Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Giải pháp nâng cao giá trị sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện quốc oai, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN VĂN CƯỜNG

GIẢI PHÁP NÂNG CAO GIÁ TRỊ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Hà Nội, 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN VĂN CƯỜNG

GIẢI PHÁP NÂNG CAO GIÁ TRỊ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60.62.01.15

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Dư

Hà Nội, 2013



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là hoạt động sản xuất cơ bản nhất của xã hội loài người. Ở
hầu hết các nước trên thế giới đều phải xây dựng một nền kinh tế trên cơ sở
phát triển nông nghiệp dựa vào khai thác các tiềm năng của đất, lấy đó làm
bàn đạp phát triển các ngành khác. Đất đai không chỉ là đối tượng lao động
mà còn là tư liệu sản xuất không thể thay thế được, đặc biệt là đối với sản
xuất nông nghiệp, đất là yếu tố đầu vào có tác động mạnh mẽ đến giá trị sản
xuất nông nghiệp, đồng thời cũng là môi trường duy nhất sản xuất ra lương
thực thực phẩm nuôi sống con người. Việc nâng cao giá trị sử dụng đất nói
chung, đất nông nghiệp nói riêng đang trở thành vấn đề cấp thiết với mỗi
quốc gia, nhằm duy trì sức sản xuất của đất đai cho hiện tại và cho tương lai.
Hơn 20 năm qua, nông nghiệp nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nông
nghiệp cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hoá, phát triển tương đối toàn
diện, tốc độ tăng trưởng bình quân (5,5% giai đoạn 2005-2010) và đạt 4,25%
năm 2012 [10]. Sản xuất nông nghiệp không những đảm bảo an toàn lương
thực quốc gia mà còn mang lại nguồn thu cho nền kinh tế với việc tăng hàng
hóa nông sản xuất khẩu.
Những năm gần đây ở Việt Nam đã hình thành những vùng sản xuất
tập trung với khối lượng nông sản hàng hóa lớn và mang tính kinh doanh rõ
rệt: lúa gạo và rau quả thực phẩm vùng đồng bằng sông Hồng; lúa gạo và rau

quả thực phẩm, thuỷ hải sản ở vùng đồng bằng sông Cửu Long; cà phê, cao su
ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên,... Tuy nhiên, nhiều diện tích đất canh tác sử
dụng không hợp lý đã bị suy thoái, xói mòn, bạc màu, làm giảm độ phì nhiêu
của đất,… bên cạnh đó, quá trình phát triển của công nghiệp hoá - hiện đại
hóa, quá trình đô thị hóa, sự bùng nổ dân số diện tích đất nông nghiệp đã


2
giảm rất nhiều do chuyển sang các mục đích sử dụng khác. Do đó, để đảm
bảo vấn đề an ninh lương thực cần phải có những loại hình sử dụng đất cho
hiệu quả kinh tế cao.
Cũng như cả nước, trong những năm qua nông nghiệp của huyện Quốc
Oai đã đạt được những thành tựu to lớn, có những bước tiến nhanh về số
lượng, chất lượng và cả phương thức sản xuất: giá trị sản xuất nông nghiệp
tăng trưởng bình quân trên 4%, sản lượng hàng hóa ngày càng cao, số trang
trại ngày càng nhiều; đời sống nông dân ngày càng được cải thiện. Là huyện
đang trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, nhưng sản xuất nông nghiệp
đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của huyện. Tuy
nhiên, nền sản xuất nông nghiệp của huyện còn tồn tại nhiều yếu điểm đang
làm giảm sút về chất lượng do quá trình khai thác sử dụng không hợp lý; trình
độ khoa học kỹ thuật, chính sách quản lý, tổ chức sản xuất còn hạn chế; tư
liệu sản xuất giản đơn, kỹ thuật canh tác truyền thống, đặc biệt là việc độc
canh cây lúa ở một số nơi đã không phát huy được tiềm năng đất đai mà còn
có xu thế làm cho nguồn tài nguyên đất có xu hướng bị thoái hoá.
Nghiên cứu đánh giá các loại hình sử dụng đất hiện tại, đánh giá đúng
giá trị sử dụng đất sản xuất nông nghiệp của các loại hình sử dụng đất để tổ
chức sử dụng đất hợp lý có hiệu quả cao làm cơ sở cho việc đề xuất quy hoạch
sử dụng đất và định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp của huyện Quốc
Oai là vấn đề có tính chiến lược và cấp thiết.
Xuất phát từ thực tiễn về sử dụng đất nông nghiệp ở huyện hiện nay, tôi

chọn vấn đề: “Giải pháp nâng cao giá trị sử dụng đất nông nghiệp trên địa
bàn huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp và
các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị sử dụng đất nông nghiệp, đề xuất giải pháp


3
nhằm nâng cao giá trị sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Quốc Oai,
thành phố Hà Nội.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa được một số vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn về sử
dụng đất, giá trị sử dụng đất nông nghiệp.
- Đánh giá được thực trạng sử dụng đất nông nghiệp, giá trị sử dụng đất
nông nghiệp huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội trong những năm qua.
- Phân tích được các nhân tố ảnh hưởng tới giá trị sử dụng đất nông nghiệp
và rút ra những vấn đề cần giải quyết nhằm nâng cao giá trị sử dụng đất.
- Đề xuất được những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao giá trị sử dụng
đất nông nghiệp trên đại bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội trong những
năm tới.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề có liên quan đến nâng cao
giá trị sử dụng đất nông nghiệp ở huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu bao gồm phạm vi về nội dung, không gian và thời
gian nghiên cứu.
- Về nội dung:
Đề tài tập trung hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về sử

dụng đất và nâng cao giá trị sử dụng đất; Phân tích thực trạng sử dụng đất, giá
trị sử dụng đất ở huyện hiện nay; chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng đến nâng
cao giá trị sử dụng đất trên địa bàn huyện Quốc Oai; Từ đó, đề xuất một số
giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao giá trị sử dụng đất ở huyện Quốc Oai, thành
phố Hà Nội trong thời gian tới.
- Về không gian:
Nghiên cứu về giá trị sử dụng đất nông nghiệp và nâng cao giá trị sử


4
dụng đất nông nghiệp ở huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội.
- Về thời gian:
Nghiên cứu về tình hình sử dụng đất và giá trị sử dụng đất nông nghiệp
qua số liệu thu thập được từ các tài liệu đã công bố trong khoảng thời gian
2010 - 2012, số liệu khảo sát điều tra năm 2013.
4. Nội dung nghiên cứu
4.1. Nội dung về lý luận
Đề tài hệ thống hóa một số khái niệm về sử dụng đất, giá trị sử dụng
đất. Những vấn đề lý luận về nâng cao giá trị sử dụng đất nông nghiệp; nhân
tố ảnh hưởng đến giá trị sử dụng đất nói chung, đất nông nghiệp nói riêng.
4.2. Nội dung về thực trạng
Tình hình sử dụng đất nông nghiệp ở huyện Quốc Oai. Tình hình về giá
trị sử dụng đất nông nghiệp trên các vùng sinh thái huyện Quốc Oai. Mô hình
sử dụng đất nông nghiệp cho giá trị kinh tế cao; Đánh giá giá trị kinh tế trong
việc sử dụng đất nông nghiệp và những vấn đề đặt ra trong việc sử dụng quỹ
đất nông nghiệp có hiệu quả.
4.3. Nội dung về giải pháp
Những nội dung về quan điểm; định hướng, mục tiêu và giải pháp nâng
cao giá trị sử dụng quỹ đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Quốc Oai, thành
phố Hà Nội.

(1) Xây dựng hệ thống canh tác phù hợp với các vùng trong Huyện,
tích cực chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng. (2) Đẩy mạnh công tác dồn điền
đổi thửa theo chương trình xây dựng nông thôn mới. (3) Xây dựng công thức
luận canh hợp lý cho các vùng sinh thái trong huyện, đem lại giá trị sử dụng
đất canh tác cao. (4) Đẩy mạnh thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên
địa bàn Huyện. (5) Huy động vốn và chính sách vốn cho phát triển sản xuất
nông nghiệp. (6) Tăng cường công tác đào tạo nghề cho lao động trong sản
xuất nông nghiệp.


5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
VÀ NÂNG CAO GIÁ TRỊ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1. Cơ sơ lý luận về sử dụng đất nông nghiệp và nâng cao giá trị sử dụng
đất nông nghiệp
1.1.1. Sử dụng đất nông nghiệp
Trong các ngành nông - lâm nghiệp, đất đai là yếu tố tích cực của quá
trình sản xuất, là điều kiện vật chất - cơ sở không gian, đồng thời là đối tượng
lao động và công cụ hay phương tiện lao động. Khi xã hội phát triển, dân số
tăng nhanh kéo theo những đòi hỏi ngày càng tăng về lương thực thực phẩm,
chỗ ở cũng như các nhu cầu khác về văn hoá, xã hội, thì con người phải tìm
mọi cách để khai thác đất nhằm thỏa mãn nhưng yêu cầu đó. Trong điều kiện
quỹ đất có hạn nên việc quản lý, sử dụng một cách tiết kiệm có hiệu quả
nguồn tài nguyên này vào việc phát triển kinh tế của đất nước có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng.
1.1.1.1. Đất nông nghiệp
- Về Khái niệm đất nông nghiệp
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên ban tặng
cho nhân loại, con người sinh ra trên đất, sống và lớn lên nhờ vào sản phẩm

của đất. C.Mác đã viết: “Đất là tư liệu sản xuất cơ bản và phổ biến quý báu
nhất của sản xuất nông nghiệp”, “Điều kiện không thể thiếu được của sự tồn
tại và sinh sống của hàng loạt thế hệ loài người kế tiếp nhau” [5].
Đất nông nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia. Đất nông nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất và
làm ra sản phẩm cần thiết nuôi sống xã hội. Chính vì vậy, Luật đất đai năm
2003 nêu rõ: “Đất nông nghiệp là đất sử dụng vào mục đích sản xuất, nghiên
cứu, thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản, làm muối


6
và mục đích bảo vệ, phát triển rừng, bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất sản
xuất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khác”.
Theo điều 13, Luật đất đai Việt Nam năm 2003, đất đai được chia thành 3
nhóm lớn là: nhóm đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng.
Đất nông nghiệp gồm: đất trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và đất
lâm nghiệp. Trong đất lâm nghiệp bao gồm đất có rừng đang dùng chủ yếu vào sản
xuất hoặc nghiên cứu thí nghiệm về lâm nghiệp, đất có rừng tự nhiên, đất có rừng
trồng và đất ươm cây giống lâm nghiệp.
Khi nói đất nông nghiệp người ta nói đất sử dụng chủ yếu vào sản xuất của
các ngành nông nghiệp, bởi vì thực tế có trường hợp đất đai được sử dụng vào mục
đích khác nhau của các ngành. Trong trường hợp đó, đất đai được sử dụng chủ yếu
cho hoạt động sản xuất nông nghiệp mới được coi là đất nông nghiệp, nếu không sẽ
là các loại đất khác.
Có thể thấy, đất đai là sản phẩm của thiên nhiên, đất đai có những tính chất
đặc trưng riêng khiến nó không giống bất kỳ một tư liệu sản xuất nào khác, đó là: đất
có độ phì, giới hạn về diện tích, có vị trí cố định trong không gian và vĩnh cửu với
thời gian nếu biết sử dụng đúng. Nhận thức đúng được các vấn đề trên sẽ giúp người
sử dụng đất có các định hướng sử dụng tốt hơn đối với đất nông nghiệp, khai thác có
hiệu quả các tiềm năng tự nhiên của đất đồng thời không ngừng bảo vệ đất và môi

trường sinh thái.
- Vai trò đất nông nghiệp
Trong nông nghiệp, đất đai có vị trí hết sức quan trọng, là yếu tố
hàng đầu của ngành sản xuất này. Đất đai trong nông nghiệp vừa là tư
liệu sản xuất vật chất vừa là đối tượng lao động. Đất đai không chỉ là
chỗ ở, chỗ đứng để lao động mà còn là nguồn cung cấp thức ăn cho cây
trồng, mọi tác động của con người đều dựa vào đất đai và thông qua đất
đai. Vì vậy, dù quá trình sản xuất nông nghiệp hay sản xuất kinh doanh


7
các sản phẩm khác thì đều là quá trình khai thác hoặc quá trình sử dụng
đất. Vì thế, không có đất đai thì các hoạt động khác đều không xảy ra.
Trong sản xuất nông lâm nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và
đặc biệt không thể thay thế, với những đặc điểm:
- Đất đai được coi là tư liệu sản xuất chủ yếu trong sản xuất nông lâm
nghiệp, bởi vì nó vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động trong quá
trình sản xuất. Đất đai là đối tượng bởi lẽ nó là nơi con người thực hiện các
hoạt động của mình tác động vào cây trồng vật nuôi để tạo ra sản phẩm.
- Đất đai là loại tư liệu sản xuất không thể thay thế: bởi vì đất đai là sản
phẩm của tự nhiên, nếu biết sử dụng hợp lý, sức sản xuất của đất đai ngày càng
tăng lên. Điều này đòi hỏi trong quá trình sử dụng đất phải đứng trên quan điểm
bồi dưỡng, bảo vệ, làm giàu thông qua những hoạt động có ý nghĩa của con
người.
- Đất đai là tài nguyên bị hạn chế bởi ranh giới đất liền và bề mặt địa
cầu [21]. Đặc điểm này ảnh hưởng đến khả năng mở rộng quy mô sản xuất
nông - lâm nghiệp và sức ép về lao động và việc làm, do nhu cầu nông sản
ngày càng tăng trong khi diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Việc
khai khẩn đất hoang hóa đưa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp đã làm cho
quĩ đất nông nghiệp tăng lên. Đây là xu hướng vận động cần khuyến khích.

Tuy nhiên, đất đưa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp là đất hoang hóa, nằm
trong quỹ đất chưa sử dụng. Vì vậy, cần phải đầu tư lớn sức người và sức của.
Trong điều kiện nguồn lực có hạn, cần phải tính toán kỹ để đầu tư cho công
tác này thực sự có hiệu quả.
- Đất đai có vị trí cố định và chất lượng không đồng đều giữa các
vùng, các miền [21]. Mỗi vùng đất luôn gắn với các điều kiện tự nhiên (thổ
nhưỡng, thời tiết, khí hậu, nước,…) điều kiện kinh tế - xã hội (dân số, lao
động, giao thông, thị trường,…) và có chất lượng đất khác nhau. Do vậy,
việc sử dụng đất đai phải gắn liền với việc xác định cơ cấu cây trồng, vật


8
nuôi cho phù hợp để nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở nắm chắc
điều kiện của từng vùng lãnh thổ.
- Đất đai được coi là một loại tài sản, người chủ sử dụng có quyền nhất
định do pháp luật của mỗi nước qui định: tạo thuận lợi cho việc tập trung, tích
tụ và chuyển hướng sử dụng đất từ đó phát huy được hiệu quả nếu biết sử
dụng đầy đủ và hợp lý.
Như vậy, đất đai là yếu tố hết sức quan trọng và tích cực của quá trình
sản xuất nông nghiệp. Thực tế cho thấy, thông qua quá trình phát triển của xã
hội loài người, sự hình thành và phát triển của mọi nền văn minh vật chất văn minh tinh thần, các thành tựu vật chất, văn hoá khoa học đều được xây
dựng trên nền tảng cơ bản đó là đất và sử dụng đất, đặc biệt là đất nông lâm
nghiệp. Vì vậy, sử dụng đất hợp lý, có hiệu quả là một trong những điều kiện
quan trọng nhất cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
1.1.1.2. Sử dụng đất nông nghiệp
- Các loại hình sử dụng đất sản xuất nông nghiệp
Để đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, trước hết cần nghiên
cứu các loại hình sử dụng đất và các kiểu sử dụng đất ở các vùng kinh tế sinh
thái. Hệ thống cây trồng gồm các loại cây lương thực, rau màu, cây ăn quả,...
Hệ thống cây trồng được bố trí phù hợp trên từng vùng đất và từng mùa vụ.

Loại hình sử dụng đất là một bức tranh mô tả thực trạng sử dụng đất của từng
vùng với những phương thức quản lý sản xuất trong các điều kiện kinh tế kỹ
thuật nhất định.
Về loại hình sử dụng đất chính (LUT) được biểu hiện các danh mục
như Chuyên lúa; Chuyên rau; Chuyên màu; Lúa - Màu; Rau - Màu; Lúa Rau; Lúa - Hoa,...
Về kiểu sử dụng đất được thể hiện ở những công thức luân canh cây
trồng cụ thể trên một đơn vị diện tích nhất định như:
Lúa xuân - Lúa mùa - Khoai lang;


9
Lúa xuân - Lúa mùa - Ngô;
Cà chua - Bí xanh - Dưa chuột;
Cà chua - Bí xanh,...
Như vậy mỗi loại hình sử dụng đất (LUT) có nhiều kiểu sử dụng đất
hay có nhiều công thức luân canh nhằm đem lại giá trị sản xuất cao trên một
đơn vị diện tích đất canh tác.
- Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp
Đất đai là nguồn tài nguyên có hạn, trong khi đó nhu cầu của con người
lấy từ đất ngày càng tăng, mặt khác đất canh tác ngày càng bị thu hẹp do bị
trưng dụng sang các mục đích khác. Cho nên, sử dụng đất trong sản xuất nông
nghiệp phải trên cơ sở cân nhắc những mục tiêu phát triển KT-XH, tận dụng
tối đa lợi thế so sánh về điều kiện sinh thái và không làm ảnh hướng xấu đến
môi trường là những nguyên tắc cơ bản và cần thiết để đảm bảo cho khai thác
sử dụng bền vững nguồn tài nguyên đất.
Sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta với mục tiêu nâng cao hiệu quả KTXH trên cơ sở đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm, tăng cường nguyên
liệu cho công nghiệp và hướng tới xuất khẩu. Do đó, đất nông nghiệp cần
được sử dụng theo nguyên tắc “đầy đủ và hợp lý”, phải có các quan điểm
đúng đắn theo xu hướng tiến bộ, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, làm
cơ sở thực hiện việc sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao.

Thực hiện sử dụng đất nông nghiệp theo nguyên tắc “đầy đủ và hợp lý
là cần thiết, bởi nó sẽ làm tăng nhanh khối lượng nông sản trên một đơn vị
diện tích, xây dựng cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chế độ bón phân hợp lý, góp
phần bảo vệ độ phì của đất. Mặt khác, trong cơ chế kinh tế thị trường cần
phải xét đến tính quy luật của nó, gắn với các chính sách vĩ mô nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng nông nghiệp và phát triển nền nông nghiệp bền vững.
- Về nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp đầy đủ
Đây là nguyên tắc quan trọng, sử dụng toàn bộ diện tích đất cần được


10
sử dụng hết vào sản xuất, với việc bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp
với đặc điểm của từng loại đất nhằm nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi
đồng thời gìn giữ bảo vệ và nâng cao độ phì của đất. Đảm bảo diện tích đất
nông nghiệp luôn đáp ứng được nhu cầu về an toàn lương thực, diện tích
đất nông nghiệp đáp ứng được tiêu chuẩn môi trường sinh thái được bền
vững cũng như nhu cầu sinh hoạt của con người.
- Về nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp hợp lý
Đây là nguyên tắc giúp cho việc khai thác, sử dụng đất đạt hiệu quả
cao nhưng vẫn đảm bảo được tính an toàn và hiệu quả.
Trong khai thác và quản lý sử dụng đất tính hiệu quả cao nhất cả về
kinh tế, xã hội và môi trường. Mặt khác phải có những quan điểm đúng đắn
theo xu hướng tiến bộ phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, làm cơ sở
thực hiện sử dụng đất có hiệu quả kinh tế xã hội cao. Đây là kết quả của
việc sử dụng đầy đủ, hợp lý đất đai, việc xác định hiệu quả sử dụng đất thông
qua tính toán hàng loạt các chỉ tiêu khác nhau: năng suất cây trồng, chi phí
đầu tư, hệ số sử dụng đất, giá cả sản phẩm, tỷ lệ che phủ đất,… Muốn nâng
cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp phải thực hiện tốt, đồng bộ các biện
pháp kỹ thuật và chính sách kinh tế - xã hội trên cơ sở đảm bảo an toàn về
lượng thực, thực phẩm, tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và

nông lâm sản cho xuất khẩu.
1.1.1.3. Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp
Quan điểm trong sử dụng đất đó là sử dụng đất nông nghiệp phải
gắn với các mục đích kinh tế, xã hội và môi trường.
Thực hiện sử dụng đất nông nghiệp theo hướng tập trung chuyên môn
hoá, sản xuất hàng hoá theo hướng ngành hàng, nhóm sản phẩm, thực hiện
thâm canh toàn diện và liên tục [24].
Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên cơ sở thực hiện đa
dạng hoá hình thức sở hữu, tổ chức sử dụng đất nông nghiệp, đa dạng hoá cây


11
trồng vật nuôi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với sinh thái và
bảo vệ môi trường [28].
Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp phải phù hợp và gắn liền
với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của vùng và cả nước.
Sử dụng đất trước hết bao giờ cũng gắn với mục tiêu kinh tế, những
mục tiêu kinh tế trong sử dụng đất giữa chủ sử dụng thực tế và cộng đồng lớn
hơn có lúc trùng nhau và có lúc không trùng nhau.
Các hộ nông dân trong việc sử dụng đất của mình luôn đặt ra mục tiêu
làm ra sản phẩm để bán hoặc tự tiêu dùng, nếu thấy việc đó không có lợi họ
có thể thay đổi cây trồng để sản xuất có hiệu quả hơn hoặc họ có thể bán phần
đất của họ cho người khác hoặc thay đổi mục đích sử dụng.
Sử dụng đất được xem là hợp lý không có nghĩa là thoả mãn được
nguyện vọng của từng chủ sử dụng đất mà là quá trình xem xét cân nhắc để
sử dụng đất hài hoà về mặt lợi ích của toàn thể cộng đồng và các chủ sử dụng
đất cụ thể.
- Đất nông nghiệp cần phải được quản lý và sử dụng một cách bền vững
Sự bền vững ở đây là sự bền vững cả về số lượng và chất lượng, có
nghĩa là đất đai phải được bảo tồn không chỉ đáp ứng được nhu cầu của thế hệ

hiện tại mà còn cho thế hệ tương lai. Sự bền vững của đất đai gắn liền với điều
kiện sinh thái, môi trường. Vì vậy, các phương thức sử dụng đất nông lâm
nghiệp phải gắn liền với việc bảo vệ môi trường đất, đáp ứng được lợi ích trước
mắt và lâu dài.
Như vậy, để sử dụng đất triệt để và có hiệu quả, đảm bảo cho quá trình
sản xuất được liên tục thì việc tuân thủ những nguyên tắc trên là việc làm cần
thiết và hết sức quan trọng với mỗi Quốc gia.
Để duy trì được sự bền vững của đất đai, Smyth A.J và Julian Dumanski
(1993) [29] đã xác định 5 nguyên tắc có liên quan đến sự sử dụng đất bền vững là:
- Duy trì hoặc nâng cao các hoạt động sản xuất.


12
- Giảm mức độ rủi ro đối với sản xuất.
- Bảo vệ tiềm năng của các nguồn tài nguyên tự nhiên, chống lại sự
thoái hoá chất lượng đất và nước.
- Khả thi về mặt kinh tế.
- Được xã hội chấp nhận.
Tại Việt Nam, theo ý kiến của Đào Châu Thu và Nguyễn Khang
(1998) [27], việc sử dụng đất bền vững cũng dựa trên những nguyên tắc và
được thể hiện trong 3 yêu cầu sau:
- Bền vững về mặt kinh tế: cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao và được
thị trường chấp nhận.
- Bền vững về mặt môi trường: loại hình sử dụng đất bảo vệ được đất
đai, ngăn chặn sự thoái hoá đất, bảo vệ môi trường tự nhiên.
- Bền vững về mặt xã hội: thu hút được nhiều lao động, đảm bảo đời
sống người dân, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Như vậy, hoạt động sản xuất nông nghiệp của con người diễn ra hết sức
đa dạng trên nhiều vùng đất khác nhau và cũng vì thế khái niệm sử dụng đất
bền vững thể hiện trong nhiều hoạt động sản xuất và quản lý đất đai trên từng

vùng đất xác định theo nhu cầu và mục đích sử dụng của con người. Đất đai
trong sản xuất nông nghiệp chỉ được gọi là sử dụng bền vững trên cơ sở duy trì
các chức năng chính của đất là đảm bảo khả năng sản xuất của cây trồng một
cách ổn định, không làm suy giảm về chất lượng tài nguyên đất theo thời gian
và việc sử dụng đất không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của con
người và sinh vật.
Năm nguyên tắc trên được coi là trụ cột của sử dụng đất đai bền vững
và là những mục tiêu cần phải đạt được, nếu thực tế diễn ra đồng bộ, so với
các mục tiêu cần phải đạt được. Nếu chỉ đạt một hay một vài mục tiêu mà
không phải tất cả thì khả năng bền vững chỉ mang tính bộ phận.
- Sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá


13
Nông nghiệp sản xuất hàng hóa phải gắn liền với trình độ canh tác của
người nông dân, người nông dân cần phải biết chuyên môn hóa, tập trung
trong sản xuất nhằm tạo ra nông sản phẩm nhiều về số lượng, tăng cường về
chất lượng, đa dạng về chủng loại để thỏa mãn nhu cầu của thị trường, đem
lại hiệu quả cao nhất trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp.
Nông nghiệp là một hoạt động sản xuất mang tính chất cơ bản của mỗi
quốc gia [21]. Để nông nghiệp có thể thực hiện được vai trò quan trọng của
mình đối với nền kinh tế quốc dân đòi hỏi nông nghiệp phải phát triển toàn
diện, mạnh mẽ vững chắc. Con đường tất yếu để phát triển nông nghiệp nước
ta là phải chuyển từ sản xuất nhỏ tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hóa [22].
Chuyển sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa là sự tiến hóa hợp quy
luật, đó là quá trình chuyển nền nông nghiệp truyền thống, lạc hậu sang nền
nông nghiệp hiện đại phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng XHCN.
Sản xuất hàng hóa là quy luật khách quan của mọi hình thái kinh tế xã hội, nó
phản ánh trình độ phát triển sản xuất của xã hội đó [30].
Theo Lê Nin thì nguồn gốc của sản xuất hàng hóa là sự phân công lao

động xã hội [20]. Vì thế, nền kinh tế tự cung tự cấp gắn liền với nền kinh tế
đóng cửa và gần như tách biệt với thị trường làm cho nông dân có cuộc sống
thấp do năng suất lao động thấp, thế vận động kinh tế hộ nông dân tự cấp tự
túc lên sản xuất hàng hóa, kích thích sự phát triển kinh tế nông hộ lên sản
xuất hàng hóa là đúng quy luật, nhằm tạo ra lực lượng sản xuất mới ở nông
thôn, tạo nhiều sản phẩm hàng hóa [17].
Nền sản xuất hàng hóa có đặc trưng là cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện
đại, trình độ khoa học - kỹ thuật, trình độ văn hóa của người lao động cao. Đó
là nền sản xuất nông nghiệp có cơ cấu sản xuất hợp lý, được hình thành trên
cơ sở khai thác tối đa thế mạnh sản xuất nông nghiệp từng vùng. Vì thế nó là
nền nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao, khối lượng hàng hóa nhiều với
nhiều chủng loại phong phú, đa dạng [16].


14
Việc đưa nông nghiệp sang phát triển sản xuất hàng hóa là quá trình lâu
dài và đầy những khó khăn phức tạp, cần phải gắn liền với việc hình thành
các vùng sản xuất tập trung chuyên canh và thâm canh ngày càng cao và phải
gắn nông nghiệp với lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp chế biến và được
thực hiện thông qua việc phân công lại lao động, xã hội hóa sản xuất, ứng
dụng các công nghệ mới vào sản xuất.
Từ những vấn đề trên cho thấy: xây dựng nền nông nghiệp sản xuất
hàng hóa là hướng đi đúng, là sự tiến hóa hợp quy luật. Do đó, tìm kiếm thị
trường và những giải pháp sản xuất, đầu tư hợp lý để sản xuất nông nghiệp
theo hướng hàng hóa có hiệu quả cao, ổn định là rất cần thiết.
1.1.2. Nâng cao giá trị sử dụng đất nông nghiệp
1.1.2.1. Giá trị sử dụng đất nông nghiệp
Đánh giá giá trị sử dụng đất nông nghiệp có đặc thù riêng, trên một đơn
vị đất nông nghiệp nhất định có thể sản xuất đạt được những kết quả cao nhất
với chi phí bỏ ra ít nhất, ảnh hưởng môi trường ít nhất. Đó là phản ánh kết

quả quá trình đầu tư sử dụng các nguồn lực thông qua đất, cây trồng, thực
hiện quá trình sinh học để tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị
trường xã hội với hiệu quả cao [13].
Các tiêu chuẩn được xem xét với việc ứng dụng lý thuyết sản xuất cơ
bản theo nguyên tắc tối ưu hoá. Sử dụng đất phải đảm bảo cực tiểu hoá chi phí
các yếu tố đầu vào, theo nguyên tắc tiết kiệm khi cần sản xuất ra một lượng
nông sản nhất định, hoặc thực hiện cực đại hoá lượng nông sản khi có một
lượng nhất định đất nông nghiệp và các yếu tố đầu vào khác.
Giá trị sử dụng đất nông nghiệp có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất ngành
nông nghiệp, đến hệ thống môi trường sinh thái nông nghiệp, đến những người
sống bằng nông nghiệp.
Tổng giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích là thước đo quan trọng nhất
của hiệu quả kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất. Tổng giá trị trong một


15
giai đoạn hay cả chu kỳ phải trên mức bình quân của vùng, nếu dưới mức của
vùng thì nguy cơ người sử dụng đất sẽ không có lãi, hiệu quả vốn đầu tư phải
lớn hơn lãi suất tiền vay vốn ngân hàng.
1.1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao giá trị sử dụng đất nông nghiệp
Nâng cao giá trị sử dụng đất canh tác là một việc làm hết sức quan
trọng của mỗi Quốc gia vì diện tích đất có hạn, nhưng nhu cầu lương thực của
xã hội ngày một tăng. Khối lượng đầu vào của quá trình sản xuất nông nghiệp
không tương xứng với khối lượng đầu ra nên nâng cao hiểu quả sản xuất phụ
thuộc vào cây giống, con giống. Vì thế chúng ta phải tìm cách để có được
những cây giống tốt phù hợp với điều kiện từng vùng để hiệu quả cao.
Nước ta là một nước nông nghiệp với 80% dân số sống ở nông thôn do
đó đất nông nghiệp càng trở nên quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến thu
nhập, mức sống của người dân. Vì vậy các cấp, các ngành có liên quan phải
tìm ra phương án tác động tốt nhất đến quá trình sản xuất nông nghiệp để tăng

năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi và đó chính là nâng cao hiệu quả sử
dụng đất canh tác.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến nâng cao giá trị sử dụng đất nông nghiệp
1.1.3.1. Yếu tố về điều kiện tự nhiên

Sản xuất nông nghiệp có đặc điểm khác với các ngành khác là đối
tượng sản xuất nông nghiệp là các sinh vật sống, chúng có quá trình sinh
trưởng và phát triển theo quy luật nhất định trong điều kiện ngoại cảnh khác
nhau nên điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu, thời tiết, địa hình, thổ
nhưỡng,...) có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp, các yếu tố này
là tài nguyên để sinh vật tạo nên sinh khối. Vì vậy, khi nuôi trồng một loại
cây, con nào trước hết cần xem xét điều kiện tự nhiên của một vùng một cách
tỷ mỉ để xác định đúng mô hình sản xuất mới mang lại hiệu quả kinh tế cao.
1.1.3.2. Nhóm các yếu tố kinh tế, kỹ thuật canh tác và tổ chức
Lựa chọn các tác động kỹ thuật, lựa chọn chủng loại và cách sử dụng


16
các đầu vào nhằm đạt các mục tiêu sử dụng đất đề ra. Khi có tác động tích
cực của kỹ thuật, giống mới, thuỷ lợi, phân bón tới hiệu quả thì cũng đặt ra
yêu cầu mới đối với tổ chức sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghiệp
sản xuất tiến bộ là một biện pháp đảm bảo vật chất cho kinh tế nông nghiệp
tăng trưởng nhanh. Nhóm các biện pháp kỹ thuật đặc biệt có ý nghĩa quan
trọng trong quá trình khai thác đất đai theo chiều sâu và nâng cao giá trị và
hiệu quả sử dụng đất canh tác.
- Công tác quy hoạch và bố trí sản xuất
Thực hiện phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa vào điều kiện tự nhiên
(khí hậu, độ cao tuyệt đối của địa hình, tính chất đất, khả năng thích hợp của
cây trồng đối với đất, nguồn nước và thực vật) làm cơ sở để phát triển hệ
thống cây trồng hợp lý, nhằm khai thác đất đai một cách đầy đủ, hợp lý, tạo

điều kiện thuận lợi để đầu tư thâm canh và tiến hành tập trung hóa, chuyên
môn hoá, hiện đại hoá nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác.
- Hình thức tổ chức sản xuất
Cần phát huy thế mạnh của các loại hình tổ chức sử dụng đất trong từng
cơ sở sản xuất, thực hiện đa dạng hoá các hình thức hợp tác trong nông
nghiệp, xác lập một hệ thống tổ chức sản xuất phù hợp và giải quyết tốt mối
quan hệ giữa các hình thức đó.
1.1.3.3. Nhóm các yếu tố xã hội
Ba yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến giá trị sử dụng đất là năng suất cây
trồng, hệ số quay vòng đất và thị trường cung cấp đầu vào và tiêu thụ sản
phẩm đầu ra.
- Thị trường là khâu quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh do đó
phải nghiên cứu cung cầu của một số sản phẩm hàng hoá trong không gian và
thời gian nhất định. Sản xuất nông nghiệp thì mỗi nơi lại có lợi thế so sánh về
một số loại nông sản khác nhau nên các cấp chính quyền có những định
hướng về thị trường cho các đơn vị sản xuất để các đơn vị sản xuất bán được


17
giá cao hơn góp phần nông cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất canh tác.
- Hệ thống chính sách là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả sử
dụng đất đai.
Chính sách đất đai của Việt Nam đã có những thành công nổi bật.
Những năm gần đây Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển
nông nghiệp trong đó có chính sách giao đất cho các cơ quan kinh tế, lực
lượng vũ trang nhân dân, tổ chức xã hội,… hộ gia đình, cá nhân sử dụng lâu
dài đã góp phần nâng cao trách nhiệm cho chủ sở hữu và quá trình sử dụng
bảo dưỡng cho đất được nâng lên.
- Các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp
của Nhà nước. Những kinh nghiệm, tập quán sản xuất nông nghiệp, trình độ

năng lực của các chủ thể kinh doanh, trình độ đầu tư đã tạo ra năng suất cây
trồng ngày càng tăng đem lại hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất đai và làm
tăng giá trị sản xuất trên một đơn vị diên tích canh tác.
1.1.4. Những nghiên cứu trong nước về nâng cao giá trị sử dụng đất nông
nghiệp
1.1.4.1. Tác động kỹ thuật nhằm tăng năng suất cây trồng
Ngay từ năm 1960, các nhà khoa học đã nghiên cứu đưa ra giống lúa
xuân ngắn ngày và tập đoàn cây vụ đông vào sản xuất, tạo ra sự kiện chuyển
biến rõ nét trong sản xuất ở đồng bằng sông Hồng. Sau đó, trong vài thập kỷ
trở lại đây, hàng năm ở nước ta đã đưa ra một số giống cây trồng mới có
năng suất cao vào sản xuất: giống lúa xuân số 5, số 6 cho năng suất đạt tới
65 - 70 tạ/ha. Giống ngô Bioseed; giống LVN10; LVN11,… đạt năng suất
trung bình 55 - 65 tạ/ha, nếu thâm canh tốt năng suất có thể đạt 80 - 90 tạ/ha.
Các giống cây thực phẩm như đỗ, đậu tương, lạc,…cũng được chú trọng
nghiên cứu để luân canh với ngô, lúa.
Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, giai đoạn 1963 - 1978
đã đưa ra hàng chục giống mới: lúa, ngô, đậu đỗ, khoai tây, khoai lang, mía,


18
chè, cam, quýt, vải,… Giai đoạn 1990 - 2004, có khoảng 105 giống, trong đó
55 giống thuộc 14 loại cây trồng đạt tiêu chuẩn Quốc gia: lúa, đậu tương, lạc,
khoai lang, khoai tây, khoai sọ, sắn,…có năng suất cao có khả năng chống
chịu sâu bệnh tốt đã được đưa vào sản xuất rộng rãi ở những vùng sinh thái góp
phần thay đổi cơ cấu mùa vụ, thâm canh nâng cao hiệu quả sử dụng đất [1].
1.1.4.2. Xây dựng hệ thống canh tác và mô hình sử dụng đất phù hợp với các vùng
Vấn đề luân canh, tăng vụ, chuyển vụ để sử dụng tốt hơn các điều kiện
về đất đai, khí hậu, thời tiết và nguồn lao động trong nông thôn… cũng được
nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Đối với đất trồng lúa vùng Đồng bằng sông
Hồng, dựa trên đánh giá hiện trạng và khả năng hiệu quả chuyển đổi theo tác

giả Bùi Thị Ngọc Dung sẽ chuyển từ 1 vụ lúa hoặc 2 vụ lúa bấp bênh sang
lúa - cá kết hợp với trồng cây ăn quả và chăn nuôi gia cầm. Với loại hình sử
dụng đất lúa hai vụ (vùng ven biển thuộc tỉnh Ninh Bình và Thái Bình)
chuyển sang trồng cói. Đất lúa 2 vụ ở các xã ven các đô thị lớn chuyển sang
trồng rau sạch, hoa và cây cảnh. Các huyện ven biển sẽ tăng diện tích nuôi
trồng thủy sản do chuyển từ đất lúa một vụ [5].
Nghiên cứu hệ thống - nông lâm nghiệp ở Trung du miền núi phía Bắc,
tác giả Lương Hồng Nguyên, Đặng Phúc và Bùi Xuân Phương đưa ra một số
hệ thống sản xuất nông nghiệp có ưu thế phát triển của vùng: hệ thống sản
xuất cây lâu năm với hệ thống canh tác chè, cây ăn quả; các hệ thống sản xuất
cây ngắn ngày: ngô, đậu tương và một số sản phẩm khác [3].
Các công trình có giá trị trên phạm vi cả nước phải kể đến công trình
nghiên cứu đánh giá tài nguyên đất Việt Nam [16], đánh giá hiện trạng sử
dụng đất theo quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền [7], phân vùng sinh
thái nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng [9]. Những nghiên cứu này giúp
người sản xuất có những hiểu biết và kiến thức để đưa ra được những quyết
định, lựa chọn đúng đắn trong các hoạt động nông nghiệp.
Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ đã xuất hiện nhiều mô hình luân canh cây


19
trồng 3 - 4 vụ một năm đạt hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt ở các vùng sinh thái
ven đô, tưới tiêu chủ động đã có những điển hình về chuyển đổi hệ thống cây
trồng trong việc bố trí lại và đưa vào những cây trồng có giá trị kinh tế cao
như: hoa, cây thực phẩm cao cấp đạt hiệu quả cao.
Có thể nhận thấy những nghiên cứu sâu về đất và sử dụng đất ở trên là
những cơ sở cần thiết và có ý nghĩa quan trọng cho các định hướng sử dụng
và bảo vệ đất cũng như xác định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.
Bên cạnh việc nghiên cứu đưa ra các giống cây trồng mới vào sản xuất thì

các nhà khoa học còn tìm các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp dựa vào việc nghiên cứu đưa ra các công thức luân canh mới bằng các
phương pháp đánh giá hiệu quả của từng giống cây trồng, từng công thức luân
canh. Từ đó các công thức luân canh mới tiến bộ hơn được cải tiến để khai thác
ngày một tốt hơn tiềm năng đất đai.
Các đề tài nghiên cứu do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ
trì đã tiến hành nghiên cứu hệ thống cây trồng trên các vùng sinh thái khác
nhau như vùng miền núi, vùng trung du và vùng đồng bằng nhằm đánh giá
hiệu quả cây trồng trên từng vùng đất đó. Từ đó định hướng cho việc khai
thác tiềm năng đất đai của từng vùng sao cho phù hợp với quy hoạch chung
của nền nông nghiệp cả nước, phát huy tối đa lợi thế so sánh của từng vùng.
Vấn đề luân canh tăng vụ, trồng gối, trồng xen nhằm sử dụng nguồn lợi
đất đai, khí hậu để bố trí hệ thống cây trồng thích hợp cũng được nhiều nhà
nghiên cứu đề cập [5].
Bên cạnh việc nghiên cứu đưa ra các giống cây trồng mới vào sản
xuất thì các nhà khoa học còn tìm các biện pháp nâng cao hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp dựa vào việc nghiên cứu đưa ra các công thức luân
canh mới bằng các phương pháp đánh giá hiệu quả của từng giống cây
trồng, từng công thức luân canh. Từ đó các công thức luân canh mới tiến


20
bộ hơn được cải tiến để khai thác ngày một tốt hơn tiềm năng đất đai .
1.2. Kinh nghiệm sử dụng đất và nâng cao giá trị sử dụng đất nông
nghiệp trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Kinh nghiệm sử dụng đất và nâng cao giá trị sử dụng đất nông nghiệp
trên thế giới
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế nông nghiệp của các nước đó
gắn phương thức sử dụng đất truyền thống với phương thức hiện đại và
chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá nông nghiệp. Các nước Châu Á

trong quá trình sử dụng đất canh tác đó rất chú trọng đẩy mạnh công tác thuỷ
lợi, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, phân bón, các công thức luân
canh tiến bộ để ngày càng nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Nhưng
để đạt được hiệu quả thì một phần phải nhờ vào công nghiệp chế biến, gắn sự
phát triển công nghiệp với bảo vệ môi sinh - môi trường.
Ở Châu Á những năm đầu của thập kỷ 70 nhiều vùng đã đưa các cây
trồng cạn vào hệ thống cây trồng trên đất lúa làm tăng hiệu quả sử dụng đất.
Nông nghiệp Ấn Độ thực hiện sự chuyển dịch từ cây trồng truyền thống kém
hiệu quả sang cây trồng có hiệu quả cao bằng cách trồng mía thay cho lúa gạo
và lúa mì, trồng đậu tương thay cho cao lương ở vùng đất đen, trồng cây lúa ở
vùng có mạch nước ngầm cao thay cho cây lấy hạt có dầu, bông và đậu đỗ [18].
Gần đây, vấn đề khai thác đất gò đồi đã đạt được những thành tựu đáng
kể ở một số nước trên thế giới. Hướng khai thác chủ yếu trên đất gò đồi là đa
dạng hóa cây trồng, kết hợp trồng cây hàng năm với cây lâu năm, trồng rừng
với cây nông nghiệp trên cùng một vạt đất dốc [26].
1.2.1.1. Trung Quốc
Theo kinh nghiệm của Trung Quốc thì việc khai thác và sử dụng đất là
yếu tố quyết định để phát triển kinh tế - xã hội nông thôn toàn diện. Chính
phủ Trung Quốc đã đưa ra các chính sách quản lý sử dụng đất đai ổn định,
chế độ sở hữu, giao đất cho nông dân sử dụng, thiết lập hệ thống trách nhiệm


21
và tính chủ động sáng tạo của nông dân trong sản xuất đó thúc đẩy kinh tế xã
hội nông thôn phát triển toàn diện về mọi mặt và nâng cao được hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp [23]. Trung Quốc đã đưa ra các chính sách quản lý và sử
dụng đất đai ổn định, giao đất cho nông dân sử dụng, thiết lập hệ thống trách
nhiệm và tính tự chủ sáng tạo của nông dân trong sản xuất trên phạm vi cả nước.
Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nông thôn “ly nông bất ly hương” [21]
đã thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn Trung Quốc toàn diện và nâng

cao hiệu quả sử dụng đất trong nông nghiệp. Theo Triệu Quốc Kỳ, ở Trung
Quốc trên đất lúa 2 vụ ở vùng phía Nam thường được canh tác 2 hoặc 3 vụ với
hệ thống cây trồng: Lúa - Lúa mì - Khoai tây hoặc Lạc - đậu tương - Lúa mì, đây
là các công thức mang lại hiệu quả cao được nhiều nơi áp dụng.
1.2.1.2. Thái Lan
Ở Thái Lan, Uỷ ban chính sách Quốc gia đã có nhiều nhiều quy chế
mới ngoài hợp đồng cho tư nhân thuê đất dài hạn, cấm trồng những cây không
thích hợp với đất nhằm quản lý và bảo vệ đất tốt hơn [13]. Từ năm 1975, Thái
Lan đã thực thi chính sách đất đai, quy định mức hạn điền 8 ha với trồng trọt
và 16 ha đối với đất chăn nuôi. Đến năm 1998, Luật đất đai bổ sung quy định
đất đai ổn định và không ổn định, tạo điều kiện cho dân yên tâm sản xuất, góp
phần đưa Thái Lan đã trở thành nước đứng đầu trong xuất khẩu gạo, sản xuất
cao su và đánh bắt cá ngừ [21].
1.2.1.3. Inđônêxia
Ở Inđônêxia, Luật đất đai ghi rõ người dân có quyền sử dụng trong 10
năm, quyền sở hữu không được vĩnh viễn khi Nhà nước có nhu cầu xây dựng
công trình công cộng. Các chương trình bảo vệ đất cũng đã được thực hiện
nhằm bảo vệ các vùng đất bậc thang và trồng cây theo đường đồng mức.
Ngoài ra, Chính phủ ưu tiên hàng đầu cho chương trình phát triển lương thực
nhằm tìm ra các giống cây trồng lương thực, cây đậu đỗ phù hợp với đặc điểm
điều kiện tự nhiên của từng vùng sinh thái. Kết quả là đã tạo được một số


22
giống ngô có năng suất cao chất lượng tốt, ví dụ: giống ngô trắng Bague có
thời gian sinh trưởng 90 ngày, năng suất đạt 4 - 5 tấn/ha so với giống ngô cũ
chỉ đạt 1 - 2 tấn/ha; hoặc cây lúa Miến là loại cây có giá trị dinh dưỡng cao,
làm thức ăn cho người và gia súc có năng suất đạt 3,5 tấn/ha có thể trồng tái
giá, sức chống chịu sâu bệnh tốt với đầu tư chi phí thấp [14].
1.2.1.4. Philippin

Ở Philippin từ năm 1974 - 1975 các nhà khoa học của Trung tâm phát
triển đời sống nông thôn tại Mindanao, đã tiến hành các thí nghiệm về việc sử
dụng bằng hàng rào xanh chống xói mòn trên đất dốc, đó là kỹ thuật canh tác
trên đất dốc (viết tắt là SALT). Mô hình SALT bao gồm nhiều dạng SALT1,
SALT2, SALT3, SALT4. Kỹ thuật này đã tăng độ che phủ, hạn chế xói mòn,
làm giàu đất và nâng cao năng suất cây trồng từ 2 - 3 lần so với canh tác
truyền thống [17]. Thực hiện phương thức canh tác trên đất dốc theo hướng
chuyển đổi hệ thống cây trồng, đa dạng hoá cây trồng, kết hợp trồng cây hàng
năm và cây lâu năm, trồng rừng đã góp phần bảo vệ được môi trường sinh
thái, chống xói mòn và nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất so với các
phương thức canh tác trước đây.
Hiện nay, xu hướng chung các nhà khoa học trên thế giới đang nỗ lực
nghiên cứu sử dụng đất có hiệu quả kinh tế kết hợp với hiệu quả xã hội, môi
trường ở hiện tại và trong tương lai. Thành tựu trong lĩnh vực này phải kể đến
các công trình nghiên cứu sử dụng đất dốc, đất gò đồi để sản xuất lương thực
thực phẩm và sản phẩm khác dựa trên cơ sở xác định hệ thống cây trồng (cây
hàng năm, cây lâu năm) với mô hình canh tác phù hợp.
Xu hướng chung trên thế giới là tập trung mọi nỗ lực nghiên cứu cải
tiến hệ thống cây trồng trên những vùng đất bằng cách đưa thêm một số loại
cây trồng vào hệ thống canh tác nhằm tăng sản lượng lương thực, thực phẩm
trên một đơn vị diện tích trong một năm [28].
Các nhà khoa học trên thế giới đều cho rằng: đối với các vùng nhiệt đới


×