Bộ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
Bộ Y TE
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH
TRẦN THỊ HUYÊN GIANG
THựC TRẠNG THỪA CÂN BÉO PHÌ
VÀ MỘT SÓ YÉU TỐ LIÊN QUAN Ở HỌC
SINH LÓP MỘT TẠI 2 HUYẼN/THÀNH PHỐ
TỈNH QUẢNG TRỊ NĂM 2016
LUẬN VĂN THẠC sĩ DINH DƯỠNG
THÁI BÌNH, 2017
Bộ YTÉ
Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH
TRẦN THỊ HUYỀN GIANG
THỰC TRẠNG THỪA CÂN BÉO PHÌ
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở HỌC
SINH LỚP MỘT TẠI 2 HUYẼN/THÀNH PHÓ
TỈNH QUẢNG TRỊ NĂM 2016
LUÂN VĂN THAC sĩ DINH DƯỠNG • •
Mã số: 60.72.03.03
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. Đặng Văn Nghiễm
2. TS. Trần Thị Xuân Ngọc
THÁI BÌNH, 2017
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Y Dược
Thái Bình, Phòng Quán lý đào tạo sau đại học, Khoa Y tế công cộng và Bộ
môn dinh dường - An toàn thực phẩm dã tận tình giảng dạy, trang bị cho
tôi những kiến thức bô ích trong suốt thời gian học tập ở trường, đồng thời
tạo điều kiện giúp đờ tôi trong thời gian nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Ban lãnh đạo Trung
tâm Y tế dự phòng tỉnh Quáng Trị, Phòng Tổ chức hành chính dã tạo diều
kiện giúp đờ tôi trong quá trình công tác, tham gia học tập.
Tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới Trung tâm Y tế, phòng giáo
dục Thành phố Đông Hà, Trung tâm Y tế huyện Hải Lăng, Ban giám hiệu,
các Thầy giáo, Cô giáo, các bậc phụ huynh học sinh của ỉ 7 trường tiểu
học đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên
cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Tiến sĩ
Đặng Văn Nghiễm và Tiến sĩ Trần Thị Xuân Ngọc, những người Thầy đảng
kính luôn dành thời gian và công sức để động viên, hướng dẫn, giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lòng biết ơn tới bổ mẹ, chồng, các con của
tôi cùng bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên, hỗ trợ, giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập và hoàn thành bản luận văn này.
np
r
• *>
Tác giả
Trần Thị Huyền Giang
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực
hiện. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, luận văn
chưa được ai công bố trong bất kỳ chương trình nào khác.
rp r _
_• 2
Tác gia
Trần Thị Huyền Giang
CÁC KÝ HIỆU, CHỦ VIẾT TẮT
Kí hiêu
BAZ
Tiếng Việt
Zscore của chỉ số khối cơ thể theo tuổi
BMI
Chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index)
BP
Béo phì
CBVC
Cán bộ viên chức
Chiều cao
cc
•
CDC
Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ
CĐ
Cao đáng
CHCB
Chuyển hóa cơ bản
CNSS
Cân nặng sơ sinh
ĐH
HAZ
Đại học
Zscore chiều cao theo tuổi
KTC 95%
NCHS
Khoảng tin cậy 95%
Trung tâm thống kê sức khoe Quốc gia Hoa Kỳ (National
centre for health statistic)
OR
NN
•> Á 1 A 1
SDD
TC
Tỷ SÔ chenh
Suy dinh dưỡng
Thừa cân
TPHCM
Thành phố Hồ Chí Minh
TTDD
WAZ
Tinh trạng dinh dưỡng
Zscore cân nặng theo tuổi
WHO
Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization)
WHZ
Zscore cân nặng theo chiều cao
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Bảng 3.19. Môi liên quan giữa quan niệm vê béo phì của người chăm sóc
DANH MỤC CÁC BIẺU ĐÒ, sơ ĐÒ
Biểu đồ 3.1. Mối liên quan giữa cân nặng sơ sinh với thừa cân béo phì ở trẻ 40
9
ĐẶT VẤN ĐÈ
Những nghiên cứu mới đây đêu cho thày, thừa cân và béo phì đã thực sự trở
thành một thách thức đối với dinh dưỡng và sức khỏe con người trên toàn cầu.
Thừa cân và béo phì không chỉ tăng cao ở các nước phát triển mà còn tăng nhanh ở
mức báo động ở các nước đang phát triển.
Tổ chức Y tế thế giới đã cảnh báo, thừa cân và béo phì cũng là một “Tứ
chứng nan Y” vì chưa có biện pháp hữu hiệu nào để chặn đứng sự gia tăng này.
Nguyên nhân của thừa cân và béo phì không chỉ do chế độ ăn uống thiếu khoa học
mà còn do nhiều yếu tố có liên quan như giảm hoạt động thể lực, stress, ô nhiễm
môi trường và những vấn đồ xã hội...[5].
Hiện nay, thừa cân và béo phì ở trẻ em đang được đặc biệt quan tâm vì nó
sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe khi trưởng thành do làm gia tăng nguy cơ đổi với các
bệnh như tăng huyết áp, bệnh mạch vành, tiểu đường, viêm xương khớp, ung thư,
sỏi mật v.v. Béo phì ở trẻ em còn làm ngừng tăng trưởng sớm, dần tới những ảnh
hưởng nặng nề về tâm lý như trẻ chậm chạp, nhút nhát, tự ti, kém hòa đồng và học
kém.
Béo phì ở trẻ em hôm nay có thể là nguồn gốc thảm họa cùa sức khỏe trong
tương lai. Dự báo đén năm 2020, Brazil sẽ có số lượng người béo phì đứng thứ 2
trên thé giới, khoảng 64 triệu người [42], Không chỉ ở các nước có thu nhập cao
mà ngay tại các nước có thu nhập trung bình và thấp thì tỷ lệ thừa cân, béo phì
cũng tăng, nhất là ở các khu vực đô thị.
Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng quốc gia, tình trạng TC,
BP ở trẻ em, nhất là trẻ 6-11 tuổi đã tăng nhanh cùng với sự phát triển kinh tế.
Năm 1996 tỷ lệ trẻ em béo phì ở Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Nha Trang,
Hà Nội, Hải Phòng khoáng 1-2%, nhưng hiện nay, tỷ lệ này đã vượt qua ngưỡng
10% ở các thành phố lớn [5],
10
Khi đời sống kinh tế được cải thiện, khấu phần ăn chứa nhiều lipid, tỷ lệ năng
lượng do lipid tăng, do glucid giảm xuống, lượng mỡ động vật và đường ngọt tăng
lên. Theo Viện Dinh Dưỡng quốc gia, cơ cấu bùa ăn của người Việt hiện nay đã có
nhiều biến đổi, tỷ lộ năng lượng của khẩu phần do chất bco cung cấp tăng rõ rệt,
năm 1984 là 8,4%, năm 2000 tăng lên 12% và năm 2005 là 16,5% [39], Bên cạnh
khấu phần ăn, lối sống cũng là một yếu tố góp phần tăng tý lệ thừa cân, bco phì và
các bệnh mãn tính không lây tại cộng đồng.
Tỉnh Quảng Trị nằm ở dải đất miền Trung, hiện nay chưa có nhiều nghiên
cứu về thừa cân, béo phì, cũng như khảo sát về chế độ ăn, thói quen vận động thể
lực của trẻ, sự quan tâm của cha mẹ đối với vấn đề này. Xuất phát từ tình hình thực
tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Thực trạng thừa cân béo phì và một số yếu tố liên quan ở học sình lớp
một tại 2 huyện/thành phố tỉnh Quảng Trị năm 2016” với 2 mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ thừa cân béo phì ở học sinh lớp một tại 2 huyện/thành phố
tinh Quảng Trị năm 2016.
Mô tủ một sổ yếu tố liên quan đến thừa cân béo phì ở học sinh lớp một tại địa bàn nghiên cứu.
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái niệm thừa cân và béo phì
Có nhiều khái niệm về thừa cân và bco phì, tuy nhiên Tổ chức Y tế Thế giới đưa ra định nghĩa về thừa cân,
béo phì như sau:
Thừa cân là tinh trạng cân nặng vượt quá cân nặng “nên có” so với chiều cao. Còn béo phì là tình trạng tích
lũy mỡ thừa thái quá và không bình thường một cách cục bộ hay toàn thể tới mức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Do
vậy, khi đánh giá “béo phì” thì không chỉ tính đến cân nặng mà phải quan tâm đến tỷ lệ mỡ của cơ thể [54],
1.2. Phân loại thừa cân và bco phì
1.2.1. Phân loại béo phì theo sinh bệnh học
1.2.1.1.
B é o p h ì đ ơ n t h u ầ n ( b é o p h ì n g o ạ i s i n h ) : Là béo phì không có nguyên nhân sinh bệnh
học rõ ràng.
1.2.1.2.
B é o p h ì b ệ n h l ý ( b é o p h ì n ộ i s i n h ) : Là béo phì do các vấn đề bệnh lý liên quan tới béo
gây nên:
- Bco phì do nguycn nhân nội tiết.
- Bco phì do suy giáp trạng: Thường xuất hiện muộn, bco vừa, chậm lớn, da khô, táo bón và chậm phát triển
tinh thần.
- Béo phì do cường vỏ thượng thận: Có thể do tốn thương tuyến yên hoặc u tuyến thượng thận, tăng cortisol và
insulin huyết thanh, không dung nạp glucose, thường béo ở mặt và thân, kèm theo tăng huyết áp.
- Béo phì do thiếu hormon tăng trưởng: Béo phì thường nhẹ hơn so với các nguyên nhân khác, béo chủ yếu ớ
thân kèm theo chậm lớn.
- Béo phì trong hội chứng tăng hormon nang buồng trứng: thường xuất hiện sau dậy thì. Người béo phì có các
dấu hiệu của rậm lông hoặc nam hóa sớm, kinh nguyệt không đều, thường gặp các u nang buồng trứng kèm theo.
- Béo phì trong thiếu năng sinh dục.
- Bco phì do các bệnh về não: Do tổn thương vùng dưới đồi, u não, chấn thương sọ não, phẫu thuật thần kinh.
Các nguyên nhân này gây hủy hoại vùng trung tâm não trung gian, ảnh hưởng đến sức thèm ăn, tăng insulin thứ phát
nên thường kèm theo béo phì.
1.2.2. Phân loại béo phì theo hình thái của mô mỡ và tuổi bắt đầu béo phì:
- Béo phì bắt đầu từ nhỏ (trẻ em, thanh thiếu niên): Là loại béo phì có tăng số lượng và kích thước tế bào mỡ.
- Béo phì bắt đầu ở người lớn: Là loại béo phì có tăng kích thước tế bào mỡ còn số lượng tế bào mỡ thì bình
thường.
- Bco phì xuất hiện sớm: Là loại bco phì xuất hiện trước 5 tuổi.
- Béo phì xuất hiện muộn: Là loại béo phì xuất hiện sau 5 tuổi.
Các giai đoạn thường xuất hiện béo phì là thời kỳ nhũ nhi, 5 tuổi, 7 tuổi và vị thành niên (tuổi tiền dậy thì và
dậy thì). Béo phì ở các thời kỳ này làm tăng nguy cơ của béo phì trường diễn và các biến chứng khác.
1.2.3. Phân loại béo phì theo vùng của mô mỡ và vị trí giải phẫu:
- Béo bụng (béo trung tâm, béo phần trên, béo hình quả táo, béo kiểu đàn ông - thổ Android): Là dạng béo phì
có mỡ chủ yếu tập trung ở vùng bụng.
- Béo đùi (béo ngoại vi, béo phần thấp, béo hình quả lê, béo kiểu đàn bà - thể Gynoid): Là loại béo phì có mỡ
chủ ycu tập trung ở vùng mông và đùi. Phân loại này giúp dự đoán nguy cơ sức khoẻ của béo phì. Béo bụng có nguy
cơ cao mắc và tử vong do các bệnh tim mạch, đái tháo đường, tăng Insulin máu, rối loạn Lipid máu, không dung nạp
Glucose hơn so với béo đùi.
1.2.4. Một sổ phân loại béo phì khác:
- Bco phì do sử dụng thuốc: Sử dụng corticoid liều cao và kéo dài, dùng estrogen, deparkin có thể gây béo phì.
- Béo có khôi nạc tăng so với chiêu cao và tuôi: Trẻ béo phì có khôi nạc tăng so với tuổi thường có chiều cao
cao hơn chiều cao trung bình, thường là trẻ béo phì từ nhỏ, dạng này đặc trưng cho đa số béo phì ờ trẻ em.
-Trẻ thừa cân và thừa mỡ, thừa mỡ nhưng không thừa cân (rất ít trẻ thuộc nhóm này) và thừa cân nhưng không
thừa mỡ [40].
1.3. Cơ chế bệnh sinh của béo phì
Cơ thể giữ được cân nặng ổn định là nhờ trạng thái cân bằng giữa năng lượng do thức ăn cung cấp, năng
lượng tiêu hao cho lao động và các hoạt động khác của cơ thể. Cân nặng cơ thể tăng lên có thể do chế độ ăn dư thừa
vượt quá nhu cầu hoặc do nếp sống làm việc tĩnh tại ít tiêu hao năng lượng. Người ta nhận thấy 60% - 80% trường
hợp béo phì là do nguyên nhân dinh dưỡng, bôn cạnh đó còn có thể do các rối loạn chuyển hóa trong cơ thể thông
qua vai trò điều tiết của hệ thống thần kinh và các tuyến nội tiết như tuyến yên, tuyến thượng thận, tuyến giáp trạng
và tuyến tụy.
Khi vào cơ thể, các chất protein, lipid, glucid đều có thể chuyển hóa thành chất béo dự trữ. Vì vậy không nên
coi ăn nhiều thịt, nhiều mỡ mới gây bco mà ăn quá thừa chất bột, đường, đồ ngọt đều có thể gây béo. Các hành vi ăn
uống có liên quan tới TC, BP bao gồm tần suất ăn/ăn vặt, khấu phần ăn quá dư thừa, ăn uống nhậu nhẹt, ăn thức ăn
nhanh ở bên ngoài và vấn đề bú sữa mẹ hoàn toàn. Các yếu tố chất dinh dường được nghiên cứu bao gồm chất béo,
các loại carbohydrat (bao gồm các loại carbohydrat tinh chế như đường), chí số đường huyết của thực phẩm và chất
xơ.
So' đô 1.1. Mô hình nguyên nhân và CO’ chê sinh bệnh của béo phì
1.4. Phương pháp đánh giá thừa cân, béo phì ỏ’ trẻ em
Sự phát triển cơ thể thay đổi theo tuổi, vì vậy không thể áp dụng một chuẩn chung đế đánh giá tình trạng thừa
cân béo phì cho mọi lứa tuổi, nhất là ở trẻ em lứa tuổi học đường.
Tổ chức Y tế Thế giới chia 4 nhóm tuổi để đánh giá tình trạng dinh dưỡng: dưới 5 tuổi, từ 5-9 tuổi, từ 10-19
tuổi, trên 19 tuổi. Ở trẻ em, hai chỉ số thường dùng nhất đé đánh giá tình trạng thừa cân và béo phì của trẻ là chi số
cân nặng/chiều cao (CN/CC) và chỉ số BMI theo tuổi và giới [55],
Chi số cân nặng/chiều cao được phân loại theo khuyến nghị của Tổ chức Y tể Thế giới năm 2007 với quần thể
tham khảo NCHS. Chỉ số này được tính
trên trung bỉnh quần thể và có các mốc: lệch chuẩn -4SD, -3SD, -2SD, -1SD,
TB, + 1SD, +2SD, +3SD, +4SD. Bảng được lập riêng theo giới cho trẻ trai và
trẻ gái. Trẻ có chỉ số CN/CC thấp hơn -2SD được tính là trẻ suy dinh dưỡng
(SDD) thể gầy còm, trẻ có chỉ số CN/CC cao hơn +2SD được tính là trẻ TC,
BP. Trẻ có chỉ số CN/CC trong giới hạn -2SD đến +2SD là bình thường. Chỉ
số khối cơ thể (Body Mass Index: BMI) theo tuổi và giới được sử dụng đế
đánh giá thừa cân béo phì theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới với
quần thể tham khảo từ 6 quốc gia: Brazil, Ghana, Án Độ, Na Uy, Oman và
Mỹ [54], BMI được tính theo công thức sau:
Cân nặng (kg)
BMI = --------—-----------Chiều cao (m)2
Xác định tỉnh trạng TC, BP theo chỉ số CN/CC: Theo Tổ chức Y tế Thế giới, tình trạng TC, BP cùa trẻ được
tính theo chỉ số CN/CC nếu vượt quá +2SD là thừa cân, nếu vượt quá +3SD là béo phì. Đây là chỉ tiêu tốt đề đánh
giá quần thể, tuy nhiên nếu đánh giá cho cá nhân WHO khuyến cáo nên sử dụng thêm biện pháp đo dự trừ mỡ hay
đo lớp mờ dưới da ở hai vị trí cơ tam đầu và dưới xương bả vai đế tăng độ chính xác. Ngoài ra, cũng có thế sử dụng
biểu đồ tăng trưởng theo tuổi, giới để theo dõi và đánh giá tình trạng dinh dưỡng. Xác định tình trạng TC, BP theo
chỉ số BMI theo tuổi và giới: Theo Tổ chức Y tế Thế giới, tình trạng TC, BP cùa trẻ được tính theo chỉ số BMI theo
tuổi và giới nếu vượt quá +1SD là thừa cân, nếu vượt quá +2SD là béo phì. Ớ trẻ em do sự phát triển của trẻ có khác
biệt giữa hai giới nam và nữ nên BMI được lập riêng thành hai bảng theo tuối và giới nam, tuổi và giới nữ.
Ớ trẻ em (từ 5 -19 tuổi) có thể đánh giá tình trạng dinh dưỡng dựa trên BM1 theo tuổi và giới do ở lứa tuổi vị
thành niên cơ thể đang phát triển, chiều cao chưa ổn định nên không dùng một ngưỡng BMI như người lớn mà phái
tính theo tuồi và giới của trẻ.
1.5. Thực trạng thừa cân, béo phì ở trẻ em trên thê giói và Việt Nam:
1.5.1. Trên thế giới
Trên thế giới, TC, BP là yếu tố nguy cơ thứ 5 gây tử vong với gần 2,8 triệu người trướng thành tử vong hàng
năm. Bôn cạnh đó, 44% béo phi, 23% thiếu máu cục bộ ở tim và từ 7% đến 41% mắc một số bệnh ung thư có
nguyên nhân từ TC, BP. Trong 3 thập kỷ qua (1980 - 2010) số ca béo phì đã tăng gấp đôi trên toàn thế giới [45]. Tỉ
lệ TC, BP ớ trẻ các khu vực trên thế giới như sau: Toàn cầu (7,6% và 2,7%); Châu Mỹ (23,6% và 8,2%); Châu Âu
(15,0% và 4,6%); Châu Á-Thái Bình Dương (4,1% và 1,0%); Châu Phi - cận Sahara ( 1,1 % và 0,2% [54].
Tại châu Á, tỷ lệ TC, BP lứa tuổi trẻ cũng gia tăng nhanh chóng. Tại Trung Quốc, các cuộc điều tra theo 4 giai
đoạn khác nhau trong khoảng từ năm 1989 và 1997 thấy tỷ lệ thừa cân ở trẻ em từ 2 đến 6 tuổi tăng rất nhanh, từ
15% lên 29%, đặc biệt ở các vùng đô thị [46], Ớ Thái Lan, tỷ lệ BP ở trẻ từ 6 - 1 2 tuổi tăng từ 12% lên 16 % trong
vòng 2 năm [44],
Tỉ lệ thừa cân béo phì ở người lớn Nhật năm 2005 là 18,1 % ở nữ và 27,0% ở nam. Dự báo ở Nhật đến năm
2015, tỉ lệ TC, BP ở nam và nữ tarớng thành (trên 15 tuổi) như sau: nữ 24,4%, nam 32,7% [54],
Trong 2 thập kỷ qua, tỷ lệ TC, BP dường như đã không tăng ở Châu Mỹ La tinh (ước tính khoảng 4 triệu trẻ
bị mắc TC, BP vào năm 1990, 2000 và 2010). Trong khi đó tỷ lệ này tăng rất cao ở Châu Phi (từ 4% năm 1990, lên
5,7% năm 2000 và 8,5% năm 2010), số lượng trẻ em bị mắc TC, BP tăng từ 4 triệu trẻ lên 13 triệu trẻ vào năm 2010
[52],
Ở Châu Á, tuy tỷ lệ TC, BP không cao như Châu Phi, nhưng số lượng trẻ bị TC, BP thì rất cao (tăng từ 13
triệu trẻ em năm 1990 lên 18 triệu năm 2010 cao nhất trong 3 Châu lục) [50],
Tống hợp số liệu nghiên cứu từ 450 nghiên cứu cắt ngang của 144 quốc gia về tình hình TC, BP ở trẻ tiền học
đường đến năm 2010 có 43 triệu trẻ, trong đó 35 triệu trẻ bị TC, BP ở các nước đang phát triển, với tỉ lệ 6,7% [48],
Tại các nước khu vực ASEAN: số liệu TC, BP (BMI > 25) ở người trên 15 tuổi năm 2005 và dự báo đến năm 2015
cho thấy sự gia tăng nhanh chóng của TC, BP tại khu vực ASEAN. Một số nước có tỉ lệ TC, BP rất cao như Brunei
(63,2% ở nữ và 56,4% ở nam). Tỉ lệ TC, BP ở phụ nữ Lào khá cao do theo phong tục Lào thì hình ảnh phụ nữ mập
mạp là biếu hiện của sức khỏe và sự sung túc. Dự báo các nước khác trong khối ASEAN có hiện tượng nữ giới gia
tăng tỉ lệ TC, BP nhanh hơn nam giới. Philippine, Thái Lan, Indonesia, Malaysia tỉ lệ TC, BP ở nam giới không tăng
nhiều nhưng ở nữ giới lại tăng từ 28,5% lên 38,8%, 35,2% lên 44,7%; 22,7% lên 31,8%, 37,2% lên 47,2%, tương
ứng [56],
1.5.2. Tinh hình thừa cân, béo phì ở Việt Nam
Việt Nam đang phải đối đầu với gánh nặng kép về dinh dưỡng. Trong khi tỷ lệ trẻ SDD đang có xu hướng
giảm nhưng vần còn cao thì tỷ lệ trẻ TC, BP lại gia tăng nhanh chóng. Trong vài năm trở lại đây, vấn đề TC, BP
ngày càng được quan tâm, đặc biệt là ở đối tượng trẻ tiếu học.
Theo kết quả tổng điều tra dinh dưỡng toàn quốc năm 2010, tỷ lệ TC, BP ở trẻ dưới 5 tuổi ở nước ta là 5,6%
(ở thành phố 6,5% và ở nông thôn 4,2%). Tỷ lệ này đang có xu hướng gia tăng. So với năm 2000, tỷ lệ TC, BP ở trẻ
dưới 5 tuổi hiện cao hơn 6 lần [4], Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn năm 2030
khắng định nhiệm vụ cải thiện dinh dưỡng là trách nhiệm cùa các ngành, các cấp và mọi người dân. Cần phấn đấu
bảo đảm dinh dưỡng cân đối, hợp lý là yếu tố quan trọng nhằm hướng tới phát triền toàn diện về tầm vóc, thể chất,
trí tuệ của người Việt Nam và nâng cao chất lượng cuộc sống. Nội dung cụ thể của Chiến lược bao gồm 6 mục tiêu
cụ thế trong đỏ mục tiêu thứ tư là từng bước kiếm soát có hiệu quả tình trạng TC, BP [6].
Nghiên cứu của Đặng Văn Khôi trên 2050 trẻ em 6-11 tuối tại 6 trường tiểu học nội thành, thành phố Thái
Bình năm 2004 thấy: có 3,3% trẻ em thừa cân, béo phì. Tỷ lệ thừa cân BP ở nam cao hơn nữ, tỷ lệ TC, BP tăng dần
theo tuổi [20], Nghiên cứu tại Đà Nang ở trẻ tiểu học năm 2006 - 2007 thấy tỷ lệ TC là 4,9% và nguy cơ TC là 8,7%
[30], Một nghiên cứu tại Thành phố Huế năm 2008 thấy tỷ lệ TC, BP ở trẻ từ 11 - 15 tuổi là 8,3% [16]. Theo báo cáo
giám sát dinh dưỡng học đường của Sở Giáo dục - đào tạo TP.HCM thì tỷ lệ TC, BP của trẻ ở các trường tiểu học tại
thành phố khoảng 30 - 40% [8], đặc biệt tỷ lệ béo phì ở trẻ 9 - 11 tuổi tại trường Kết Đoàn, quận 1, Thành phố Hồ
Chí Minh năm 2008 đã là 41,1% [9], Theo Bùi Đức Văn, Hoàng Khánh tiến hành nghiên cứu tình trạng thừa cân,
béo phì của trẻ tiếu học huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau năm 2009 cho thấy tỷ lệ TC, BP là 7,26% [38], Kết quả
nghiên cứu năm 2009 tại trường tiểu học Kim Đồng, tỉnh Tây Ninh của tác giả Vương Thuận An và cộng sự cho
thấy tỷ lệ thừa cân là 20,3%, béo phì là 13,7% [1], Theo Nghiên cứu của Đặng Oanh và cộng sự về tình trạng thừa
cân, béo phì của trên 1800 trẻ tiểu học tại 4 thành phố thuộc khu vực Tây Nguyên năm 2010 cho thấy tỷ lệ thừa cân,
béo phì là 6,1% (trong đó tỷ lệ thừa cân, béo phì của trẻ tiểu học tại Buôn Ma Thuột là 9,4%, PleiKu là 7,8%, thị xã
Gia Nghĩa và thành phố Kon Turn là 3,6%) [29], Nghiên cứu của Đặng Văn Nghiễm năm 2010, Trẻ em 7-15 tuổi
vùng ven biển Thái Bình mắc SDD thể nhẹ cân là 23,6%, thể thấp còi là 28,1%, thể gầy còm là 17,0% và có 1,7%
thừa cân béo phì [23].
Các nghiên cứu gần đây cho thấy tỉ lệ TC, BP ở trẻ em tại các thành phố tiêu biếu theo vùng miền: miền Bắc,
Tây nguyên miền Trung, miền Nam là khá cao, đặc biệt sự gia tăng thừa cân, béo phì lại rất nhanh ở các thành phố
lớn như TPHCM, Hà Nội [14]. Nghiên cứu của Đồ Thị Ngọc Diệp tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2011 cho thấy tỷ
lệ TC, BP ớ trẻ là 38,1%. Năm 2011, Trịnh Thị Thanh Thủy nghiên cứu ở trẻ 6 đến 1 ỉ tuổi tại quận Đống Đa, Hà
Nội và có kết quả tỉ lệ TC, BP là 12,9%, trẻ trai là 17,9% và trẻ gái là 7,4% [36]. Kết quả điều tra của Bùi Thị
Nhung tại Hà Nội trên 3.128 học sinh tiểu học cho thấy gánh nặng kép về vấn đề dinh dưỡng đã nghiêng hẳn về phía
thừa dinh dưỡng với 23,4% học sinh bị thừa cân và 17,3% học sinh bị béo phì. Học sinh nam có tỷ lệ thừa cân và
béo phì cao hơn có ý nghĩa thống kê so với học sinh nữ [28]. Theo nghiên cứu của Phan Thanh Ngọc tại Thái
Nguyên cho thấy, tỷ lệ TC, BP chung là 18,1% (thừa cân là 9,8%, béo phì là 8,3%), tỷ lệ TC, BP ở trẻ nam (11,2%;
12,3%) cao hơn trẻ nữ (8,3%; 4,3%), tỷ lệ TC, BP cao nhất là ở trẻ 8 tuổi với tỷ lộ 21,8% (thừa cân là 11,5%; bco
phì là 10,3%) [24]. Nghiên cứu trên 8561 học sinh từ 6 - 14 tuổi của Trần Thị Xuân Ngọc 2012 cho thấy tỷ lệ thừa
cân, béo phì là 10,7%, trong đó tỷ lệ béo phì là 3,0% và tỷ lệ thiếu dinh dưỡng là 9,1% [26]. Nghiên cứu của Phùng
Đức Nhật tại quận 5 TP.HỒ Chí Minh cho thấy, tỉ lệ trẻ TC, BP theo chỉ số BMI theo tuổi và giới là 20,1%, trong đó
thừa cân là 13,7%, và béo phì là 6,4%. Tỉ lệ trẻ TC, BP theo chỉ số cân nặng/chiều cao là 21,2%, trong đó 13,2% là
thừa cân, và 8% là béo phì [27], Nghiên cứu gần đây cho thấy, nghiên cứu của Nguyền Mỹ Hạnh tại Việt Trì, Phú
Thọ 2015 tỷ lệ thừa cân béo phì là 13,1% trong đó thừa cân là 10,8%, béo phì là 2,3% [13].
1.6. Những yếu tố nguy cơ của thừa cân và béo phì ở trẻ em lứa tuổi học đường.
Thừa cân, béo phì là hậu quả của sự mất cân bằng giữa năng lượng ăn vào và năng lượng tiêu hao trong thời
gian đáng kể, có thể do tăng năng lượng ăn vào hay giảm năng lượng tiêu hao hoặc cả hai.
/. 6.1. Yêu tô gia đình
Một số nghiên cứu đã cho thấy TC, BP có tính gia đình: Càng nhiều cá nhàn trong gia đình bị TC thì nguy cơ
TC của các thành viên khác trong gia đình càng cao. Hiện nay đã có những bằng chứng kết luận rằng BP thuờng do
yếu tố môi truờng tác động lên nhũng cá thể có khuynh huớng di truyền [26].
1.6.2. Yểu tố di truyền
Vấn đề di truyền cũng đuợc đặt ra khi các nhà nghiên cứu thấy có sự liên quan giữa tình trạng béo phì của trẻ
và BMI của cha mẹ, tình trạng TC, BP giũa chị em sinh đôi. Cha và mẹ thừa cân thì 40% con có khả năng thừa cânbéo phì. Theo Trần Thị Hồng Loan, trẻ có cha thừa cân có nguy cơ thừa cân gấp 6,2 lần so với trẻ có cha mẹ bình
thuờng [21]. Trịnh Thị Thanh Thủy nghiên cứu TC, BP ở trẻ 6 đến 11 tuổi tại Hà Nội năm 2011 cũng thấy trẻ có cha
hoặc mẹ thừa cân béo phì có nguy cơ tăng 2,5 lần và trẻ có cả cha lẫn mẹ TC, BP có nguy cơ tăng 3,2 lần so với trẻ
nhóm chứng [36],
1.6.3. Yếu tố dinh dưỡng ảnh hưởng tới thừa cân và béo phì ở trẻ em
Thức ăn cung cấp năng luợng cho cơ thể duới dạng glucid, lipid và
protcin. Sau khi chuyến hoá khoảng 50% năng luợng biến thành nhiệt luợng đế duy trì thân nhiệt, 45% năng luợng
biến thành năng luợng hóa học cung cấp cho sự hoạt động cần thiết cho các tổ chức tế bào sống. Khẩu phần ăn giàu
năng luợng vuợt quá năng luợng tiêu hao tạo nên một cân bàng duơng tính và phần du thừa đuợc chuyến thành mỡ
tích trữ trong các tổ chức. Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi trẻ em ăn vào một luợng calo quá nhiều so với
nhu cầu hàng ngày sẽ gây nên bệnh béo phì do sự bất thuờng cùa các tế bào mỡ. Nghiên cứu của Nguyễn Minh Tuấn
cũng cho thấy, luợng chất béo cũng nhu tỷ lệ chất béo trong khấu phần ở nhóm trẻ thừa cân cao hơn hắn so với
nhóm chứng [35],
Trên thực tê có nhiêu yêu tô ảnh hưởng tới quá trình thu nhận thức ăn như: tâm lý ăn nhiều để chống chọi với
những vết thương tâm thần hay tình cảm, điều kiện kinh tế của từng gia đình, thói quen ăn uống của trẻ, tập quán ăn
uống của từng địa phương và nhất là quan điểm nuôi dưỡng trẻ của ông, bà, bố, mẹ. Một số nghiên cứu cho thấy thói
quen ăn uống không hợp lý như ăn nhiều bánh kẹo, đồ ngọt, uống nhiều nước giải khát công nghiệp, ăn nhiều thức
ăn ớ dạng lát mỏng rán ròn... là nguyên nhân dẫn tới béo phì ở trẻ. Những thức ăn hấp thu nhanh, đặc biệt là
carbonhydrat còn làm tăng nhanh glucose, insulin máu, kế đó là giảm glucose và gây thèm ăn nhiều hơn. Ngoài ra,
uổng nhiều nước ngọt làm tăng nguy cơ béo phì ở trẻ em. cần lưu ý rằng, không chì ăn thức ăn nhiều mỡ mới gây
béo mà thức ăn nhiều chất bột đường cũng có thổ gây bco [19]. Trong cơ thể, các chất protein, glucid đều có thể
chuyến hoá thành lipid, vì vậy ăn nhiều cơm, nhiều mỳ, nhiều mía, nhiều bánh kẹo đều béo. Trẻ cũng có thế béo phì
do ăn uống vô độ, ăn quà vặt, ăn thêm bừa phụ vào buổi tối. Nghiên cứu của Vũ Hưng Hiếu cho thấy, trẻ có ăn thêm
bừa phụ vào buôi tối trước khi đi ngủ thì nguy cơ trẻ mắc thừa cân cao gấp 5,16 lần [17],
Chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc của gia đình đối với trẻ cũng góp phần tạo nên những hành vi, thói quen ăn
uống không họp lý ngay từ khi còn nhỏ. Nhiều ông bố, bà mẹ quá quan tâm bồi dưỡng cho trẻ với suy nghĩ trẻ càng
ăn nhiều chất bố càng tốt, càng lớn nhanh, càng béo khoẻ càng tốt nên thường cho trẻ ăn nhừng thức ăn có nguồn
gốc động vật nhiều đạm, chất bco như thịt, trứng, sữa, giò, chả... . Ngoài ra, đối với trẻ là con một, con út, con đầu
lòng, trẻ ở gia đình chỉ có cha hoặc mẹ thường được nuông chiều và được ăn uống theo ý thích nên thường tăng cân
[38]. Trẻ nuôi nhân tạo thường hay bị béo phì hơn trẻ được nuôi bằng sữa mẹ, thời gian bú mẹ càng dài thì tỷ lệ béo
phì càng giảm [3], Một số tác giả cho rằng, thức ăn nhân tạo có nhiều protein và muối nên làm tăng áp lực thấm thấu
gây cảm giác khát ở trẻ, từ đó kích thích trẻ bú nhiều hơn và tăng cân. Trong sữa mẹ dường như có những hoạt chất
sinh học hạn chế sự phát triển của tế bào mỡ. Trẻ bú mẹ có nồng độ insulin trong máu thấp hơn trẻ ăn nhân tạo mà
insulin là một hormon có tác động quan trọng trong việc tích trữ mỡ. Như vậy, tất cả các yếu tố đưa đến việc sử
dụng năng lượng nhiều hơn so với nhu cầu đều dẫn đến béo phì ở trẻ. Béo phì do nguycn nhân dinh dưỡng chiếm 60
- 80% các trường hợp [2], Do vậy, việc nghiên cứu tìm ra các yếu tố tác động vào quá trình này là rất cần thiết nhàm
đưa ra các khuyến cáo về dinh dưỡng hợp lý.
1.6.4. Hoạt dộng thể lực với thừa cân và béo phì
1.6.4.1. Hoạt động thể lực và chi số khối cơ thể
Cân bằng năng lượng phụ thuộc vào năng lượng ăn vào và năng lượng tiêu hao. Ngày nay, sự gia tăng tiêu thụ
các thực phấm giàu năng lượng cùng với giảm hoạt động thể lực cùa người dân thành thị đang làm gia tăng tình
trạng TC, BP. Để giảm cân cần phải kết hợp đồng thời giữa việc giảm năng lượng ăn vào và tăng hoạt động thế lực.
Poobalan A và cộng sự đã định nghĩa “sự duy trì cân nặng” là mức độ thay đổi của cân nặng không quá 3% trọng
lượng cơ thể. Khi mức độ này dao động từ 3% - 5% được gọi là có sự thay đồi cân nặng nhẹ [51].
1.6.4.2. Hoạt động thể lực và béo phì
Béo phì là hậu quả trực tiếp của những thay đổi môi trường sống cùa con người có liên quan tới việc dề dàng
tiếp cận với các phương tiện giao thông hiện đại, phương tiện và dụng cụ lao động không tốn nhân lực, phương tiện
giải trí sẵn có tại nhà và thực phẩm cao năng lượng. Tỷ lệ mới mắc BP trong vòng 20 năm qua đã tăng tới 20 - 25%
ở Mỹ và đang trờ thành đại dịch ở các nước đang phát triển [51]. Các bằng chứng khoa học cho thấy giảm hoạt động
thể lực là yếu tố chủ yếu và có tính quyết định hơn so với tăng khẩu phần năng lượng đối với BP. Có nhiều nghiên
cứu đã chứng minh lợi ích cùa lối sống tích cực và tăng cường hoạt động thể lực trong phòng chống bco phì. Hoạt
động làm giảm đi mức tăng cân của lứa tuồi trung niên. Luyện tập có tác động ớ mức giảm cân trung bình với người
TC, BP và có tác dụng giám cân bố sung với người có chế độ ăn giảm năng lượng. Hoạt động thể lực giúp giảm một
cách có hiệu quá mỡ bụng và mỡ nội tạng. Người có hoạt động luyện tập thường xuycn thường duy trì mức giảm
cân trong một thời gian dài hơn mức giảm cân của người chỉ phụ thuộc vào việc kiếm soát khấu phần ăn đơn thuần
[40], Những thay đổi trong mô hình ăn uống cả ở trẻ em và người lớn luôn song hành với những thay đổi trong mô
hình hoạt động thể lực. Tình trạng thừa năng lượng của trẻ không chỉ do khâu phần ăn quá nhiều mà còn do tình
trạng không tham gia các hoạt động thể lực, thời gian xem vô tuyến nhiều đã làm giảm tiêu hao năng lượng ở trẻ và
tăng nguy cơ mắc TC, BP ở lứa tuổi này. Hoạt động thể lực bao gồm những hoạt động hàng ngày, các công việc liên
quan với hoạt động thề lực và luyện tập thể dục thể thao. Trẻ em hoạt động thế lực nhiều thì càng có cơ thể khoẻ
mạnh, sẽ ít liên quan đến tăng huyết áp nhất là trẻ dưới 5 tuổi và càng có ít nguy cơ trở thành béo phì khi lớn. Hoạt
động thể thao có vai trò trong giảm tích mỡ, tăng khối nạc, tuy nhiên sau khi ngừng tập luyện quá trình này đảo lại.
Thay đổi giữa khối mỡ và nạc có thể xảy ra mà không thay đồi về cân nặng, nhưng nếu hoạt động thể lực được duy
trì thường xuyên trong suốt cuộc đời thì việc tăng khối mỡ có thố bị ngăn chặn. Ngày nay xã hội càng phát triển,
chương trình vô tuyến dành cho trẻ em càng đa dạng và hấp dẫn, số giờ phát sóng lại liên tục trong ngày do đó trẻ
càng có nhiều cơ hội tiếp cận với vô tuyến. Xem vô tuyến làm giảm hoạt động thể lực, giảm chuyển hoá cơ bản,
tăng ăn vặt đặc biệt là thức ăn giàu béo. Có tới 54,2% trẻ em 10 tuổi ở Singapore ăn ở các quán bán rong ngoài
đường, 65% trẻ tiêu thụ 2 - 3 lần thức ăn giàu béo trong một ngày như mì tôm, nước ngọt, bánh ngọt, thức ăn rán.
Việc tiêp xúc nhiêu với quảng cáo thực phẩm trcn vô tuyến làm tăng sở thích của trẻ đối với thức ăn như đường
ngọt, bánh kẹo dẫn đến tăng tiêu thụ các sản phấm này và là những yếu tố nguy cơ dc gây TC, BP [53]. Việc tập
luyện nên bắt đầu từ nhỏ, nếu đi kèm với dinh dường thích hợp sẽ tạo ra lợi ích sức khoẻ tốt nhất, tập luyện lúc nhỏ
tuổi còn ngăn chặn được BP đặc biệt trong giai đoạn trẻ phát triển nhanh. Người ta còn thấy những trẻ hay hoạt động
thể lực có điểm thể dục cao hơn trẻ ít hoạt động thế lực. Những trẻ em BP thường ít hoạt động hơn nhũng trẻ cùng
lứa tuổi, chúng dường như kém nhanh nhẹn và đôi khi còn xấu hổ hoặc gặp khó khăn khi tham gia các hoạt động thể
thao.
1.6.5. Những yếu tố nguy cơ khác gây thừa cân và héo phì
TC, BP liên quan các yếu tố kinh tế - văn hoá - xã hội khi các yếu tố này tạo thuận lợi cho việc gia tăng tiêu
thụ thực phẩm giàu năng lượng, nhiều hàm lượng chất béo và lối sống tĩnh tại ít vận động.
Tuổi: Một số nghiên cứu cho thấy tuổi xuất hiện TC, BP rất sớm (từ 1- 5 tuổi), tuy nhiên độ tuổi xuất hiện
phổ biến là lứa tuổi học đường.
Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội: Các yếu tố văn hoá, dân tộc, tầng lớp xã hội, tôn giáo cũng là những yếu
tố môi trường làm ánh hưởng đến lượng thức ăn đưa vào theo nhiều cách khác nhau. Người ta thấy ở những nước đã
phát triển, có mối liên quan nghịch giữa tình trạng kinh tế xã hội và béo phì còn ở các nước đang phát triển thì xu
hướng này có chiều hướng ngược lại. Tại các nước giàu có, TC, BP thường xảy ra ở người nghèo; ngược lại ờ những
nước nghèo thi TC, BP thường xảy ra ở người có thu nhập trung bình và khá. Đó là do ở nước đang phát triển khi
thiếu ăn còn phổ biến TC, BP được xem như bàng chứng của sự “giàu có”. Người dân có khuynh hướng tin “bco là
khoẻ mạnh”. Trong khi đó ớ những nước đã phát triển khi thực phâm dư thừa thì tỉ lệ TC, BP lại cao ở tâng lớp
nghèo, ít học, thât nghiệp và ít tiếp cận được với thông tin về chế độ ăn khỏe mạnh. Tí lệ TC, BP thấp ở tầng lớp có
giáo dục cao, có nghề nghiệp, có thu nhập cao là do họ dề tiếp cận hơn với thông tin về chế độ ăn cân đối, đú dinh
dưỡng mà không gây TC, BP [52], [43]. TC, BP thường xảy ra ở các đô thị lớn, nơi có lượng thực phẩm dồi dào và
các loại thức ăn nhanh khá phố biến. Nghiên cứu cùa Trần Thị Minh Hạnh tại thành phố Hồ Chí Minh ở trẻ cho kết
quả trẻ sống trong nội thành có nguy cơ TC, BP cao hơn ở ngoại thành, trẻ sống ở thành phố có nguy cơ TC, BP cao
hơn trẻ sống ớ vùng nông thôn [15].
Ngủ ít cũng được tìm thấy như một yếu tố nguy cơ cao của trẻ thừa cân. Theo một số tác giả có thể đây là
một kiểu sống gia đình thiếu điều độ từ ăn tới ngủ hoặc do sự thiếu hoạt động thể lực tạo những nếp sống thấp trên
điện não đồ khi ngủ cùa trẻ, cũng có thể do hoạt động tiêu mỡ của cơ thế là tối đa về đêm và sự ngủ ít làm giảm tiêu
mỡ nói chung [46].
Nghiên cứu về sự liên quan giữa cân nặng sơ sinh (CNSS) cho các kết quả không đồng nhất. Nghiên cứu của
Salvadori M chỉ ra rằng CNSS của trẻ béo phì không cao hơn cân nặng sơ sinh của trẻ bình thường, nhưng trong
nhóm trẻ béo phì thì số trẻ có cân nặng sơ sinh trên 4000 gram cao hơn hẳn nhóm trẻ bình thường [47].
1.7. Hậu quả của thừa cân và béo phì
TC, BP là yếu tổ nguy cơ của các bệnh không lây. Nhiều tài liệu cho biết thừa cân béo phì làm gia tăng nguy
cơ mắc các bệnh tim mạch như tăng huyết áp, đột quỵ, hội chứng chuyển hóa, tiểu đường týp 2, một số ung thư như
túi mật, vú, đại tràng, tiền liệt tuyến và thận.
7.7.7. 7Y/C hại ngoài tim mạch
Thừa cân béo phì gây các biến chứng thuộc về chuyển hóa, nội tiết. Thừa cân béo phì thường xảy ra cùng với
hội chứng chuyển hóa, là yếu tố nguy cơ của đái tháo đường týp 2 [7],
7.7.2. Tác hai lên tim mach
••
Các bệnh tim mạch là nguycn nhân tử vong hàng đầu tại các nước phát triển. TC, BP làm tăng nguy cơ xơ
vữa và thuyên tắc mạch vành, nhồi máu cơ tim, bệnh tăng huyết áp [47].
7.7.3. Tác hại của thừa cân và hẻo phì ở trẻ em
Trẻ TC, BP và Hội chứng thông khí kém: Trẻ TC, BP đc mắc phải hội chứng thông khí kém do mờ tập trung
trong khoang bụng và bên ngoài lồng ngực làm cho cử động hô hấp và chuyển động cơ hoành hạn chế. Trẻ dỗ có
cảm giác loạn nhịp thở, thở gấp và rối loạn thông khí khi gia tăng vận động. Ban ngày trẻ mệt mòi, ít vận động, ngáp
vặt, thở ngắn. Ánh hưởng của TC, BP lên hô hấp cần được quan tâm, nhất là khả năng gây ngưng thở lúc ngủ. TC,
BP ảnh hưởng đến chức năng hô hấp bằng cách giảm suất đàn hồi của phổi và lồng ngực đưa đến giám thông khí
phế bào và gây hội chứng ngưng thở lúc ngủ. Hội chứng ngưng thở lúc ngủ được định nghĩa là sự xuất hiện đột ngột
sự dừng thở ít nhất 10 giây và hơn 5 lần mồi giờ. Hội chứng này đưa đến thiếu khí về đcm và thường xảy ra ở người
béo phì có BMI >35. Tuy nhiên, hội chứng này không đặc hiệu cho TC, BP [18].
1.8. Phòng ngừa thừa cân và béo phì ở lứa tuổi học đường
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, có hai cách tiếp cận chính trong phòng chống TC, BP là phòng ngừa tăng cân và
thúc đẩy giám cân. Biện pháp phòng ngừa tăng cân áp dụng chung cho tất cả cư dân trong cộng đồng, biện pháp này
cũng áp dụng được cho người TC, BP. Biện pháp thúc đây giảm cân chỉ áp dụng cho người TC, BP [55]. Phòng
chống TC, BP thực hiện theo các nguyên tắc: tập trung làm giảm các yếu tố môi trường tạo thuận lợi cho thừa cân
béo phì, làm giảm các yếu tố nguy cơ tác động đến các cá nhân hay nhóm có nguy cơ, đồng thời quàn lý từng trường
hợp cho các đối tượng đã bị TC, BP. Riêng đối với quản lý từng trường hợp cho bệnh nhân TC, BP bao gồm 4 chiến
lược: phòng ngừa tăng cân, thúc đấy việc duy trì cân nặng, quản lý và điều trị các bệnh liên quan với TC, BP, thúc
đấy việc giảm cân. Do vậy, phòng chống TC, BP không chi là phòng ngừa không để người có cân nặng bình thường
bị TC, BP mà còn bao gồm: phòng bệnh cho người TC, BP, phòng ngừa không để người thừa cân chuyến sang béo
phì, phòng ngừa việc tái tăng trọng của người TC, BP đã giảm cân.
Nguyên tắc phòng chống TC, BP ở cộng đồng theo Tổ chức Y tế Thế giới là phải phối hợp hoạt động các bên
liên quan và có nhiều thành phần tham gia như cơ quan chính phủ, ngành thương mại, ngành công nghiệp sản xuất
thực phẩm, truyền thông đại chúng và người tiêu dùng [55], Tố chức Y tế Thế giới khuyến cáo nên phối hợp phòng
chống TC, BP trong chương trình phòng chống bệnh không lây của quốc gia và đề xuất mô hình phòng chống TC,
BP theo mô hình chia sẻ trách nhiệm như sơ đồ:
Chia sẻ trách nhiệm
Cộng đồne
Người tiêu dùng
Công nghệ/
thương mại
Truyền thông đại chúng
Công chúng được giáo Đảm bảo chất lượng Quàng cáo có trách
Đảm bao nhàn mác có nhiệm
Hướng dẫn thương mai dục và có kiến thức
tính hướng dẫn
Truyền thông và giáo
Giáo dục người tiêu Thực hành thực phẩm
tại gia đình đúng cách Người quan lý về sản
dục sức khóe
dùng
Người tiêu dùng thông xuât thực phẩm được Vặn động chính sách
Cung cấp dịch vụ chăm
đào tạo về dinh dường
thái về dinh dường
sóc
Truyền thông nguy cơ do
hơp
Tham gia cộng đồng
thực phàm (gây thừa
Nghiên cứu có sự tham
lý
càn)
gia cộng đồng
Luật lệ về thực phẩm
Hướng dẫn dinh dưỡng hợp lý
Cam kết quốc gia về kiểm soát thừa cân béo phì
Tư vắn Tồ chức Y tế Thế giới về thừa cân béo phi
Sođồ 1.2. Mô hình chia sẻ trách nhiêm
#
Nguồn: Mô hình chia sẻ trách nhiệm, Tô chức Y tế Thế giới [54].
Can thiệp sớm ở trẻ TC, BP là cần thiết để tránh tình trạng TC, BP kéo dài đến khi trẻ trướng thành, tránh các
tác hại và biến chứng do các bệnh có nguồn gốc từ TC, BP.Các can thiệp dựa vào trường học đều nhằm mục tiêu cải
thiện kiến thức và các hành vi sức khỏe. Chương trình can thiệp trong nhà trường sẽ giúp trẻ có được kiến thức, thái
độ về cách ăn cân bằng dinh dưỡng và kỹ năng sống phù hợp để có lối sống lành mạnh, ví dụ: thói quen vận động
hàng ngày, giảm thời gian hoạt động tĩnh tại như xem truyền hình, chơi trò chơi vi tính, sử dụng máy vi tính [49],
Các can thiệp phòng ngừa TC, BP có thế làm thay đối hành vi nhưng hiệu quả của việc làm giảm tỉ lệ TC, BP vẫn
chưa rõ rệt. Qua tổng hợp các nghiên cứu can thiệp, WHO đề xuất chương trình can thiệp nên kéo dài ít nhất 6 tháng
để có thế đánh giá tác động tích cực của can thiệp [55].
Một trong 6 mục tiêu dinh dưỡng toàn cầu đến năm 2015 của Tổ chức Y tế thế giới là không tăng tỷ lệ TC, BP.
Tuy nhiên, tại Việt Nam sau 10 năm tỷ lệ này tăng đến 9,2 lần, xáy ra ớ mọi lứa tuổi. Nghicn cứu về thực trạng chăm
sóc dinh dưỡng trẻ em đô thị Việt Nam tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh của Viện nghiên cứu y xã hội học cho thấy
phần lớn các bà mẹ chưa có hiểu biết về cân nặng nên có của trẻ. Có 30% bà mẹ có con bị thừa cân mà không biết
trẻ đã thừa cân, 15% bà mẹ có con thừa cân vần mong muốn con mình tiếp tục tăng cân [39], Nhiều bà mẹ muốn con
dư cân, béo khỏe để có thể lực cho phát triển và dự phòng những lúc trẻ bị ốm [43],
Can thiệp cho kết quả tốt nhất khi điều trị cho trẻ TC, BP là kết hợp giữa nhà trường, gia đình và trẻ em. Tuy
vậy, vẫn còn các rào cản văn hóa xã hội cho các chương trình can thiệp tại gia đình. Các nghiên cứu này tập trung
thay đổi chế độ ăn, tăng cường hoạt động thổ lực. Kct quả cho thấy có sự thay đổi chế độ ăn và tăng hoạt động thể
lực nhưng ít tác động lên chỉ số BMI. Có thể thấy để có thể thay đối chỉ số BMI cần can thiệp có thời gian lâu dài
[52],
Qua các kết quả của chương trình can thiệp, người ta nhận thấy các can thiệp y tế công cộng thành công cần có
các yếu tố sau càng nhiều càng tốt như cần có đủ thời gian; tiếp cận lâu dài theo nhiều giai đoạn; có cơ sở các qui
định và nền tảng pháp lý cho phép triển khai can thiệp; đặt trên nền tảng giáo dục sức khỏe cho trẻ; vận động chính
sách; chia sẻ trách nhiệm các thành phần xã hội v.v..[55].
1.9. Nguyên tắc dinh duõng cho trẻ thừa cân, béo phì
Mục tiêu điều trị bco phì ở trẻ em khác với người trưởng thành, ngoài việc tập trung vào ngăn ngừa tăng cân,
còn cần phải cung cấp đầy đủ các chất dinh dường cho sự lớn lên và phát triển của đứa trẻ, đặc biệt là các vi chất
dinh dường, can xi, sắt, kẽm [19].
Nguyên tắc dinh dưỡng cho trẻ thừa cân, béo phì như sau:
- Giảm năng lượng cung cấp nhưng đảm báo đủ dưỡng chất thiết yếu.
- Hạn chế tối đa các thực phẩm cung cấp năng lượng rồng nhưng nghèo chất dinh dường như nước ngọt, bánh
kẹo ngọt, thức ăn chế biến sằn như gà rán, xúc xích.
- Hạn chế thức ăn giàu béo như mỡ, da, phủ tạng động vật, thức ăn chiên, rán nhiều dầu mỡ.