Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

HƯỚNG dẫn học SINH GIẢI bài tập về các BIỆN PHÁP TU từ ẩn dụ, HOÁN dụ, PHÉP đối, PHÉP điệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.16 KB, 11 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 3

HƯỚNG DẪN HỌC SINH GIẢI BÀI TẬP VỀ CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ:
ẨN DỤ, HOÁN DỤ, PHÉP ĐỐI, PHÉP ĐIỆP

Họ và tên tác giả: Hoàng Thị Dung
Chức vụ:

Giáo Viên

Đơn vị công tác: Văn - Sử - Địa
Trường THPT Yên Định 3
SKKN môn:

Văn

Năm học 2010-2011
1


Phần I: Đặt vấn đề.
1. Lí do chọn đề tài
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “tiếng Việt là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô
cùng quý báu”, bởi vậy mà rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt là vấn đề quan trọng trong
giảng dạy ngữ văn ở trường THPT. Từ đó giúp các em trau dồi kĩ năng sử dụng vốn tiếng Việt
của mình, vận dụng vào khâu tìm hiểu, khám phá các tác phẩm văn học trong nhà trường.
Hiện nay, trong quá trình giảng dạy ngữ văn lớp 10 ban cơ bản, tôi nhận thấy đa số học
sinh chưa có kĩ năng sử dụng tiếng Việt thành thạo, chưa biết khám phá cái hay, cái đẹp ở một
tác phẩm văn, thơ, chưa thấy hết các tầng bậc ý nghĩa của một đơn vị ngôn từ được dùng
trong một câu thơ, câu văn hay một đoạn thơ, đoạn văn. Mà muốn nhận thức được sự hàm


súc, ý nghĩa sâu sắc của một đơn vị ngôn ngữ văn chương thì học sinh phải nắm thật chắc về
các biện pháp tu từ được học trong nhà trường. Có như thế các em mới giải được các dạng bài
tập đề chỉ ra ý nghĩa, tác dụng biểu đạt của đơn vị ngôn ngữ, từ đó chỉ ra cái hay, cái đẹp của
một tác phẩm văn chương. Trong những yêu cầu đặt ra đó thì tiếng Việt là môn công cụ để
học ngữ văn.
2. Những thuận lợi và khó khăn.
1.1. Thuận lợi.
Trong chương trình ngữ văn lớp 10 THPT chưa phân ban trước đây thì phân phối chương
trình chỉ có một số tiết nhất định. Các tiết học thuộc phân môn tiếng Việt chủ yếu là học lí
thuyết chứ hầu như là không có tiết thực hành, vì vậy giáo viên không có điều kiện để luyện
tập, thực hành và hướng dẫn thêm cho học sinh
Theo đổi mới phương pháp và thay sách giáo khoa 2006-2009 thì bộ giáo dục đã cấu tạo
một cách linh hoạt ngay trong phân phối chương trình bằng cách có thêm phần tự chọn để mỗi
trường chủ động trong kế hoạch giảng dạy. Người giáo viên cũng có thể lên kế hoạc giảng dạy
chủ động ngay từ đầu năm cho từng khối lớp. Đây là điều kiện tốt để giáo viên có thể lựa
chọn những kiến thức quan trọng đưa vào kế hoạch tự chọn. Theo phân phối chương trình ngữ
văn lớp 10 ban cơ bản thì có 2 tiết là: Thực hành các phép tu từ ẩn dụ và hoán dụ (tiết 45)
Thực hành phép tu từ: phép điệp và phép đối (tiết 92) được xem là phần kiến thức trọng tâm
về tiếng Việt ở chương trình ngữ văn lớp 10 ban cơ bản. Vì vậy khi được nhận dạy văn các
lớp 10B3, 10B4, 10B6, 10B7 ban cơ bản, tôi đã lên kế hoạch để bổ sung nội dung này vào
phần tự chọn.
1.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì việc thực hành giải bài tập vể các biện pháp tu từ:
ẩn dụ, hoán dụ, phép đối, phép điệp còn gặp nhiều khó khăn.
Xuất phát từ thực tế xã hội là nhu cầu tuyển dụng lao động thuộc các ngành nghề xã hội
là quá ít và có những lĩnh vực hầu như không tuyển lao động liên tục trong nhiều năm khiến
cho nhiều em theo học các môn tự nhiêm mà không cần học các môn xã hội, trong đó có bộ
môn ngữ văn hoặc các em không yêu thích môn văn nữa. Bởi vậy trong giờ văn các em chỉ
cần học để đối phó khi thầy, cô kiểm tra sát sao hoặc uể oải ngồi nghe mà không chịu ghi
chép. Thậm chí các em còn kiếm cớ trốn giờ học…

Hiện nay, các nhà ngôn ngữ học đã nghiên cứu, tìm hiểu và phát hiện có khoảng 108
phương tiện và biện pháp tu từ và cho đến nay vẫn đang tiếp tục tìm hiểu và nghiên cứu tiếp,
cho nên con số 108 phương tiện và biện pháp tu từ kia có thể còn là đang khiêm tốn. Điều đó
có nghĩa là rất nhiều các biện pháp tu từ đã được các nhà thơ, nhà văn sử dụng sáng tạo trong
2


tác phẩm nghệ thuật được đưa vào chương trình ngữ văn lớp 10 – trung học phổ thông mà các
em không biết, bởi thực tế là học sinh cả hai bậc trung học phổ thông và trung học cơ sở lại
chỉ được học khoảng trên dưới mười biện pháp tu từ, do vậy mà các em hiểu biết rất ít về các
biện pháp tu từ và chưa có một cái nhìn toàn diện về các biện pháp tu từ được học trong nhà
trường
Hơn nữa, học sinh thường cho rằng: tiếng Việt là môn học vừa khô khan vừa khó hiểu nên
các giờ học lí thuyết đa số là các em rất rất ngại học, ít chú ý nghe giảng mà thường làm việc
riêng, nói chuyện…miễn là có mặt trong lớp học cho hết giờ
Một bộ phận rất ít các em có chú ý nghe giảng và nắm được lí thuyết nhưng mà không
chịu làm bài tập ở nhà nên cách học vẹt ấy đã khiến các em không hiểu được bản chất của vấn
đề, không nhận thức được các tấng ý nghĩa của ngôn từ văn chương do vậy hiệu quả học tập
cũng không cao.
Một số em có học thuộc lí thuyết, chịu khó làm bài tập ở nhà và tìm hiểu kiến thức ở sách
giáo khoa song không biết so sánh, đối chiếu, rút ra những điểm giống nhau và khác biệt của
các biện pháp tu từ này nên chỉ làm được các bài tập vận dụng ở sách giáo khoa, còn khi giáo
viên ra các bài tập cùng dạng nhưng chỉ nâng cao một chút là các em thấy khó và không giải
được. Từ thực tế nhiều em không chú ý đến dạng bài tập về biện pháp tu từ nên khi bình
giảng, phân tích thơ văn các em rất lúng túng.
3. Thực trạng của việc thực hành giải các bài tập về biện pháp tu từ: Ẩn dụ, hoán dụ,
phép đối, phép điệp của học sinh lớp 10 THPT, ban cơ bản, trong quá trình học tập
môn ngữ văn.
Trước đây, khi chưa đổi mới phương pháp thì sách giáo khoa chỉ giới thiệu bài
học lí thuyết về các biện pháp tu từ: Ẩn dụ, hoán dụ, phép đối, phép điệp, sau mỗi bài học có

các bài tập luyện tập. Nhưng giáo viên thường quan niệm đây là bài tập để ra về nhà cho các
em nên bỏ qua, không hướng dẫn luyện tập, hoặc cho rằng chỉ cần dạy lí thuyết là đủ nên
không hướng dẫn thực hành. Cũng có trường hợp giáo viên quá chú trọng dạy lí thuyết mà mà
không còn thời gian luyện tập để các em thực hành làm các bài tập. Rồi bài học tiếp theo lại
chuyển sang bài mới. như vậy là phần thực hành đã không được chú trọng quan tâm, làm cho
học sinh ngày càng xa rời việc học tiếng Việt
Hiện nay, sau khi đổi mới phương pháp giảng dạy và thay sách giáo khoa năm
2006-2009, phân phối chương trình đã sắp xếp có một số tiết thực hành cho các bài học tiếng
Việt đặ biệt là các bài học về biện pháp tu từ: Ẩn dụ, hoán dụ, phép đối, phép điệp, do vậy
giáo viên đã có điều kiện thời gian để thực hành giải các bài tập về biện pháp tu từ này. Nhìn
chung giáo viên đã đầu tư thời gian và tâm huyết để hướng dẫn và cùng học sinh thực hành
giải các bài tập về biện pháp tu từ, trong đó có các biện pháp tu từ Ẩn dụ, hoán dụ, phép đối,
phép điệp. Tuy vậy giờ thực hành giải các bài tập về biện pháp tu từ: Ẩn dụ, hoán dụ, phép
đối, phép điệp cũng còn có nhiều hình thức khác nhau.
Về phía giáo viên
Một bộ phận cho rằng áp dụng đổi mới phương pháp giảng dạy trong giờ thực hành bằng
cách giáo viên giải cho các em một bài mẫu, rồi chia nhóm cho cả lớp làm các bài tập còn lại
của bài học và thế là kết thúc tiết dạy cũng không cần chữa thêm bài tập nào cho các em nữa.
Một số khác lại quá chú trọng giảng kĩ lại lí thuyết chiếm nửa thời gian giờ học, do vậy
mà giờ thực hành làm được quá ít bài tập, học sinh ít được rèn luyện về kĩ năng thực hành
Về phía học sinh
3


Trong giờ tực hành, phần đông các em rất lười giải bài tập mà chỉ chờ giáo viên giải sẵn
rồi chép vào vở, như vậy quá trình thực hành các em lại thụ động khi tiếp cận kiến thức
Một số em có làm bài tập được giao nhưng chỉ mang tính đối phó vì sợ giáo viên phê
bình còn việc giải bài tập đúng hay sai cũng không quan trọng, không cần biết. như vậy là
việc thực hành để rèn luyện kĩ năng là không thực sự có hiệu quả
Chưa có được những em có ý thức học tập tốt, đó là trong giờ học lí thuyết phải nắm

vững các đơn vị kiến thức lí thuyết rồi về nhà tự giải các bài tập được giao để khắc sâu kiến
thức và sau đó các em biết vận dụng kiến thức đã tiếp thu để trong giờ thực hành các em giải
được các bài tập từ dễ đến khó. Hơn nữa, qua việc thực hành giải các bài tập về biện pháp tu
từ: Ẩn dụ, hoán dụ, phép đối, phép điệp các em sẽ vận dụng được kiến thức và kĩ năng để cảm
nhận, khám phá và thưởng thức cái hay cái đẹp của một tác phẩm văn chương.Như vậy đa số
các em chưa nắm được tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng thực hành giải các bài tập
về biện pháp tu từ: Ẩn dụ, hoán dụ, phép đối, phép điệp nên các em chưa học tốt được bộ môn
ngữ văn. Đây chính là điều làm tôi băn khoăn suy nghĩ rất nhiều về vấn đề này
Khảo sát chất lượng ở 4 lớp vào đầu năm học tôi đã thu được kết quả như sau:
Lớp

Sĩ số

Ban

Loại giỏi

Loại khá

Loại TB

Loại yếu

10B3

54 em

Cơ bản

Không


10 em

28 em

6 em

10B4

45 em

Cơ bản

Không

12 em

26 em

7 em

10B6

45 em

Cơ bản

Không

11em


23 em

11 em

10B7

45 em

Cơ bản

3 em

14 em

25 em

3 em

Trước thực trạng đó, tôi đã nhận thức rằng: Rèn luyện kĩ năng về tiếng Việt, đặc biệt là
kĩ năng thực hành giải các bài tập về biện pháp tu từ: Ẩn dụ, hoán dụ, phép đối, phép điệpcho
các em học sinh lớp 10 ban cơ bản là một vấn đề quan trọng và cấp thiết để giúp các em đạt
hiệu quả cao trong học tập môn ngữ văn. Từ nhận thức này tôi đã cố găng trong công tác
giảng dạy nhiều hơn để giúp các em học tập
4. Mục đích viết sáng kiến kinh nghiệm.
Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy rằng: Hướng dẫn học sinh giải bài tập về các biện
pháp tu từ: Ẩn dụ, hoán dụ, phép đối, phép điệp, đây là một đề tài nhằm trao đổi với các đồng
nghiệp về những suy nghĩ và kinh nghiệm của bản than để nâng cao hiệu quả của việc giảng
dạy môn ngữ văn ở nhà trường, đặc biệt là chương trình ngữ văn lớp 10, ban cơ bản.
Viết về đề tài này, bản thân tôi nhằm thể hiện nhận thức bước đầu về kiến thức lí thuyết

tiếng Việt để áp dụng vào thực hành trong các giờ thực hành, luyện tập
Từ những kinh nghiệm của giáo viên, giúp các em nhận biết nhanh chóng, chính xác và
giải được các dạng bài tập về biện pháp tu từ như: Ẩn dụ, hoán dụ, phép đối, phép điệp một
cách thuần thục. Qua việc phân tích, tìm hiểu các biện pháp tu từ nói chung và các biện pháp
tu từ: “Ẩn dụ, hoán dụ, phép đối, phép điệp nói riêng, giúp các em học sinh nhận biết được
các tầng ý nghĩa hàm ẩn trong một đơn vị ngôn từ, nhờ đó các em thấy được cái hay, cái đẹp
của một tác phẩm văn chương, yêu thích học văn và thấy khoái cảm khi đọc – hiểu các tác
phảm văn chương.

4


Phần II. Giải quyết vấn đề
1. Một số giải pháp khi hướng dẫn học sinh giải bài tập về các biện pháp tu từ: Ẩn dụ,
hoán dụ, phép đối, phép điệp.
1.1.Giúp học sinh nắm vững kiến thức về lí thuyết mà trước hết là các khái niệm về các
biện pháp tu từ.
Muốn làm được điều này giáo viên có thể yêu cầu học sinh nhắc lại các khái niệm về
các biện pháp tu từ ngay ở đầu giờ. Đây cũng là cách kiểm tra bài cũ của các em
Khái niệm về biện pháp tu từ ẩn dụ:
Ẩn dụ là một phương thức tu từ sử dụng lối so sánh ngầm mà ở đó hình ảnh được nói
ra gợi cho người đọc liên tưởng, tưởng tượng tới một hình ảnh khác muốn nói tới mà mối
quan hệ giữa chúng là mối quan hệ tương đồng.
Khái niệm về biện pháp tu từ hoán dụ:
Hoán dụ là một phương thức tu từ sử dụng hình ảnh này ngầm thay thế cho một hình
ảnh khác mà ở đó hình ảnh được nói ra và hình ảnh muốn nói đến có mối quan hệ tương
cận.
Khái niệm về phép điệp
Phép điệp là phương thức tu từ lặp lại một yếu tố diễn đạt (Từ, ngữ. câu, vần, nhịp…)
nhằm nhấn mạnh, biểu đạt cảm xúc và ý nghĩa, có khả năng gợi hình tượng

Khái niệm về phép đối
Phép đối là một phương thức tu từ sắp xếp các yếu tố ngôn ngữ như: từ ngữ, hình ảnh,
âm thanh, vần nhịp thành hai vế trong câu hoặc giữa các câu trong đoạn… nhằm tạo ra sự
cân xứng hài hòa cho lời thơ, lời văn
Từ những khái niệm nêu trên giúp các em chỉ ra giá trị biểu dạt của từng biện pháp tu
từ
1.2.
Giúp học sinh tìm hiểu và nhận thức được vị trí vai trò và tầm quan trọng của
việc rèn luyện kĩ năng thực hành giải bài tập về các biện pháp tu từ: Ẩn dụ, hoán dụ,
phép đối, phép điệp
Học lí thuyết chỉ là bước đầu tiếp cận kiến thức. Còn thực hành là bước tiếp theo, là khâu
quan trọng, quyết định để khắc sâu kiến thức của mỗi học sinh về bài học lí thuyết ấy
Thực hành về các biện pháp tu từ nói chung và thực hành giải bài tập về các biện pháp
tu từ: Ẩn dụ, hoán dụ, phép đối, phép điệp nói riêng là những đơn vị kiến thức quan trọng, nó
giống như chiếc chìa khóa để mở ra các tầng ý nghĩa của hình ảnh thơ văn cũng như cái hay,
cái đẹp của văn chương nghệ thuật. Nếu không nắm vững và giải được các biện pháp tu từ thì
cảm thu phân tích văn chương sẽ là sáo rỗng
1.3.

Giúp học sinh nhận diện các dạng khác nhau của từng biện pháp tu từ.

Trong mỗi biện pháp tu từ lại được phân làm nhiều loại khác nhau, học sinh không
chỉ nắm được khái niệm của từng biện pháp tu từ mà còn nhận diện các dạng khác nhau
của từng biện pháp tu từ.
Ví dụ:
5


Ở biện pháp tu từ ẩn dụ được phân làm nhiều loại khác nhau như:
-


Ẩn dụ từ vựng

-

Ẩn dụ tu từ

-

Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
Ở phép điệp cũng được phân làm nhiều loại khác nhau như:
- Điệp từ
- Điệp ngữ
- Điệp cấu trúc cú pháp
- Điệp vòng tròn:
- Trùng điệp...

...
Với những nội dung phân loại như trên người thầy cần phải giúp các em nắm được
khái niệm và nhận diện được các dạng khác nhau của từng biện pháp tu từ, có như vậy các
em mới vận dụng kiến thức để giải được các dạng bài tập .
1.4. Giúp học sinh chỉ ra điểm giống nhau và khác nhau của biện pháp tu từ.
Ví dụ Phân biệt sự giống nhau và khác nhau của biện pháp tu từ ẩn dụ và hoán dụ)
* Giống nhau: Đều là những phương thức tu từ mượn hình ảnh này để nói đến hình ảnh
khác
* Khác nhau:
Ẩn dụ

Hoán dụ


- Dựa trên quan hệ liên tưởng tương đồng
giữa hai đối tượng, bằng so sánh ngầm (tức
là mối quan hệ giữa cái được nói ra và cái
muốn nói tời là mối quan hệ tương đồng giống nhau)

- Dựa trên quan hệ liên tưởng tương cận giữa
hai đối tượng, không sử dụng so sánh (tức là
mối quan hệ giữa cái được nói ra và cái
muốn nói tới là mối quan hệ tương cận - gần
nhau)

- Thường có sự chuyển trường nghĩa

- Không chuyển trường mà cùng trong một
trường nghĩa

1.5. Giáo viên cần phân bổ thời gian hợp lí cho tiết dạy
Mỗi tiết học, giáo viên chỉ dành từ 5 → 10 phút về kiến thức lí thuyết còn lại khoảng từ
35→ 40 phút dành cho các nhóm làm các dạng bài tập theo nhóm nêu trên rồi chia bảng 3
phần, gọi 3 em đại diện cho 3 nhóm lên bảng để giải bài tập, sau đó giáo viên chữa từng bài,
nhận xét và chỉ ra lỗi ở bài làm của các em rồi tùy vào mức độ chất lượng bài làm mà cho
điểm khuyến khích những em làm bài chất lượng khá rồi lấy điểm vào cột điểm miệng; Sau
mỗi bài học cần cũng cố kiến thức lí thuyết và ra thêm các dạng bài tập về nhà.

6


1.6 . Sau từng bài học về mỗi biện pháp tu từ giáo viên cần có hệ thống câu hỏi và ra dạng
bài tập để học sinh làm đề cương ôn tập cuối mõi học kì
1.7 . Trong cấu trúc chương trình ở các lớp có tự chọn, giáo viên cần dành một số tiết tự

chọn nhất định để hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập giái các bài tập về các biện
pháp tu từ ẩn dụ, hoán dụ, phép đối, phép điệp
2. Rèn luyện kĩ năng thực hành giải bài tập về các biện pháp tu từ: Ẩn dụ, hoán dụ, phép
đối, phép điệp cho học sinh lớp 10 ban cơ bản
2.1. Giáo viên giúp học sinh giải các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp
Ví dụ: Đối với biện pháp tu từ ẩn dụ có thể ra các bài tập sau:
-

Dạng dễ: Hãy chỉ ra hình ảnh ẩn dụ ở những câu sau:
Thuyền ơi có nhớ bến không
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền (Ca dao)

Học sinh phải chỉ ra được các hình ảnh “Thuyền - Bén” là những hình ảnh ẩn dụ
- Dạng khó hơn: Hày phân tích ý nghĩa biểu đạt của biện pháp tu từ ẩn dụ ở câu sau:
Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu về đâu

(Xuân Quỳnh)

Học sinh phải chỉ ra được các hình ảnh “Thuyền – Biển” có mối quan hệ gắn bó, đây là
những hình ảnh ẩn dụ khiến ta liên tưởng đến tâm trạng, tình cảm của trai gái yêu nhau
Giáo viên cũng có thể lựa chọn các bài tập về các biện pháp tu từ hoán dụ, phép đối,
phép điệp từ đễ đến khó như vậy
2.2. Thống kê các dạng bài tập về các biện pháp tu từ này ở SGK và hướng dẫn cách giải
bài tập nâng cao theo một hệ thống mà giáo viên đã sắp xếp
Ví dụ: * Phép điệp:
- Điệp từ: “ Tre xung phong vào xe tăng đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà
tranh, giữ đồng lúa chin” (Nguyễn Duy)

- Điệp ngữ: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay,
một dân tộc đã gan góc đứng vè phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó
phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập ” (Hồ Chí Minh)
- Điệp vòng:

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai” (Đặng Trần Côn)

-

Trùng điệp:

“Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm
7


Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng” (Đặng Trần Côn)
Giáo viên cũng có thể lựa chọn các bài tập về các biện pháp tu từ ẩn dụ, hoán dụ, phép
đối theo hệ thống và nâng cao như vậy
2.3. Giúp các em học sinh giải dạng bài tập dễ có sự nhầm lẫn trong sự đối chiếu, so sánh
giữa hai biện pháp tu từ có điểm giống nhau như Ẩn dụ, hoán dụ.
Ví dụ: Chỉ ra và phân tích tác dụng biểu đạt của biện pháp tu từ ẩn dụ và hoán dụ ở các
câu sau:
- Sống trong cát chết vùi trong cát
Những trái tim như ngọc sáng ngời (Tố Hữu)
Hình ảnh “Trái tim” là một hoán dụ được dung để thay thế cho con người rất dễ khiến
các em có sự nhầm lẫn với ẩn dụ

-

Ngoài thềm rời chiếc lá đa

Tiếng rơi rất mỏng như là rời nghiêng (Trần Đăng Khoa)
Âm thanh “Tiếng rơi rất mỏng” là ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mà các em rất khó
phát hiện ra, hoặc nhầm lẫn là nhân hóa …
2.4.

Phân nhóm đối tượng để giải bài tập

Giáo viên cần nhóm những em khá làm một số bài tập nâng cao; nhóm các em trung bình
giải bài tập ở SGK; còn những em yếu cần đưa ra những bài tập dễ để khắc sâu kiến thức lí
thuyết và giáo viên cần chú ý đến những em học yếu và trung bình để nâng cao kiến thức cho
các em và cũng là nâng cao chất lượng mặt bằng lớp học
3. Kết quả
Rèn luyện kĩ năng thực hành giải bài tập về các biện pháp tu từ: Ẩn dụ, hoán dụ, phép
đối, phép điệp tôi đã thu được kết quả là:
Bước đầu các em đã có được kĩ năng thực hành giải bài tập về các biện pháp tu từ: Ẩn dụ,
hoán dụ, phép đối, phép điệp
Hầu hết học sinh đã nhận diện và giải đươc các biện pháp tu từ một cách thuần thục. Nhờ
đó mà các em đaz cảm nhận được cái hay, cái đẹp của một đơn vị thơ văn hoặc một tác phẩm
văn chương
Khảo sát chất lượng ở 4 lớp vào cuối năm học tôi đã thu được kết quả như sau:
Lớp

Sĩ số

Ban


Loại giỏi

Loại khá

Loại TB

Loại yếu

10B3

54 em

Cơ bản

3 em

12 em

29 em

Không

10B4

45 em

Cơ bản

1 em


14 em

30 em

Không

10B6

45 em

Cơ bản

2 em

14 em

29 em

Không

10B7

45 em

Cơ bản

2 em

15 em


28 em

Không

8


Phần thứ 3: Kết luận
Dạy ngữ văn là giúp học sinh khám phá cái hay cái đẹp của tác phẩm văn chương và hình
thành một số kĩ năng thực hành
Trong quá trình giảng dạy, người giáo viên giữ một vị trí, vai trò quan trong giúp học
sinh khám phá cái hay cái đẹp của tác phẩm văn chương và hình thành một số kĩ năng thực
hành, trong đó có kĩ năng thực hành giải bài tập về các biện pháp tu từ: Ẩn dụ, hoán dụ, phép
đối, phép điệp.
Muốn có hiệu quả cao trong giảng dạy giúp học sinh có được kiến thức và kĩ năng tốt,
người giáo viên phải tâm huyết, say mê nghề nghiệp có nhiều suy nghĩ, trăn trở tìm tòi, đổi
mới phương pháp cho từng bài dạy phù hợp với đối tương của học sinh.. Một trong những
đơn vị kiến thức quan trong quyết định giúp các em khám phá cái hay, cái đẹp của tác phẩm
văn chương là phải rèn luyện cho được ở các em kĩ năng thực hành giải bài tập về các biện
pháp tu từ trong đó có biện pháp tu từ ẩn dụ, hoán dụ, phép đối, phép điệp
Làm tốt được điều nêu trên là người giáo viên đã giúp các em yêu thích học văn chương.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi đã tích lũy được trong quá trình giảng
dạy ở trường THPT. Tôi mong muốn được các bạn đồng nghiệp góp ý để hoàn thiện hơn. Xin
chân thành cảm ơn.
Yên Định ngày 6 tháng 5 năm 2011
Người viết

Hoàng Thị Dung

MỤC LỤC

Phần I: Đặt vấn đề.
1. Lí do chọn đề tài
2. Những thuận lợi và khó khăn.
1.1. Thuận lợi.
1.2. Khó khăn

9


3. Thực trạng của việc thực hành giải các bài tập về biện pháp tu từ: Ẩn dụ, hoán dụ,
phép đối, phép điệp của học sinh lớp 10 THPT, ban cơ bản, trong quá trình học tập
môn ngữ văn.
4. Mục đích viết sáng kiến kinh nghiệm.
Phần II. Giải quyết vấn đề
1. Một số giải pháp khi hướng dẫn học sinh giải bài tập về các biện pháp tu từ: Ẩn dụ,
hoán dụ, phép đối, phép điệp.
1.1.Giúp học sinh nắm vững kiến thức về lí thuyết mà trước hết là các khái niệm về các
biện pháp tu từ.
1.2. Giúp học sinh tìm hiểu và nhận thức được vị trí vai trò và tầm quan trọng của việc rèn
luyện kĩ năng thực hành giải bài tập về các biện pháp tu từ: Ẩn dụ, hoán dụ, phép đối, phép
điệp
1.3. Giúp học sinh nhận diện các dạng khác nhau của từng biện pháp tu từ.
1.4. Giúp học sinh chỉ ra điểm giống nhau và khác nhau của biện pháp tu từ.
1.5 Giáo viên cần phân bổ thời gian hợp lí cho tiết dạy
1.6 Sau từng bài học về mỗi biện pháp tu từ giáo viên cần có hệ thống câu hỏi và ra dạng
bài tập để học sinh làm đề cương ôn tập cuối mõi học kì
1.7.. Trong cấu trúc chương trình ở các lớp có tự chọn, giáo viên cần dành một số tiết tự
chọn nhất định để hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập giái các bài tập về các biện pháp tu
từ ẩn dụ, hoán dụ, phép đối, phép điệp
2. Rèn luyện kĩ năng thực hành giải bài tập về các biện pháp tu từ: Ẩn dụ, hoán dụ, phép đối,

phép điệp cho học sinh lớp 10 ban cơ bản
2.1. Giáo viên giúp học sinh giải các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp
2.2. Thống kê các dạng bài tập về các biện pháp tu từ này ở SGK và hướng dẫn cách giải
bài tập nâng cao theo một hệ thống mà giáo viên đã sắp xếp
2.3. Giúp các em học sinh giải dạng bài tập dễ có sự nhầm lẫn trong sự đối chiếu, so sánh
giữa hai biện pháp tu từ có điểm giống nhau như Ẩn dụ, hoán dụ.
2.4. Phân nhóm đối tượng để giải bài tập
3. Kết quả

Phần 3: Kết luận

10


11



×