào tính chất và mức độ tập trung về đất đai cho sản xuất.
Tập trung ruộng đất hợp lý sẽ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển
theo hướng sản xuất hàng hóa hiện đại. Nó là kết quả của sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng tiến bộ, trên cơ sở đó thực
hiện lại phân công lao động một cách hợp lý. Tuy nhiên, tập trung ruộng đất


7

nếu không được kiểm soát chặt chẽ và thiếu sự quản lý điều chỉnh của Nhà
nước thì bên cạnh những mặt tích cực cũng sẽ nảy sinh nhiều tiêu cực không
kém phần gay gắt như sự phân hóa xã hội, phân hóa giàu nghèo,...
Quá trình tập trung ruộng đất có ý nghĩa rất lớn đối với phát triển sản
xuất nông nghiệp. Tập trung ruộng đất giúp cho sử dụng ruộng đất đầy đủ, tiết
kiệm và có hiệu quả, góp phần bảo vệ, tái tạo và khôi phục chất lượng của
ruộng đất, nâng cao hiệu quả sử dụng ruộng đất thông qua việc khuyến khích
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển nông nghiệp hàng hóa theo hướng
công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Tập trung ruộng đất không chỉ có tác động tích
cực đến thu nhập và đời sống của hộ nông dân mà còn được coi như là điểm
mấu chốt của quan hệ hàng hóa tiền tệ trong nông nghiệp và phân công lại lao
động trong nông thôn.
Tập trung ruộng đất sẽ khắc phục được tình trạng manh mún và có tác
dụng tích cực sau: Tạo sự thuận lợi cho người sản xuất ứng dụng các biện
pháp kỹ thuật thâm canh cây trồng, đem lại hiệu quả cao; thực hiện tốt các
biện pháp thủy lợi hóa, cơ giới hóa và hợp tác hóa, đưa sản xuất nông nghiệp
phát triển; thuận tiện cho công tác quản lý đất đai chặt chẽ và hiệu quả.
Tích tụ và tập trung ruộng đất là một tất yếu diến ra trong quá trình

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Thực tế những năm
qua, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của sản xuất nông nghiệp, ở nước ta đã
có nhiều hình thức tích tụ ruộng đất khác nhau, có thể tổng kết lại như sau:
- Nhiều nhà nông đã tích tụ ruộng đất lập trang trại bằng cách thuê đất
công - tư, mua, mượn hoặc được giao, được thừa kế, cho… để phát triển kinh
tế trang trại có quy mô từ nhỏ đến lớn. Đây là hình thức đầu tiên được hình
thành từ những năm 80 của thế kỷ XX.
Tóm lại, tập trung ruộng đất là quá trình tất yếu khách quan của kinh tế
hàng hóa, là yêu cầu của sản xuất hàng hóa, thực hiện việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và phân công lại lao động trong xã hội.


8

1.1.3. Khái niệm dồn điền đổi thửa
Từ "Dồn điền đổi thửa" (DĐĐT) xuất hiện trong quá trình phát triển
của đất nước, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp. Tuỳ vào
từng địa phương có thể có các tên gọi khác nhau, có nơi thì gọi là “Dồn đất
đổi ruộng” có nơi thì gọi là “Dồn điền đổi thửa” nhưng chung quy lại mục
đích chính của nó vẫn là sắp xếp lại ruộng đất, dồn đổi ruộng đất từ nhiều
thửa nhỏ thành những thửa lớn nhằm khắc phục tình trạng ruộng đất phân tán,
manh mún, tổ chức lại đồng ruộng; đẩy mạnh thực hiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển kinh tế hộ và
trang trại, củng cố quan hệ sản xuất, thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông
thôn [3].
Có 2 cơ chế chủ yếu để thực hiện DĐĐT; một là để cho thị trường
ruộng đất, và các nhân tố phi tập trung tham gia vào, Nhà nước chỉ hỗ trợ sao
cho cơ chế nay vận hành tốt hơn; hai là thực hiện các biện pháp can thiệp
hành chính, tổ chức phân chia lại ruộng đất, thực hiện các quy hoạch có chủ
định. Theo cách này, các địa phương đều xác định là DĐĐT sẽ không làm

thay đổi các quyền của nông hộ đối với ruộng đất đã được quy định trong
pháp luật. Tuy nhiên, việc thực hiện quá trình này có thể làm thay đổi khả
năng tiếp cận ruộng đất của các nhóm nông dân hưởng lợi khác nhau dẫn đến
thay đổi bình quân ruộng đất ở các nhóm xã hội khác nhau.
1.1.4. Cơ sở lý luận để thực hiện dồn điền, đổi thửa
Như chúng ta đã biết, xã hội loài người muốn tồn tại và phát triển thì
con người ít nhất phải đảm bảo được nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại… hay nói cách
khác, đó chính là nhu cầu vật chất và tinh thần trong đời sống xã hội. Các yếu
tố vật chất và tinh thần không có sẵn trong tự nhiên, muốn có nó, con người
phải lao động sản xuất. Và điều không thể khác được là mọi hoạt động, lao
động, sản xuất của con người đều liên quan đến đất đai. Vấn đề đất đai được


9

nghiên cứu dưới góc độ lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin chính là việc nghiên
cứu mối quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu, sử dụng, khai
thác đất đai tạo ra lợi ích nhằm phục vụ con người và mối quan hệ đó được
gọi là quan hệ đất đai.
Trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng, quan hệ đất đai là một
trong những quan hệ cơ bản, quan trọng trong đời sống xã hội. Quan hệ đất
đai nói chung chịu sự tác động ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: chế độ chính
trị, kinh tế, lịch sử, văn hoá, phong tục, tập quán, sự phát triển của lực lượng
sản xuất…
Đối với đất SXNN ở nước ta hiện nay xét trên góc độ quan hệ đất đai cho
thấy: Về cơ bản, phổ biến là mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng.
Đối với sở hữu, theo Luật Đất đai năm 2003 quy định tại Điều 5 về sở
hữu như sau:
“ Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu” [30, tr .13].
Như vậy ở Việt Nam đất đai nói chung và đất SXNN nói riêng thuộc sở

hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý trên
phạm vi cả nước, đảm bảo cho đất đai được sử dụng theo đúng quy hoạch, kế
hoạch, ổn định, lâu dài, có hiệu quả, đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước
cũng như của người sử dụng đất.
Về quyền sử dụng đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng, theo
Điều 10 của Luật Đất đai năm 2003 và Điều 4 Nghị định 181/2004/NĐ-CP
ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai quy định:
“Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng
đất” [30, tr.18].
Với các quy định trên đây thì mối quan hệ đất đai ở nước ta là rất cụ thể
rõ ràng. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, còn
quyền sử dụng đất thì được Nhà nước giao quyền cho các chủ thể sử dụng.
Quyền sử dụng đất của các chủ thể được đảm bảo bằng pháp luật và được nhà


10

nước cấp quyền thông qua giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Điều đó đã
giúp cho công tác quản lý đất đai nói chung và đất NN nói riêng ở mọi nơi,
mọi chỗ đều có chủ sử dụng và mốc giới rõ ràng. Hiện nay, về cơ bản đối với
quỹ đất I (là quỹ đất giao cho hộ nông dân) Nhà nước không thu thuế nông
nghiệp (Được miễn theo Nghị quyết số 15/2003/QH11 ngày 17/6/2003) và
quỹ đất II (quỹ đất do UBND xã, phường, thị trấn quản lý) Nhà nước cũng
không thu thuế (Được miễn theo Quyết định số 58/2008/QĐ-BTC, ngày
21/7/2008 của Bộ Tài chính). Trong lý luận của C.Mác yếu tố thể hiện sự
khác nhau về vị trí, độ phì nhiêu, màu mỡ của đất đai, sự thuận lợi hay khó
khăn trong quá trình sản xuất được xem là yếu tố cơ bản sinh ra địa tô chênh
lệch trong SXNN.
Do chỉ nghiên cứu về DĐĐT đất NN, bởi vậy dưới góc độ lý luận khi
xem xét về quan hệ đất đai, luận văn chỉ xin đề cập một cách khái quát xoay

quanh vấn đề lý luận địa tô - địa tô chênh lệch dưới góc độ vị trí, độ phì
nhiêu, màu mỡ của đất đai, để từ đó chỉ ra cơ sở cho việc tại sao phải thực
hiện DĐĐT đất nông nghiệp.
SXNN hiện nay ở nước ta nhân dân không phải nộp thuế nông nghiệp
có nghĩa là không có “tô”, nhưng khi DĐĐT đất nông nghiệp về mặt hình
thức chính là sự thay đổi vị trí diện tích, hạng đất. Xét về thực chất, quan hệ
đất đai bên trong đó ẩn chứa “địa tô chênh lệch” giữa những thửa ruộng có độ
màu mỡ khác nhau, vị trí khác nhau, mức độ canh tác thuận lợi, khó khăn
khác nhau. Nên việc DĐĐT muốn thực hiện được thành công phải giải quyết
tốt, hài hoà mối quan hệ bên trong sao cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện
thực tế của từng địa phương thông qua việc xây dựng hệ số quy đổi giữa các
hạng đất, diện tích với nhau. Và xét cho đến cùng đó chính là quan hệ lợi ích
kinh tế giữa những người sử dụng đất với nhau. Bên cạnh đó cần phải xem xét
đến yếu tố vị trí xa - gần, thuận lợi hay khó khăn trong canh tác một cách cụ


11

thể. Chú ý làm tốt được những vấn đề trên thì việc DĐĐT mới thành công và
mang lại hiệu quả trong phát triển nông nghiệp hàng hoá.
1.1.5. Ý nghĩa của dồn điền đổi thửa trong sản xuất nông nghiệp
+ Dồn điền, đổi thửa đất NN sẽ khắc phục được tình trạng ruộng đất
manh mún.
Vì hiện nay mỗi hộ gia đình, cá nhân có hàng chục thửa ruộng ở nhiều
xứ đồng khác nhau, nên khi thực hiện DĐĐT thì bình quân số thửa ruộng trên
hộ sẽ giảm, thậm chí một hộ có thể chỉ có một thửa, diện tích trên thửa sẽ
tăng. Ruộng đất của các hộ được tập trung về một khu vực, một xứ đồng sẽ
thuận lợi cho việc đầu tư, thâm canh, tiết kiệm được chi phí, đi lại, vận
chuyển sản phẩm khi thu hoạch. Mặt khác, khi dồn điền đổi thửa, số thửa
giảm, ít bờ ruộng hơn nên diện tích đất canh tác chắc chắn sẽ tăng hơn so với

trước dồn điền đổi thửa;
+ DĐĐT tạo tiền đề cho việc quy hoạch lại đồng ruộng, là cơ sở cho
việc hoạch định chính sách đầu tư phát triển SXNN, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng phục vụ sản xuất như: đường
giao thông nội đồng, cứng hoá hệ thống kênh mương, quy hoạch những vùng
chuyên canh, khai thác được lợi thế của từng vùng đất khác nhau;
+ DĐĐT thửa tạo điều kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong
nội bộ ngành NN, thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá, làm tiền đề cho việc
hình thành các doanh nghiệp trong NN và có điều kiện để hình thành nhiều
trang trại, nông trại, góp phần đưa chăn nuôi ra khỏi khu dân cư, thúc đẩy
phân công lại lao động xa hội. Bởi vì hiện nay do ruộng có ô thửa nhỏ, trên
một cánh đồng các hộ canh tác những cây trồng khác nhau có thời gian sinh
trưởng khác nhau, chế độ chăm sóc thu hoạch khác nhau. Điều đó gây ảnh
hưởng và hạn chế lẫn nhau, không có loại cây trồng nào có diện tích đủ lớn
dẫn đến không có khối lượng hàng hoá lớn. Nếu thực hiện DĐĐT sẽ khắc
phục được tình trạng này;


12

+ DĐĐT thành công sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất:
Do thửa ruộng nhỏ, khâu làm đất người nông dân chủ yếu cày bừa thủ
công theo lối truyền thống bằng trâu, bò, thậm chí nhiều nơi người dân vẫn
cuốc đất bằng tay. Mặt khác khâu gieo cấy, thu hoạch phổ biến hiện nay vẫn
áp dụng phương pháp thủ công là chính, chi phí cao, mất nhiều thời gian,
năng suất lao động thấp, nông dân vẫn phải lao động cực nhọc. Nếu đẩy mạnh
việc DĐĐT sẽ dễ dàng cho việc áp dụng máy móc vào sản xuất như máy cày
bừa, máy gặt đập liên hợp, máy gieo hạt, máy cấy, phương tiện vận chuyển cơ
giới …khi đó hao phí thời gian lao động ít, lao động sống được giải phóng,

giảm được lao động cực nhọc của người dân, năng suất lao động cao, hiệu quả
sản xuất tốt hơn. Mặt khác DĐĐT sẽ giảm được chi phí lao động, tiết kiệm
được các chi phí đầu tư khác như: giống, phân bón, nước tưới, thuốc trừ sâu,
thời gian lao động, đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền vững, bảo vệ môi
trường, nâng cao hiệu quả sản xuất, đời sống nhân dân và ổn định xã hội.
+ DĐĐT sẽ tạo điều kiện sản xuất ra khối lượng sản phẩm hàng hoá đủ
lớn giúp cho công nghiệp chế biến phát triển, thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá
nông sản. Bởi vì đến giai đoạn hiện nay nước ta không chỉ giải quyết tốt vấn
đề an ninh lương thực mà còn là cường quốc xuất khẩu lương thực trên thế
giới. Do vậy vấn đề đặt ra là có nhất thiết phải sản xuất lương thực bằng mọi
giá như hiện nay hay không? Nên chăng cần phải có sự nhìn nhận thay đổi
theo một cách mới là mạnh dạn chuyển một phần diện tích trồng cây lương
thực sang nuôi, trồng các cây con khác có giá trị kinh tế cao hơn nhằm cung
cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, sản xuất hàng nông sản xuất khẩu,
khai thác tốt thế mạnh của từng vùng. Muốn làm được điều này thì vai trò của
việc DĐĐT đóng góp rất quan trọng.


13

1.1.6. Các chủ trương chính sách của Nhà nước về DDĐT trong sản xuất
nông nghiệp
- Nghị quyết 06 của Bộ chính trị, tháng 11/1999 đã xác định “về tích tụ
ruộng đất, việc chuyển nhượng quyền sử dụng, tích tụ và tập trung ruộng đất
là hiện tượng sẽ diễn ra trong quá trình phát triển nông nghiệp lên sản xuất
hàng hóa lớn. Việc tích tụ và tập trung ruộng đất phải được kiểm soát, quản lý
chặt chẽ của Nhà nước” .
- Đại hội lần thứ VII - 6/1991 đã xác định: “đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước thống nhất quản lý và giao cho nông dân quyền sử dụng lâu
dài”.

- Hội nghị Trung ương 2 khóa VII tháng 3/1992: “Quyết định việc
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng đất
phải được pháp luật quy định cụ thể theo hướng khuyến khích nông dân an
tâm đầu tư kinh doanh nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tạo điều kiện từng bước
tích tụ ruộng đất trong giới hạn hợp lý để phát triển sản xuất hàng hóa, đi đôi
với mở rộng phân công lao động và phân bố lao động gắn với quá trình. Quy
định rõ các điều kiện cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ngăn chặn
tình trạng người sống bằng nghề nông không còn ruộng đất, người mua quyền
sử dụng đất không phải để sản xuất mà là để buôn bán ruộng đất, phát canh
thu tô. Mức tập trung đất và một số hộ cũng phải quy định giới hạn tối đa tùy
theo vùng và loại đất” [4].
Từ những chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước đã thể chế hóa
bằng những văn bản pháp luật cụ thể:
- Hiến pháp năm 1992 đã công bố “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật” .
- Tại Điều I của Luật đất đai 2003, đã quy định “Đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”.


14

Nhà nước giao đất cho (các tổ chức kinh tế, cơ quan Nhà nước, chính
trị, xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang), hộ gia đình và cac nhân sử dụng lâu
dài. Ngoài ra, nhà nước còn cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân thuê đất.
Nghị định 64/CP của Chính phủ ban hành 27/9/1993 “về việc giao đất
cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông
nghiệp trong đó đã quy định rõ các nguyên tắc giao đất, đối tượng giao đất,
thời hạn giao đất và hạn mức đất được giao cho các tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân” .
Trong chương II của Bộ luật dân sự về “Hợp đồng chuyển đổi quyền sử

dụng” từ Điều 699 đến Điều 704 đã qui định rõ về việc thực hiện chuyển đổi
quyền sử dụng đất như:
- Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất; điều kiện chuyển đổi quyền sử
dụng đất; hình thức chuyển đổi quyền sử dụng đất; quyền và nghĩa vụ của các
bên chuyển đổi quyền sử dụng đất.
- Điều 102, Nghị định 18/2004/NĐ-CP của Chính phủ, ngày
29/10/2004 về việc hướng dẫn thi hành luật đất đai năm 2003 “Hộ gia đình,
cá nhân sử dụng đất nông nghiệp do Nhà nước giao đất hoặc chuyển đổi, nhận
chuyển nhượng, nhận thừa kế, được tặng cho quyền sử dụng đất hợp pháp từ
người khác thì được chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp đó cho hộ gia
đình, cá nhân khác trong cùng xã, phường, thị trấn để thuận lợi cho sản xuất
nông nghiệp” [5].
Hộ gia đình, cá nhân chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp theo
chủ trương chung về “dồn điền đổi thửa” thì không phải nộp thuế thu nhập từ
việc chuyển quyền sử dụng đất, lệ phí trước bạ, lệ phí địa chính.
Như vậy có thể nói, chủ trương, chính sách của Đảng và Pháp luật của
Nhà nước về việc chuyển đổi ruộng đất thực hiện “dồn điền đổi thửa” trong
nông nghiệp đã tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho việc tích tụ và tập trung
đất đai. Tuy nhiên, văn bản pháp luật ban hành chậm. Bên cạnh đó Chính phủ


15

chưa có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo cụ thể đối với các tỉnh, thành phố để
hướng dẫn nông dân thực hiện dồn điền đổi thửa mà để các tỉnh thành phố
thấy cần thiết thì triển khai.
1.2. Thực tiễn vấn đề dồn điền đổi thửa trong sản xuất nông nghiệp
1.2.1. Trên thế giới
Một xu thế nghiên cứu trong các nước phát triển liên quan đến quá
trình tập trung hay phân hoá quy mô diện tích đất nông nghiệp của các nông

hộ, đó là: kinh tế quy mô (economic of scale) hoặc ngược lại - kinh tế phi quy
mô.
Kinh tế quy mô được mô tả đối với một đơn vị sản xuất là việc phát
triển mở rộng quy mô (lao động, đất hay vốn...) nhằm hạ giá thành của một
đơn vị sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của nông phẩm hàng hoá. Người ta hy
vọng rằng khi quy mô nông hộ càng lớn thì có thể giảm được đáng kể chi phí
như: chi phí quản lí nông trại, chi phí áp dụng tiến bộ kỹ thuật, chi phí tư vấn,
đào tạo...
Nhìn chung ở châu Âu và các nước phát triển khác kể từ sau cách mạng
nông nghiệp lần thứ 2 cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, một loạt các trang trại
nhỏ, manh mún năng suất thấp đã bị loại thải thay vào đó là các trang trại quy
mô vừa, những trang trại có năng suất lao động cao hoặc các nhóm nhỏ của
những người sản xuất.
* Năm 1955 ở Pháp có xấp xỉ 2,3 triệu nông hộ, quy mô ruộng đất
trung bình là 14 ha/hộ thì đến năm 1993 chỉ còn 800 ngàn hộ với quy mô
trung bình là 35 ha.
* Tương tự ở Mỹ năm 1950 cả nước có 5,65 triệu hộ với quy mô bình
quân là 86 ha/hộ, đến năm 1992 con số này là 1,92 triệu và 198,9 ha.
Có thể nhận xét rằng tiến trình tích tụ của các nông hộ ở châu Âu có
nguyên nhân rất lớn từ những thành tựu về kỹ thuật công nghệ phát minh
trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2, ở đó tiến trình cơ giới hoá trong


16

nông nghiệp phát triển nhanh, các giống cây trồng vật nuôi được chọn tạo
cho năng suất cao và được đưa vào sản xuất... đây chính là quá trình tích tụ về
vốn nói chung của các nông hộ.
Tuy nhiên, trong nông nghiệp giới hạn của kinh tế quy mô không giống
như trong công nghiệp. Sự tăng hiệu quả sản xuất nhờ việc tăng quy mô chỉ

giới hạn đến ngưỡng nào đó về đất đai, lao động, máy móc... Nếu vượt
ngưỡng này hiệu quả sản xuất lại giảm xuống. Giá thành của một đơn vị sản
phẩm không những không giảm mà có thể lại tăng lên, người ta gọi đó là kinh
tế phi quy mô. Ngưỡng của các yếu tố sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào đặc
điểm của mỗi loại hình nông hộ: hộ chăn nuôi hay trồng trọt, hộ trồng nho
hay trồng lúa mỳ, phụ thuộc vào khả năng công nghệ kỹ thuật áp dụng trong
sản xuất... Ví dụ quy mô nông hộ sản xuất có hiệu quả hiện nay ở Pháp là từ
50 ha đến 100 ha nhưng ở Mỹ nơi có khả năng cơ giới hoá cao hơn thì quy
mô đó là từ 200 ha đến 300 ha [6].
Đối với các nước châu Á
* Tại Nhật Bản:
Nhật bản xuất phát điểm từ chính sách trước những năm 1960 mỗi hộ
nông dân Nhật có nhiều thửa ruộng phân tán, xa nhau quy mô mỗi thửa chỉ từ
500 m2 đến 1.000 m2. Để chấn hưng nông nghiệp, năm 1961 Chính phủ Nhật
Bản đã ban hành Luật cơ bản về nông nghiệp. Một trong ba mục tiêu chính
của Luật cơ bản nông nghiệp là đưa nông nghiệp từ quy mô nhỏ lên quy mô
lớn. Để thực hiện mục tiêu này Bộ nông nghiệp đề ra “sự nghiệp xây dựng
ruộng đất với ba mục tiêu rộng, chắc chắn, sâu”:
+ Rộng: Nâng kích thước thửa ruộng lên 0,3 ha.
+ Chắc chắn: Cải tạo nền đất yếu, nhiều bùn, hay lún trên cơ sở thiết kế
xây dựng thoát nước cho từng thửa ruộng và toàn khu vực để có thể sử dụng
máy móc thuận lợi.
+ Sâu: Cải tạo tầng canh tác ruộng đất đảm bảo độ dày khoảng 1m


17

Để đáp ứng nhu cầu trên phải làm hai việc:
+ Về mặt hành chính: Đó là xử lý chuyển đổi đất từ các thửa nhỏ, ở xa
nhau thành những thửa có kích thước lớn.

+ Về mặt kỹ thuật: Gắn liền với việc xử lý kích thước thửa ruộng là
việc xây dựng hệ thống tưới tiêu và san ủi mặt bằng. Việc chuyển đổi đất là
công việc rất phức tạp vì đất đai thuộc sở hữu tư nhân và việc chuyển đổi phải
tiến hành đồng thời với một số biện pháp, công việc khác mới phát huy có
hiệu quả. Trước khi chuyển đổi phải xây dựng quy hoạch sử dụng đất nông
nghiệp cho mục đích phi nông nghiệp với yêu cầu ít nhất 8 năm kể từ khi xử
lý, không được thay đổi mục đích. Việc quy hoạch đất nông nghiệp vào mục
đích phi nông nghiệp cũng nhằm mục đích kêu gọi đầu tư tạo việc làm, tăng
thu nhập cho nông dân, giảm việc nông dân di cư vào thành phố. Giới hạn tối
đa cho diện tích này là 30% diện tích toàn khu nông nghiệp. Công tác chuyển
đổi là khó khăn phức tạp, vì vậy có nơi làm dần từng bước, lúc đầu từ 500 m2
lên 1.000 m2, sau vài năm lên 2.000 m2, vài năm sau lên 3000m2. Kết quả là
khoảng 2 triệu ha trong 2,7 triệu ha đất trồng lúa nước đã được xử lý, chuyển
đổi. Số còn lại chủ yếu là đất trồng cỏ. Trước chuyển đổi bình quân một hộ có
3,4 thửa ruộng, sau khi chuyển đổi còn 1,8 thửa. Việc chuyển đổi xử lý đất
nông nghiệp đã làm tăng năng suất của máy nông nghiệp, tăng sức sản xuất
của đất đai, làm tăng năng suất lao động của người nông dân, tạo điều kiện
phát triển hàng hoá để nâng cao sức cạnh tranh của nông nghiệp. Vì vậy, cùng
những yêu cầu khác, việc chuyển đổi xử lý đất nông nghiệp đã góp phần quan
trọng đưa năng suất lúa từ 3.000 kg gạo/ha năm 1960, lên 6.000 kg gạo/ha
năm 1992 [7].
 Tại Trung Quốc:
Vào những năm cuối của thập kỷ 70 thế kỷ 20, Trung Quốc đã tiến
hành công cuộc cải cách kinh tế mà trước tiên là cuộc cải cách nông thôn, xoá
bỏ chế độ sở hữu tập thể, vì vậy mà loại hình kinh tế HTX không còn mà thay


18

vào đó là hình thức khoán đến hộ, theo đó đất đai từ sở hữu HTX chuyển

thành sở hữu của thôn còn quyền sử dụng đất được giao cho hộ. Cuộc cải
cách này đã tạo ra động lực mới cho sự phát triển nông nghiệp. Người nông
dân được quyền tự chủ trong quản lý, sử dụng và lựa chọn phương án sử dụng
đất, Vì vậy nông nghiệp Trung Quốc đã có bước phát triển kỳ diệu. Tuy nhiên
đến năm 1990 thì tốc độ phát triển của nông nghiệp Trung Quốc lại giảm,
điều này do hình thức khoán đến hộ không còn phát huy tác dụng và bắt đầu
bộc lộ những hạn chế. Điều này do có sự xuất hiện của thửa ruộng nhỏ và
manh mún khi giao chia cho từng hộ gia đình. Quá trình giao chia coi ''chủ
nghĩa bình quân và công bằng'' như là nguyên tắc bất di bất dịch. Tuy nhiên
do dân số đông và diện tích hạn chế nên diện tích đất cấp cho mỗi hộ gia đình
là rất nhỏ, manh mún và rải rác ở khắp nơi trong làng, điều này được minh
chứng qua bảng sau:
Bảng 1.1. Diện tích và số thửa ruộng của mỗi hộ nông dân Trung Quốc
Năm

Diện tích
canh tác/ hộ (ha)

Số thửa ruộng/hộ

Diện tích trung
bình/thửa(ha)

1986

0,446

5,85

0,08


1988

0,466

5,67

0,078

1990

0,420

5,52

0,076

1998

0,470

3,02

0,18

(Nguồn: Bộ Nông nghiệp Trung Quốc, 2000)
Đến năm 1984, Văn kiện số 1 ra đời đã cho phép điều chỉnh ruộng đất
theo nguyên tắc'' đại ổn định, tiểu điều chỉnh'' nghĩa là, (về cơ bản phải ổn
định, nhưng có thể điều chỉnh một phần nhỏ ruộng đất khoán chưa hợp lý).
Điểm cơ bản trong chính sách ruộng đất của Trung Quốc là khoán trách

nhiệm sử dụng đất đối với từng hộ nông dân, “kéo dài thời hạn khoán ruộng
đất để khuyến khích nông dân đầu tư bồi bổ sức đất, thực hiện thâm canh”.
Chủ trương này nhằm kiện toàn chế độ khoán sản phẩm đến hộ nông dân,


19

khắc phục tình trạng nông dân bóc ngắn cắn dài, kinh doanh có tính chất quá
lạm dụng độ màu mỡ của đất đai. Thời hạn khoán ruộng đất từ 15 năm trở lên,
đối với loại kinh doanh chu kỳ sản xuất dài có tính chất khai hoang như vườn,
rừng, đồi hoang... thì thời hạn khoán cần phải dài hơn. Trước khi kéo dài thời
hạn khoán, nếu quần chúng có yêu cầu điều chỉnh ruộng đất thì có thể dựa
vào nguyên tắc “đại ổn định, tiểu điều chỉnh”, thông qua thương lượng một
cách đầy đủ, sau đó tập thể thống nhất điều chỉnh. Ngoài ra Văn kiện này còn
cho phép hộ nông dân có quyền nhượng ruộng khoán, cụ thể là “khuyến
khích từng bước tập trung ruộng đất vào tay những người làm ruộng giỏi”.
Chỉ thị số 18 năm 1990 của Trung Quốc quy định “ổn định quan hệ
ruộng đất nhận khoán không có nghĩa là không cho phép có sự điều chỉnh về
mảnh ruộng và số lượng ruộng khoán, những thửa ruộng quá phân tán, không
thuận tiện cho việc canh tác thì có thể căn cứ vào nguyện vọng của quần
chúng mà tiến hành điều chỉnh theo nguyên tắc số lượng và giá trị ngang
bằng”. Trong quá trình thực hiện khoán ruộng đất cho các hộ nông dân, một
số địa phương đã thực hiện việc khoán đất tốt kèm đất xấu, cho nên ruộng đất
nhận khoán phân tán, manh mún không thuận tiện cho nông dân canh tác.
Những năm gần đây một số địa phương đã căn cứ nguyện vọng của quần
chúng, tiến hành nhận ruộng và điều chỉnh. Kết quả đã diễn ra tốt, nhưng cần
phải giữ vững hai nguyên tắc: Một là, tôn trọng nguyện vọng của quần chúng,
không được áp đặt. Hai là, phải đảm bảo theo nguyên tắc số lượng và giá trị
ngang bằng [8].
Như vậy, từ những năm 1978 Trung Quốc đã tiến hành cải cách theo

thể chế kinh tế nông thôn, thực hiện hình thức kinh doanh khoán sản lượng
đến từng hộ nông dân thực chất là khoán ruộng đất, thực hiện công việc thiết
kế lại đồng ruộng thông qua dồn đổi ruộng giữa các hộ, bước đầu “mềm hoá”
hình thức chuyển đổi nông nghiệp trong nông thôn, đồng thời cho phép hộ
nông dân được quyền góp cổ phần bằng ruộng đất vào các tổ chức sản xuất


20

kinh doanh nông nghiệp trên cơ sở chế độ cổ phần hoá.
 Thái Lan:
Đồng bằng Chao phraya của Thái Lan có sức ép về dân số thấp hơn so
với các nước khác. Quá trình phân nhỏ ruộng đất tuy chưa đến mức quá manh
mún nhưng nó lại có một nguyên nhân khác đó chính là việc xây dựng siêu đô
thị Bankok. Một sự phát triển theo chiều thuận là công nghiệp sẽ rút bớt lao
động nông thôn ra thành thị làm cho quy mô ruộng đất nông nghiệp tăng lên.
Tuy nhiên ở Chao phraya lại khác, cách đây khoảng 120 năm vùng này dân
cư vẫn còn thưa thớt, cả vùng có đến 2 triệu ha đất nhưng dân cư chỉ có
khoảng trên 300 ngàn người. Nhưng việc bắt đầu xây dựng đô thị khổng lồ
Bankok kể từ vài chục năm gần đây đã làm cho dân số vùng tăng nhanh bình
quân 3% năm. Đất nông nghiệp mất đi trung bình 1% mỗi năm kể từ năm
1970 trở lại đây. Các trang trại bị chia nhỏ giảm dần về quy mô ruộng đất.
Trung bình một hộ năm 1950 có 4.8 ha, đến năm 1963 còn 4.5 ha, năm 1978
là 4.1 ha và 15 năm sau, năm 1993, chỉ còn 3.5 ha. Sự giảm quy mô trung
bình ruộng đất ở Thái Lan một phần còn được giải thích bởi sự chia đều
ruộng đất cho con cái thừa kế và sự chậm tiến bộ về mặt công nghệ, kỹ thuật
sản xuất. Giai đoạn 20 năm từ 1955 đến 1975 là giai đoạn giá nông sản (lúa)
khá thấp, công nghệ sản xuất ‘bão hoà’ không khuyến khích tập trung ruộng
đất. Trên thực tế, giá nông sản thấp và sự bần cùng hoá nông dân luôn đi cùng
với sự chia nhỏ quy mô sản xuất bởi vì lợi ích đầu tư ruộng đất lúc đó không

cao, bởi vì người ta cần chia nhỏ và đa dạng hoạt động để tránh rủi ro và cũng
còn bởi vì thiếu những người có đủ tiền bạc, thực lực để mua đất vào [9].
Theo Macheal Lipton (2002) nông nghiệp trong những nước đang phát
triển ở châu Á, đặc trưng bởi:
- Tỷ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp và nông thôn chiếm tỷ lệ
khá lớn và dư thừa.
- Nền nông nghiệp thâm canh sản xuất lương thực đặc biệt là lúa nước


21

dựa chủ yếu trên đầu tư lao động sống của các nông hộ quy mô nhỏ.
- Sự tăng trưởng của khu vực nông nghiệp quyết định nhiều đến sự tăng
trưởng cả nền kinh tế. Để có thể xóa đói giảm nghèo, giải pháp là cần tạo
thêm công ăn việc làm cho lực lượng lao động ở nông thôn. Thành quả của
những cuộc cải cách ruộng đất thời gian qua đã mang lại công ăn việc làm và
tạo điều kiện cho các nông hộ nhỏ phát triển kinh tế trong những nước nghèo.
Chính vì thế, những giải pháp nhằm tập trung ruộng đất, phát triển trang trại
quy mô lớn, tăng cường cơ giới hoá không hợp lí có nguy cơ làm tăng thất
nghiệp nông thôn dẫn đến sự tăng trưởng trì trệ về thu nhập của nông hộ nhỏ.
Một bộ phận lao động nông nghiệp dư thừa đã chuyển vào thành phố nhưng
khó phát triển được và trở thành người nghèo đô thị, làm cho hiện tượng
nghèo chỉ chuyển từ khu vực này sang khu vực khác [10].
1.2.2. Tại Việt Nam
Ở Việt Nam trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 Việt Nam là quốc gia
thuộc địa, nửa phong kiến. Quan hệ sản xuất thời kỳ này là Quan hệ sản xuất
phong kiến, ruộng đất nằm trong tay địa chủ và thực dân Pháp, người nông
dân không có ruộng đất, chủ yếu đi làm thuê, đời sống vô cùng cực khổ. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng
8.1945 với khẩu hiệu “Độc lập dân tộc và người cày có ruộng” đã giành

thắng lợi vẻ vang thành lập nên Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Về thực chất, tuy có Nhà nước nhưng ruộng đất vẫn do thực dân Pháp
và địa chủ phong kiến cai trị nắm giữ. Chính sách về quản lý đất đai giai đoạn
này mới chỉ là sơ khai ban đầu, đan xen cả chính sách của chính quyền cách
mạng và chính sách của chính quyền cũ.
Trong suốt 9 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp với điều
kiện vô vàn khó khăn, nhưng chính quyền non trẻ của ta cũng đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ ruộng đất nhằm thực hiện song


22

song hai nhiệm vụ hàng đầu là đánh đuổi thực dân Pháp và lãnh đạo nhân dân
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế.
Đến giai đoạn 1954-1975, đây là giai đoạn lịch sử đặc biệt, cách mạng
Việt Nam phải đồng thời làm 2 nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng dân tộc dân
chủ ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Theo đó, quản
lý đất đai của Việt Nam chịu sự chi phối của hoàn cảnh này. Ở miền Bắc,
quản lý đất đai dựa trên quan điểm đảm bảo quyền lợi của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động. Ở miền Nam quản lý đất đai lại nằm trong tay chế độ
miền Nam cộng hoà.
Bởi tính chất đặc thù của giai đoạn này như vậy nên luận văn chỉ đề cập
một cách khái quát công tác quản lý đất đai ở miền Bắc.
Những năm đầu sau 1954, chính sách đất đai của nước ta chủ yếu tập
trung giải quyết nhiệm vụ “người cày có ruộng”. Các văn bản được ban hành
nhằm mục đích nhanh chóng động viên toàn xã hội hàn gắn vết thương chiến
tranh, phát triển sản xuất nâng cao đời sống nông dân.
Trong điều kiện đất nước còn chiến tranh, giai đoạn này, quản lý đất
đai tập trung vào thống kê ruộng đất, kiểm tra tình hình quản lý, sử dụng đất
làm cơ sở cho công tác quản lý đất đai dần dần đi vào nề nếp. Đặc biệt văn

bản về Hợp tác hoá NN đã có tác động mạnh mẽ trong việc chuyển sở hữu đất
NN từ tư nhân, nhỏ lẻ của người lao động, sang sở hữu tập thể thông qua các
quan hệ trong mô hình HTX NN, từ HTX bậc thấp cho đến HTX NN bậc cao.
Mô hình quản lý và sử dụng ruộng đất chủ yếu được thông qua HTX NN dưới
hình thức sở hữu tập thể. Hình thức quản lý và sử dụng đất đai giai đoạn này
như vậy là phù hợp, điều đó đã góp phần rất quan trọng cho việc huy động
“Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. “Tất cả cho tiền
tuyến” “Tất cả vì miền Nam ruột thịt” vì sự nghiệp giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước.


×