Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CHO HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.93 KB, 44 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

ĐỀ TÀI:
THỰC
TRẠNG VÀ
ĐỊNH
HƯỚNG
PHÁT
TRIỂN BỀN
VỮNG CHO
HOẠT
ĐỘNG
XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
GVHD: GS. Đoàn Thị Hồng Vân
SVTH:
Phạm Thị Linh Thanh
Trịnh Xuân Trinh
Trần Thị Ngọc Tú


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

MỤC LỤC

Thủy sản Việt nam trong hơn 10 năm qua đã có những bước phát triển vượt bậc, trở
thành một trong những nước có tốc độ phát triển thủy sản nhanh trên thế giới. Trong đó,
ngành nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam được coi là tiến bộ nhanh nhất, bất chấp sự khởi đầu


muộn và hiện chiếm khoảng 1/3 tổng sản lượng thuỷ sản của cả nước, tạo công ăn việc làm
cho nhiều người dân, đặc biệt là vùng dân nghèo ven biển, vùng xa, hải đảo…Từ đó tiến tới
sự ổn định các mặt của xã hội. Hơn nữa, ngành thủy sản ngày càng góp phần quan trọng
trong việc nâng cao sản lượng và giá trị xuất khẩu.
Tuy nhiên, ngành thủy sản hiện nay vẫn còn không ít những bất cập và phải đối mặt
với hàng loạt thách thức như: công tác quy hoạch chưa không theo kịp với tốc độ phát triển,
đầu tư còn dàn trải, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, hàm lượng khoa học công nghệ còn thấp,
nguồn lợi thuỷ sản đang có xu hướng giảm ,... Do đó, để khắc phục những tồn tại nêu trên,
đáp ứng được những biến đổi về khí hậu, các yêu cầu của hội nhập kinh tế toàn cầu, sự suy
thoái môi trường, sự đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường về chất lượng và vệ sinh an
toàn thực phẩm cũng như theo kịp sự tiến bộ của khoa học công nghệ hiện đại thì rất cần
một chiến lược phát triển tổng thể nhằm mục tiêu phát triển ngành thủy sản một cách bền
vững, góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, đáp ứng thị
trường trong nước và phục vụ xuất khẩu. Phát triển bền vững hoạt động xuất khẩu thủy sản
là sự phát triển có sự kết hợp hài hoà của ba mặt: tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và
bảo vệ môi trường. Đặc biệt sự phát triển bền vững không chỉ thoả mãn nhu cầu hiện tại của
con người mà còn phải đảm bảo một cơ sở tài nguyên phong phú, bảo tồn các giống loài
thúy sản quý hiếm, một môi trường trong sạch không ô nhiễm, một xã hội tiến bộ cho người
dân trong tương lai.
Nhận thức được sự cần thiết của sự phát triển bền vững cũng như thực trạng xuất
khẩu thủy sản ở Việt Nam, vì thế nhóm đã lựa chọn đề tài: “ Thực trạng và định hướng
phát triển bền vững cho hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam”
2


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

Mặc dù đã có sự cố gắng nhưng do kiến thức và thời gian còn hạn chế nên bài viết

của nhóm vẫn còn nhiều thiếu sót. Nhóm rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý, phê bình
của cô để nhóm hoàn thành bài tiểu luận được tốt hơn.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
Mục tiêu tổng quát: Phân tích thực trạng khai thác, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu
thủy sản trong giai đoạn 2000 - 2013, qua đó đề xuất giải pháp hướng đến phát triển bền
vững trong hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể:
-

Tìm hiểu thực trạng khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản của Việt Nam giai

-

đoạn 2000 – 2013.
Tìm hiểu thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2013.
Đưa ra định hướng hướng đến phát triển bền vững trong hoạt động xuất khẩu thủy
sản của Việt Nam.

Phương pháp nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu thống kê mô tả.
Đối tượng nghiên cứu: hoạt động khai khác, nuôi trồng, chế biến và hoạt động xuất

-

khẩu thủy sản của Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: ngành thủy sản của Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2013.

Kết cấu đề tài:

Chương 1: Tổng quan lý thuyết
Chương 2: Thực trạng của ngành thủy sản Việt Nam giai đoạn 2000 - 2013
Chương 3: Định hướng hướng đến phát triển bền vững trong hoạt động xuất khẩu
thủy sản của Việt Nam

3


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

NỘI DUNG
Chương 1:
1.1.

TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Lý thuyết phát triển bền vững

1.1.1.

Khái niệm về phát triển bền vững:

Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn
phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên
Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không
thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã
hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học".
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland (còn

gọi là Báo cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED
(nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể
đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng
đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai..." . Cho đến nay đã có nhiều lý thuyết về phát
triển bền vững được đưa ra, gây ra nhiều tranh cãi, tuy nhiên, định nghĩa WECD được xem
là phổ biến nhất khi nhấn mạnh đến tính công bằng giữa các thế hệ trong quá trình phát triển
và được khẳng định trong Hội nghị Liên Hiệp Quốc về môi trường và phát triển (UNCED)
tại Hội nghị Rio 1992 hay Hội nghị Trái đất 1992 (UN, 1992a). Trong Luật Bảo vệ môi
trường năm 2005 của Việt Nam, quan điểm phát triển bền vững được thể hiện như sau: “Phát
triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại
đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài
hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”. Ngoài ba mặt
chủ yếu này, có nhiều người còn đề cập tới những khía cạnh khác của phát triển bền vững
như chính trị, văn hóa, tinh thần, dân tộc... và đòi hỏi phải tính toán và cân đối chúng trong
hoạch định các chiến lược và chính sách phát triển kinh tế-xã hội cho từng quốc gia, từng địa
phương cụ thể. Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế
4


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả
các thành phần kinh tế - xã hội, ... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3
lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường.
1.1.2.

Mục tiêu phát triển bền vững


Việt Nam đã sớm tham gia vào tiến trình chung của thế giới trong việc xây dựng
Chương trình Nghị sự 21 toàn cầu, cam kết xây dựng Chiến lược PTBV quốc gia và chương
trình nghị sự 21 địa phương. Theo đó, CTNS 21 của Việt Nam là khung chiến lược để xây
dựng các chương trình hành động. Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển của Việt Nam
dưới góc độ bền vững, CTNS đã đưa ra những nguyên tắc PTBV, mục tiêu và tầm nhìn dài
hạn, các lĩnh vực hoạt động ưu tiên, phương tiện và giải pháp, nhằm đạt được sự PTBV
trong thế kỷ XXI. Dưới đây sẽ lần lượt điểm qua các nét chính được đề cập đến trong CTNS.
Mục tiêu tổng quát của PTBV là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh
thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa
con người và tự nhiên. Phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa được ba mặt là
phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Mục tiêu PTBV về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu kinh tế hợp
lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình
trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ nần lớn cho các thế hệ mai sau.
Mục tiêu PTBV về xã hội là đạt được kết quả cao trong việc thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo đảm chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày
càng được nâng cao, mọi người đều có cơ hội được học hành và có việc làm, giảm tình trạng
đói nghèo và hạn chế khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp và nhóm xã hội, giảm các tệ
nạn xã hội, nâng cao mức độ công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên và
giữa các thế hệ trong một xã hội, duy trì và phát huy được tính đa dạng và bản sắc văn hóa
dân tộc, không ngừng nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần.

5


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

Mục tiêu của PTBV về môi trường là khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu

quả tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm
môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống; bảo vệ các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,
khu dự trữ sinh quyển và bảo tồn đa dạng sinh học; khắc phục suy thoái và cải thiện chất
lượng môi trường.
1.1.3.

Nguyên tắc chính cho phát triển bền vững của Việt Nam:

Để đạt được mục tiêu nêu trên, trong quá trình phát triển chúng ta cần thực hiện
những nguyên tắc chính sau đây:
Thứ nhất, con người là trung tâm của PTBV. Đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu
vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh là nguyên tắc quán triệt nhất quán trong mọi giai đoạn phát triển.
Thứ hai, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới, bảo
đảm an ninh lương thực, năng lượng để phát triển bền vững, bảo đảm vệ sinh và an toàn thực
phẩm cho nhân dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa với phát triển xã hội; khai thác hợp
lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh
thái và bảo vệ môi trường lâu bền. Từng bước thực hiện nguyên tắc “mọi mặt kinh tế, xã hội
và môi trường đều cùng có lợi”.
Thứ ba, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường là một yếu tố không thể tách rời
của quá trình phát triển. Tích cực và chủ động phòng ngừa, ngăn chặn những tác động xấu
đối với môi trường do hoạt động của con người gây ra. Cần áp dụng rộng rãi nguyên tắc
“người gây thiệt hại đối với tài nguyên và môi trường thì phải bồi hoàn”. Xây dựng hệ thống
pháp luật đồng bộ và có hiệu lực về công tác bảo vệ môi trường; chủ động gắn kết và có chế
tài bắt buộc lồng ghép yêu cầu bảo vệ môi trường trong việc lập quy hoạch, kế hoạch,
chương trình và dự án phát triển kinh tế-xã hội, coi yêu cầu về bảo vệ môi trường là một tiêu
chí quan trọng trong đánh giá PTBV.

6



GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

Thứ tư, quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của
thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai. Tạo lập điều
kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển; được
tiếp cận tới những nguồn lực chung và được phân phối công bằng những lợi ích công cộng;
tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp cho những thế hệ mai sau; sử
dụng tiết kiệm những tài nguyên không thể tái tạo lại được; gìn giữ và cải thiện môi trường
sống; phát triển hệ thống sản xuất sạch và thân thiện với môi trường; xây dựng lối sống lành
mạnh, hài hòa, gần gũi và yêu quý thiên nhiên.
Thứ năm, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước. Công nghệ hiện đại, sạch
và thân thiện với môi trường cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất.
Trước mắt, cần được đẩy mạnh sử dụng ở những ngành và lĩnh vực sản xuất có tác dụng lan
truyền mạnh, có khả năng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành và lĩnh vực sản xuất khác.
Thứ sáu, PTBV là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ, ngành và
địa phương, của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư vàmọi
người dân. Phải huy động tối đa sự tham gia của mọi người có liên quan trong việc lựa chọn
các quyết định về phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường ở địa phương và trên quy
mô cả nước. Bảo đảm cho nhân dân có khả năng tiếp cận thông tin và nâng cao vai trò của
các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là của phụ nữ, thanh niên, đồng bào các dân tộc ít người
trong việc đóng góp vào quá trình ra quyết định về các dự án đầu tư phát triển lớn, lâu dài
của đất nước.
Thứ bảy, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập
kinhn tế quốc tế để PTBV đất nước. Phát triển các quan hệ song phương và đa phương, thực
hiện các cam kết quốc tế và khu vực; tiếp thu có chọn lọc các tiến bộ khoa học công nghệ,
tăng cường hợp tác quốc tế để PTBV. Chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu

quả, năng lực cạnh tranh. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các tác động xấu đối với môi
trường do quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra.
7


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

Thứ tám, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường với bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
1.2.

Kinh nghiệm xây dựng bộ chỉ tiêu PTBV của các nước

Bộ chỉ tiêu PTBV của mỗi quốc gia được xây dựng phụ thuộc nhiều vào trình độ phát
triển, thứ tự ưu tiên của các vấn đề kinh tế - xã hội - môi trường bức xúc trong bối cảnh của
quốc gia đó. Xem xét bộ chỉ tiêu của một số nước phát triển và một số nước đang phát triển,
thống kê cho thấy các nước đang phát triển quan tâm chủ yếu tới các vấn đề về đói nghèo,
thất nghiệp, các điều kiện tối thiểu để đảm bảo cuộc sống, trong khi đó, các nước phát triển
tập trung nhiều hơn tới các vấn đề về bình đẳng, chất lượng cuộc sống, các vấn đề xã hội nảy
sinh trong một nền kinh tế phát triển và vấn đề ô nhiễm môi trường.
Nhận xét nhóm chỉ tiêu các nước đang Phát triển
Nhóm này bao gồm Philippin; Indonexia; Malaixia, Thái Lan (ASEAN) và Trung
Quốc có phương pháp xây dựng bộ chỉ thị theo thành phần tài nguyên và môi trường quan
tâm, khá phù hợp cho thực tiễn nước ta hiện nay và định hướng đến năm 2020. Các chỉ tiêu
sử dụng trong PTBV ở Inđônêsia gồm có 21 chỉ tiêu cơ bản. Thông qua 21 chỉ tiêu của
Indonesia cho thấy các chỉ tiêu đó đều thuộc ba nhóm trụ cột của phát triển bền vững là kinh
tế, xã hội và môi trường. Bộ chỉ tiêu PTBV của mỗi quốc gia được xây dựng phụ thuộc
nhiều vào trình độ phát triển, thứ tự ưu tiên của các vấn đề kinh tế - xã hội - môi trường bức

xúc trong bối cảnh của quốc gia đó. Xem xét bộ chỉ tiêu của một số nước phát triển và một
số nước đang phát triển, thống kê cho thấy các nước đang phát triển quan tâm chủ yếu tới
các vấn đề về đói nghèo, thất nghiệp, các điều kiện tối thiểu để đảm bảo cuộc sống, trong khi
đó, các nước phát triển tập trung nhiều hơn tới các vấn đề về bình đẳng, chất lượng cuộc
sống, các vấn đề xã hội nảy sinh trong một nền kinh tế phát triển và vấn đề ô nhiễm môi
trường.
Nhận xét chung về kinh nghiệm PTBV của một số nước trên thế giới

8


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

Phương pháp tiếp cận chiến lược phổ biến nhất trong các nghiên cứu tình huống là
chiến lược phát triển bền vững toàn diện và đa phương diện. Trong một số trường hợp, chiến
lược toàn diện còn hơn cả một bản soạn thảo các chiến lược về kinh tế, xã hội và môi trường
và các sáng kiến chính sách hiện có để trình bày tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về
PTBV. Trong nhiều trường hợp, phương pháp tiếp cận chiến lược này đã thể hiện tính mục
đích hơn trong việc cung cấp một khung khổ nhằm kết nối hành động chiến lược và phối
hợp ở cấp quốc gia hướng tới sự PTBV. Các ví dụ điển hình về các chiến lược PTBV quốc
gia toàn diện được quan sát thấy tại các quốc gia nghiên cứu là Vương Quốc Anh và
Philipin. Cơ chế phản hồi - bao gồm giám sát, học hỏi và thích ứng. Trong khi hầu hết các
quốc gia đều có các cơ quan thống kê thực hiện việc giám sát các lĩnh vực khác nhau của
quốc gia về mặt kinh tế, xã hội và môi trường thì chỉ có một số ít quốc gia đã xây dựng một
bộ các chỉ số lồng ghép để cho phép phân tích sự đánh đổi vốn có và những mối liên kết lẫn
nhau giữa các mặt kinh tế, xã hội và môi trường của sự phát triển bền vững. Thậm chí
nghiên cứu chưa tìm thấy những phương pháp tiếp cận và công cụ chính thức và phi chính
thức để học hỏi từ loại giám sát lồng ghép này và đưa ra những sự ứng dụng quan trọng và

cần thiết.

Chương 2:

THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM GIAI

ĐOẠN 2000 - 2013
2.1.

Thực trạng khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản của Việt Nam trong

giai đoạn 2000 – 2013
2.1.1.

Một số chính sách của Việt Nam liên quan đến hoạt động khai thác,

nuôi trồng, chế biến thủy sản
Bờ biển nước ta có chiều dài 3.260km, với 112 cửa sông lạch, trung bình cứ 100km2
diện tích tự nhiên lại có 1km bờ biển và gần 30km bờ biển lại có cửa sông lạch. Trong số 63
tỉnh/thành phố, có 28 tỉnh ven biển với số dân hơn 44,2 triệu người, chiếm 50,34% tổng dân
số cả nước (Tổng cục Thống kê, năm 2011). Vùng biển đặc quyền kinh tế Việt Nam có diện
tích trên 1 triệu km2, gấp hơn 3 lần vùng lãnh thổ trên đất liền. Trong vùng biển có hơn
9


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

3.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có nhiều đảo có dân cư như Vân Đồn, Cát Bà, Phú Quý,

Côn Đảo, Phú Quốc,… có nhiều vịnh, vũng, eo ngách, các dòng hải lưu, vừa là ngư trường
khai thác hải sản thuận lợi, vừa là nơi có nhiều điều kiện tự nhiên để phát triển nuôi biển và
xây dựng các khu căn cứ hậu cần nghề cá. Đây là điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển
các ngành kinh tế biển nói chung và phát triển thủy sản nói riêng.
Vùng biển Việt Nam thuộc phạm vi ngư trường Trung tây Thái Bình Dương, có
nguồn lợi hải sản phong phú, đa dạng và được đánh giá là một trong những ngư trường có
trữ lượng cao trong các vùng biển quốc tế, với hơn 2.000 loài cá, 225 loài tôm, 663 loài tảo,
rong biển, và nhiều loài hải sản quý như bào ngư, trai ngọc, sò huyết, san hô đỏ,... Nghiên
cứu, điều tra về nguồn lợi cho biết, trữ lượng nguồn lợi hải sản ước tính khoảng 4 – 4,5 triệu
tấn, khả năng khai thác cho phép khoảng 1,8 – 2,0 triệu tấn/năm.
Từ xa xưa, người dân Việt Nam đã gắn bó mật thiết với biển. Nghề cá là nghề có
truyền thống từ lâu đời, gần gũi không chỉ với người dân ở vùng nông thôn ven biển, mà cả
với cộng đồng dân cư trên đất liền, nơi có nhiều thủy vực tự nhiên nhiều triệu hec-ta như
sông ngòi, kênh rạch, hệ thống hồ chứa tự nhiên và hồ chứa nhân tạo, hệ thống ao đầm nhỏ
và ruộng trũng thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt. Với lợi thế về điều kiện
tự nhiên, từ chỗ chỉ là một nghề phụ trong sản xuất nông nghiệp, ngành Thủy sản đã dần
hình thành và phát triển như một ngành kinh tế-kỹ thuật có đóng góp ngày càng lớn cho đất
nước và đã trở thành ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đạt tốc độ tăng
trưởng cao trong khối nông, lâm nghiệp và thủy sản (4,48 % năm 2012, Tổng cục Thống kê).
Đến nay, Thủy sản Việt Nam đã có vị trí cao trong cộng đồng nghề cá thế giới, đứng thứ 12
về khai thác thủy sản, thứ 3 về nuôi thủy sản và thứ 4 về giá trị xuất khẩu thủy sản. Sự phát
triển của ngành Thủy sản đã đóng góp vào công cuộc giữ gìn an ninh, chủ quyền trên vùng
lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của đất nước. Phát triển kinh tế biển nói chung và tăng
trưởng kinh tế thủy sản nói riêng đã thu hút lực lượng dân sự hiện diện thường xuyên trên
biển góp phần đảm bảo anh ninh quốc phòng. Ngược lại, đảm bảo an ninh quốc phòng tạo
điều kiện để bà con ngư dân yên tâm sản xuất, phát triển kinh tế thủy sản. Có thể khẳng
định, sự hiện diện dân sự của ngư dân trên biển đã và đang có vai trò quan trọng thực hiện
phát triển kinh tế gắn với nhiệm vụ bảo vệ vùng biển, đảo của Tổ quốc.
10



GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

Tất nhiên, để đạt được thành tựu đó không thể chỉ trông đợi vào những thuận lợi mà
môi trường tự nhiên mang lại, đòi hỏi cần có những chính sách hỗ trợ, khuyến ngư của
Chính phủ. Để phát huy những thế mạnh đó, Chính phủ đã có hàng loạt chính sách hỗ trợ,
khuyến khích phát triển nuôi trồng và khai thác thủy hải sản:
Chính sách Quản lý và sử dụng các loại mặt nước
Tất cả các loại mặt nước như ao, hồ, sông ngòi, kệnh rạch, bãi triều, đầm, phá, eo,
vịnh, v.v... đều thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý và giao cho tập thể
hoặc cá nhân sử dụng vào mục đích nuôi trồng, khai thác thủy sản và bảo vệ nguồn lợi thủy
sản. Đơn vị và cá nhân sử dụng mặt nước phải đăng ký với chính quyền địa phương. Mặt
nước thuộc phạm vi cấp nào do cấp đó quản lý. Mặt nước lớn liên xã, liên huyện do Uỷ ban
nhân dân huyện và tỉnh quyết định việc giao quyền quản lý và tổ chức sản xuất. Mặt nước
liên tỉnh và mặt nước trong phạm vi cơ quan, xí nghiệp trung ương đóng, do bộ trưởng Tổng
cục thủy sản chủ trì cùng các ngành và Uỷ ban nhân dân các tỉnh có liên quan bàn bạc quyết
định việc quản lý và tổ chức sản xuất.
Sản xuất các loại giống thủy sản
Chính phủ hỗ trợ trong việc tuyển chọn, lai tạo, sản xuất các loại giống thủy sản thuẩn
trủng nhất là giống cá, tôm và phân công giúp đỡ các địa phương sản xuất giống thương
phẩm, chú trọng bảo đảm chất lượng con giống, bảo đảm cơ cấu giống thích hợp cho từng
vùng, từng loại mặt nước. Hướng dẫn các tỉnh, huyện xây dựng quy hoạch và kế hoạch nuôi
trồng thủy sản, tổ chức hệ thống trạm, trại cá giống và chỉ đạo việc khai thác hợp lý nguồn
giống tự nhiên, nhằm cung cấp rộng rãi và thoả mãn nhu cầu giống cho mỗi địa phương.
Nhà nước cho phép tự do lưu thông các loại con giống thủy sản. Tư thương buôn bán
cá giống phải đăng ký và nộp thuế. Kế hoạch xuất khẩu và nhập khẩu các loại giống thủy
sản ra nước ngoài và từ nước ngoài vào do nhà nước thống nhất quản lý chỉ đạo và phải theo
đúng thủ tục quản lý ngoại thương. Việc vận chuyển cá giống giữa hai miền Bắc, Nam phải

theo kế hoạch do tổng cục thủy sản thông qua.
11


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

Ngoài các loại thủy sản như cá, tôm để làm nguồn thực phẩm, các loại cá cảnh cũng
được khuyến khích phát triển nhằm phục vụ nhu cầu trong nước và nhất là để xuất khẩu.
Tổng cục thủy sản có trách nhiệm xây dựng các cơ sở sản xuất các loại thuốc cho việc
phát triển và phòng ngừa các bệnh cho thủy sản, thống nhất quản lý chất lượng và kế hoạch
phân phối thuốc. Các đơn vị sản xuất các loại thuốc cho cá phải chịu sự quản lý của tổng cục
thủy sản về tiêu chuẩn chất lượng trước khi được tung ra thị trường.
Sản xuất thức ăn cho chăn nuôi
Đầu tư nghiên cứu, đào tạo, khuyến công, khuyến nông và chuyển giao tiến bộ khoa
học kỹ thuật về dinh dưỡng, chế biến thức ăn chăn nuôi.
Quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu thức ăn chăn nuôi; khuyến khích khai thác và
chế biến các loại thức ăn bổ sung từ nguồn nguyên liệu trong nước nhằm giảm tỷ lệ nhập
khẩu.
Hỗ trợ nâng cao năng lực các phòng phân tích phục vụ công tác kiểm tra, thanh tra,
giám sát chất lượng thức ăn chăn nuôi; hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động kiểm tra, thanh tra,
giám sát chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm đối với thức ăn chăn nuôi.
Hỗ trợ công nghệ sau thu hoạch để sơ chế và bảo quản nguồn nguyên liệu thức ăn
chăn nuôi sản xuất trong nước. Tận dụng nguồn nguyên liệu dư thừa hiện có tại địa phương
để làm thức ăn cho thủy sản.
Hỗ trợ cho các doanh nghiệp được vay vốn ngân hàng để đầu tư thiết bị phòng phân
tích kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi và mặt bằng để xây dựng hệ thống kho cảng
chuyên dùng phục vụ xuất, nhập khẩu thức ăn chăn nuôi.
Chính sách đầu tư

Đầu tư xây dựng cảng cá với mức đầu tư lên đến 100% đối với các hạng mục hạ tầng
thiết yếu của cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão (bao gồm cầu cảng; kè bờ, kè chắn sóng,

12


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

chắn cát; nạo vét luồng ra vào cảng, vùng nước neo đậu tàu; công trình neo buộc tàu; hệ
thống phao tiêu, báo hiệu, đèn tín hiệu; hệ thống thông tin liên lạc chuyên dùng).
Đầu tư xây dựng các hạng mục hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản; vùng sản xuất
giống tập trung bao gồm: Hệ thống cấp thoát nước đầu mối (ao, bể chứa, cống, kênh, đường
ống cấp, tiêu nước, trạm bơm), đê bao, kè, đường giao thông, hệ thống điện, công trình xử lý
nước thải chung; nâng cấp cơ sở hạ tầng các Trung tâm giống thủy sản quốc gia, Trung tâm
giống thủy sản cấp vùng, cấp tỉnh; Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường nuôi trồng thủy
sản, Trung tâm khảo nghiệm, kiểm định nuôi trồng thủy sản cấp Trung ương và cấp vùng:
Ngân sách trung ương đầu tư 100% kinh phí xây dựng hạ tầng vùng nuôi trồng thủy
sản tập trung trên biển bao gồm hệ thống phao tiêu, đèn báo ranh giới khu vực nuôi, hệ
thống neo lồng bè.
Ngân sách nhà nước ưu tiên bố trí vốn hàng năm theo kế hoạch được cấp có thẩm
quyền phê duyệt từ năm 2015 đến năm 2020 với mức đầu tư bình quân hàng năm tăng tối
thiểu gấp 2 lần so với số vốn bình quân hàng năm đã bố trí cho giai đoạn 2011 - 2014 để
thực hiện, bảo đảm đẩy nhanh và hoàn thành dứt điểm các công trình, dự án theo quy định.
Tập trung ưu tiên xây dựng, nâng cấp công trình tại các đảo Lý Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, Phú
Quốc, Bạch Long Vĩ, Cô Tô, Cồn Cỏ và một số tỉnh duyên hải Nam Trung bộ; bố trí vốn đầu
tư xây các trung tâm nghề cá lớn gắn với ngư trường trọng điểm tại thành phố: Hải Phòng,
Đà Nẵng, tỉnh: Khánh Hòa, Bà Rịa - Vũng Tàu, Kiên Giang theo quy hoạch đã được cấp có
thẩm quyền phê duyệt.

Thuế:
Thuế: Để khuyến khích nghề nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh mẽ và đảm bảo thu
nhập hợp lý, Chính phủ vận dụng chính sách thuế trong nông nghiệp để hướng dẫn mức thu
thuế và miễn thuế hợp lý cho từng loại nghề trong ngành nuôi trồng và khai thác thủy sản:
 Miễn thuế tài nguyên đối với hải sản tự nhiên khai thác.
13


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

 Không thu lệ phí trước bạ đối với tàu, thuyền khai thác thủy, hải sản.
 Miễn thuế môn bài đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nuôi trồng, đánh bắt thủy, hải

sản và dịch vụ hậu cần nghề cá.
 Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước sử dụng cho hoạt động nuôi trồng thủy, hải sản của

tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
 Không chịu thuế giá trị gia tăng đối với các trường hợp:

+ Sản phẩm thủy sản của tổ chức, cá nhân nuôi trồng, khai thác bán ra.
+ Bảo hiểm tàu, thuyền, trang thiết bị và các dụng cụ cần thiết khác phục vụ trực tiếp
khai thác hải sản.
 Chủ tàu khai thác hải sản được hoàn thuế giá trị gia tăng của tàu dùng để khai thác hải

sản đối với tàu được đóng mới, nâng cấp có tổng công suất máy chính từ 400CV trở
lên.
 Miễn thuế thu nhập cá nhân đối với hộ gia đình, cá nhân trực tiếp khai thác hải sản.
 Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập từ hoạt động khai thác hải sản, thu


nhập từ dịch vụ hậu cần phục vụ trực tiếp cho hoạt động khai thác hải sản xa bờ; thu
nhập từ đóng mới, nâng cấp tàu cá có tổng công suất máy chính từ 400CV trở lên để
phục vụ hoạt động khai thác hải sản.
 Miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu

trong nước chưa sản xuất được để đóng mới, nâng cấp tàu có tổng công suất máy
chính từ 400CV trở lên.
Chính sách tín dụng:

14


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

Chính sách tín dụng đóng mới, nâng cấp tàu, bao gồm: Ngư dân có thể vay vốn ngân
hàng thương mại từ 70 đến tối đa 95% tổng giá trị đầu tư với mức lãi suất 7%/năm, trong đó
chủ tàu chỉ phải trả 1 - 3%/năm, ngân sách nhà nước cấp bù 4 - 6%/năm. Thời hạn cho vay:
11 năm, trong đó năm đầu tiên chủ tàu được miễn lãi và chưa phải trả nợ gốc, Ngân sách nhà
nước cấp bù số lãi vay của chủ tàu được miễn năm đầu cho các ngân hàng thương mại.
Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản
Nghị định 33/2010/NĐ-CP của Chính phủ về việc thực hiện phân vùng khai thác cho
các đơn vị, các loại phương tiện để đảm bảo nguồn lợi thủy hải sản cho tương lai.
Tăng cường giáo dục để xóa bỏ tập quán lạc hậu của nền kinh tế tự nhiên còn rơi rớt trong
nhân dân coi cá là của chung, tha hồ đánh bắt mà không bảo vệ.
Nghiêm cấm việc dùng và thải các chất độc, dùng điện, dùng chất nổ... để đánh bắt và
giết hại các loại thủy sản. Việc vớt cá bột trên sông phải theo quy định của ngành thủy sản.
Cấm đánh bắt và giết hại cá con và các loại thủy sản đang thời kỳ sinh đẻ, nhất là ở các khu

vực đã được quy định. Tổng cục thủy sản phải ban hành các quy định cụ thể về việc này.
Phòng trị bệnh cá, cấm vận chuyển cá ở vùng đang có dịch bệnh sang vùng khác.
Vùng đang có dịch bệnh cá phát sinh, các cấp chính quyền địa phương có trách nhiệm trị
bệnh cho cá ngay và báo cáo kịp thời cho Tổng cục thủy sản. Ngành thủy sản có trách nhiệm
tổ chức việc bảo vệ phòng dịch cho cá như phòng dịch cho gia súc.
Khuyến khích toàn dân tham gia bảo vệ nguồn lợi thủy sản và kịp thời phát hiện, tố
giác các hành vi phá hoại. Người phát hiện, tố giác được khen thưởng thích đáng và được
pháp luật bảo vệ, mọi hành động trả thù đều bị nghiêm trị, người vi phạm bị xử phạt theo
pháp luật hiện hành.
2.1.2.

Thực trạng khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản của Việt Nam

trong giai đoạn 2000 – 2013

15


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

Biểu đồ 1: Sản lượng thủy hải sản giai đoạn 2000 – 2013
Trong giai đoạn 2000 – 2013 tổng sản lượng thủy hải sản duy trì được tốc độ tăng
trưởng trung bình khoảng 8%/năm, năm 2013 đạt hơn 6,05 triệu tấn, đạt được bước tăng
trưởng này là nhờ sự phát triển trong hoạt động nuôi trồng thủy sản, sự thay đổi cũng thể
hiện qua cơ cấu trong tổng sản lượng thủy hải sản, những năm 2000 sản lượng nuôi trồng chỉ
chiếm khoảng hơn 25% trong tổng sản lượng. Đến năm 2007 sản lượng nuôi trồng chính
thức vượt qua sản lượng khai thác, cho đến 2013 sản lượng nuôi trồng đã đạt hơn 55% trong
tổng sản lượng (3,34 triệu tấn), khai thác đạt trên 2,7 triệu tấn. Xét về mặt giá trị thì sản

lượng khai thác cũng được ghi nhận tuy nhiên mức tăng còn hạn chế. Những bước tăng
trưởng vững chắc của tổng sản lượng cũng như sản lượng nuôi trồng có thể thấy được ngành
thủy hải sản của Việt Nam dần chủ động trong hoạt động nuôi trồng để đảm bảo nhịp tăng
trưởng, bớt phụ thuộc vào sản lượng khai thác. Đây chính là đường lối đúng đắn cho mục
tiêu phát triển bền vững cho ngành. Sau đây là những nhận nhận định, đánh giá thực trạng
phát triển của hoạt động nuôi trồng , khai thác cũng như chế biến thủy hải sản của nước ta
giai đoạn 2000 -2013.
2.1.2.1.

Hoạt động nuôi trồng
16


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

Biểu đồ 2: Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2000 - 2013
Diện tích NTTS trên đất liền đã khai thác tới mức giới hạn cho phép. Đạt đỉnh vào
năm 2011 với 1,054 triệu ha, những năm gần đây diện tích NTTS có dấu hiệu bão hòa và sụt
giảm nhẹ. Các địa phương có tiềm năng, diện tích mặt nước phát triển NTTS đều đã quy
hoạch đưa vào sử dụng hết. NTTS phát triển theo phong trào. Công tác quy hoạch và quản lý
sau quy hoạch còn rất hạn chế. Các quy hoạch cụ thể, quy hoạch chi tiết thường đi trước quy
hoạch tổng thể, chất lượng quy hoạch không cao.
Biểu đồ 3: diện tích NTTS theo loại nước
Ngoài ra, diện tích NTTS có sự chuyển dịch trong cơ cấu giữa nước ngọt và nước
mặn hay nước lợ. Điều đó chứng tổ được xu hướng phát triển phát triển NTTS là tập trung
phát triển mạnh trên các bề mặt nước mặn hay nước lợ bởi các bề mặt nước ngọt đã được
khai thác khá triệt để.
Tuy nhiên, trong giai đoạn 2001-2013 ngành vẫn chưa chú trọng đúng mức đến quy

hoạch phát triển theo chiều sâu (tăng sản lượng trên cùng diện tích mặt nước NTTS ), vẫn
tập trung phát triển theo chiều rộng (mở rộng diện tích nuôi) mặc dù vậy việc làm này cũng
ko làm gia tăng diện tích NTTS. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là tư duy sản
xuất nhỏ, thiếu định hướng, tầm nhìn, thiếu các chính sách cụ về sử dụng đất, mặt nước lâu
17


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

dài, ổn định, thiếu vốn đầu tư, thiếu nghiên cứu khoa học dẫn đường, thiếu các hướng dẫn và
đánh giá sau quy hoạch, thiếu trao đổi, học hỏi kinh nghiệm trong và ngoài nước...
Chưa thực hiện được truy xuất nguồn gốc sản phẩm thủy sản. Việc làm này mới chỉ
được triển khai thử nghiệm cho một số vùng, chưa triển khai trên toàn quốc vì vậy đã ảnh
hưởng đến công tác quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, làm chậm kế hoạch xây
dựng thương hiệu sản phẩm uy tín, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngành công
nghiệp CBTS. Nguyên nhân chính là tình trạng manh mún của diện tích và sự phân tán của
các vùng NTTS, mặt khác thời gian qua, ngành mới chỉ chú trọng đầu tư cho một số đối
tượng chủ lực xuất khẩu, chưa thể mở rộng đại trà đến các đối tượng khác.
Việc sử dụng các loại thuốc, hóa chất bị cấm trong NTTS vẫn xảy ra. Nhiều lô hàng
thủy sản xuất khẩu của Việt Nam bị trả lại do nhiễm hóa chất còn tồn dư trong sản phẩm,
phần nhiều là các dư lượng kháng sinh. Không những thế tình trạng ô nhiễm môi trường
đang xảy ra nghiêm trọng trong nuôi trồng thủy sản do phần lớn các chất hữu cơ dư thừa từ
thức ăn, phân và các rác thải khác đọng lại dưới đáy ao nuôi. Ngoài ra, còn các hóa chất,
kháng sinh được sử dụng trong quá trình nuôi trồng cũng dư đọng lại mà không được xử lý.
Việc hình thành lớp bùn đáy do tích tụ lâu ngày của các chất hữu cơ, cặn bã là nơi sinh sống
của các vi sinh vật gây thối, các vi sinh vật sinh các khí độc như NH3, NO2, H2, H2S,
CH4.... Các vi sinh vật gây bệnh như: Vibrio, Aeromonas, Ecoli, Pseudomonas, Proteus,
Staphylococcus... nhiều loại nấm và nguyên sinh động vật.. Đây là những biểu hiện dễ nhận

thấy cho những hạn chế trong phát triển bền vững. Để xảy ra tình trạng này nguyên nhân
chính là thiếu các hướng dẫn cụ thể, thiếu các biện pháp cảnh báo cho người NTTS về nguy
cơ của việc sản xuất thiếu an toàn. Mặt khác công tác quản lý nhà nước về hóa chất, thuốc
thú y, về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm còn chồng chéo, còn bất cập; các đia phương
chưa thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát hoạt động NTTS, kiểm tra, xử lý các hoạt
động kinh doanh, buôn bán các loại thuốc, hóa chất bị cấm. Nghiêm trọng hơn nauwx là tình
trạng phá rừng phòng hộ ven biển để mở rộng diện tích nuôi trồng tôm, điển hình là ở xã
Tam Tiến, huyện Núi Thành, Tỉnh Quảng Nam, người dân tận dụng tất cả diện tích đất có
được để đào ao tôm. Từ các ao tôm, chằng chịt những đường ống dẫn nước thải chảy thẳng
18


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

ra sông, không những gây ô nhiễm môi trường mà còn làm mất đi diện tích rừng phòng hộ
vốn dĩ có vai trò cực kỳ quan trọng.
Sản xuất thức ăn, chế phẩm sinh học, thuốc thú y thủy sản đã bị bỏ ngỏ. Trên 80%
lượng thức ăn phải nhập khẩu từ nước ngoài hoặc do các doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài sản xuất. Người NTTS không chủ động được trong sản xuất mỗi khi có biến động lớn
về giá thức ăn (thức ăn chiếm trên 80% giá thành sản phẩm). Lỗi này chủ yếu thuộc về các
cơ quan quản lý Nhà nước.
Về sản xuất con giống và quản lý chất lượng con giống rất hạn chế: Chất lượng giống
không cao, công tác kiểm tra, kiểm soát còn lỏng lẻo. Lượng giống trôi nổi trên thị trường
không được kiểm soát rất lớn, đã ảnh hưởng không nhỏ đến NTTS, tỷ lệ sống sau thụ hoạch
đạt rất thấp từ 45-55% , có lúc, có nơi chỉ đạt 25-30%. Nguyên nhân chính dẫn đến tình
trạng này là công tác quản lý nhà nước chưa tốt, thiếu các quy chuẩn, quy định cụ thể, việc
kiểm tra, kiểm soát còn đơn giản, thậm chí có nơi còn để xảy ra tiêu cực.
Cơ sở hạ tầng thủy lợi vùng nuôi còn nhiều bất cập, chưa có các nghiên cứu khoa học

về hệ thống thủy lợi phục vụ NTTS, hầu hết hiện nay là nước phục vụ NTTS được sử
dụng chung, cùng hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, vì vậy nguy cơ về ô
nhiễm nguồn nước và dịch bệnh từ việc dùng các loại hóa chất, thuốc trừ sâu, phân bón
trong nông nghiệp thải ra nguồn nước còn nhiều tiền ẩn.
2.1.2.2.

Hoạt động khai thác

Biểu đồ 4: Số lượng tàu thuyền đánh bắt xa bờ giai đoạn 2000 - 2011
Sự gia tăng quá nhanh và không có kiểm soát các loại tàu thuyền đánh bắt đã làm cho
nguồn lợi thủy sản đứng trước nguy cơ suy giảm nghiêm trọng, có thể thấy từ 2000 đến 2011
số lượng tàu thuyền đánh bắt xa bờ đã tăng lên gần 3 lần. Nhưng nguyên nhân chính không
phải là sự tăng lên của số lượng phương tiện đánh bắt mà do tình trạng yếu kém trong quản
lý nhà nước. Ngành thủy sản thiếu các quy hoạch chi tiết, thiếu các đánh giá thường niên về
ngư trường và nguồn lợi, vì vậy thiếu cơ sở khoa học cho quy hoạch phát triển các đội tàu,
19


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

các nghề khai thác phù hợp với từng vùng biển, từng địa phương trên cả nước. Công tác
thống kê của ngành cũng còn quá nhiều bất cập. Chưa có phương pháp thống kê số liệu tàu
thuyền chính xác.
Một mặt, như đã nói ở trên, tổng sản lượng thủy sản tăng lên hàng năm. Tuy nhiên,
nếu xem xét về phương pháp khai thác sẽ thấy rằng người dân vì mục đích thu lợi cá nhân đã
sử dụng rất nhiều phương pháp đánh bắt : dùng thuốc nổ, xung điện, kích điện, và lưới mắt
nhỏ để khai thác thủy sản. Đánh bắt bằng lưới mắt nhỏ như thế chúng ta : “ cào” tất cả
những gì có thể có, nhưng không suy nghĩ rằng làm như vậy sẽ có khả năng làm cạn kiệt

nguồn thủy sản. Đánh bắt bằng thuốc nổ, xung điện môi trường sinh thái bị ảnh hưởng
nghiêm trọng, nguy hại đến chính bản thân người đánh bắt.
Hiện nay chưa có những hình thức xử phạt thích đáng đối với những cá nhân, tổ chức
dùng phương thức đánh bắt này. Hậu quả sẽ cực kỳ nghiêm trọng khi cách thức đánh bắt này
không được người dân ngừng lại. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là công tác
thanh tra, kiểm tra, giám sát còn yếu, thiếu lực lượng, thiếu kinh phí, thiếu phương tiện hoạt
động.
Chi phí đầu vào cho KTTS không ngừng tăng cao, trong khi giá sản phẩm không tăng
hoặc tăng không tương ứng, vì vậy tàu thuyền của ngư dân phải nằm bờ rất nhiều. Nguyên
nhân chính dẫn đến tình trạng này là do biến động bất ổn của thị trường, giá xăng, dầu thế
giới tăng cao, bắt buộc giá xăng dầu trong nước phải tăng theo, mặc dù có sự hỗ trợ của
Chính phủ về chi phí xăng dầu nhưng sự hỗ trợ đó chưa được thực hiện đồng bộ.
Công tác tổ chức sản xuất, thương mại còn quá nhiều bất cập. Trên 90% sản phẩm do
tư thương quản lý cả đầu vào và đầu ra. Nguồn vốn đầu tư cho ngư dân đi khai thác từng
chuyến biển chủ yếu cũng do tư thương cung cấp. Vì vậy ngư dân không thực quyền chủ
động trong sản xuất, không được bình đẳng trong ăn chia, phân phối sản phẩm, thành quả
lao động. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này chủ yếu là do ngư dân nghèo, thiếu
vốn; cơ chế chính sách tín dụng hiện hành không hỗ trợ ngư dân tiếp cận được nguồn vốn tín
dụng của các ngân hàng. Các mối quan hệ ngư dân-doanh nghiệp-ngân hàng không được xác
lập; tổ chức HTX còn yếu kém; vai trò các doanh nghiệp công ích còn mờ nhạt.
Năm Tổng

Khai

thác Khai thác cá biển Khai thác nội địa
20


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN
số

biển
2000 1661
1420
2001 1725
1481
2002 1803
1576
2003 1856
1647
2004 1940
1733
2005 1988
1791
2006 2027
1824
2007 2075
1876
2008 2136
1947
2009 2281
2092
2010 2414
2220
2011 2503
2300
(Nguồn: tổng cục thống kê)

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

1075

1121
1190
1228
1334
1368
1397
1433
1476
1574
1663
1714

241
244
227
209
207
197
203
198
190
189
194
203

Bảng: Sản lượng khai thác giai đoạn 2000 -2011(ĐVT: nghìn tấn)
Sản lượng khai thác trong giai đoạn 2000 – 2011 tăng trưởng với mức trung bình
khoảng 4%/năm. Trong đó, sản lượng khai thác biển chiếm phần lớn với tỉ trọng lên đến trên
90% trong tổng sản lượng khai thác, điều đó cho thấy vai trò của biển trong hoạt động khai
thác nói chung. Cũng phải nói thêm rằng, trong hoạt động khai thác biển thì sản phẩm chủ

yếu là các loại cá, nó chiếm đến trên 75% trong tổng sản lượng khai thác biển.
Mặt khác, sản lượng KTTS có giá thấp vẫn còn chiếm tỷ trọng khá cao, trên 55% là
cá tạp các loại, chỉ có thể sử dụng trong chế biến thức ăn chăn nuôi và tiêu dùng nội địa.
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này chủ yếu là do cơ cấu các đội tàu hiện nay, vẫn
còn nhiều phương tiện, loại nghề khai thác tận thu; mặt khác ngư dân thiếu các thông tin về
thị trường, còn các doanh nghiệp CBTS trong nước vì mục tiêu lợi nhuận, chưa coi trọng
nghiên cứu, chế biến gia tăng các loại sản phẩm này.
Công nghệ bảo quản sau thu hoạch còn khá thô sơ (chủ yếu bảo quản bằng nước đá)
vì vậy tổn thất sau thu hoạch chiếm tỷ trọng khá cao ( 20-25%) trong tổng sản lượng KTTS,
làm giảm đáng kể hiệu quả đi biển của ngư dân. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này
chủ yếu do ngư dân nghèo, thiếu vốn đầu tư. Về phía nhà nước còn rất thiếu các nghiên cứu
cơ bản và thiếu các chuyển giao công nghệ về bảo quản sau thu hoạch cho ngư dân.
Công tác điều tra, đánh giá và dự báo ngư trường nguồn lợi còn nhiều hạn chế, thiếu
đồng bộ, vì vậy các số liệu, cơ sở khoa học cho việc hoạch định chiến lược, quy hoạch phát
21


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

triển ngành KTTS không tránh khỏi các khó khăn.. Nguyên nhân chính của tình trạng này
chủ yếu là do hạn chế nhận thức của các cơ quan quản lý, trong tình trạng luôn thiếu kinh
phí dành cho nghiên cứu cơ bản về biển, thiếu vốn đầu tư, đầu tư không đồng bộ, thiếu thiêt
bị, phương tiện, nhân lực cho công tác điều tra nghiên cứu, dự báo nguồn lợi thủy sản.
Cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá còn nhiều hạn chế. Mâu thuẫn trong các quy hoạch
liên ngành dẫn đến nhiều cảng cá sau khi đầu tư không được sử dụng, dẫn tới lãng phí lớn.
Do cơ chế xin/cho trong đầu tư và yếu kém trong tư vấn thiết kế, nhiều cảng cá, bến cá vừa
xây dựng xong, vừa đi vào hoạt động đã bị bồi lắng hoạt động kém hiệu quả, thậm chí có
những cảng cá không hoạt động được phải bỏ. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là

yếu kém trong công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch phát triển các cảng cá, bến cá, khu
neo đậu tránh trú bão.
Công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản còn
hạn chế; hệ thống bộ máy tổ chức từ Trung ương đến địa phương còn nhiều bất cập.
2.1.2.3.

Hoạt động chế biến

Công tác dự báo thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước rất hạn chế: Thời gian qua,
các doanh nghiệp tự xoay sở trong cơ chế thị trường, tự tìm đầu ra cho sản xuất. Do không
chủ động được thị trường nhiều doanh nghiệp sản xuất cầm chừng, không thể xây dựng
được chiến lược kinh doanh, chiến lược sản phẩm. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu
do thiếu kiến thức thương mại thị trường, thiếu vốn đầu tư, thiếu các chính sách hỗ trợ đúng
đắn, kịp thời của Nhà nước về marketting về dự báo thị trường. Mặt khác công tác thống kê
thủy sản bị buông lỏng suốt thời gian dài, không có sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, số
liệu đầu vào theo chuỗi thời gian không có, hoặc chắp vá với chuỗi thời gian quá ngắn
không thể làm cơ sở dữ liệu phân tích dự báo chính xác cho từng thị trường cũng như từng
sản phẩm thủy sản.
Tình trạng cạnh trạnh thiếu lành mạnh: Nội bộ cộng đồng doanh nghiệp còn nhiều
vấn đề thường xuyên xảy ra. Nổi cộm thời gian qua là tình trạng một số doanh nghiệp dung
túng cho việc bơm chích tạp chất vào nguyên liệu thủy sản để phá giá thị trường. Có một số
doanh nghiệp khác lại dùng chiêu chào hàng giá thấp trên thị trường quốc tế nhằm bán được
22


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

hàng, mặc cho đó là sự làm hại lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam,

dẫn đến tình trạng kìm hãm lĩnh vực sản xuất nguyên liệu trong nước, đặc biệt là sản phẩm
tôm và cá tra, nhiều lúc người nuôi phải treo ao vì giá thu mua quá thấp không đủ bù đắp chi
phí sản xuất. Nguyên nhân chính của tình trạng này là thói hư, tật xấu-tàn dư của lề thói sản
xuất nhỏ lẻ còn hằn sâu trong một số doanh nhân, văn hóa kinh doanh hiện đại và sự liên kết
giữa các doanh nghiệp trong cùng hiệp hội ngành nghề chưa đủ tầm ảnh hưởng để hình
thành nên môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Thiếu phối hợp quy hoạch giữa sản xuất nguyên liệu và nhà máy chế biến: Việc tự
phát mở rộng diện tích NTTS đến đâu, nhà máy CBTS phát triển theo đến đó, đã dẫn đến
tình trạng thiếu nguồn nguyên liệu, dư thừa công suất sản xuất. Theo thống kê của Hiệp hội
chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), các nhà máy CBTS được đầu tư rất lớn,
trong khi đó công suất thực tế hoạt động chỉ đạt 50-70% tùy thuộc từng nhà máy. Như vây,
việc đầu tư là không có hiệu quả. Đầu tư lớn, các doanh nghiệp CBTS phải khấu hao tài sản
cố định lớn, không sử dụng hết công suất đồng nghĩa với việc nâng cao giá thành sản xuất,
giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường. Nguyên nhân chính của tình trạng này là công tác
quy hoạch và quản lý quy hoạch còn hạn chế.
Chưa xây dựng tốt mối quan hệ liên kết giữa sản xuất nguyên liệu và chế biến sản
phẩm thủy sản: Trong nhiều năm qua Chính phủ đã có những chủ trương, chính sách xây
dựng các mối quan hệ liên kết giữa doanh nghiệp chế biến thủy sản với các cơ sở nuôi trồng
thủy sản, các tàu đánh bắt hải sản. Nhưng do thói quen làm ăn nhỏ lẻ, manh mún, tiểu nông,
nhìn lợi ích nhỏ trước mắt, chưa thấy tầm chiến lược, lợi ích trong quan hệ làm ăn chung
thủy, lâu dài, bền chặt giữa những chủ đầm, chủ tàu với các doanh nghiệp, nên các hợp đồng
liên kết thường bị phá vỡ trong thời gian qua đã làm cho không ít chủ đầm, chủ tàu, cũng
như một số doanh nghiệp bị lao đao, vất vả, thậm chí một số bị phá sản.
Công tác quản lý kiểm soát an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, đáp ứng quy
chuẩn, tiêu chuẩn, các chứng chỉ tập trung nhiều ở khu vực chế biến xuất khẩu, chưa thực
hiện tốt ở khu vực sản xuất nguyên liệu (nuôi trồng, khai thác) và bảo quản sau thu hoạch,
chủ yếu chỉ thực hiện tốt ở những vùng nuôi tập trung, dẫn đến việc chưa kiểm soát chặt chẽ
chất lượng nguyên liệu (dư lượng kháng sinh, các chất ô nhiễm) cung ứng cho chế biến xuất
23



GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

khẩu, vẫn tồn tại các hiện tượng gian lận thương mại như tiêm chích tạp chất, tỉ lệ mạ băng
cao.... Nguyên nhân chính là do hệ thống tổ chức, nhân lực phục vụ công tác vệ sinh an toàn
thực phẩm chưa được xây dựng hoàn chỉnh ở địa phương, các văn bản pháp lý chưa thực sự
đầy đủ, chưa đồng bộ và không được thực thi có hiệu quả, thiếu trang thiết bị phục vụ công
tác kiểm tra giám sát chất lượng, an toàn thực phẩm, chưa có thanh tra chuyên ngành về chất
lượng, an toàn vệ sinh thủy sản.
Ảnh hưởng xấu từ nguồn nguyên liệu nhập lậu không đảm bảo chất lượng từ Trung
Quốc. Vấn nạn này ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh thương hiệu thủy sản Việt Nam
cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng.
2.2.

Thực trạng xuất khẩu

2.2.1.

Một số tiêu chuẩn quốc tế đối với mặt hàng thủy sản

Bộ tiêu chuẩn GlobalGAP (thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu):
-

Là công cụ kết nối giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa nhà sản xuất với người
cung ứng nông sản thực phẩm

-


Bằng việc đăng ký số GGN (Global GAP Number), cung cấp và cập nhật thông tin
của nhà sản xuất đã được chứng nhận trên Cơ sở dữ liệu của GlobalGAP, nhà cung
cấp sẽ có cơ hội tự giới thiệu về chủng loại, nguồn gốc xuất xứ, phương thức sản
xuất, mức độ an toàn, mùa thu hoạch và sản lượng của sản phẩm của mình.
Bộ tiêu chuẩn BAP (thực hành nuôi trồng thủy sản tốt nhất):

-

Xác định những yếu tố quan trọng nhất trong nuôi trồng thuỷ sản có trách nhiệm,
cung cấp tài liệu hướng dẫn và quy trình kiểm tra, đánh giá các hoạt động thực hành
nuôi.

-

Những cơ sở được chứng nhận là đạt tiêu chuẩn BAP có thể sử dụng dấu chứng chỉ
để quảng cáo và in dấu đó trên nhãn hàng hoá sản phẩm bán buôn của mình.
Bộ tiêu chuẩn ASC (hội đồng quản lý nuôi trồng thủy sản):
24


GVHD: GS. ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN

QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU

-

Nhằm quản lý các tiêu chuẩn toàn cầu đối với việc nuôi trồng thuỷ sản có trách nhiệm

-


Dựa trên 4 nền tảng chính: môi trường, xã hội, an sinh động vật và an toàn thực phẩm

-

Gồm 2 tiêu chuẩn thành phần:
+ Tiêu chuẩn trang trại (áp dụng cho các trang trại nuôi trồng thủy sản)
+ Tiêu chuẩn chuỗi hành trình (áp dụng cho các nhà sản xuất, chế biến, xuất khẩu -

nhập khẩu, phân phối)
Bộ tiêu chuẩn MSC CoC (chuỗi hành trình sản phẩm):
-

Để khuyến khích các vùng khai thác thủy sản bền vững và thực hành nghề cá có trách
nhiệm trên toàn thế giới thông qua các giải pháp thị trường dài hạn, nhằm đáp ứng
nhu cầu và mục tiêu cả về môi trường và thương mại.

-

Bao gồm các yêu cầu đối với hệ thống kiểm soát bằng tài liệu, khả năng nhận biết và
truy tìm nguồn gốc sản phẩm, nhãn hiệu hàng hóa và lưu trữ hồ sơ.
Trong thực tế, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam đã từng bị trả hàng,

không nhập hàng. Khi phía Việt Nam chưa tìm hiểu rõ các nguyên tắc về tiêu chuẩn chất
lượng, vệ sinh đối với sản phẩm xuất khẩu qua các nước sở tại.Ở mỗi nước, mỗi khu vực có
những bộ tiêu chuẩn khác nhau đối với sản phẩm: Mỹ dùng bộ tiêu chuẩn GlobalGAP, châu
Âu dùng bộ tiêu chuẩn BAP, SQF 1000…
Vì vậy, để tránh việc bị động trong xuất khẩu thủy sản ra thị trường nước ngoài, cần
tìm hiểu kỹ những tiêu chuẩn ở thị trường đó, chứ không phải mình tự xây dựng bộ tiêu
chuẩn rồi họ chấp nhận. Điều bắt buộc là chúng ta tham gia vào chuỗi nào thì phải theo
chuẩn của chuỗi đó.

2.2.2.

Thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam giai đoạn 2000 - 2013

25


×