Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Quản lý nhà nước đối với dịch vụ ngân hàng (nghiên cứu thực tiễn tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Hà Tây)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.21 KB, 101 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỒNG THỊ HẠNH NGUYÊN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ
NGÂN HÀNG (NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN TẠI
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN CHI NHÁNH HÀ TÂY)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế

HÀ NỘI, THÁNG 11 NĂM 2016


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỒNG THỊ HẠNH NGUYÊN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ
NGÂN HÀNG (NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN TẠI
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN CHI NHÁNH HÀ TÂY)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60340410
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN VĂN SỬ


HÀ NỘI, THÁNG 11 NĂM 2016


i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan toàn bộ luận văn này là sản phẩm nghiên cứu của cá nhân
tôi. Các số liệu và kết quả trong luận văn hoàn toàn là trung thực. Tất cả các trích
dẫn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về những gì đã cam đoan ở trên!

Hà Nội, tháng 11 năm 2016
Học viên thực hiện

Đồng Thị Hạnh Nguyên


ii

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trường Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh – Khu vực I đã truyền đạt, cung cấp những kiến thức quý báu cho tôi
trong suốt quá trình học tập tại Học viện và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình làm luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban lãnh đạo, tập thể nhân viên tại Ngân
hàng và Phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh Hà Tây đã cung cấp thông tin, đóng
góp ý kiến giúp tôi có thể hoàn thành tốt luận văn của mình.
Đặc biệt, tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS Nguyễn Văn Sử đã tận tình hướng
dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.



iii
MỤC LỤC


iv
DANH MỤC VIẾT TẮT
Agribank
CP XDGT
CPĐTPTXD
DTBB
DTBB
HĐTC
HĐTV
HMTD
HND
HPN
HTX
KH
KH
KTKSNB
KTTT
NHL3
NHNN
NHNo
NHNo&PTNT
NHTM
NHTMVN
NXB
QLNN
SXKD

TCTD
TNHH L&D:
TSBĐ
TSĐB
UBND
UNC
VN
VND
VTC

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Cổ phần xây dựng giao thông
Cổ phẩn đầu tư phát triển xây dựng
Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc
Hợp đồng thế chấp
Hội đồng thành viên
Hạn mức tín dụng
Hội Nông dân
Hội Phụ nữ
Hợp tác xă
Khách hàng
Kế hoạch
Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ
Kinh tế thị trường
Ngân hàng loại 3
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng nông nghiệp
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại Việt Nam
Nhà xuất bản
Quản lư nhà nước
Sản xuất kinh doanh
Tổ chức tín dụng
Trách nhiệm hữu hạn Lvà D
Tài sản bảo đảm
Tài sản đảm bảo
Ủy ban nhân dân
Ủy nhiệm chi
Việt Nam
Việt Nam đồng
Vốn tự có


v
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
BẢNG


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong gần 30 năm qua, hoạt động của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam
(NHTMVN) đã có những đóng góp đáng kể vào quá trình đổi mới và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Hoạt động của các NHTM không chỉ tiếp tục khẳng định là một
kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế, mà còn góp phần ổn định sức mua đồng
tiền, cung cấp ngày càng đa dạng phong phú các dịch vụ hiện đại, tiện ích cho cá
nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Đến nay, vốn cung ứng cho nền kinh tế chủ yếu do các NHTM đáp ứng, theo
tính toán của một số chuyên gia kinh tế tổng tài sản của hệ thống lên tới khoảng
140% GDP. Cùng với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, hệ thống các NHTM cũng
được cơ cấu lại, số lượng các NHTM VN đã tăng lên.
Bên cạnh các kết quả đạt được nói trên hoạt động của các NHTM Việt Nam,
cũng còn các tồn tại, hạn chế: tỷ lệ nợ xấu và nợ quá hạn trên tổng dư nợ tăng
mạnh; tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu ở một số NHTM chưa đảm bảo theo quy định; tình
hình thanh khoản ở một số NHTM có thời điểm còn căng thẳng; tình trạng cạnh
tranh không “lành mạnh” giữa các NHTM ngày càng gay gắt; hoạt động còn tiềm
ẩn nguy cơ bất ổn, rủi ro, có thể xảy ra khi môi trường kinh tế - xã hội trong và
ngoài nước biến động bất thường; vấn đề sở hữu chéo giữa các ngân hàng và ngân
hàng, giữa ngân hàng và DN… Các tồn tại, hạn chế nói trên do các nguyên nhân
khách quan và chủ quan. Ngoài nguyên nhân từ phía bản thân các NHTM (hoạt
động quản trị, điều hành còn hạn chế; hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ chưa
đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi; ý thức tuân thủ của không ít NHTM chưa cao….)
còn có nguyên nhân từ hoạt động quản lý đối với hoạt động của các Ngân hàng
thương mại ở Việt Nam. Mặc dù hoạt động quản lý, giám sát của nhà nước nói
chung và của ngân hàng nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền đối với hoạt động
của các NHTM nói riêng thời gian qua đạt được nhiều thành tích đáng kể, nhưng
cũng còn một số bất cập.


2

Thành lập ngày 26/3/1988, hoạt động theo Luật các Tổ chức Tín dụng Việt
Nam, đến nay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank)
là ngân hàng thương mại hàng đầu giữ vai trò chủ đạo và chủ lực trong phát triển
kinh tế Việt Nam, đặc biệt là đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Agribank là ngân hàng lớn nhất Việt Nam cả về vốn, tài sản, đội ngũ cán bộ
nhân viên, mạng lưới hoạt động và số lượng khách hàng. Agribank hiện có mạng

lưới rộng khắp trên toàn quốc với 2.300 chi nhánh và phòng giao dịch được kết nối
trực tuyến.
Agribank luôn chú trọng đầu tư đổi mới và ứng dụng công nghệ ngân hàng
phục vụ đắc lực cho công tác quản trị kinh doanh và phát triển màng lưới dịch vụ
ngân hàng tiên tiến.
Tuy nhiên thời gian vừa qua nhiều vụ án gây thất thoát tài sản cho ngân hàng
và khách hàng đang nổi cộm tại Agribank gây ra hậu quả to lớn cho khách hàng,
làm mất uy tín và lòng tin của khách hàng vào sự hoạt động, quản lý của ngân hàng.
Để góp phần thúc đẩy Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn nói riêng hoạt động an toàn, lành mạnh, làm tốt vai
trò trung gian tài chính, đẩy mạnh huy động nguồn vốn để cung ứng vốn cho nền
kinh tế, cần thiết nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước nói chung,
trong đó có vai trò quản lý, giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(NHNNVN) đối với hoạt động của các NHTM.
Xuất phát từ các lý do nói trên, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu :
“Quản lý nhà nước đối với dịch vụ ngân hàng (nghiên cứu thực tiễn tại ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Hà Tây)”.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có những công trình khoa học, các bài
nghiên cứu về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại nói chung,
NHNo&PTNT Việt Nam nói riêng được công bố, như :
- Chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, NXB Phương Đông.


3

- Báo cáo phân tích, đánh giá thực trạng các sản phẩm dịch vụ hiện đang áp
dụng trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.(2008)
- Đề tài “Hoạt động giám sát của Ngân hàng nhà nước đối với NHTM của

Nguyễn Thị Minh Huệ, Luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học KTQD (2010)
- Đề tài “ Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với dịch vụ thanh toán thẻ tại các
NHTM Việt Nam”, Phạm Ngọc Ngoạn, Luận án TS, Học viện hành chính, 2010.
- Đề tài “ Quản lý nhà nước đối với hoạt động tín dụng của các Ngân hàng
thương mại Việt Nam”, Lê Ngọc Lân, Luận án TS, Học viện khoa học xã hội, 2012.
- Đề tài “ Nâng cao hiệu quả quản lý của Ngân hàng nhà nước đối với hoạt
động của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam”, Nguyễn Văn Thầy, Luận án TS,
Học viện tài chính, 2014.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã chú trọng kế thừa và chọn lọc
những ý tưởng liên quan đến đề tài nhằm phục vụ cho việc phân tích làm rõ những
vấn đề lý luận cơ bản và giúp cho quá trình tìm tòi đề xuất các giải pháp thực tiễn.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu:
Thông qua phân tích về lý thuyết và nghiên cứu thực trạng tại ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Hà Tây, để đề xuất những giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với dịch vụ ngân hàng thương
mại nói chung và đi sâu vào dịch vụ tín dụng cho vay tại ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn chi nhánh Hà Tây thời gian tới.
+ Luận văn tập trung hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với
dịch vụ ngân hàng đặc biệt là hoạt động tín dụng ngân hàng.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với các dịch vụ ngân
hàng nói chung và dịch vụ tín dụng nói riêng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Chi nhánh Hà Tây.


4

+ Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với
dịch vụ ngân hàng, trong đó trọng tâm là dịch vụ tín dụng tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Hà Tây.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Đi sâu nghiên cứu, kế thừa, hệ thống hóa những căn cứ lý luận, thực tiễn về
phát triển đa dạng các dịch vụ của NHTM nói chung và dịch vụ tín dụng Agribank
nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng, chỉ ra những mặt được và những hạn chế, yếu
kém trong hoạt động dịch vụ tín dụng tại Agribank chi nhánh Hà Tây.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước đối với dịch vụ tín dụng cho vay đối với Agribank chi nhánh Hà Tây
4. Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá được thực trạng quản lý nhà nước đối với dịch vụ ngân hàng qua
nghiên cứu thực tiễn tại Agribank chi nhánh Hà Tây. Chỉ ra được một số ưu điểm,
hạn chế và nguyên nhân kết quả đạt được.
- Đề xuất được một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện quản lý nhà
nước đối với dịch vụ ngân hàng thương mại nói chung và tại Agribank chi nhánh Hà
Tây nói riêng.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu:
Dịch vụ ngân hàng có nội hàm rộng, ngoài những nghiên cứu chung, để phù
hợp với môi trường công tác và khả năng nghiên cứu, không làm mất tính tổng quát,
học viên tập trung vào nghiên cứu dịch vụ tín dụng cho vay tại Ngân hàng nông
nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Hà Tây.
Chủ thể quản lý nhà nước đối với NHTM rất rộng, bao gồm: Quốc hội, Chính
phủ, NHTW, Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán nhà nước,... nhằm quản lý, giám


5

sát hoạt động tài chính – tiền tệ, đảm bảo cho thị trường hoạt động được an toàn và
hiệu quả. Trong đó NHTW có vai trò rất quan trọng và là chủ thể tác động trực tiếp
nhất tới hệ thống NHTM nói chung. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài là tại chi

nhánh NHNO&PTNT Hà Tây, tác giả chỉ giới hạn “Chủ thể quản lý nhà nước” đối
với các NHTM chủ yếu là NHTW với tác động của nó. Tác giả tập trung đi sâu
nghiên cứu đề xuất trên phương diện quản lý Nhà nước qua NHTW đối với
NHNN&PTNT chi nhánh Hà Tây.
+ Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Thực trạng quản lý nhà nước đối với dịch vụ ngân hàng tại
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Hà Tây mà trọng tâm là
dịch vụ cho vay và đề xuất giải pháp hoàn thiện
Về thời gian: Dịch vụ tín dụng cho vay tại Ngân hàng NHNo&PTNT Chi
nhánh Hà Tây từ năm 2011 - 2015.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lý luận: Luận văn vận dụng cơ sở lý thuyết về quản lý nhà nước nói
chung và quản lý nhà nước về dịch vụ ngân hàng nói riêng được nghiên cứu, tổng
hợp từ nhiều nguồn.
6.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng
phương pháp nghiên cứu khoa học dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác Lê Nin,
dựa trên đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách phát triển kinh
tế- xã hội trong thời kỳ đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế. Phương pháp phân tích hệ
thống được sử dụng xuyên suốt quá trình thực hiện, luận văn kết hợp với việc sử
dụng các phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu, chứng minh ... để làm
rõ vấn đề cần nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu này nhằm kết hợp hài hòa giữa
lý luận và thực tiễn để góp phần đánh giá, nhận xét chính xác về các quy định hiện
hành về quản lý nhà nước đối với hoạt động tín dụng cho vay, những thành quả
cũng như hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định này.
Các dữ liệu sẽ cần thu thập :


6

+ Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước đối với tín dụng

cho vay.
+ Các báo cáo về tình hình tài chính của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Chi Nhánh Hà Tây
Nguồn nội bộ được thu thập từ các báo cáo quý, báo cáo thường niên của bộ
phận tín dụng, giao dịch…
Nguồn dữ liệu thu thập từ bên ngoài: Khách hàng, Nhà cung cấp, Tổ chức tư
vấn, Internet, sách báo.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục sơ đồ, bảng biểu và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành ba chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với dịch vụ ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với dịch vụ ngân hàng tại ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Hà Tây.
Chương 3: Định hướngmột số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối
với dịch vụ ngân hàng tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi
nhánh Hà Tây.


7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ
NGÂN HÀNG
1.1 Khái niệm về dịch vụ ngân hàng, phân loại và vai trò
của dịch vụ ngân hàng
1.1.1 Khái niệm về dịch vụ ngân hàng
“Ngân hàng đối với hầu hết chúng ta không phải là một từ ngữ xa lạ. Nó đã
quen thuộc đối với mọi cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Ngân hàng là một loại
hình kinh doanh trong nền kinh tế, song nó có vai trò vô cùng quan trọng đối với
chính nền kinh tế. Có người coi ngân hàng cùng với tiền tệ là một trong những phát

minh vĩ đại của loài người, bên cạnh các phát minh ra lửa và bánh xe. Thông qua hoạt
động nhận gửi, cho vay, và đầu tư các ngân hàng có khả năng “tạo tiền”. Sự thay đổi
trong khối lượng tiền tệ do ngân hàng tạo ra liên quan chặt chẽ tới tình hình kinh tế,
đặc biệt là mức tăng trưởng của việc làm, tình trạng lạm phát, từ đó mà ảnh hưởng tới
các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Đây là một trong những lý do khiến hoạt động của ngân
hàng luôn được đặt dưới một hệ thống các quy định chặt chẽ của Nhà nước nhằm
tăng cường hoạt động quản lý, kiểm tra, kiểm soát hoạt động ngân hàng, đồng thời
hướngdẫn hoạt động ngân hàng theo hướngcó lợi cho nền kinh tế. Chính vì có vai trò
quan trọng đối với nền kinh tế nên việc định nghĩa ngân hàng là cần thiết. Điều này
nhằm xác định cụ thể những đối tượng sẽ chịu sự quản lý của Nhà nước về ngân
hàng, đồng thời cũng nhằm bảo vệ chính ngân hàng và thực tế là ở hầu hết các quốc
gia đều có các luật về ngân hàng. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức
năng, dịch vụ mà chúng cung cấp trong nền kinh tế. Theo đó “Ngân hàng là các tổ
chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất -đặc biệt là
tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so
với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Ở nước ta hiện nay vẫn chưa có khái niệm cụ thể về dịch vụ ngân hàng. Luật
các tổ chức tín dụng số 47/2010-QH12 năm 2010, lĩnh vực dịch vụ ngân hàng được


8

quy định nhưng không có định nghĩa và giải thích rõ ràng. Cụm từ “hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng” được bao hàm cả ba nội dung: nhận tiền gửi,
cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán (quy định tại khoản 1 và khoản 7 Điều
20 Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010-QH12): “là hoạt động kinh doanh tiền tệ
và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền
này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán”. Luật các TCTD cũng dành
các mục 1,2,3,4 của chương 3 nêu các điều khoản về hoạt động của TCTD. Theo
đó, có thể hiểu hoạt động ngân hàng được chia theo 4 mảng lớn: huy động vốn; tín

dụng; thanh toán và ngân quỹ; và các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong nghiên cứu
lý luận và hoạt động thực tiễn ở Việt Nam, đã có những quan điểm khác nhau về
dịch vụ ngân hàng, nhưng chung nhất dịch vụ ngân hàng được quan niệm là những
công việc do ngân hàng thực hiện để tìm kiếm lợi nhuận.
Thực tế vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm và nội hàm dịch vụ
ngân hàng. Có không ít quan điểm cho rằng chỉ những hoạt động không thuộc phạm
vi kinh doanh tiền tệ và các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng theo chức năng của một
trung gian tài chính (huy động tiền gửi, cho vay…) thì mới gọi là dịch vụ ngân hàng
(như dịch vụ môi giới, uỷ thác, tư vấn, chuyển tiền…). Quan niệm này đã “đông
cứng” hoạt động ngân hàng theo nghĩa truyền thống, việc chỉ coi các hoạt động kinh
doanh khác của ngân hàng thuộc về “dịch vụ”, làm cho nó bị coi như “kinh doanh
phụ”, ngoài ngành (trong khi thực tế nhiều hoạt động có thể mang lại hiệu quả khá
cao). Ngược lại có đa số quan điểm xem xét khái niệm dịch vụ ngân hàng dưới góc
độ rộng hơn khi cho rằng lĩnh vực dịch vụ ngân hàng bao hàm tất cả các hoạt động
tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối của hệ thống ngân hàng đối với khách hàng
là doanh nghiệp và cá nhân. Quan niệm này đáp ứng xu hướng hội nhập và đa dạng
hóa sản phẩm được thực tế chấp nhận.
Khi nói lĩnh vực dịch vụ ngân hàng đối với nền kinh tế, các nước đều quan
niệm dịch vụ ngân hàng theo nghĩa rộng. Ở những nước phát triển các ngân hàng
bán lẻ lớn có thể cung cấp đến vài trăm dịch vụ ngân hàng khác nhau cho khách
hàng là cá nhân và doanh nghiệp. Dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển và đa


9

dạng không có giới hạn khi nền kinh tế ngày càng phát triển, khi nhu cầu của con
người ngày càng đa dạng và ngày một nâng cao.
Theo tổ chức thương mại quốc tế (WTO), một dịch vụ tài chính là bất kỳ một
dịch vụ nào có tính chất tài chính, được một nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung
cấp. Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo

hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác. Như vậy, dịch vụ ngân hàng
là một nhân tố cấu thành nên dịch vụ tài chính.
Một khi Việt Nam đã ra nhập WTO tham gia sân chơi kinh tế thế giới thì việc
xem xét khái niệm dịch vụ ngân hàng và dịch tài chính theo quan niệm của các
nước lớn trên thế giới là một vấn đến cần thiết và tất yếu.
1.1.2 Phân loại dịch vụ ngân hàng
Nhu cầu xã hội ngày một không ngừng nâng cao, dịch vụ ngân hàng ngày
càng phát triển và đa dạng. Do đó rất khó để thống kê đầy đủ tất các các dịch vụ
ngân hàng. Sự phân loại tuỳ thuộc vào đặc điểm, chiến lược kinh doanh của mỗi
ngân hàng, nhưng về cơ bản dịch vụ ngân hàng bao gồm các loại chính như sau:
huy động vốn, tín dụng, dịch vụ thanh toán và dịch vụ khác.
1.1.2.1 Huy động vốn
Một trong những chức năng quan trọng của Ngân hàng thương mại là huy
động vốn để cho vay và đầu tư. Các ngân hàng nhận tiền gửi từ các cá nhân, tổ chức
kinh tế, xã hội. Tuỳ theo tiêu thức phân loại và yêu cầu quản lý mà tiền gửi có thể
được phân theo các loại khác nhau.
• Theo nguồn hình thành: Tiền ký gửi, tiền gửi được tạo ra từ hoạt động cho
vay của ngân hàng.
• Theo thời hạn: tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn.
- Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi hoàn toàn theo nguyên tắc khả dụng,
nghĩa là người gửi tiền có thể rút tiền bất cứ lúc nào có nhu cầu. Khách hàng lựa
chọn hình thức tiền gửi không kỳ hạn vì mục đích đảm bảo an toàn về tài sản và tiện
ích khi thực hiện các giao dịch thanh toán qua ngân hàng.


10

- Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự thoả thuận về thời gian rút tiền
giữa người gửi tiền và ngân hàng. Hình thức tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất
cố định theo kỳ hạn gửi tiền và số tiền gửi. Lãi suất ngân hàng áp dụng cho hình

thức tiền gửi có kỳ hạn thường cao hơn hình thức tiền gửi không kỳ hạn.
Hiện nay, các Ngân hàng Thương mại tại Việt Nam đang áp dụng hai hình
thức tiền gửi có kỳ hạn đó là: Tiền gửi có kỳ hạn: 1 tuần, 1 tháng, 2 tháng…đến 36
tháng; và tiền gửi dưới hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi.
• Theo mục đích sử dụng: Tiền gửi giao dịch và Tiền gửi tiết kiệm
- Tiền gửi giao dịch hay còn gọi là tiền gửi thanh toán.
- Tiền gửi tiết kiệm: Tiền gửi tiết kiệm hiện có hai loại chính sau:
+ Tiền gửi tiết kiệm theo tài khoản có thông tri: tức tiền gửi không có thời gian
đáo hạn mà người gửi tiền khi rút ra phải thông báo trước cho ngân hàng một
khoảng thời gian theo quy định. Tuy nhiên, ngày nay các ngân hàng thường cho
phép các khách hàng rút tiền mà không cần báo trước.
+ Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để tiết
kiệm tích luỹ nhằm mục đích mua nhà, mua xe…Đối với khách hàng gửi tiền theo
hình thức này ngân hàng thường cấp tín dụng để bù đắp phần thiếu hụt khi sử dụng
theo mục đích cùa tiền gửi.
Ở Việt Nam hiện nay các Ngân hàng thương mại cũng áp dụng các hình thức
tiền gửi tiết kiệm hết sức đa dạng như: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết
kiệm an cư, tiền gửi tiết kiệm tích luỹ thưởng….
1.1.2.2 Tín dụng
Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho
thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
Nghiệp vụ tín dụng bao gồm các loại dịch vụ sau;
* Cho vay
Cho vay là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng, nó là một loại hình tìn
dụng được hiểu như một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay


11


(các tổ chức tín dụng) và bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho
bên đi vay sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định theo thoả thuận. Bên đi
vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả gốc lẫn lãi khi đến kỳ thanh toán cho
bên cho vay. Tuỳ thuộc vào tiêu thức phân loại và yêu cầu quản lý, cho vay có thể
chia thành nhiều loại khác nhau.
• Theo mục đích sử dụng tiền vay của người vay: Cho vay tiêu dùng, Cho vay
thực hiện hoạt động kinh doanh.
• Theo thời hạn: cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và dài hạn.
• Theo mức độ tín nhiệm của khách hàng: Cho vay có đảm bảo tiền vay và cho
vay không có đảm bảo tiền vay.
* Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại
Ngay thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho
vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu sang cho ngân
hàng để lấy tiền trước). Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang
cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm
mở rộng sản xuất kinh doanh.
* Cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung hạn và dài hạn trên có sở hợp
đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là các tổ chức tín dụng với khách hàng
thuê.Khi kết thúc thời gian cho thuê khách hàng mua lại tài sản hoặc tiếp tục thuê
tài sản đó với các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê. Trong thời hạn
cho thuê các bên không được đơn phương chấm dứt hợp đồng.
* Bảo lãnh ngân hàng: Do khả năng thanh toán của một ngân hàng cho một
khách hàng là rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân
hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năn gần đây,nghiệp vụ
bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Bảo lãnh là nghiệp vụ của ngân hàng
theo đó ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của mình khi
khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ đã cam kết của họ đối với đối tác. Khách
hàng phải nhận nợ và phải hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền được trả thay.



12

1.1.2.3 Dịch vụ thanh toán
Ngân hàng cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.Khi các
doanh nhân gửi tiền vào Ngân hàng, họ nhận thấy Ngân hàng không chỉ bảo quản
mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ.Thanh toán qua Ngân hàng
đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiết kiệm không
cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách, khách
hàng mang giấy đến Ngân hàng sẽ nhận được tiền. Hiện nay, các ngân hàng thương
mại cung cấp hai dịch vụ thanh toán sau:
* Thanh toán trong nước
Có rất nhiều phương thức thanh toán qua hệ thống ngân hàng như: Thanh toán
bằng uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, bằng séc, thanh toán qua thẻ, chuyển khoản thanh
khoản định kỳ v.v…
Công cuộc đổi mới công nghệ, hiện đại hoá hoạt động ngân hàng đã dẫn đến
sự ra đời của hàng loạt các dịch vụ ngân hàng hiện đại và tiện ích như: Mobile
banking, Home banking, Internet banking, Phone banking v.v…Việc ứng dụng các
dịch vụ ngân hàng điện tử trong hoạt động kinh doanh hiện nay của các Ngân hàng
thương mại là một lợi thế cạnh tranh. Có thể nói, các dịch vụ ngân hàng điện tử ra
đời càng làm tăng thêm nhiều tiện ích cho các hoạt động thanh toán qua ngân hàng
và đây một trong những yếu tố quan trọng quyết định trong xu hướng phát triển
dịch vụ ngân hàng bán lẻ trong tương lai.
* Thanh toán quốc tế
Quan hệ thanh toán quốc tế được tiến hành thông qua các phương thức chính
như: phương thức chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng bộ chứng từ.
- Chuyển tiền là phương thức thanh toán đơn giản nhất trong thanh toán quốc
tế, trong đó một khách hàng (người mua hàng, người nhập khẩu v.v…) yêu cầu
ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người
bán, người xuất khẩu, người cung ứng dịch vụ v.v…) ở một địa điểm nhất định.

- Nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người bán sau khi hoàn thành
nghĩa vụ chuyển giao hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng, uỷ thác cho


13

ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền của người mua trên cơ sở hối phiếu của người
bán lập ra. Nhờ thu có hai loại: Nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ.
- Tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán quốc tế được sử dụng phổ biến
nhất hiện nay. Đây là phương thức thanh toán phức tạp, phí dịch vụ cao nhưng bảo
đảm được rất nhiều quyền lợi của bên bán và bên mua.
1.1.2.4 Các dịch vụ khác
Ngoài các dịch vụ nêu trên để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng các
ngân hàng thương mại hiện nay còn cung cấp nhiều loại dịch vụ như:
* Tài trợ dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở
nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các nghành
công nghệ cao. Do loại hình tín dụng này, nhìn chung rủi ro cao song lãi lại lớn.
* Thẻ tín dụng
Thẻ tín dụng giúp cho việc mua hàng hoá và các dịch vụ trả tiền sau. Mỗi
người có thể được cấp một hạn mức tín dụng theo tài khoản thẻ tín dụng của anh ta,
các tài khoản này hoàn toàn tách khỏi tài khoản thông thường của Ngân hàng và chỉ
dành cho các thẻ do Ngân hàng phát hành;thẻ tín dụng được mở tại phòng thẻ tín
dụng của Ngân hàng. Việc thanh toan hàng hoá, dịch vụ được thực hiện tại nơi có
máy đặc biệt để lập các hoá đơn ghi các giao dịch bán hàng và tại các điểm bán lẻ
có các ký hiệu của loại thẻ tín dụng mà chúng chấp nhận.
* Máy rút tiền tự động (ATM)
Thập niên 80 chứng kiến sự phát triển của các máy rút tiền tự động đa chức
năng. Những máy này đã được nối mạng điện toán nhằm cung cấp rất nhiều dịch vụ
Ngân hàng và vận hành với thế hệ mới nhất của các tấm thẻ nhựa có một dải từ tính

được lưu trữ các chi tiết tài chính cá nhân của người cầm thẻ. Các ngân hàng khác
nhau thì vận hành các loại máy khác nhau. Khi đưa thẻ vào máy, hành động này kết
nối máy ATM với máy tính của Ngân hàng. Thông qua thông tin lưu trữ trên dải từ
tính của thẻ, máy tính có thẻ tra cứu tài khoản của khách hàng. Máy rút tiền sau đó
có thể đưa ra số tiềnmặt mà người cầm thẻ muốn rút với một giới hạn nào đó, chỉ có


14

chủ thẻ mới biết số dư trong tài khoản của mình, giúp chủ thẻ đặt sổ séc hay một
lệnh thanh toán chuyển khoản với điều kiện phải chi tiết về Ngân hàng của người
được thanh toán.
Trong một số trường hợp, giữa các Ngân hàng có sự hợp tác với nhau, theo đó
một thẻ ATM của Ngân hàng này có thẻ được dùng với máy rút tiền của Ngân hàng
khác trong khi vẫn có thể ghi nợ vào đúng tài khoản.
* Kinh doanh ngoại tệ
Khi thực hiện việc mua bán ngoại tệ ngân hàng sẽ nhận được một khoản phí
dịch vụ. Trong thị trường tài chính phát triển, hoạt động này đã phát triển với các
giao dịch phức tạp hơn: swap, giao ngay, tương lai, quyền chọn, kỳ hạn…và với
khối lượng lớn vì thế hoạt động này thường chỉ do các ngân hàng lớn thực hiện bởi
những giao dịch này có độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ nghiệp vụ
chuyên môn cao. Các ngân hàng nhỏ chỉ thực hiện các giao dịch nhỏ cho cá nhân.
* Dịch vụ ngân hàng tại gia
Trong khi ATM cung cấp dịch vụ Ngân hàng điện tử thì ngân hàng tại gia lại
mạng đến lợi ích khác. Sử dụng hệ thống này, một người có tài khoản có thể hoặc gửi
thông tin vào máy tính của ngân hàng qua điện thoại hoặc nối 1 chiếc ti vi hay man
hình tại nhà với máy tính của ngân hàng qua điện thoại. Theo cách này, các giao dịch
ngân hàngcó thể thực hiện 24/24h, suốt 7 ngày trong tuần. Thông thường thì các chủ tài
khoản vãng lai, tài khoản tiền gửi, tài khoản ngân quỹ và tài khoản đa năng có thể được
sử dụng dịch vụ này. Để phòng chống việc sử dụng không được phép, mỗi chủ tài

khoản đều phải mở mã số an toàn riêng trước khi thực hiện giao dịch.
* Cung cấp dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép
khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do khiến các ngân
hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ
hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến kinh
doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp ngân hàng tổ chức ra công ty chứng
khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán.


15

* Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia
về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản
lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ.
Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác
phát triển, uỷ thác đầu tư. Thậm chí, các ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ
thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài
sản, bảo quản tài sản có giá. Nhiều khách hàng coi ngân hàng như một chuyên gia
tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, quản lý về tài chính, về thành
lập, mua bán, sát nhập doanh nghiệp.
* Quản lý đầu tư
Một trong những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp là quản lý đầu tư cho khách
hàng. Điều này đặc biệt phù hợp cho khách hàng là tư nhân đã có đầu tư vào thị
trường chứng khoán hoặc những ai muốn đầu tư theo cách này. Để quản lý tốt các
khoản đầu tư, cần phải có thời gian và kĩ năng chuyên môn mà các ngân hàng có
khả năng cung cấp trên cơ sở một khoản phí nào đó.
Dịch vụ này dành cho tất cả các khách hàng tư nhân là người đầu tư dài hạn,
chỉ không dành cho nhữnh nhà đầu tư tìm kiếm thu nhập ngắn hạn, muốn thay đổi

liên tục trong đầu tư. Đối với khách hàng là doanh nghiệp, ngân hàng có những
chính sách quản lý đầu tư đặc biệt riêng.
* Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó
đảm bảo cho việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp
rủi ro trong hoạt động kinh doanh, mất khả năng thanh toán.
Những nghiệp vụ trên là những nghiệp vụ cơ bản của các ngân hàng bên cạnh
các ngân hàng đó các ngân hàng còn có các nghiệp vụ khác: dịch vụ uỷ thác đầu tư
dịch vụ bảo hiểm, dịch tư vấn tài chính, môi giới chứng khoán, cho thuê két, bảo
quản vật có giá…


16

1.1.3 Vai trò của dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tê
Tới nay, nhiều nghiên cứu đã đánh giá cao vai trò của dịch vụ ngân hàng, cụ thể:
Đối với nền kinh tế, ngân hàng cung cấp các dịch vụ thanh toán giúp hoạt
động kinh tế trở nên thuận lợi, nhanh chóng và an toàn hơn, đồng thời hạn chế lưu
thông tiền mặt trong nền kinh tế, giúp giảm đáng kể chi phí in ấn, vận chuyển, bảo
quản. Hoạt động ngân hàng thúc đẩy huy động tối đa nguồn lực tiền tệ trong cộng
đồng để phục vụ đầu tư phát triển kinh tế. Có thể nói hoạt động ngân hàng tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp tới hầu hết các khía cạnh của nền kinh tế.
Đối với ngân hàng thương mại: Dịch vụ ngân hàng mang lại lợi nhuận cho
ngân hàng thông qua thu phí dịch vụ. Đây là nguồn thu ổn định và an toàn của ngân
hàng. Đa dạng các loại hình dịch vụ giúp ngân hàng hạn chế rủi ro, đa dạng hóa
nguồn thu. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, việc đa dạng và phát triển
các dịch vụ ngân hàng sẽ đem lại ưu thế vượt trội, nâng cao khả năng cạnh tranh của
ngân hàng. Dịch vụ ngân hàng hiện đại, phong phú, đáp ứng tối đa nhu cầu của
khách hàng sẽ thu hút được khách hàng đến với mình.
1.2 Quản lý nhà nước đối với dịch vụ ngân hàng

1.2.1 Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Mỗi ngành khoa
học đều đưa ra một khái niệm về quản lý dưới góc độ riêng của ngành mình. Tuy
nhiên, về cơ bản Quản lý là một quá trình, trong đó chủ thể quản lý tổ chức, điều
hành, tác động có định hướng, có chủ đích một cách khoa học và nghệ thuật vào
khách thể quản lý nhằm đạt kết quả tối ưu theo mục tiêu đã đề ra thông qua việc sử
dụng các phương pháp và công cụ thích hợp.
Quản lý còn được hiểu là một hệ thống, bao gồm các thành tố: đầu vào, đầu ra,
quá trình biến đổi đầu vào thành đầu ra, môi trường và mục tiêu. Các yếu tố trên
luôn tác động qua lại lẫn nhau. Một mặt, chúng đặt ra các yêu cầu, những vấn đề
quản lý phải giải quyết. Mặt khác, chúng ảnh hưởng đến hiệu lực và hiệu quả của
quản lý.
Quản lý bao gồm các yếu tố:


17

- Chủ thể quản lý nắm quyền lực và sử dụng quyền lực để tác động vào đối
tượng quản lý.
- Đối tượng quản lý là những cá nhân, tổ chức thực hiện các quyết định quản
lý; Mục tiêu quản lý là cái đích mà các chủ thể quản lý hướng tới; Quản lý muốn đạt
được kết quả tối ưu phải đặt trong một môi trường cụ thể, với những điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể.
Quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước, được
sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động
của con người để duy trì, phát triển các mối quanhệ xã hội, trật tự pháp luật nhằm
thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Chức năng, nhiệm vụ của nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy nhà
nước. Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương, được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất, tạo thành một chỉnh thể đồng bộ

để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Quản lýnhà nước có thể phân
thành: Quản lý nhà nước trung ương và quản lý nhà nước địa phương.
Quản lý nhà nước trung ương là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền
của cơ quan quản lý cấp trung ương lên các mặt đời sống xã hội của đất nước nhằm
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để đạt được các mục tiêu đề ra. Đây là quản lý
mang tính quyền lực cao nhất, làm cơ sở cho quản lý nhà nước địa phương thực
hiện theo.
Quản lý nhà nước địa phương là quá trình chính quyền địa phương triển khai thực
hiện các quy định do cơ quan quản lý cấp trung ương ban hành, đồng thời ban hành các
văn bản quy định về cơ chế chính sách liên quan đến hoạt động cần quản lý theo thẩm
quyền sao cho phù hợp tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
1.2.2 Khái niệm và sự cần thiêt quản lý nhà nước đối với dịch vụ ngân hàng
1.2.2.1 Khái niệm quản lý nhà nước đối với dịch vụ ngân hàng:
Xuất phát từ việc tìm hiểu khái niệm về quản lý, quản lý nhà nước, ta có khái
niệm quản lý nhà nước về dịch vụ ngân hàng như sau:


18

Quản lý nhà nước đối với dịch vụ ngân hàng là quá trình tác động và điều
chỉnh của nhà nước đến hoạt động dịch vụ ngân hàng nhằm làm cho hoạt động dịch
vụ ngân hàng được hình thành và hoạt động đúng pháp luật nhà nước, phù hợp
thông lệ quốc tế thúc đẩy dịch vụ tại các ngân hàng thương mại phát triển an toàn và
hiệu quả, phù hợp với chính sách tiền tệ quốc gia, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
các chủ thể khi tham gia dịch vụ ngân hàng.
1.2.3 Mục tiêu, yêu cầu, công cụ, phương pháp quản lý nhà nước đối với
dịch vụ ngân hàng
1.2.3.1 Mục tiêu cơ bản của quản lý nhà nước đối với dịch vụ ngân hàng của
các ngân hàng thương mại bao gồm
- Nhà nước định hướng phát triển cho hoạt động của NHTM nói chung và dịch

vụ Ngân hàng nói riêng, góp phần thực hiện tốt chính sách tiền tệ quốc gia mà trực
tiếp là chính sách phát triển hệ thống NHTM.
- Xây dựng khung pháp lý để phát triển dịch vụ Ngân hàng.
- Bảo đảm sự quản lý kịp thời của Nhà nước đối với dịch vụ Ngân hàng, chủ
động ngăn chặn và nhanh chóng phát hiện các vi phạm trong hoạt động dịch vụ
Ngân hàng.
- Thông qua các chính sách của Nhà nước về dịch vụ Ngân hàng, mọi tổ chức
và cá nhân hiểu biết đầy đủ về tiện ích của loại hình dịch vụ này, qua đó tích cực
tham gia vào hoạt động dịch vụ Ngân hàng của NHTM;
- Thông qua kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện và xử lý các hiện tượng tiêu
cực trong dịch vụ Ngân hàng, góp phần lành mạnh hóa hoạt động dịch vụ Ngân
hàng và thu hút sự tham gia của các tổ chức và cá nhân vào dịch vụ Ngân hàng.
1.2.3.2 Yêu cầu của quản lý nhà nước đối với dịch vụ ngân hàng
Cùng với tiến trình cải cách nền hành chính quốc gia, các cơ chế chính sách
QLNN phải đảm bảo đồng bộ về điều kiện liên quan đến dịch vụ ngân hàng. Cụ thể là:


×