Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Đánh giá hiệu quả một số mô hình khuyến lâm trồng cây lâm sản ngoài gỗ (ba kích, mây nếp, tre bát độ) tại tỉnh quảng ninh, giai đoạn 2006 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.21 MB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN VĂN KIÊM

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ MỘT SỐ MÔ HÌNH KHUYẾN LÂM
TRỒNG CÂY LÂM SẢN NGOÀI GỖ (BA KÍCH, MÂY NẾP,
TRE BÁT ĐỘ) TẠI TỈNH QUẢNG NINH, GIAI ĐOẠN 2006 - 2011

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN VĂN KIÊM

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ MỘT SỐ MÔ HÌNH KHUYẾN LÂM
TRỒNG CÂY LÂM SẢN NGOÀI GỖ (BA KÍCH, MÂY NẾP,
TRE BÁT ĐỘ) TẠI TỈNH QUẢNG NINH, GIAI ĐOẠN 2006 - 2011

Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng
Mã số: 60 62 02 11



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN MINH HỢI

Hà Nội, 2013


i
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành tại Trường Đại học Lâm nghiệp theo
chương trình đào tạo Cao học khoá 19 (2011 - 2013).
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tác giả xin chân thành
cảm ơn sự quan tâm, tận tình giúp đỡ của các thầy, cô giáo; các cán bộ công
nhân viên Trường Đại học Lâm nghiệp đã giúp đỡ tác giả rất nhiều.
Trong đó, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới PGS.TS. Trần
Minh Hợi - người hướng dẫn khoa học, đã dành nhiều thời gian hướng dẫn,
tận tình giúp đỡ, truyền đạt những kiến thức quí báu và dành cho tác giả
những tình cảm tốt đẹp trong suốt thời gian công tác, học tập cũng như trong
thời gian thực hiện luận văn. Tấm gương lao động và các ý tưởng khoa học
mới của thầy là bài học quí giá đối với bản thân tác giả.
Xin chân thành cảm ơn các cán bộ Khoa Đào tạo Sau đại học đã tạo mọi
điều kiện giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian học tập và làm luận văn.
Tác giả xin cảm ơn cán bộ viên chức Trung tâm Khuyến nông Khuyến
ngư tỉnh Quảng Ninh, Trạm khuyến nông các huyện Hải Hà, Bình Liêu, Ba
Chẽ, Hoành Bồ, Vân Đồn, Cô Tô, Móng Cái, Đông Triều, UBND và những
các hộ gia đình các xã Quảng Sơn, Nam Sơn, Đồng Văn, Đồng Lâm, , Vạn
Yên, Thanh Lâm, Ninh Dương, Vĩnh Thực, Tân Việt, Thanh Sơn, đã cung
cấp thông tin và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác giả triển khai thu thập số

liệu ngoại nghiệp phục vụ cho luận văn.
Tôi xin cam đoan số liệu dẫn chứng là trung thực, các kết quả nghiên cứu là
của riêng tôi và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu
nào khác.
Hà nội, ngày 5 tháng 6 năm 2013
Tác giả
Nguyễn Văn Kiêm


ii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn ......................................................................................................... i
Mục lục .............................................................................................................. ii
Danh mục các từ viết tắt.................................................................................... v
Danh mục các bảng .......................................................................................... vi
Danh mục các hình .........................................................................................vii
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .............................. 3
1.1. Khái niệm và một số định nghĩa về khuyến lâm .................................... 3
1.2. Lịch sử và hoạt động khuyến nông khuyến lâm ở trên thế giới và ở
Việt Nam ....................................................................................................... 3
1.2.1. Lịch sử và hoạt động khuyến nông khuyến lâm trên thế giới........ 3
1.2.2. Lịch sử và hoạt động khuyến nông khuyến lâm ở Việt Nam ...... 10
1.3. Về khuyến lâm ..................................................................................... 16
1.4. Nhận xét, đánh giá chung ..................................................................... 17
Chương 2. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ................................................................................................ 19
2.1. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................. 19

2.1.1. Mục tiêu tổng quát ........................................................................ 19
2.1.2. Mục tiêu cụ thể .............................................................................. 19
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................ 19
2.3. Nội dung nghiên cứu ............................................................................ 19
2.4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................... 20
2.4.1. Quan điểm và cách tiếp cận .......................................................... 20
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể .................................................... 21


iii
Chương 3. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ- XÃ HỘI KHU VỰC
NGHIÊN CỨU VÀ THỰC TRẠNG NGÀNH LÂM NGHIỆP CỦA TỈNH . 25
3.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................ 25
3.1.1. Vị trí địa lý .................................................................................... 25
3.1.2. Địa hình địa thế. ............................................................................ 26
3.1.3. Khí hậu - thuỷ văn......................................................................... 26
3.1.4. Địa chất - thổ nhưỡng ................................................................... 28
3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ..................................................................... 29
3.2.1. Đặc điểm dân tộc - dân số và lao động ......................................... 29
3.2.2. Thực trạng kinh tế chung của tỉnh ................................................ 30
3.2.3. Thực trạng xã hội và cơ sở hạ tầng ............................................... 31
3.3. Thực trạng ngành lâm nghiệp .............................................................. 32
3.3.1. Hiện trạng sử dụng đất đai và tài nguyên rừng ............................. 32
3.3.2. Hiện trạng sản xuất lâm nghiệp .................................................... 38
3.3.3. Vai trò của ngành LN trong sự phát triển KTXH của tỉnh ........... 41
Chương 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 44
4.1. Thực trạng tổ chức triển khai xây dựng mô hình khuyến lâm trồng cây
LSNG ở tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006-2011. ........................................ 44
4.2. Kết quả của các mô hình ...................................................................... 45
4.2.1. Tổ chức triển khai xây dựng và quản lý mô hình khuyến lâm............. 45

4.2.2 Đánh giá kết quả chuyển giao ........................................................ 60
4.3. Đánh giá tác động của một số mô hình Mây nếp, tre Bát độ, Ba kích tại
tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn 2006 – 2011. ................................................... 69
4.3.1. Tác động về xã hội ........................................................................ 69
4.3.2. Tác động tới phát triển kinh tế - xã hội ......................................... 74
4.4. Phân tích thuận lợi, khó khăn trong xây dựng các mô hình khuyến lâm... 76
4.4.3. Cơ hội: ............................................................................................... 83


iv
4.4.4. Thách thức ..................................................................................... 84
4.5. Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác
xây dựng mô hình khuyến lâm và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong lâm
nghiệp, làm cơ sở nhân rộng ....................................................................... 84
4.5.1. Giải pháp về tổ chức thực hiện hoàn thiện bộ máy khuyến nông . 84
4.5.2. Giải pháp về phát triển nguồn lực con người................................ 85
4.5.3. Giải pháp về kỹ thuật .................................................................... 86
4.5.4. Giải pháp về chính sách ................................................................ 86
4.5.5. Giải pháp về cách thức triển khai ................................................. 87
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ......................................................................... 93
1. Kết luận ................................................................................................... 93
2. Kiến nghị ................................................................................................. 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO


v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu

TT


Giải thích

1

C/b

Cây/bụi

2

D/b

Dây/bụi

3

D1.3

Đường kính 1.3 mét

4

D00

Đường kính gốc

5

HVN


Chiều cao vút ngọn

6

KNKL

Khuyến nông khuyến lâm

7

LSNG

Lâm sản ngoài gỗ

8

NL

Nguyên liệu

9

NLKH

Nông lâm kết hợp

10

TBKT


Tiến bộ kỹ thuật

11

OTC

ô tiêu chuẩn

12



Quyết định

13

TT

Thông tư

14

NN&PTNT

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

15

UBND


Ủy ban nhân dân

16

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

17

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

18

KTXH

Kinh tế xã hội

19

KNQG

Khuyến nông quốc gia

20

NSTW


Ngân sách trung ương

21

HTX

Hợp tác xã

22

CCRĐ

Cải cách ruộng đất


vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng

TT

Trang

3.1

Diện tích các loại đất, loại rừng

33


3.2

Hiện trạng đất lâm nghiệp phân theo 3 loại rừng

35

3.3

Phân loại đất lâm nghiệp theo chủ quản lý

37

3.4

Giá trị sản xuất lâm nghiệp phân theo ngành lâm nghiệp

42

4.1

Thông tin về đối tượng điều tra đánh giá

43

4.2

Định mức triển khai xây dựng mô hình

48


4.3

Hoạt động tập huấn kỹ thuật trong mô hình khuyến lâm

52

4.4

Hoạt động thông tin tuyên truyền trong mô hình khuyến lâm

54

4.5

Một số yêu cầu kỹ thuật đối với cây trong mô hình khuyến lâm

58

4.6

Kết quả xây dựng mô hình

61

4.7

Kết quả điều tra các chỉ tiêu sinh trưởng

63


4.8

Nhận thức của người dân khi có mô hình khuyến lâm

70

4.9

Nhân rộng mô hình khuyến lâm

72


vii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Tên hình

TT

Trang

2.1

Sơ đồ các nội dung đánh giá

21

4.1

Tổ chức thăm quan, hội thảo đầu bờ.


50

4.2

Biểu đồ so sánh Hvn loài cây Mây nếp tuổi 5 giữa hai loại mô hình

64

4.3

Biểu đồ so sánh sản lượng loài cây Mây nếp tuổi 5 giữa hai

64

loại mô hình
4.4

Mô hình khuyến lâm

65

4.5

Mô hình đại trà

65

4.6


Mô hình khuyến lâm

66

4.7

Mô hình đại trà

66

4.8

Biểu đồ so sánh Hvn loài cây tre Bát độ tuổi 3 giữa hai loại mô hình

66

4.9

Biểu đồ so sánh trọng lượng măng loài cây tre Bát độ tuổi 3

66

giữa hai loại mô hình
4.10 Mô hình khuyến lâm

67

4.11 Mô hình đại trà

67


4.12 Biểu đồ so sánh Hvn loài Ba kích tuổi 4 giữa hai loại mô hình

68

4.13 Biểu đồ So sánh trọng lượng củ Ba kích tuổi 4 giữa hai loại

68

mô hình
4.14 Tập huấn kỹ thuật xây dựng mô hình

71

4.15 Hiệu quả kinh tế từ mô hình trồng tre Bát Độ

74


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dân số nước ta vào khoảng 86 triệu người, trong đó có khoảng 6 triệu hộ
gia đình sống tại vùng miền núi (25 triệu người). Các xã nghèo miền núi có
diện tích chiếm khoảng 50 % tổng diện tích tự nhiên của cả nước, trong đó 66
% là rừng và đất rừng. Người dân và các cộng đồng ở miền núi sống phụ
thuộc vào rừng, tuy nhiên hiện nay các dân tộc thiểu số có tỷ lệ hộ nghèo cao
nhất trong cả nước.
Phát triển Khuyến lâm là một trong những nhiệm vụ chiến lược phát
triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020 đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt ngày 5/2/2007 là: Nâng cao trình độ chuyên môn về quản lý,

bảo vệ rừng cho 80% hộ nông dân; Thu hút 50% thành phần kinh tế khu vực
tư nhân và các tổ chức đoàn thể tham gia các hoạt động khuyến lâm; Bố trí ít
nhất một cán bộ khuyến lâm chuyên trách hoặc kiểm lâm cho mỗi xã nhiều
rừng và tăng cường năng lực cho hệ thống khuyến lâm tự nguyện; Cải tiến và
cập nhật nội dung, phương pháp khuyến lâm để phù hợp với trình độ của
nông dân, đặc biệt hộ nghèo và dân tộc ít người; Xây dựng mối liên kết giữa
hệ thống khuyến lâm và đào tạo với các chủ rừng và doanh nghiệp chế biến
lâm sản.
Từ những nhiệm vụ trong Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn
2006-2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phê duyệt Đề án phát
triển khuyến lâm giai đoạn 2008-2010 và định hướng đến năm 2020 với mục
tiêu trung hạn là: Phát triển nguồn nhân lực cho đội ngũ làm công tác khuyến
lâm từ Trung ương đến thôn bản, ưu tiên cho khuyến lâm cơ sở; thúc đẩy quá
trình chuyển giao các kết quả nghiên cứu cho nông dân; Tăng cường đào tạo,
huấn luyện và nâng cao nhận thức cho các chủ rừng; Phát triển tổ chức và
tăng cường xã hội hoá công tác khuyến lâm.


2
Trong những năm qua Nhà nước có nhiều chính sách phát triển kinh tế
xã hội, có liên quan đến phát triển lâm nghiệp như các chương trình 327, 661,
135, 134, 30a,… Với mục tiêu xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững cho
miền núi, thông qua nhiều phương pháp tiếp cận chuyển giao tiến bộ khoa học
kỹ thuật khác nhau trong đó nhiều mô hình khuyến lâm đã được triển khai xây
dựng ở các địa phương. Kinh phí cho hoạt động khuyến lâm ngày càng tăng,
tính từ 2006 - 2011 đã có trên 98 tỷ đồng từ kinh phí khuyến lâm trung ương
được đầu tư triển khai cho các mô hình khuyến lâm tại địa phương. Trong đó
tỉnh Quảng Ninh được đầu tư với kinh phí là 3,35 tỷ đồng cho các mô hình
khuyến lâm đặc biệt là mô hình trồng cây lâm sản ngoài gỗ. Tuy nhiên, hiện
nay chưa có một công trình nghiên cứu đánh giá nào một cách có hệ thống và

đầy đủ về các mô hình khuyến lâm đã được xây dựng, những khó khăn, bất
cập gì trong quá trình chuyển giao? Qua đó, cung cấp cho các nhà quản lý
những thông tin đầy đủ, khách quan để hoạch định những chính sách, kế
hoạch khuyến lâm phù hợp cho giai đoạn 2012 - 2020. Xuất phát từ thực tiễn
đó, đề tài “Đánh giá hiệu quả một số mô hình khuyến lâm trồng cây lâm
sản ngoài gỗ (Ba kích, Mây nếp, Tre bát độ) tại tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn
2006 - 2011” được thực hiện là cần thiết và có ý nghĩa.


3
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm và một số định nghĩa về khuyến lâm
- Khuyến lâm là cách đào tạo và rèn luyện tay nghề cho nông dân, đồng
thời giúp cho họ hiểu được những chủ trương, chính sách về nông nghiệp,
những kiến thức về kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, những thông tin thị trường,
để họ có đủ khả năng tự giải quyết được các vấn đề của gia đình và cộng đồng
nhằm đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, góp phần xây
dựng và phát triển nông thôn.
- Khuyến lâm là một quá trình chuyển giao kiến thức, đào tạo kỹ năng và
những điều kiện vật chất cần thiết cho nông dân để họ có đủ khả năng quản lý
và bảo vệ được nguồn tài nguyên rừng tại cộng đồng.
- Khuyến lâm là cách giáo dục ngoài học đường cho nông dân. Là quá
trình vận động, quảng bá, khuyến cáo,.. cho nông dân theo nguyên tắc tự
nguyện, không áp đặt; đồng thời đó là quá trình tiếp thu kiến thức và kỹ năng
một cách dần dần và tự giác của nông dân.
1.2. Lịch sử và hoạt động khuyến nông khuyến lâm ở trên thế giới và ở
Việt Nam
1.2.1. Lịch sử và hoạt động khuyến nông khuyến lâm trên thế giới
1.2.1.1. Anh

Ngày 01/9/1919, Luật Lâm nghiệp đã có hiệu lực và Ủy ban Lâm nghiệp
(Khuyến lâm) được thành lập, chịu trách nhiệm về rừng ở Anh, Scotland,
Wales và Ireland. Toàn bộ tổ chức thành mười phòng với 29 nhân viên cấp
trung ương và cấp huyện và 110 kiêm lâm viên.
Sau 10 năm đã có 152 khu rừng được quản lý với diện tích khoảng
600.000 mẫu Anh và hơn 138,000 mẫu Anh đã được trồng.
Năm 1939, Ủy ban Lâm nghiệp tách thành Cục Kiểm lâm, và Cục


4
Khuyến lâm. Sau 90 năm hệ thống khuyến lâm được thành lập, hoạt động
khuyến lâm đã góp phần nâng tỷ lệ che phủ rừng của toàn nước Anh lên 5%,
hiện có khoảng 2.982.000 ha, chiếm 13% diện tích đất của nước Anh [17]).
1.2.1.2. Nhật Bản
Hoạt động khuyến nông lâm của Nhật Bản được hình thành và đi vào
hoạt động từ những năm 1900. Lúc đầu khuyến nông lâm được thực hiện bởi
các trường học và các trang trại của chính phủ thông qua việc tiến hành thử
nghiệm và đưa các công nghệ mới vào sản xuất. Cùng với sự phát triển của
nông nghiệp, lâm nghiệp hoạt động khuyến nông lâm ở Nhật đã được chính
thức hóa bằng pháp luật và đội ngũ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm được
xây dựng và củng cố. Các giai đoạn tiếp theo, do sự cải cách hệ thống xã hội,
nông dân đã buộc phải áp dụng các hướng dẫn kỹ thuật và kiến nghị của cán
bộ khuyến nông lâm - được gọi là "Khuyến nông bắt buộc". Đến năm 1948,
dịch vụ khuyến nông chính thức được khôi phục tại Nhật Bản với tên gọi là
“Dịch vụ Khuyến nông Hợp tác xã” và phát triển đến nay.
Dịch vụ khuyến nông tại Nhật Bản có ba vai trò chính: (1) là để cải thiện
kỹ thuật sản xuất nông lâm nghiệp, (2) là cải thiện các tiêu chuẩn sống của
cộng đồng dân cư ở các vùng nông thôn và (3) là giáo dục thế hệ trẻ ở nông
thôn.
Hệ thống tổ chức: Bộ Lâm nghiệp, Nông nghiệp và Thủy sản (MAFF)

theo Hà Thanh Tùng (2010) [13] là cơ quan giúp Chính phủ Nhật bản thực
hiện dịch vụ khuyến nông lâm trên phạm vi toàn quốc. Đội ngũ cán bộ
khuyến nông lâm của Nhật Bản hiện nay có khoảng 10.000 người, Đội ngũ
cán bộ này làm việc như các chuyến gia cố vấn và được phân bổ chủ yếu ở 47
cơ quan khuyến nông cấp tỉnh và 630 cơ quan khuyến nông lâm cấp huyện. Mỗi
tỉnh có một trung tâm đào tạo nông dân.
Chính sách hỗ trợ:


5
+ Chính phủ tạo hành lang pháp lý về khuyến nông lâm, phát triển nông
thôn, với phương châm “thể chế mạnh và minh bạch”;
+ Kinh phí: hỗ trợ 40% kinh phí cho các hoạt động dịch vụ khuyến nông
của các tổ chức khuyến nông địa phương. Phần còn lại là sự đóng góp của
người dân hoặc doanh nghiệp và thậm chí là sự huy động của tổ chức khuyến
nông lâm.
1.2.1.3. Mỹ
Hoạt động khuyến nông, khuyến lâm nước Mỹ được hình thành từ năm
1843 theo tác giả Alfred Charles True (1928) [16] viết trong cuốn Lịch sử
khuyến nông nước Mỹ.. Khởi đầu tại NewYork nhà nước cấp kinh phí cho
Hội đồng bang thuê những nhà khoa học nông nghiệp có kỹ năng thực hành
tốt làm giảng viên khuyến nông xuống các thôn xã đào tạo những kiến thức
về khoa học và thực hành nông lâm nghiệp cho nông dân.
Từ cuối năm 1980 Chính phủ Mỹ đã quan tâm đến công tác đào tạo
khuyến nông lâm trong trường đại học. Năm 1891 bang NewYork đã hỗ trợ
10.000 USD cho công tác đào tạo khuyến nông lâm đại học. Đến năm 1907 ở
Mỹ đã có 42 trường/39 bang có đào tạo khuyến nông lâm. Năm 1910 có 35
trường có bộ môn khuyến nông, khuyến lâm.
Năm 1914, Mỹ ban hành luật khuyến nông lâm và thành lập Hệ thống
khuyến nông khuyến lâm quốc gia. Giai đoạn này đã có 8861 Hội nông dân,

với khoảng 3.050.150 hội viên.
1.2.1.4. Ấn Độ
Hội khuyến nông Ấn độ được thành lập năm 1820 (William Carey khởi
sướng) và đề xuất cải tiến ngành Nông nghiệp. Cục Lâm nghiệp Hoàng gia
được thành lập ở Ấn Độ vào năm 1864. Lâm luật được thông qua năm 1865,
lúc đó Luật này chỉ đơn giản là thiết lập ranh giới chủ rừng, đến 1878 nó được
bổ sung và hoàn thiện. Hệ thống khuyến nông lâm Ấn Độ được thành lập


6
tương đối sớm vào năm 1960. Trong những năm 1970, Ấn Độ tuyên bố chiến
lược dài hạn cho phát triển lâm nghiệp với mục tiêu: giảm xói mòn đất và lũ
lụt, cung cấp cho nhu cầu ngày càng tăng của các sản phẩm ngành công
nghiệp gỗ trong nước và cung cấp các nhu cầu chất đốt của của dân cư nông
thôn, gỗ nhỏ, rừng sản xuất. Ủy ban Quốc gia về Lâm nghiệp được thành lập
năm 1976, các sở lâm nghiệp được tổ chức lại. Thành lập Ủy ban lâm nghiệp
xã hội, với mục tiêu thúc đẩy các hoạt động lâm nghiệp truyền thống và phát
triển rừng cộng đồng thông qua các hoạt động của cơ quan lâm nghiệp cộng
đồng chịu trách nhiệm các trang trại lâm nghiệp, quản lý gỗ, khuyến lâm,
trồng rừng.
Trong năm 1980, lâm nghiệp xã hội được khuyến khích bởi các cơ quan
lâm nghiệp cộng đồng. Chính sách lâm nghiệp quốc gia được phê duyệt năm
1988. một trong những chính sách đó là Chương trình quản lý rừng, trong đó
gắn trách nhiệm cụ thể cho Bộ Lâm nghiệp, từ quản lý các lô rừng cụ thể. Đặc
biệt, việc bảo vệ rừng là trách nhiệm của người dân. Đến năm 1992, mười bảy
tiểu bang của Ấn Độ tham gia vào quản lý rừng. Năm 2006, Luật chủ rừng
được ban hành [19].
1.2.1.5. Trung Quốc
Hệ thống khuyến nông khuyến lâm Trung Quốc được thành lập năm
1970 nhưng công tác đào tạo khuyến nông Trung Quốc rất được quan tâm.

Trung Quốc tổ chức HTX và Công xã nhân dân từ 1951 – 1978 nên giai
đoạn này công tác khuyến nông chỉ triển khai đến HTX. Nội dung khuyến
nông giai đoạn này coi trọng phổ biến đường lối chủ trương nông nghiệp của
Đảng và Chính phủ cũng như chuyển giao TBKT nông nghiệp, xây dựng các
mô hình điểm trình diễn đến thăm quan học tập và áp dụng.
Từ năm 1995 trở đi, Trung Quốc quyết định áp dụng những chính sách
tập trung hỗ trợ nông nghiệp sản xuất sản phẩm chất lượng cao. Các chương


7
trình khuyến nông lâm chuyển giao giống cây rừng, lúa lai chất lượng cao.
Hai mươi năm gần đây, Nhà nước Trung Quốc đã đầu tư đồng bộ cả về hệ
thống tổ chức, cơ sở thiết bị nghiên cứu cho khuyến nông khuyến lâm, nhờ vậy
điều kiện làm việc và mức sống của khuyến nông lâm viên được nâng cao.
Tác giả Phạm Kim Oanh (2004) [10] cho biết tính đến hết năm 1997,
trên toàn đất nước Trung Quốc, đã có tới hơn 48.500 tổ chức khuyến nông
khuyến lâm, với hơn 317 nghìn khuyến nông - khuyến lâm viên (từ trung
ương tới tỉnh, huyện xã và làng bản). Khuyến nông lâm viên phối hợp hoạt
động cùng khoảng 400 nghìn tổ chức nông dân (chiếm 20% số làng ở Trung
Quốc) với hơn một triệu nông dân là kỹ thuật viên và với 6,6 triệu mô hình
trình diễn của nông dân.
1.2.1.6. Campuchia
Công tác khuyến nông lâm của Campuchia do Cục Khuyến nông (DAE)
thuộc Tổng cục Nông nghiệp của Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản
(MAFF) đảm nhiệm. DAE có chức năng quản lý nhà nước về khuyến nông,
phát triển hệ thống khuyến nông từ Trung ương đến cấp huyện, phù hợp với
nhu cầu của Campuchia. Một mục tiêu chiến lược trong phát triển khuyến
nông là xây dựng một hệ thống khuyến nông tới các xã và thôn bản. DAE
triển khai, thúc đẩy và điều phối các hoạt động khuyến nông thông qua các bộ
phận kỹ thuật và các tổ chức, cơ quan nghiên cứu, cơ quan cấp tỉnh, phi chính

phủ và khu vực tư nhân với mục tiêu là lợi ích tốt nhất của các nhà sản xuất,
người nông dân. Hoạt động khuyến nông lâm tại Campuchia sử dụng phương
pháp tiếp cận phát triển hệ thống canh tác qui mô trang trại, đào tạo và
khuyến nông có sự tham gia và cách tiếp cận mở rộng. Trong đó tập trung vào
(i) Lập kế hoạch và đánh giá có sự tham gia, (ii) Phát triển công nghệ có sự
tham gia; (iii) Đào tạo và mở rộng; (iv) Phát triển mở rộng và phổ biến tài
liệu; (v) Phát triển các tổ chức nông dân [11].


8
1.2.1.7. Inđônêsia
Là một nước có nền nông nghiệp tương đối phát triển trong khu vực.
Trung tâm khuyến lâm (thuộc Bộ Lâm nghiệp) quản lý các vấn đề liên quan
đến hoạt động khuyến lâm từ các dịch vụ đến phát triển lâm nghiệp bền vững.
Theo tác giả Nur Hidayat (2009) [18], hiện nay Inđônêsia có trên 30.000 cán
bộ khuyến nông, trong đó có trên 5.200 khuyến lâm viên.
1.2.1.8. Malaysia
Khi nghiên cứu về hoạt động khuyến nông lâm của Malaysia, tác giả Hà
Thanh Tùng (2011)[14] cho biết hình thức triển khai hoạt động khuyến nông
lâm của Malaysia được tổ chức dưới dạng dự án theo các chuyên ngành và
khu vực riêng theo hình thức tư vấn cho trưởng làng/bản hoặc người đứng đầu
doanh nghiệp. Mở các lớp tập huấn cũng được chú trọng trong hoạt động
khuyến nông lâm của Malaysia với các khóa tập huấn mang tính quốc gia, cấp
tỉnh, cấp huyện, cấp xã và theo từng chuyên đề. Hình thức tập huấn chủ yếu là
"đạo tạo tại hiện trường" và "cầm tay chỉ việc". Về nội dung hoạt động khuyến
nông lâm của Malaysia tập trung vào tuyên truyền, giáo dục và đào tạo các kỹ
thuật liên quan đến giấp chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm như GAP,
GMP, truy xuất nguồn gốc, và trang trại hữu cơ.
1.2.1.9. Myanmar
Là đất nước nông nghiệp đóng góp 45,1% GDP, hoạt động khuyến nông

lâm được xem là giải pháp hàng đầu để phát triển nông lâm nghiệp bền vững.
Các hoạt động chủ yếu ở nước này là xây dựng mô hình trình diễn, tập huấn,
và thông tin tuyên truyền. Tại Mi-an-ma đặc biệt quan tâm hệ thống nhóm 10
hộ nông dân, trong đó có 1 nhóm trưởng thường xuyên liên hệ với cán bộ
khuyến nông và chuyên gia. Hệ thống tổ chức khuyến nông lâm của Mi-a-ma
được tổ chức ở Trung ương và 5 trung tâm ở 5 vùng lãnh thổ, các cán bộ
khuyến nông lâm chủ yếu trực thuộc 5 trung tâm vùng này. Các hoạt động


9
xây dựng mô hình, tập huấn cũng được tổ chức tại các trung tâm vùng.
1.2.1.10. Philippin
Hệ thống khuyến nông khuyến lâm được thành lập năm 1976. Hoạt động
khuyến nông lâm của Phi-lip-pin do Viện đào tạo nông nghiệp trực thuộc Cục
Nông nghiệp đảm nhiệm và triển khai các hoạt động về khuyến nông khuyến
lâm. Tại các vùng có 17 trung tâm đào tạo, không tổ chức theo địa danh hành
chính. Hoạt động khuyến nông của Philippin được gọi là “khuyến nông điện
tử” theo nhận xét của Hà Thanh Tùng (2011) [14]. Với hình thức chuyển tải
thông tin và chuyển giao công nghệ chủ yếu thông qua các phương tiện điện
tử như Internet, đài, báo điện tử, truyền hình, băng video và cát-sét. Hầu hết
các nội dung hoạt động khuyến nông lâm đều tập trung vào sản xuất nông lâm
nghiệp hữu cơ, giảm thiểu biến đổi khí hậu và phát triển sinh kế bền vững.
Chính phủ chi phí xây dựng, vận hành hệ thống thông tin, băng đĩa hình,
internet phục vụ khuyến nông. Trong xây dựng mô hình, Chính phủ chỉ hỗ trợ
50% chi phí giống, Cán bộ khuyến lâm của Philippin chủ yếu được đào tạo từ
Trường Đại học Los Banõs.
1.2.1.11. Lào
Lào có mô hình khuyến lâm tương tự như mô hình khuyến lâm của Việt
Nam. Mọi hoạt động khuyến lâm của Lào được điều hành bởi bộ Lâm nghiệp
Lào. Cán bộ khuyến lâm của Lào được đào tạo chủ yếu tại khoa Lâm nghiệp

trường Đại học quốc gia Viêng Chăn, các cán bộ cấp cao đều được sự hỗ trợ
đào tạo tại Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, Viện khoa học Lâm nghiệp Việt
nam.
1.2.1.12. Thái Lan
Thái Lan là quốc gia nông nghiệp với trên 60% dân số sống bằng nghề
nông nghiệp. Điều kiện đất đai, khí hậu nóng ẩm gần tương đồng Việt nam.
Thái Lan là quốc gia hoạt động khuyến nông lâm khá tiêu biểu. Hệ thống


10
khuyến nông nhà nước được thành lập năm 1967.
Hiện Thái lan có 3 tổ chức chính hoạt động có liên quan đế khuyến lâm,
đó là Cục lâm nghiệp Hoàng gia, Hội nông dân, Hội phát triển cộng đồng. Hoạt
động khuyến lâm được thực hiện và chỉ đạo bởi các Phòng lâm nghiệp Quốc
gia, bao gồm 21 cơ quan cấp vùng và 72 cơ quan cấp tỉnh.
Cán bộ khuyến lâm của Thái lan chủ yếu được đào tạo từ Trường Đại
học Kasetsart và Trung tâm Đào tạo Lâm nghiệp cộng đồng RECOFTC.
1.2.2. Lịch sử và hoạt động khuyến nông khuyến lâm ở Việt Nam
1.2.2.1 Trước năm 1993
Cùng với sự phát triển khuyến nông trên thế giới, khuyến nông Việt
Nam hình thành, phát triển.
Tác giả Nguyễn Chí Hải [8] khi nghiên cứu về lịch sử tư tưởng kinh tế
Việt Nam thời kỳ phong kiến cho biết với tư tưởng trọng nông là tư tưởng chủ
đạo và chính sách khuyến nông của nhà nước phong kiến. Các triều đại phong
kiến Việt Nam đã có nhiều biện pháp để khuyến khích nông nghiệp phát triển,
từ việc khuyến khích khai hoang mở rộng diện tích, thực hiện chính sách
"Ngụ binh ư nông", miễn giảm thuế cho nông dân những năm mất mùa hay
sau khi kết thúc các cuộc chiến tranh giữ nước để nuôi dưỡng sức dân, cho
đến việc nhà vua cày ruộng "tịch điền", làm lễ trừ sâu, lễ tế côn trùng, xem
gặt lúa,... Đều nói lên sự quan tâm thường trực của nhà nước phong kiến đối

với việc phát triển nông nghiệp. Có thể nói, chính sách khuyến nông chính là
một trong những chuẩn mực cơ bản để đánh giá năng lực và sự thịnh suy của
các triều đại phong kiến Việt Nam.
- Theo Cổng thông tin điển tử tỉnh Hà Nam [7] và tác giả Đào Xuân Ánh
(2008) [1] khẳng định năm 987, Lê Hoàn là ông vua đầu tiên dưới chế độ
phong kiến Việt Nam tiến hành lễ cày tịch điền, nhằm mục đích khuyến khích
sản xuất nông nghiệp. Ruộng tịch điền thuộc quyền quản lý trực tiếp của triều


11
đình, giống lúa cấy trên ruộng được chọn để cho loại gạo ngon dùng vào việc
tế lễ, đặc biệt là tế thần nông và thần xã tắc. Cày tịch điền dưới thời phong
kiến là một trong những biện pháp khuyến nông.
- Ở thời kỳ nhà Trần (1226) lập ra các chức quan để trong coi việc phát
triển nông nghiệp như: Hà đê sứ, đồn điền sứ, khuyến nông sứ,... Nhờ đó
nông nghiệp Việt Nam lúc bấy giờ phát triển tương đối mạnh, có thể nói là
thời kỳ hưng thịnh của nông nghiệp Việt Nam lúc đó.
- Năm 1475, bên cạnh cải tổ cơ chế Nhà nước, Lê Thánh Tông đặc biệt
chú ý các biện pháp phát triển kinh tế, sửa đổi chế độ thuế khóa, điền địa,
khuyến khích nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, mở đồn điền, khai khẩn đất
hoang. Những nỗ lực nhằm xây dựng phát triển đất nước của Lê Thánh Tông
đã được phản ánh khá rõ qua các bài chiếu, chỉ dụ do ông ban bố, như Chiếu
khuyến nông, Chiếu lập đồn điền, Chiếu định quan chế,... Cùng năm, ông đặt
ra chức quan Hà đê để trông coi đê điều và chức quan Khuyến nông để đôn
đốc nhân dân việc cày cấy.
- Năm 1789 vua Quang Trung ban bố "chiếu khuyến nông" với những
nội dung rất cụ thể như kêu gọi nhân dân tích cực sản xuất, không được bỏ
ruộng hoang, người đi phiêu tán phải trở về quê cũ,… Điểm độc đáo trong
chính sách kinh tế của Quang Trung là "trọng nông" nhưng không "ức
thương". Sau 3 năm có "chiếu khuyến nông", ruộng bỏ hoang đã được phục

hoá, mùa màng bội thu, nông nghiệp được phục hồi và nông dân an cư lạc
nghiệp [3].
- Vua Gia Long (1802 – 1820), sau khi thống nhất đất nước, đã sửa sang
việc triều chính, định binh chế, quan chế, tài chính, đinh điền nông nghiệp,
công vụ, pháp luật, học hành, ngoại giao,… Gia Long là một vị vua coi trọng
khá toàn diện đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Ông đã khoan thư sức
dân (giảm thuế); giữ gìn và mở rộng diện tích, cải tạo đất canh tác nông


12
nghiệp (cấm bán công điền, công thổ; đào sông, thuỷ lợi, trị thuỷ, khai hoang
phục hoá); có chiến lược an ninh lương thực (lập kho dự trữ để cấp phát cho
dân khi mất mùa, đói kém),…
Từ 1820 - 1840, triều đại của Minh Mạng, năm 1821, dựng lại Quốc Tử
Giám, mở thi hội và thi đình. Thực thi các chính sách khuyến nông, tìm hiểu
kỹ thuật đóng tàu của châu Âu.
- Tác giả Lê Sỹ Trung (2010) [12] cho biết vào tháng 4 năm 1945, Hồ
Chủ Tịch trong lễ bế giảng khóa chỉnh huấn cán bộ tại Việt Bắc, Người đã
căn dặn: “Các chú ra về phải làm tốt công tác khuyến nông, ra sức phát triển
nông nghiệp, chống giặc đói, diệt giặc dốt”.
- Năm 1955-1956 chúng ta thực hiện cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu
hiệu “Người cày có ruộng”. Đây là cuộc cách mạng lớn chưa từng có trong
lịch sử nông nghiệp nước ta. Chúng ta đã tịch thu hơn 81 vạn ha ruộng đất của
địa chủ,…, 106.448 trâu bò cùng với 1.846.000 nông cụ chia cho 2.104.158
hộ nông dân và nhân dân lao động (72,8% hộ nông thôn miền Bắc). Kết quả
này đã tạo điều kiện và khích lệ nông dân ra sức tăng gia sản xuất.
- Năm 1960 ở miền Bắc thành lập các Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp
(HTX) bậc thấp, năm 1968 HTX bậc cao, năm 1974 HTX toàn xã. Tổ chức
HTX sản xuất nông nghiệp vào giai đoạn này có một ý nghĩa lịch sử lớn lao.
Tổ chức HTX sản xuất nông nghiệp nông dân “Cùng làm cùng hưởng” đã

giúp cho Đảng và Nhà nước huy động được mức độ tối đa sức người, sức của
phục vụ cho công cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam,
thống nhất Đất nước.
Công tác khuyến nông giai đoạn này chủ yếu triển khai đến HTX.
Phương pháp khuyến nông chủ yếu đưa TBKT vào sản xuất, xây dựng các mô
hình HTX sản xuất tiến bộ như: HTX Tân Phong, HTX Vũ Thắng -Thái Bình.
- Dưới chế độ Sài Gòn cũ (1960) có nha khuyến nông chuyên lo phát


13
triển nông nghiệp, phát triển nông thôn.
- Từ năm 1964-1980 nhìn chung nông nghiệp trì trệ kém phát triển, đời
sống nông dân gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân có nhiều nhưng chủ yếu do
chiến tranh. Chúng ta phải tập trung mọi nỗ lực cho công cuộc đấu tranh giải
phóng miềm Nam, giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Mặt khác
sau giải phóng miền Nam năm 1975 đến 1980 miền Bắc vẫn còn duy trì HTX
sản xuất nông nghiệp là một thực tế bất cập mất cân đối giữa quan hệ sản xuất
với lực lượng sản suất.
- Trước thực trạng sản xuất nông nghiệp trì trệ và đời sống nhân dân gặp
nhiều khó khăn, tháng 1 năm 1981, Chỉ thị 100 của Ban CHTW Đảng:
“Khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động”, còn gọi là “Khoán
100” được ra đời. Sau 7 năm thực hiện “Khoán 100” Đảng ta xem xét rút kinh
nghiệm: “Khoán 100” có nhiều ưu điểm thúc đẩy nông nghiệp phát triển
nhưng vẫn còn nhiều hạn chế: Nông dân chưa thực sự chủ động sản xuất kinh
doanh có hiệu quả. Trên đồng ruộng, ao hồ, chuồng trại chăn nuôi người nông
dân chưa có thể chủ động sản xuất kinh doanh vì những khâu then chốt như
giống, phân bón nông dân vẫn phải phụ thuộc vào sự quản lý của HTX. Có
nhiều hộ nông dân cuộc sống vẫn không khỏi đói nghèo do bởi nguồn lực sản
xuất thiếu lao động, thiếu vốn; do gặp rủi ro trong cuộc sống; do trình độ dân
trí thấp sản xuất không có hiệu quả đã dẫn đến nợ sản nhiều vụ, nhiều năm,…

Chính vì vậy ngày 5/4/1988, Bộ chính trị BCH TW Đảng khóa V ra Nghị
quyết 10: “Cải tiến quản lý kinh tế trong nông nghiệp”, còn gọi là “Khoán
10”. Nghị quyết 10 được thực hiện và hoàn thiện vài năm sau đó đã chuyển
đổi hẳn cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp. Ruộng đất giao cho nông
dân quản lý lâu dài 20 năm đối với đất nông nghiệp, 50 năm đối với đất lâm
nghiệp. Chuyển đổi từ cơ chế sản xuất tập thể tự cung tự cấp, sản xuất theo kế
hoạch hóa Nhà nước sang sản xuất kinh tế hộ gia đình và trang trại. Người


14
nông dân chủ động sản xuất kinh doanh trên mảnh đất, ao hồ, chuồng trại của
mình theo hướng nông nghiệp hàng hóa có sự điều tiết của Nhà nước. Nông
nghiệp của đất nước có cơ hội ngày càng phát triển mạnh.
- Năm 1992, Để điều phối và lãnh đạo công tác khuyến nông trên toàn
quốc, Bộ Nông nghiệp thành lập “Ban điều phối Khuyến nông”. Do nhu cầu
bức xúc từ thực tế sản xuất, ngày 2/3/1993, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 13/NĐ-CP về việc thành lập hệ thống Khuyến nông, Khuyến
lâm, Khuyến ngư.
1.2.2.2. Sau năm 1993
Ngày 02 tháng 3 năm 1993, Chính phủ ban hành Nghị định 13/NĐ-CP
về công tác khuyến nông (bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp). Hệ thống khuyến
nông - khuyến ngư Việt Nam chính thức hình thành. Ở Bộ Nông nghiệp &
PTNT, Cục Khuyến nông - Khuyến lâm vừa làm nhiệm vụ quản lý nhà nước
vừa làm nhiệm vụ khuyến nông về lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi. Việc một
đơn vị đồng thời làm nhiệm vụ quản lý nhà nước và dịch vụ công tỏ ra nhiều
bất cập. Chính vì vậy, ngày 18 tháng 7 năm 2003 Chính phủ ban hành Nghị
định 86/NĐ-CP, cho phép tách Cục Khuyến nông - Khuyến lâm thành hai đơn
vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT là Cục Nông nghiệp và Trung tâm
Khuyến nông Quốc gia.
Đến năm 2007, trên cơ sở Chính phủ hợp nhất Bộ Nông nghiệp và PTNT

với Bộ Thuỷ sản thành Bộ Nông nghiệp và PTNT và theo Nghị định số
01/2008/NĐ-CP, ngày 03/01/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
đã cho phép thành lập Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Quốc gia trên cơ
sở hợp nhất giữa Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Trung tâm Khuyến ngư
Quốc gia theo Quyết định số 236/QĐ-BNN-TCCB ngày 28/01/2008 của Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của


15
Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Quốc gia thực hiện theo Quyết định số
43/2008/QĐ-BNN ngày 11/3/2008 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT.
Nghị định số 02/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 01 năm 2010 của Chính
phủ về Khuyến nông quy định tổ chức khuyến nông Trung ương đơn vị sự
nghiệp công lập trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với tên
gọi là Trung tâm Khuyến nông Quốc gia. Ngày 28/6/2010, Bộ Nông nghiệp
và PTNT đã có Quyết định số 1816/QĐ-BNN-TCCB quy định chức năng,
nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia.
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia là đơn vị sự nghiệp, có các nhiệm vụ
chủ yếu là tham gia đề xuất và ban hành các chính sách, cơ chế về khuyến
nông, khuyến ngư; các định mức kinh tế-kỹ thuật; chỉ đạo, tổ chức và hướng
dẫn thực hiện công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật thông qua xây dựng mô
hình trình diễn, thông tin tuyên truyền, huấn luyện đào tạo, công tác dịch vụ
và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khuyến nông, khuyến ngư.
Tính đến tháng 11/2010 có 33.260 cán bộ khuyến nông, trong đó có
5.638 cán bộ có trình độ đại học, chiếm 16,7%.
Hệ thống khuyến nông ở địa phương được tổ chức thành 4 cấp: Tỉnh Huyện - Xã và Thôn bản:
Ở cấp tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương là cơ quan quản lý nhà nước về khuyến nông. Sau 15
năm hoạt động, 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều đã thành lập

Trung tâm Khuyến nông, Khuyến ngư tỉnh với tổng số 2.754 người.
Ở cấp huyện: hiện nay, hầu hết các huyện trên cả nước có Trạm Khuyến
nông huyện trực thuộc Trung tâm Khuyến nông tỉnh hoặc UBND huyện với
tổng số 4.600 người.
Ở cấp xã: Đa số các xã có cán bộ khuyến nông xã với tổng số 10.543 người.
Ở cấp thôn, bản: Hiện cả nước có 15.749 khuyến nông viên thôn, bản.


16
Một số tỉnh có lực lượng khuyến nông viên thôn, bản tương đối đầy đủ như
Hà Giang, Quảng Ninh , Sơn La, Lai Châu.
1.3. Về khuyến lâm
Từ năm 1993 - 1995, ở Trung ương bộ phận khuyến lâm được thành lập
thuộc Vụ Lâm sinh thuộc Bộ Lâm nghiệp, từ năm 1996 đến năm 2000 thành
lập phòng Khuyến lâm trực thuộc Cục Khuyến nông khuyến lâm. Từ năm
2001 đến năm 2004 thành lập phòng Khuyến lâm trực thuộc Cục Phát triển
lâm nghiệp [6], từ năm 2005 đến năm 2010 thành lập phòng Khuyến lâm
thuộc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia.
Ở địa phương: trong 63 tỉnh thành, chỉ có một số tỉnh thành lập phòng Khuyến
lâm trực thuộc Trung tâm Khuyến nông tỉnh. Mỗi Trung tâm chỉ có từ 1-2 cán bộ
được đào tạo lâm nghiệp trong tổng số 20-25 cán bộ khuyến nông.
Theo số liệu báo cáo ở Trung ương chỉ có 4/73 người, cấp tỉnh có
96/1431 người, cấp huyện 295/2813 người, khuyến nông viên xã
1.942/15.362 người được đào tạo về lâm nghiệp. Xét về mặt số lượng cán bộ
khuyến lâm chỉ chiếm khoảng 10% tổng số cán bộ khuyến nông chuyên trách.
Do vậy hệ thống khuyến lâm vừa thiếu về số lượng và yếu về chất lượng do
cán bộ khuyến lâm đa phần được được đào tạo sâu về chuyên ngành, thiếu
kiến thức liên ngành và các kiến thức khuyến lâm cơ bản.
Kinh phí hoạt động cho hoạt động khuyến lâm nằm trong kinh phí cấp
theo các chương trình khuyến nông được phê duyệt.

Giai đoạn 1993-2005: khi mới thành lập (1993) đã được Chính phủ đầu
tư hỗ trợ 1,268 tỷ đồng, con số này tăng lên 97,8 tỷ (2005), bình quân năm
sau tăng hơn năm trước 8,04 tỷ đồng tương đương trên 12%. Tính đến năm
2005, kinh phí hỗ trợ cho hoạt động khuến nông là 542,931 tỷ đồng trong đó
kinh phí hỗ trợ cho hoạt động khuyến lâm là 66,6 tỉ đồng (chiếm khoảng
12,6%). Đã triển khai trên tổng diện tích xây dựng mô hình là 19.940 ha với


×