Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Nghiên cứu đề xuất phương án quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện như xuân, tỉnh thanh hóa đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 114 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Quy hoạch là một trong những hoạt động rất quan trọng trong phát triển
kinh tế, xã hội nói chung và ngành kinh tế nói riêng, trong đó có nền sản xuất
nông - lâm nghiệp. Trong phát triển kinh tế, xã hội; công tác quy hoạch phải luôn
đi trước một bước. Trong quá trình biến động thường xuyên và liên tục của nền
kinh tế, công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã hội sẽ rất khó khăn nếu không có
định hướng cơ bản cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Quy hoạch là căn cứ quan
trọng thể hiện sự nhất quán về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong một
thời gian tương đối dài và làm cơ sở để xây dựng kế hoạch hàng năm.
Đối với nước ta đất lâm nghiệp chiếm gần 3/4 diện tích tự nhiên, do vậy
lâm nghiệp có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đối trượng sản
xuất kinh doanh của lâm nghiệp là tài nguyên rừng, bao gồm rừng và đất rừng.
Tác dụng của lâm nghiệp đối với nền kinh tế được xác định trên nhiều mặt,
không chỉ cung cấp lâm, đặc sản rừng mà còn có tác dụng phòng hộ sinh thái,
bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học và các giá trị khác từ
dịch vụ từ rừng. Trải qua nhều thế kỷ, tài nguyên rừng phải chịu nhiều sức ép tác
động như: Chiến tranh tàn phá, sự phát triển kinh tế, sự bùng nổ dân số và xu
hướng đô thị hoá dẫn đến mâu thuấn ngày càng gay gắt giữa con người và tài
nguyên đất, rừng. Việc khai thác và sử dụng đất nhằm đáp ứng nhu cầu lương
thực, sinh hoạt; bên cạnh sự yếu kém về quản lý, nhận thức về việc sử dụng đất
dẫn đến hàng triệu ha rừng bị mất, đất sa mạc và hoang mạc hoá, mất khả năng
canh tác, ảnh hưởng tới đời sống con người và làm mất cân bằng sinh thái.
Những bài học đó giúp cho con người nhận thức về giá trị sử dụng tài nguyên
rừng một cách có hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường.
Để phát huy giá trị nhiều mặt của rừng chúng ta cần tiến hành quy hoạch
lâm nghiệp nhằm tạo bố cục hợp lý về mặt không gian, thời gian đối với tài
nguyên rừng và bố trí cân đối các hạng mục kinh doanh, làm cơ sở cho việc lập


2


kế hoạch, định hướng cho sản xuất kinh doanh trong lâm nghiệp, đáp ứng nhu
cầu lâm sản cho nền kinh tế quốc dân, đồng thời phát huy những tác dụng có lợi
khác của rừng. Do đặc điểm địa hình nước ta rất đa dạng, nhu cầu các địa
phương, các ngành kinh tế khác đối với lâm nghiệp cũng khác nhau nên việc quy
hoạch cho các cấp quản lý, các đơn vị sản xuất kinh doanh,...và các mục đích sử
dụng rừng đang trở thành một đòi hỏi thực tế khách quan; nó là tiền đề vững
chắc cho bất kỳ giải pháp nào nhằm phát huy hết những tiềm năng to lớn, đa
dạng của tài nguyên rừng và các điều kiện kinh tế - xã hội khác, góp phần vào sự
phát triển bền vững, ổn định lâu dài ở địa phương và quốc gia. Điều đó chứng tỏ
việc sản xuất kinh doanh rừng có hiệu quả hay sử dụng nguồn tài nguyên theo
hướng bền vững, nhất thiết phải quy hoạch lâm nghiệp và công tác quy hoạch
lâm nghiệp cần phải được đi trước một bước là cơ sở cho việc lập kế hoạch, định
hướng trước khi hoạt động sản xuất kinh doanh lâm nghiệp khác diễn ra.
Như Xuân là huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam tỉnh Thanh Hóa, có
diện tích tự nhiên 71.994,93 ha; trong đó: Diện tích đất quy hoạch để phát triển
lâm nghiệp là 52.563,06 ha, chiếm 73,01% diện tích tự nhiên. Địa hình của
huyện được chia làm 3 vùng rõ rệt là vùng núi cao, vùng đồi cao núi thấp và
vùng đồi núi thấp có xen kẽ các khe, sông, suối. Diện tích có rừng quy hoạch
cho lâm nghiệp là 45.457,84 ha, độ che phủ của rừng năm 2013 đạt 64%.
Trong những năm qua, mặc dù đã được các cấp, các ngành địa phương quan
tâm trong công tác quản lý bảo vệ rừng, tuy nhiên tình trạng chặt phá rừng
làm nương rẫy, khai thác rừng, cháy rừng vẫn còn sảy ra trên địa bàn làm suy
giảm cả về diện tích và chất lượng tài nguyên rừng, khả năng phòng hộ cung
cấp lâm sản phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện bị hạn
chế. Việc phát triển lâm nghiệp huyện Như Xuân có vị trí quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội chung của toàn huyện và cho mục tiêu
phát triển bền vững, ổn định. Với vị trí phòng hộ đầu nguồn, điều tiết nguồn


3

nước, giữ môi trường cảnh quan, bảo tồn đa dạng sinh học và kinh tế thì vấn
đề quy hoạch phát triển rừng hợp lý là rất cần thiết.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, để góp phần bảo vệ phát triển tài nguyên
rừng bền vững và đưa sản xuất lâm nghiệp trở thành ngành kinh tế đóng vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện cũng như cải
thiện điều kiệm môi trường sinh thái, việc thực hiện đề tài "Nghiên cứu đề xuất
phương án quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Như Xuân, tỉnh
Thanh Hoá đến năm 2020” là rất cần thiết.


4
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nhận thức chung về quy hoạch
Quy hoạch nói chung và quy hoạch lâm nghiệp nói riêng đều là một hoạt
động định hướng nhằm sắp xếp, bố trí tổ chức các hoạt động theo không gian và
thời gian một cách hợp lý vào thời điểm hiện tại và phù hợp với mục tiêu trong
tương lai.
1.2. Trên thế giới
1.2.1. Quy hoạch vùng lãnh thổ một số nước trên thế giới
1.2.1.1. Quy hoạch vùng
Trần Hữu Viên [19]: Quy hoạch vùng tuân theo học thuyết Mác - Lê Nin
về phân bố phát triển lực lượng sản xuất theo lãnh thổ và sử dụng các phương
pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
C. Mác và P. Ăng-Ghen đã chỉ ra: "Mức độ phát triển lực lượng sản xuất
của một dân tộc thể hiện rõ nét hơn hết ở chỗ sự phân công lao động của dân tộc
đó được phát triển đến mức độ nào”.
V.I. Lê - Nin đã viết: "Sự nghiên cứu tổng hợp tất cả các đặc điểm tự
nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi vùng là nguyên tắc quan trọng để phân bố lực
lượng sản xuất”.

Vì vậy, nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng cho sự phân bố lực lượng sản
xuất ở một vùng trong quá khứ và hiện tại để xác định tiềm năng và tương lai
phát triển của vùng đó.
Như vậy sức lao động và nguồn tài nguyên thiên nhiên đã phân bố lực
lượng sản xuất hợp lý là một trong các điều kiện cơ bản để nâng cao năng suất
lao động, tích luỹ nhiều của cải vật chất cho xã hội, không ngừng phát triển sản
xuất và văn hoá của mỗi quốc gia.


5
Dựa trên cơ sở học thuyết của C. Mác và P. Ăng - Ghen, V.I. Lê - Nin đã
nghiên cứu các hướng cụ thể về kế hoạch hoá phát triển lực lượng sản xuất trong
xã hội xã hội Chủ nghĩa. Sự phân bố lực lượng sản xuất được xác định theo các
nguyên tắc sau:
+ Sự phân bố lực lượng sản xuất có kế hoạch trên toàn lãnh thổ của đất
nước, nhằm thu hút các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động của tất cả các
vùng và quá trình tái sản xuất mở rộng.
+ Kết hợp tốt lợi ích của Nhà nước và nhu cầu phát triển kinh tế của từng
địa phương.
+ Đưa các công ty chế biến đến gần nguồn nguyên liệu để hạn chế chi phí
vận chuyển.
+ Kết hợp chặt chẽ các ngành kinh tế quốc dân ở từng vùng, từng huyện
nhằm nâng cao năng suất lao động và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
+ Tăng cường toàn diện tiềm lực kinh tế và quốc phòng bằng cách phân
bố hợp lý và phát triển đồng đều lực lượng sản xuất ở các vùng, huyện.
Trên cơ sở đó, tác giả tìm hiểu quy hoạch vùng ở một số nước trên thế giới như
sau:
a) Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari trước đây:
* Mục đích của quy hoạch
- Sử dụng hiệu quả nhất lãnh thổ của đất nước.

- Bố trí hợp lý các hoạt đọng của con người nhằm đảm bảo tái sản xuất mở rộng.
Quy hoạch lãnh thổ đất nước phân thành các vùng.
+ Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên phải bảo vệ.
+ Lãnh thổ thiên nhiên không có vùng nông thôn, sự tác động của con
người vào đây rất ít.
+ Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên có mạng lưới nông thôn, ít có sự can
thiệp của con người, thuận lợi cho kinh doanh về du lịch.


6
+ Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp có mạng lưới nông thôn và có sự
can thiệp của con người, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
+ Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp không có mạng lưới nông thôn
nhưng có sự tác động của con người.
+ Lãnh thổ là môi trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực của con người.
* Nội dung của quy hoạch
Quy hoạch lãnh thổ địa phương là thể hiện quy hoạch chi tiết các Liên
hiệp nông - công nghiệp và đồng thời giải quyết các vấn đề sau đây:
+ Cụ thể hóa, chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp.
+ Phối hợp, hợp lý giữa sản xuất công nghiệp và sản xuất nông nghiệp với
mục đích liên kết theo ngành dọc.
+ Xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng và sản xuất.
+ Tổ chức hợp lý mạng lưới khu dân cư và phục vụ công cộng liên hợp
trong phạm vi hệ thống nông thôn.
+ Bảo vệ môi trường thiên nhiên của vùng lãnh thổ, tạo điều kiện tốt cho
người lao động nghỉ ngơi, sinh hoạt.
b) Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Pháp:
Theo quan niệm chung của hệ thống các mô hình quy hoạch vùng, lãnh
thổ. M. Thenevin (M. Pierre Thenevin), một chuyên gia thống kê đã giới thiệu
một số mô hình quy hoạch vùng được áp dụng thành công ở miền Tây Nam nước

Cộng hoà Côte D’ivoire như sau:
Trong mô hình quy hoạch này, người ta đã nghiên cứu hàm mục tiêu cực
đại giá trị tăng thêm xã hội với các ràng buộc trong nội vùng, có quan hệ với các
vùng khác và với nước ngoài. Thực chất mô hình là bài toán quy hoạch tuyến
tính có cấu trúc:
* Các hoạt động sản xuất


7
+ Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình và trồng
trọt công nghiệp với các mức thâm canh cường độ cao, thâm canh trung bình và
cổ điển (truyền thống).
+ Hoạt động khai thác tài nguyên rừng.
+ Hoạt động đô thị: Chế biến gỗ, bột giấy, vận chuyển, dịch vụ thương mại....
* Nhân lực theo các dạng thuê thời vụ, các loại lao động nông - lâm nghiệp.
* Cân đối xuất nhập khẩu, thu chi và các cân đối khác vào ràng buộc về
diện tích đất, nhân lực, tiêu thụ sản phẩm…
Quy hoạch vùng nhằm đạt mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng tăng
thêm giá trị sản phẩm của xã hội theo phương pháp mô hình hoá trong điều kiện
thực tiễn của vùng, so sánh với các vùng xung quanh và nước ngoài.
c) Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Thái Lan:
Công tác quy hoạch phát triển vùng được chú ý từ những năm 70 của thế
kỷ XX. Về hệ thống phân vị, quy hoạch được tiến hành theo 3 cấp: Quốc gia,
Vùng, á vùng hay Địa phương.
+ Vùng (Region) được coi như là một Á miền (Subdivision) của đất nước.
Đó là điều cần thiết để phân chia quốc gia thành các á miền theo các phương
diện khác nhau như bố trí dân cư, khí hậu, địa hình... Đồng thời vì lý do quản lý
nhà nước hay chính trị, đất nước được chia thành các miền như đơn vị hành
chính hay đơn vị bầu cử.
+ Quy mô diện tích của vùng phụ thuộc vào kích thước, diện tích của

đất nước. Thông thường vùng có diện tích lớn hơn đơn vị hành chính lớn nhất.
Sự phân chia các vùng theo mục đích của quy hoạch, theo đặc điểm của lãnh thổ.
+ Quy hoạch phát triển vùng tiến hành ở cấp á miền được xây dựng theo
hai cách:


8
Thứ nhất: Sự bổ sung kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng, những
mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng, sau đó kế hoạch vùng
được giải quyết trong kế hoạch quốc gia.
Thứ hai: Quy hoạch vùng được giải quyết căn cứ vào đặc điểm của vùng,
các kế hoạch vùng đóng góp vào việc xây dựng kế hoạch quốc gia.
Quy hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý Nhà nước,
phải có sự phối hợp với chính phủ và chính quyền địa phương.
1.2.1.2. Quy hoạch sử dụng đất
Sự phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh tế
Tư bản chủ nghĩa. Do công nghiệp và giao thông vận tải phát triển, nên nhu cầu
khối lượng gỗ ngày càng tăng . Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa phương
của chế độ phong kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hoá Tư bản chủ nghĩa.
Thực tế sản xuất lâm nghiệp đã không còn bó hẹp trong việc sản xuất gỗ đơn
thuần mà cần phải có ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo thu hoạch
lợi nhuận lâu dài cho các chủ rừng. Chính hệ thống hoàn chỉnh về lý luận quy
hoạch lâm nghiệp đã được hình thành trong hoàn cảnh như vậy.
Tai Châu Âu, vào thập kỷ 30 và 40 của thế kỷ XX, quy hoạch ngành giữ
vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm
1946, Jack.G.V đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất với tên
"Phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất". Đây là tài liệu đầu tiên đề cập
đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất. Tại vùng Rhodesia
trước đây, nay là cộng hoà Zimbabwe, Bộ Nông nghiệp đã xuất bản cuốn sổ tay
hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất hỗ trợ cho quy hoạch cơ sở hạ tầng cho trồng

rừng. Vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX, tạp chí "East Afican Journal fof
Agricultue and Forestry” đã xuất bản nhiều bài báo về quy hoạch cơ sở hạ tầng
Nam Châu Phi. Năm 1966, Hội đất học của Mỹ và Hội nông học Mỹ cho ra đời


9
chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng
trong quy hoạch sử dụng đất…v.v[12].
Trong khi xây dựng khung đánh giá đất đai, lần đầu tiên tổ chức FAO năm
1976 đã đề xuất cấu trúc khung quy hoạch sử dụng đất với 10 điểm chính. Trong
phân loại đánh giá và đề xuất các kiểu và dạng sử dụng đất được xét như là các
bước chính trong quá trình quy hoạch [26].
Năm 1985, một nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế về quy hoạch sử dụng đất
được tổ chức FAO thành lập nhằm xây dựng một quy trình quy hoạch sử dụng
đất.
Wilkingson năm 1985 nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất theo khía cạnh
luật pháp. Tác giả đề nghị một hệ thống luật pháp thích hợp cần được phát triển
nhằm mục đích: Cung cấp chính sách và muc tiêu rõ ràng của Nhà nước về đất
đai, thiết lập các tổ chức sử dụng đất phù hợp với yêu cầu sử dụng theo quy trình
kế hoạch và kỹ thuật, tăng cường sự thông hiểu về sử dụng đất và khuyến khích
sản xuất cơ chế giám sát và cưỡng chế [29].
Năm 1986, Dent và nhiều tác giả nghiên cứu sâu về công trình quy hoạch.
Ông khái quát quy hoạch sử dụng đất trên 3 cấp khác nhau và mối quan hệ của
các cấp: Kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp vùng (tỉnh, huyện) cấp cộng
đồng ( xã, thôn). Ông còn đề xuất quy trình quy hoạch gồm 4 giai đoạn và 10
bước [25].
Những kết quả thử nghiệm phân tích hệ thống canh tác tại Châu Á, Châu
Phi và Nam Mỹ xác nhận rằng hệ thống canh tác là một công cụ quy hoạch là lập
kế hoạch nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất cấp địa phương. Lung năm
1990 lần đầu tiên nghiên cứu đánh giá đất đai với phân tích hệ thống canh tác

cho quy hoạch sử dụng đất.
1.2.1.3. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng


10
Lê Sỹ Việt, Trần Hữu Viên (1999) [9]: Đầu thế kỷ 18, phạm vị quy hoạch
lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc "Khoanh thu chặt luân chuyển '' có nghĩa là
đem trữ lượng hoặc diện tích tài nguyên rừng chia đều cho từng năm của chu kỳ
khai thác và tiến hành khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc diện
tích. Phương thức này phục vụ cho phương phức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ
khai thác ngắn.
Sau cách mạng công nghiệp, vào đầu thế kỷ XIX phương thức kinh doanh
rừng chồi được thay thế bằng phương thức kinh doanh rừng hạt với chu kỳ khai
thác dài. Và phương thức "Khoanh khu chặt luân chuyển” nhường chỗ cho
phương thức "chia đều'' của Hartig, Hartig đã chia chu kỳ khai thác thành nhiều
thời kỳ lợi dụng và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm. Đến năm 1816
xuất hiện phương pháp phân kỳ lợi dụng của H. Cotta. Cotto chia chu kỳ khai
thác thành 20 thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó để khống chế lượng chặt hàng
năm.
Sau đó phương pháp ''Bình quân thu hoạch'' ra đời. Quan điểm phương
pháp này là giữ đều mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại, đồng thời vẫn
đảm bảo thu hoạch được liên tục trong chu kỳ sau. Và đến cuối thế kỷ XIX xuất
hiện phương pháp ''Lâm phần kinh tế'' của Judeich, phương pháp này khác với
phương pháp "Bình quân thu hoạch '' về căn bản. Judeich cho rằng lâm phần nào
đảm bảo thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ đưa vào diện khai thác. Hai phương
pháp "Bình quân thu hoạch'' và "Lâm phần kinh tế '' chính là tiền đề của hai
phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng khác nhau. Phương pháp
'' Bình quân thu hoạch '' và sau này là phương pháp "Cấp cuối '' chịu ảnh hưởng
của ''Lý luận rừng tiêu chuẩn'', có nghĩa là rừng phải có kết cấu tiêu chuẩn về
tuổi cũng như diện tích, trữ lượng, vị trí và đưa các cấp tuổi cao vào diện tích

khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng này được dùng phổ biến ở
các nước có nguồn tài nguyên rừng phong phú. Còn phương pháp ''Lâm phần


11
kinh tế'' và hiện nay là phương pháp ''Lâm phần'' không căn cứ vào tuổi rừng mà
dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm phần tiến hành phân tích, xác định sản
lượng và biện pháp kinh doanh. Cũng từ phương pháp này, còn phát triển thành
"Phương pháp kinh doanh lô'' và ''phương pháp kiểm tra''.
Năm 1929 bang Wiscosin đã tạo ra luật sử dụng đất đai trong đó có quy
định nguyên tắc sử dụng đất lâm nghiệp, tiếp theo xây dựng kế hoạch sử dụng
đất đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscosin, kế hoạch này xây dựng các diện tích
cho sử dụng đất lâm nghiệp, nông nghiệp và nghỉ ngơi giải trí.
1.3. Ở Việt Nam
1.3.1. Quy hoạch sử dụng đất
Đaị hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã chỉ ra xúc tiến công tác điều tra cơ
bản, dự báo, lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất, nghiện cứu
chiến lược kinh tế, xã hội, dự thảo kế hoạch triển vọng để chuẩn bị cho kế hoạch
5 năm sau (1986- 1990).
Các tác giả: Phạm Văn Chiểu (1946); Bùi Huy Đáp (1977); Vũ Tuyên
Hoàng (1987); Lê Trọng Cúc (1971); Nguyễn Ngọc Bình (1987); Bùi Quang
Toản (1991) đã có nhiều công trình nghiên cứu về luân canh tăng vụ, trồng xen
canh, trồng gối vụ với mục đích sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai. Bên cạnh đó
những nghiên cứu lựa chọn hệ thống cây trồng phù hợp trên đất dốc vùng đồi núi
phí Bắc Việt Nam cũng đã được nhiều tác giả đề cập đến.
Năm 1993, nghiên cứu và thí điểm đầu tiên về quy hoạch sử dụng đất và
giao đất lâm nghiệp cấp xã do dự án đổi mới chiến lược phát triển rừng thực hiện
tại xã Tử Nê, xã Hang Kìa, xã Pà Cò thuộc tỉnh Hoà Bình. Một trong những bài
học rút ra được qua việc thực thi dự án là công tác quy hoạch sử dụng đất phải
được coi là một nội dụng chính và cần được thực hiện trước khi giao đất trên cơ

sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn vị để lập kế hoạch và
giao đất, có sự tham gia tích cực của người dân, già làng, trưởng bản và chính


12
quyền xã. Hạn chế của chương trình này là chưa có kế hoạch sử dụng chi tiết
nên khó tránh khỏi các mâu thuẫn của cộng đồng phát sinh sau quy hoạch.
Năm 1994, Tổng cục địa chính đã xây dựng kế hoạch và triển khai công
tác quy hoạch sử dụng đất trên quy mô cả nước giai đoạn 1995- 2000. Trong đó
việc lập kế hoạch giao đất nông nghiệp, lâm nghiệp có rừng để sử dụng vào mục
đích khác cũng được đề cập tới. Báo cáo đánh giá tổng quát hiện trạng sử dụng
đất và định hướng phát triển đến năm 2000 làm căn cứ để các địa phương, các
ngành thống nhất triển khai công tác lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất [21].
Nguyễn Xuân Quát (1996) [12], đã phân tích tình hình sử dụng đất đai và
đề xuất mô hình sử dụng đất tổng hợp bền vững, mô hình khoanh nuôi phục hồi
rừng ở Việt Nam. Đồng thời, đưa ra tập đoàn cây trồng thích hợp cho các mô
hình sử dụng đất tổng hợp bền vững trong công trình nghiên cứu Sử dụng đất
tổng hợp và bền vững.
Các vấn đề sử dụng đất đai gắn liền với bảo vệ độ phì nhiêu của đất và
môi trường vùng đồi núi trung du phía Bắc Việt Nam, đã được Lê Vĩ (1996) đề
cập tới trên các khía cạnh: Tiềm năng đất vùng trung du; hiện trạng sử dụng đất
vùng trung du; các kiến nghị về sử dụng đất bền vững.
Tác giả Vũ Văn Mễ và Deslogess( 1996) [24], đã thử nghiệm phương
pháp quy hoạch sử dụng đất có người dân tham gia tại Quảng Ninh đã đề xuất 6
nguyên tắc và các bước cơ bản trong QHSDĐ trong đó cấp xã đóng vai trò phát
triển trong phương pháp quy hoạch. Sáu nguyên tắc đó là: Kết hợp hài hoà giữa
ưu tiên của Chính phủ và nhu cầu nguyện vọng của nhân dân địa phương; tiến
hành trong khuôn khổ luật định và các nguồn lực hiện có tại địa phương; đảm
bảo tính công bằng, chú ý đến cộng đồng dân tộc miền núi, nhóm người nghèo
và vai trò của phụ nữ; đảm bảo tính bền vững; đảm bảo nguyên tắc cùng tham

gia; kết hợp hướng tới mục tiêu phát triển cộng đồng.


13
Luật đất đai năm 2013 quy định cụ thể về công tác quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất. Điều 35 Nguyên tắc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Điều 36 Hệ
thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Điều 37 Kỳ quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất; Điều 40 Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện; Điều 45 Thẩm
quyền quyết định, phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Điều 49 Thực
hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất [15].
Ngày 01/07/2014 Luật đất đai mới chính thức có hiệu lực thi hành. Luật
quy định rõ về công tác quản lý đất dai, trong đó nêu rõ nội dung công tác quản
lý quy hoạch sử dụng đất.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/2014 /NĐ- CP ngày 15/05/2014
về việc thi hành luật đất đai [4]. Đồng thời Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng
ban hành Thông tư số 29/2014/TT- BTNMT ngày 02/6/2014 về việc quy định
chi tiết điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất [2].
1.3.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ
- Quy hoạch vùng chuyên canh (Quy hoạch vùng chuyên canh cây trồng)
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế, đã quy hoạch các vùng chuyên canh
lúa ở đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long, các vùng rau thực
phẩm cho các thành phố lớn, các vùng cây cây công nghiệp ngắn ngày (hàng
năm): Vùng bông Thuận Hải, vùng đay Hải Hưng, vùng thuốc lá Quảng An
( Cao Bằng), Ba Vì , (Hà Sơn Bình nay là Hà Nội), Hữu Lũng (Lạng Sơn), Nho
Quan (Hà Nam Ninh nay là Ninh Bình), vùng mía Văn Điểm, Việt Trì, Sông
Lam, Quảng Ngãi,..các vùng cây công nghiệp dài ngày (lâu năm): Vùng cao su
Sông Bé, Đồng Nai, Buôn Hồ (Đăc lăk), Chư Pả, Ninh Đức (Gia Lai, Kon Tum),
vùng chè ở Hoàng Liên Sơn, Mộc Châu, Thái Nguyên, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon
Tum, vùng dâu tằm Bảo Lộc (Lâm Đồng),..
+ Quy hoạch vùng chuyên canh có tác dụng: Xác định phương hướng sản

xuất, chỉ ra những vùng chuyên môn hoá và những vùng có khả năng hợp tác


14
quốc tế; xác định và chọn những vùng trọng điểm giúp nhà nước tập trung đầu tư
vốn đúng đắn; xây dựng được cơ cấu sản xuất, các chỉ tiêu sản xuất sản phẩm và
sản phẩm hàng hoá của vùng, yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục sản
xuất, nhu cầu lao động; cơ sở để xây dựng kế hoạch phát triển, nghiên cứu tổ
chức quản lý kinh doanh theo ngành và theo lãnh thổ.
+ Quy hoạch chuyên canh đã thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là bố trí cơ cấu
cây trồng được chọn với quy mô và chế độ canh tác hợp lý, theo hướng tập
trung, để ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, sản lượng và chất
lượng sản phẩm cây trồng, đồng thời phân bố các chỉ tiêu nhiệm vụ cụ thể cho
từng cơ sở sản xuất, là cơ sở cho công tác quy hoạch, kế hoạch của các cơ sở sản
xuất.
+ Quy hoạch vùng chuyên canh có các nội dung chủ yếu sau: Xác định
quy mô, ranh giới vùng; xác định phương hướng, chỉ tiêu nhiệm vụ sản xuất; bố
trí sử dụng đất đai; xác định quy mô ranh giới nhiệm vụ chủ yếu cho các xí
nghiệp trong vùng và tổ chức sản xuất ngành nông nghiệp; xác định hệ thống cơ
sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất đời sống; tổ chức và sử dụng lao động; ước
tính đầu tư và hiệu quả kinh tế; dự tính tiến độ thực hiện quy hoạch [14].
1.3.3. Quy hoạch lâm nghiệp
Quy hoạch lâm nghiệp hay quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng đã được
áp dụng ở nước ta từ thời kỳ Pháp thuộc. Đến năm 1955-1957, tiến hành sơ thám
mô tả để ước lượng tài nguyên rừng. Năm 1958-1959 tiến hành thống kê trữ
lượng rừng miền Bắc. Cho đến năm 1960-1964 công tác quy hoạch lâm nghiệp
mới áp dụng ở miền Bắc. Từ năm 1965 đến nay, lực lượng quy hoạch lâm
nghiệp ngày càng được tăng cường và mở rộng.
Viện điều tra quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với lực lượng điều tra quy
hoạch của các sở lâm nghiệp (nay là sở nông nghiệp và phát triển nông thôn) các

tỉnh, không ngừng cải tiến phương pháp điều tra, quy hoạch lâm nghiệp của các


15
nước cho phù hợp với điều kiện, trình độ tài nguyên rừng ở nước ta. Tuy nhiên,
so với lịch sử phát triển của các nước khác thì quy hoạch lâm nghiệp nước ta
hình thành và phát triển muộn hơn nhiều. Vì vậy, những nghiên cứu cơ bản về
kinh tế, xã hội và tài nguyên rừng làm cơ sở cho công tác quy hoạch lâm nghiệp
chưa được giải quyết triệt để, nên công tác này ở nước ta đang trong giai đoạn
vừa tiến hành vừa nghiên cứu áp dụng [9].
Trong công trình ''Đất rừng Việt Nam'', Nguyễn Ngọc Bình (1996) đã đưa
ra những quan điểm nghiên cứu và phân loại đất rừng trên cơ sở những đặc điểm
cơ bản của đất rừng Việt Nam [10].
Năm 1997, Đặng Văn Phụ, Hà Quang Khải trong chương trình tập huấn
hỗ trợ lâm nghiệp xã hội của Trường Đại học lâm nghiệp đã đưa ra khái niệm về
hệ thống sử dụng đất và đề xuất một số hệ thống, kỹ thuật sử dụng đất bền vững
trong điều kiện Việt Nam. Trong đó các tác giả đã đi sâu phân tích về: Quan
điểm về tính bền vững; khái niệm tính bền vững và phát triển bền vững; hệ thống
sử dụng đất bền vững; kỹ thuật sử dụng đất bền vững; các chỉ tiêu đánh giá tính
bền vững trong các hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất [7].
Tài liệu tập huấn về quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự
tham gia của người dân, tác giả Trần Hữu Viên (1997) [18] đã kết hợp phương
pháp quy hoạch sử dụng đất trong nước và của một số dự án Quốc tế đang áp
dụng tại một số vùng có dự án ở Việt Nam. Trong đó tác giả đã trình bày về khái
niệm và nguyên tắc chỉ đạo quy hoạch sử dụng đất và giao đất có người dân
tham gia.
Theo chiến lược phát triển rừng quốc gia giai đoạn 2006-2020 một trong
những tồn tại mà Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn đánh giá là: ''Công
tác quy hoạch nhất là quy hoạch dài hạn còn yếu và chậm đổi mới, chưa kết hợp
chặt chẽ với quy hoạch của các ngành khác, còn mang nặng tính bao cấp và thiếu

tính khả thi. Chưa quy hoạch 3 loại rừng hợp lý và chưa thiết lập được lâm phần


16
ổn định trên thực địa…''. Đây cũng là nhiệm vụ nặng nề cấp bách đối với ngành
lâm nghiệp ở nước ta hiện nay [5].
Trong khuôn khổ của chương trình hợp tác kỹ thuật Việt Đức, dự án phát
triển rừng xã hội Sông Đà đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy hoạch
sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp tại hai xã của 2 huyện Yên Châu (Sơn La) và
Tủa Chùa (Điện Biên) trên cơ sở hướng dẫn của cục Kiểm lâm. Với cách làm 6
bước và lấy cấp thôn bản làm đơn vị hành chính để quy hoạch và giao đất lâm
nghiệp và áp dụng cách tiếp cận lâm nghiệp xã hội với cộng đồng dân tộc vùng
cao có thể là kinh nghiệm tốt.
1.3.3.1. Đặc thù của công tác quy hoạch lâm nghiệp
Theo Lê Sỹ Việt, Trần Hữu Viên [9], địa bàn quy hoạch bảo vệ và phát
triển rừng rất đa dạng, phức tạp (bao gồm cả vùng ven biển, trung du, núi cao và
biên giới, hải đảo), thường có địa hình cao, dốc, chia cắt phức tạp, giao thông đi
lại khó khăn và có nhiều ngành kinh tế hoạt động.
Đây là địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc ít người, trình độ dân trí
thấp, kinh tế xã hội chậm phát triển, đời sống vật chất và tinh thần còn gặp nhiều
khó khăn.
Đối tượng của công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng và đất lâm
nghiệp, từ bao đời nay là ''của chung'' của đồng bào các dân tộc, nhưng thực chất
là vô chủ.
Cây lâm nghiệp có chu kỳ kinh doanh dài (ngắn 8-10 năm, dài từ 40-100
năm) người dân chỉ tự giác bỏ vốn tham gia trồng rừng nếu biết chắc chắn có lợi.
Mục tiêu của quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cũng rất đa dạng; quy hoạch
rừng phòng hộ (phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, phòng hộ môi trường);
quy hoạch rừng dặc dụng (các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các
khu di tích - lâm sản - danh lam thắng cảnh) và quy hoạch phát triển các loại

rừng sản xuất.


17
Quy mô của công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng bao gồm cả tầm
vĩ mô và vi mô: Quy hoạch toàn quốc, từng vùng lãnh thổ, từng tỉnh, huyện, xí
nghiệp, lâm trường, quy hoạch phát triển rừng xã và rừng lâm nghiệp.
Lực lượng tham gia công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng thường
luôn phải lưu động, điều kiện sinh hoạt khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn về
mọi mặt… Đội ngũ cán bộ xây dựng phương án quy hoạch cũng rất đa dạng, bao
gồm cả lực lượng của Trung ương và địa phương, thậm chí các ngành khác cũng
tham gia làm quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng (nông nghiệp, Công an, Quân
đội…) Trong đó, có một bộ phận được đào tạo bài bản qua trường lớp, song
phần lớn chỉ dựa vào kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong ngành lâm nghiệp.
1.3.3.2. Những yêu cầu của công tác quy hoạch lâm ngiệp phục vụ chuyển đổi cơ
cấu nông nghiệp nông thôn
Công tác quy hoạch lâm nghiệp phải được triển khai dựa trên những chủ
trương, chính sách và định hướng phát triển Kinh tế - Xã hội của Nhà nước và
chính quyền các cấp trên từng địa bàn cụ thể. Với mỗi phương án quy hoạch lâm
nghiệp phải đạt được:
- Hoạch định rõ ranh giới đất nông nghiệp - đất lâm nghiệp và đất do các
ngành khác sử dụng. Trong đó, đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp được quan tâm
hàng đầu vì là hai nghành chính sử dụng đất đai.
- Trên phần đất lâm nghiệp đã được xác định, tiến hành hoạch định 3 loại
rừng (phòng hộ, đặc dụng và sản xuất). Từ đó xác định các giải pháp lâm sinh
thích hợp với từng loại rừng và đất rừng (bảo vệ, làm giàu rừng, khoanh nuôi
phục hồi rừng, trồng rừng mới, nuôi dưỡng rừng, nông lâm kết hợp,..v.v.. khai
thác lợi dụng rừng).
- Tính toán nhu cầu đầu tư: Vì là phương án lập quy hoạch nên việc tính
toán nhu cầu đầu tư chỉ mang tính khái quát, phục vụ cho việc lập kế hoạch sản

xuất ở những bước tiếp theo.


18
- Xác định một số giải pháp đảm bảo thực hiện những nội dung quy hoạch
(giải pháp lâm sinh, khoa học công nghệ, cơ chế chính sách, giải pháp về vốn,
lao động…v.v)
- Đổi mới một số phương án quy hoạch có quy mô lớn (cấp toàn quốc,
vùng, tỉnh) còn đề xuất các chương trình, dự án cần ưu tiên để triển khai bước
tiếp theo là lập Dự án đầu tư hoặc báo cáo nghiên cứu khả thi.
1.3.3.3. Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp
a. Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý sản xuất kinh doanh
Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý sản xuất kinh doanh bao gồm:
Quy hoạch tổng công ty lâm nghiệp; công ty lâm nghiệp; quy hoạch lâm trường;
quy hoạch lâm nghiệp cho các đối tượng khác (quy hoạch cho các khu rừng
phòng hộ; quy hoạch các khu rừng đặc dụng và quy hoạch phát triển sản xuất
lâm nông nghiệp cho các cộng đồng làng bản và trang hạ lâm nghiệp hộ gia
đình). Các nội dung quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý sản xuất kinh
doanh là khác nhau, tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi đơn vị và thành phần kinh
tế tham gia vào sản xuất lâm nghiệp mà lựa chọn các nội dụng quy hoạch cho
phù hợp.
b. Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý lãnh thổ
Ở Việt Nam, các cấp quản lý lãnh thổ bao gồm các đơn vị quản lý hành
chính từ toàn quốc tới tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương), huyện (thành phố
trực thuộc tỉnh, thị xã, quận), và xã (Phường, thị trấn). Để phát triển, mỗi đơn vị
đều phải xây dựng phương án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội, quy
hoạch phát triển các ngành sản xuất va quy hoạch bố trí dân cư,…
Ở những địa phương có tiềm năng phát triển lâm nghiệp thì quy hoạch
lâm nghiệp là một nhiệm vụ quan trọng, làm cơ sở cho việc phát triển kinh tế xã
hội trên địa bàn nói chung và phát triển sản xuất nghề rừng nói riêng [9].

* Quy hoạch lâm nghiệp toàn quốc


19
Quy hoạch lâm nghiệp toàn quốc là quy hoạch phát triển sản xuất lâm
nghiệp trên phạm vị lãnh thổ quốc gia nhằm giải quyết một số vấn đề cơ bản, đó
là: Xác định phương hướng nhiệm vụ chiến lược phát triển lâm nghiệp toàn
quốc; quy hoạch đất đai tài nguyên rừng theo các chức năng (sản xuất, phòng hộ,
đặc dụng); quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển tài nguyên rừng hiện có;
quy hoạch tái sinh rừng (bao gồm tái sinh tự nhiên và trồng rừng), thực hiện
nông lâm kết hợp; quy hoạch lợi dụng rừng, chế biến lâm sản gắn với thị trường
tiêu thụ; quy hoạch tổ chức sản xuất, phát triển nghề rừng, phát triển lâm nghiệp
xã hội; quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải; xác định tiến độ
thực hiện [9].
Do đặc thù khác với những ngành kinh tế khác, cho nên thời gian quy
hoạch lâm nghiệp thường 10 năm và các nội dung quy hoạch được thực hiện tuỳ
theo vùng kinh tế lâm nghiệp [3].
* Quy hoạch lâm nghiệp cấp tỉnh
Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp tỉnh giải quyết những vấn đề:
Xác định phương hướng nhiệm vụ phát triển rừng trong phạm vi tỉnh, trên cơ sở
căn cứ vào phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Căn cứ
vào phương hướng nhiệm vụ phát triển rừng của tỉnh, điều kiện đất đai tài
nguyên rừng, nhu cầu phòng hộ và các nhu cầu đặc biệt khác tiến hành quy
hoạch đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh theo ba chức năng: Rừng sản xuất, rừng
phòng hộ và rừng đặc dụng. Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển tài
nguyên hiện có. Quy hoạch tái sinh rừng (bao gồm trồng rừng và tái sinh tự
nhiên) và nông lâm kết hợp. Quy hoạch khai thác lợi dụng rừng, chế biến lâm
sản gắn liền với thị trường tiêu thụ. Quy hoạch tổ chức sản xuất lâm nghiệp cho
các thành phần kinh tế, phát triển rừng xã hội. Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ
tầng, giao thông vận tải phục vụ sản xuất lâm nghiệp, lưu thông hàng hoá và đời

sống. Xác định tiến độ thực hiện [9].


20
* Quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện
Quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện về cơ bản các nội dung quy hoạch lâm
nghiệp cũng tương tự như quy hoạch lâm nghiệp cáp tỉnh, tuy nhiên nó được
triển khai cụ thể, chi tiết hơn và được tiến hành trên phạm vi địa bàn huyện. Quy
hoạch lâm nghiệp huyện đề cập giải quyết các vấn đề sau:
- Căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ phát triển tổng thể kinh tế, xã hội
của huyện, căn cứ vào phương án phát triển rừng của tỉnh và điều kiện tự nhiên
kinh tế - xã hội, đặc biệt là điều kiện tài nguyên rừng của huyện để xác định
phương hướng nhiệm vụ phát triển trên địa bàn huyện.
- Căn cứ vào phương hướng phát triển rừng của huyện và điều kiện đất đai
tài nguyên rừng, nhu cầu phòng hộ và nhu cầu đặc biệt khác, tiến hành quy
hoạch đất lâm nghiệp trong huyện theo 3 chức năng: Sản xuất, phòng hộ và đặc
dụng.
- Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng, phát triển rừng hiện có.
- Quy hoạch các biện pháp tái sinh: Trồng rừng, khoanh nuôi phục hồi
rừng tự nhiên. Quy hoạch thực hiện nông lâm kết hợp và sản xuất hỗ trợ trên đất
lâm nghiệp.
- Quy hoạch khai thác lợi dụng lâm đặc sản, chế biến lâm sản gắn liền với
thị trường tiêu thụ.
- Quy hoạch tổ chức sản xuất lâm nghiệp, quy hoạch đất lâm nghiệp cho
các thành phần kinh tế trong huyện, tổ chức phát triển rừng xã hội.
- Quy hoạch xây dượng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải.
- Xác định tiến độ thực hiện [9].
Thời gian quy hoạch cấp huyện thường là 5 năm hoặc 10 năm. Các quy
hoạch lâm nghiệp cũng phải phù hợp với phương hướng phát triển kinh tế, xã hội
chung của từng vùng trong huyện [3].

* Quy hoạch lâm nghiệp cấp xã


21
Xã là một đơn vị quản lý hành chính nhỏ nhất, là đơn vị cơ bản quản lý và
tổ chức sản xuất lâm nghiệp trong thành phần kinh tế tập thể và tư nhân. Quy
hoạch bảo vệ và phát triển rừng, xã thường tiến hành các nội dung sau: Điều tra
các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, xã hội, điều kiện tài nguyên rừng. Căn
cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội xã, căn cứ vào quy hoạch
lâm nghiệp cấp huyện và điều kiện cơ bản của xã, xác định phương hướng nhiệm
vụ phát triển rừng trên địa bàn xã. Quy hoạch đất đai trong xã theo ngành và theo
đơn vị sử dụng, xác định rõ mối quan hệ giữa các ngành sử dụng đất đai trên địa
bàn xã. Căn cứ vào phương hướng phát triển, các điều kiện cơ bản, nhu cầu
phòng hộ và nhu cầu đặc biệt khác (nếu có) phân chia đất lâm nghiệp theo ba
chức năng sử dụng: Sản xuất, phòng hộ và đặc dụng. Quy hoạch các nội dung
sản xuất kinh doanh lợi dụng rừng, bố trí không gian và thời gian tổ chức các
biện pháp kinh doanh lợi dụng rừng. Bảo vệ và nuôi dưỡng rừng hiện có, trồng
rừng và tái sinh phục hồi rừng, nông lâm kết hợp, khai thác, chế biến các loại
lâm sản, đặc sản phục vụ nhu cầu của địa phương và thị trường, quy hoạch các
nội dung sản xuất hỗ trợ. Quy hoạch tổ chức sản xuất lâm nghiệp cho các thành
phần kinh tế trong xã gắn với phát triển rừng xã hội. Quy hoạch xây dựng cơ sở
hạ tầng và giao thông vận tải, các công trình phục vụ sản xuất và đời sống. Ước
tính đầu tư lao động, tiền vốn, vật tư thiết bị. Hiệu quả đầu tư cần được đánh giá
đầy đủ trên các mặt: Kinh tế, xã hội và môi trường. Xác đinh tiến độ thực
hiện[9].
Về cơ bản nội dung quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng trong các cấp
quản lý lãnh thổ từ toàn quốc đến tỉnh, huyện, xã là tương tự nhau, tuy nhiên
mức độ giải quyết khác nhau về chiều sâu và chiều rộng tuỳ theo các cấp.
1.3.4. Tình hình quy hoạch trên địa bàn huyện Như Xuân
Hiện nay huyện Như Xuân đã được uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá phê

duyệt quy hoạch sử dụng đất chung trên địa bàn toàn huyện với tổng diện tích


22
quy hoạch cho đất sản xuất lâm nghiệp là 52.563,06 ha và quy hoạch cho 3 loại
rừng giai đoạn 2006 - 2015; tuy nhiên, việc quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng
trên địa bàn huyện vẫn chưa được thực hiện nên các cơ quan quản lý còn gặp
nhiều khó khăn trong công tác bảo vệ và phát triển rừng [22].
1.4. Thảo luận
- Quy hoạch nói chung và quy hoạch lâm nghiệp nói riêng dù ở thế giới
hay ở Việt Nam cũng đều hình thành từ rất sớm và đều có những quan điểm
chung; đều hướng tới hiệu quả trong hoạt động kinh doanh rừng;
- Phương án quy hoạch lâm nghiệp có được đánh giá là bền vững hay
không phải được nhìn nhận, đánh giá trên cả ba lĩnh vực: Môi trường, kinh tế và
xã hội. Đối với các nước phát triển thì tiêu chuẩn bền vững được dựa trên 3 yếu
tố trên được áp dụng từ rất sớm nhưng đối với các nước chậm phát triển và các
nước đang phát triển như Việt Nam quan điểm bền vững dựa trên 3 yếu tố mới
được nhìn nhận gần đây;
- Xây dựng phương án quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng đảm bảo tính
khả thi và đạt kết quả thì việc sử dụng phương pháp phân tích quy hoạch có sự
tham gia thay thế cho các phương pháp truyền thống (chủ yếu do các chuyên gia
lập). Để nhấn mạnh vai trò tham gia của người dân, tổ chức và chủ rừng trong
xây dựng phương án quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng.
- Áp dụng và bổ sung vào xây dựng phương án quy hoạch bảo vệ và phát
triển rừng huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá đến 2020.


23
Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường tại huyện Như
Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân tích được các cơ sở để xây dựng quy hoạch bảo vệ và phát triển
rừng huyện Như Xuân.
- Đề xuất được nội dung của phương án quy hoạch bảo vệ và phát triển
rừng huyện Như Xuân đến năm 2020.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Các yếu tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi
trường có ảnh hưởng đến sự phát triển của rừng.
- Phạm vi nghiên cứu: Toàn bộ diện tích đất lâm nghiệp (bao gồm đã có
rừng và chưa có rừng) và đất có khả năng lâm nghiệp thuộc huyện Như Xuân,
tỉnh Thanh Hoá.
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Cơ sở để xây dựng quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Như
Xuân
- Cơ sở pháp lý (Hiến pháp, Luật đất đai các văn bản dưới luật liện quan
đến quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng).
- Điều kiện cơ bản khu vực nghiên cứu (Điều kiện tự nhiên và tài nguyên
rừng, điều kiện dân sinh kinh tế, xã hội trên địa bàn).
- Hiện trạng tài nguyên rừng (Hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp, quy
hoạch sử dụng đất đai chung, quy hoạch 3 loại rừng )


24
- Tình hình thực hiện các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng tại huyện
Như Xuân.

2.3.2 Đề xuất các nội dung của Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện
Như Xuân
- Căn cứ xây dựng quy hoạch
- Mục tiêu, nhiệm vụ
- Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Như Xuân.
+ Bảo vệ rừng;
+ Phát triển rừng ;
+ Khai thác rừng;
+ Chế biến gỗ, lâm sản ngoài gỗ (nếu có).
- Đề xuất một số giải pháp thực hiện quy hoạch.
- Khái toán vốn đầu tư.
- Hiệu quả quy hoạch (kinh tế, xã hội, môi trường).
- Đề xuất về tổ chức thực hiện và giám sát đánh giá.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Quan điểm phương pháp luận
- Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng là một hệ thống các biện pháp về tổ
chức kinh tế kỹ thuật và pháp chế của Nhà nước nhằm khai thác triệt để điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và nguồn lao động.
- Việc quy hoạch phải đạt được mục tiêu trước mắt và lâu dài, phù hợp với
quy hoạch tổng thể phát triển Kinh tế - Xã hội và quy hoạch phát triển các ngành
có liên quan của địa phương và của ngành lâm nghiệp.
Do vậy, công tác quy hoạch cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa hiện tại và
tương lai, giữa cung và cầu nhằm đạt được hiệu quả cao nhất mà vẫn đảm bảo
tính ổn định, bền vững.
2.4.2. Những tài liệu cần thu thập trong khu vực nghiên cứu:


25
- Nhóm thông tin về điều kiên cơ bản.
+ Điều kiện tự nhiên: Vị trí đại lý, địa hình, khí hậu thủy văn, đất đai, thổ

nhưỡng, hiện trạng tài nguyên sinh vật rừng …
+ Dân số, lao động: Thống kê về dân số, lao động, dân tộc, sự gia tăng dân
số…
- Nhóm thông tin về tình hình phát triển các ngành kinh tế, xã hội:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đời sống dân cư.
+ Thực trạng hệ thống kết cấu hạ tầng: Đánh giá thực trạng hệ thống các
công trình giao thông, thủy lợi, điện,… trên địa bàn huyện.
+ Thực trạng phát triển các ngành: Giáo dục, đào tạo, y tế. Trình độ chất
lượng lao động, khả năng tiếp nhận chuyển giao khoa học và công nghệ mới,..
+ Nhóm thông tin về chính sách có liên quan đến bảo vệ và phát triển
rừng: Các tài liệu về chính sách được lấy từ các văn bản pháp quy do Nhà nước
ban hành, như: Hiến pháp, Luật, Chỉ thị, Nghị quyết, Thông tư, Quyết định…
- Nhóm thông tin về tình hình phát triển sản xuất nông lâm nghiệp trên địa
bàn huyện: Đánh giá hiện trạng phát triển, tình hình quản lý à các định hướng
phát triển lâm nghiệp trên địa bàn huyện.
- Hệ thống bản đồ hiện trạng, quy hoach tài nguyên rừng của huyện Như
Xuân.
2.4.3. Phương pháp thu thập số liệu:
2.4.3.1. Thu thập số liệu thứ cấp, kế thừa tài liệu :
- Thu thập các văn bản pháp luật, chính sách, chiến lược phát triển, thành
quả quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch 3 loại rừng, các Chương trình, Đề án, dự
án,.. của Trung ương, và tỉnh, huyện có liên quan đến hoạt động quy hoạch bảo
vệ và phát triển rừng.


×