Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Giải pháp giải quyết việc làm cho lao động khu vực nông thôn trên địa bàn huyện cẩm khê, tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
------------------------

NGUYỄN THỊ TÂM

GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
KHU VỰC NÔNG THÔN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CẨM KHÊ,
TỈNH PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Hà Nội, 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
------------------------

NGUYỄN THỊ TÂM

GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
KHU VỰC NÔNG THÔN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CẨM KHÊ,
TỈNH PHÚ THỌ


Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã Số: 60620115

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. LÊ TRỌNG HÙNG

Hà Nội, 2013


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việc làm cho người lao động là một trong những vấn đề được quan tâm hàng
đầu trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia nhằm hướng
tới sự phát triển bền vững. Giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động vừa
tạo điều kiện cho người lao động có công ăn việc làm, có thu nhập, nuôi sống bản
thân, gia đình, vừa là yếu tố đảm bảo bảo trật tự an ninh xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho
nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm,
được ấm no và được sống một đời hạnh phúc” Tư tưởng của Người luôn là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về giải
quyết việc làm cho người lao động.
Việt Nam là một quốc gia có truyền thống sản xuất nông nghiệp, lực lượng
lao động khu vực nông thôn chiếm phần lớn trong tổng số lao động. Với đặc điểm
sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cho nên dư thừa một lượng lớn thời gian
lao động trong khu vực nông thôn. Mặt khác, do tác động của quá trình đô thị hóa
diễn ra với tốc độ nhanh trên một số vùng của đất nước dẫn đến tình trạng mất cân

đối về cung, cầu lao động giữa nông thôn và thành thị. Chính vì vậy, mỗi năm có
hàng trăm nghìn lao động phổ thông từ các vùng nông thôn đổ xô ra thành phố, thị
xã tìm việc làm. Các “chợ lao động” tự phát xuất hiện ở một số đường phố ngày
càng nhiều.
Bên cạnh đó tỷ lệ dân số tăng dần hàng năm, đó chính là những thế mạnh
trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bản thân nó lại tạo nên sức
ép trong GQVL cho toàn xã hội.
Trên thực tế, trong những năm qua và hiện nay Đảng, Nhà nước ta đã có
nhiều chính sách tạo việc làm cho lao động ở nông thôn như: Chương trình xoá đói
giảm nghèo; Chương trình 134, 135; Chương trình vốn vay GQVL; Chương trình
giảm nghèo nhanh và bền vững cho 62 huyện nghèo trên phạm vi cả nước; Chương
trình đào tạo nghề cho lao động khu vực nông thôn đến năm 2020…Tuy nhiên, với


2

yêu cầu cao của phát triển kinh tế và quá trình hội nhập đang đặt ra thì GQVL cho
lao động ở nông thôn còn nhiều bất cập, không được như mong muốn: Số lượng vị
trí việc làm chưa đáp ứng nhu cầu, còn thiếu cân đối giữa các vùng, miền; còn nhiều
hạn chế trong đào tạo nghề cho lao động khu vực nông thôn, nhiều chính sách chưa
đến tận người lao động,...
Thất nghiệp, thiếu việc làm đang và sẽ diễn biến rất phức tạp, cản trở quá
trình vận độngvà phát triển kinh tế của đất nước vì vậy giải quyết việc làm cho
người lao động ở nông thôn là vấn đề nóng bỏng, cấp thiết cho từng ngành, địa
phương và từng gia đình. Tạo điều kiện cho người lao động có việc làm, một mặt,
nhằm phát huy tiềm năng lao động, nguồn lực to lớn ở nước ta cho sự phát triển
kinh tế - xã hội, mặt khác, là hướng cơ bản để xoá đói, giảm nghèo có hiệu quả, là
cơ sở để cải thiện và nâng cao đời sống cho nhân dân, góp phần quan trọng giữ
vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo động lực mạnh mẽ thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Cẩm Khê là huyện miền núi có diện tích đất nông nghiệp tương đối lớn, dân
số đông thứ 3 trong số các huyện của tỉnh Phú Thọ, toàn huyện có 31 xã, thị trấn,
có đường quốc lộ 32 đi qua khu vực nông nghiệp, nông thôn chiếm tỷ trọng lớn với
sản xuất nông nghiệp lúa nước là chủ yếu. Tỷ trọng dân số, lao động và diện tích đất
đai trong khu vực nông nghiệp nông thôn chiếm tỉ lệ cao, vì thế việc tìm kiếm các
giải pháp hữu hiệu để sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động, chuyển dịch cơ cấu
lao động, GQVL cho người lao động ở khu vực nông thôn trên địa bàn huyện Cẩm
Khê, Phú Thọ là một vấn đề đòi hỏi cấp thiết và mang ý nghĩa thiết thực.
Nhận thấy được tính chất phức tạp, quan trọng của vấn đề GQVL ở nông
thôn, tôi chọn vấn đề nghiên cứu “Giải pháp giải quyết việc làm cho lao động khu
vực nông thôn trên địa bàn huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ” làm đề tài luận văn
thạc sỹ của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu tổng quát


3

Đề xuất giải pháp chủ yếu góp phần giải quyết việc làm (GQVL) cho lao
động khu vực nông thôn huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ.
2.2. Mục tiêu cụ thể
(1) Hệ thống hóa được cơ sở lý luận và thực tiễn về GQVL cho lao động khu
vực nông thôn;
(2) Đánh giá được thực trạng công tác GQVL cho lao động khu vực nông
thôn trên địa bàn huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ ;
(3) Đề xuất được các giải pháp tạo việc làm cho lao động khu vực nông hôn
trên địa bàn Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ.
3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
(1) Thực trạng lao động, việc làm và thu nhập của lao động khu vực nông
thôn giai đoạn 2010-2012 như thế nào?

(2) Các yếu tố nào làm ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập của lao động khu
vực nông thôn trong thời gian qua?
(3) Các chính sách và thể chế gì cần đề xuất để GQVL cho lao động khu vực
nông thôn?
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Việc làm và thu nhập của lao động khu vực nông thôn trên địa bàn Cẩm
Khê, tỉnh Phú Thọ .
- Đối tượng khảo sát:
+ Lực lượng lao động khu vực nông thôn trên địa bàn;
+ Các tổ chức sử dụng lao động trên địa bàn;
+ Các cơ quan quản lý về lao động việc làm trên địa bàn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc
làm và thu nhập của người lao động khu vực nông thôn trên địa bàn huyện Cẩm
Khê, tỉnh Phú Thọ .


4

- Phạm vi về không gian: Huyện Cẩm Khê và các xã của huyện Cẩm Khê,
tỉnh Phú Thọ .
- Phạm vi về thời gian: Được nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2010 đến
năm 2012.
5. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
(1) Nghiên cứu cơ sở lý luận về GQVL cho lao động khu vực nông thôn;
(2) Nghiên cứu thực trạng GQVL cho lao động khu vực nông thôn của Cẩm
Khê, Phú Thọ;
(3) Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả GQVL cho lao động khu
vực nông thôn tại Cẩm Khê, Phú Thọ ;

(4) Nghiên cứu đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp chủ yếu
GQVL cho lao động khu vực nông thôn tại Cẩm Khê, Phú Thọ.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về GQVL ở nông thôn.
Chương 2: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu.


5

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM Ở NÔNG THÔN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN
1.1.1. Cơ sở lý luận cơ bản về việc làm
1.1.1.1. Khái niệm về việc làm

Con người là động lực, động cơ, trung tâm của sự phát triển xã hội, với
nguồn lực của mình là chí lực và sức lực ,con người chỉ có thể tham gia đóng
góp cho sự phát triển xã hội thông qua quá trình làm việc của mình , quá trình
làm việc này được thể hiện qua hai yếu tố chủ quan và khách quan đó là sức
lao động của người lao động và tất cả các điều kiện tối thiểu cần thiết để
người lao động sử dụng sức lao động của họ tác động lên tư liệu sản xuất và
tạo ra sản phẩm xã hội. Quá trình kết hợp sức lao động và các điều kiện cần
thiết để sử dụng sức lao động là quá trình người lao động làm việc. Quá trình
lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao động trong công việc.[19]
Theo bộ luật lao động thì : "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu
nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm ." [15]
Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội,

phụ thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản xuất. Một người lao động có
việc làm khi người ấy chiếm được một vị trí nhất định trong hệ thống sản xuất
của xã hội. Thông qua việc làm để người ấy thực hiện quá trình lao động tạo
ra sản phẩm và thu nhập của người ấy.
Mỗi một hình thái xã hội, mỗi giai đoạn phát triển kinh tế xã hội thì khái
việc làm được hiểu theo những khía cạnh khác nhau.Trước đây người ta cho
rằng chỉ có việc làm trong các xí nghiệp quốc doanh và trong biên chế nhà
nước thì mới có việc làm ổn định, còn việc làm trong các thành phần kinh tế
khác thì bị coi là không có việc làm ổn định.Với nhưỡng quan điểm đó nên họ
cố gắng xin vào làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp này. Nhưng hiện nay


6

quan điểm ấy không tồn tại nhiều trong số những người đi tìm việc làm.
Những người này sẵn sàng tìm bất cứ công việc gì, ở đâu, thuộc thành phần
kinh tế nào cũng được miễn là hành động lao động của họ được nhà nước
khuyến khích không ngăn cấm và đem lại thu nhập cao cho họ là được.
Như chúng ta đã biết hai phạm trù việc làm và lao động có liên quan với
nhau và cùng phản ánh một loại lao động có ích của một người, nhưng hai
phạm trù đó hoàn toàn không giống nhau vì: Có việc làm thì chắc chắn có lao
động nhưng ngược lại có lao động thì chưa chắc đã có việc làm vì nó phụ
thuộc vào mức độ ổn định của công việc mà người lao động đang làm.
Từ khái niệm trên có thể hiểu việc làm là tác động qua lại giữa hành động
của con người với những điều kiện vật chất - kỹ thuật và môi trường tự nhiên, tạo ra
giá trị vật chất và tinh thần mới cho bản thân và xã hội, đồng thời những hoạt động
phải trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Nói cách khác việc làm là tổng thể các
hoạt động kinh tế có liên quan đến thu nhập và đời sống của dân cư.
Theo khái niệm do Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đưa ra thì việc làm
được quan niệm là những hoạt động tạo ra nguồn thu nhập và không trái với pháp

luật.
Trước đây ở Việt Nam, trong cơ chế kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp,
người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là
người làm việc trong thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (Quốc doanh, tập thể).
Theo cơ chế đó, xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành phần kinh tế khác và
cũng không thừa nhận thiếu việc làm, thất nghiệp.
Ngày nay, ở Việt Nam các quan niệm về việc làm đã được hiểu rộng hơn,
đúng đắn và khoa học hơn, đó là các hoạt động của con người nhằm tạo ra thu nhập,
mà không bị pháp luật cấm. Điều 13, Chương II Bộ Luật Lao động được Quốc hội
thông qua ngày 23/6/1994 quy định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu
nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.[15]
Có thể phân loại việc làm thành 3 dạng :[14]


7

- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc bằng
hiện vật cho công việc đó, nói cách khác là các công việc làm thuê.
- Tự làm các công việc hoặc tổ chức làm để tạo ra thu nhập, lợi nhuận cho
bản thân, bao gồm hoạt động nông nghiệp trên đất do chính thành viên đó sở hữu,
quản lý hay có quyền sử dụng hoặc hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp do chính
thành viên đó làm chủ toàn bộ hoặc một phần. Nói cách khác là bỏ vốn kinh doanh.
- Làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao
dưới hình thức tiền công, tiền lương cho công việc đó, bao gồm sản xuất nông
nghiệp trên đất do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ sở hữu, quản lý hay có
quyền sử dụng hoặc hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành
viên trong hộ làm chủ hoặc quản lý.
Tóm lại, từ những khái niệm trên, trong điều kiện hiện nay có thể hiểu việc
làm như sau: Việc làm là hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, tạo thu
nhập hoặc lợi ích cho bản thân gia đình người lao động hoặc cho một cộng đồng

nào đó.
1.1.1.2. Người có việc làm
Với cách hiểu chung nhất là người có việc làm là người đang có hoạt động
nghề nghiệp , có thu nhập từ hoạt động đó để nuôi sống bản thân và gia đình mà
không bị pháp luật ngăn cấm. Tuy nhiên việc xác định số người có việc làm theo
khái niệm trên chưa phản ánh trung thực trình độ sử dụng lao động xã hội vì không
đề cập đến chất lượng của công việc làm. Trên thực tế nhiều người lao động đang
có việc làm nhưng làm việc nửa ngày, việc làm có năng suất thấp thu nhập cũng
thấp. Đây chính là sự không hợp lý trong khái niệm người có việc làm và cần được
bổ xung với ý nghĩa đầy đủ của nó đó là việc làm đầy đủ .
Việc làm đầy đủ căn cứ trên hai khía cạnh chủ yếu đó là: Mức độ sử dụng thời
gian lao động , năng suất lao động và thu nhập . Mọi việc làm đầy đủ đòi hỏi người
lao động phải sử dụng đầy đủ thời gian lao động theo luật định ( Việt nam hiện nay
qui định 8 giờ một ngày ) mặt khác việc làm đó phải mang lại thu nhập không thấp


8

hơn mức tiền lương tối thiểu cho người lao động (Nước ta hiện nay qui định mức
lương tối thiểu cho một người lao động trong một tháng là :1.150.000 đ).
Vậy với những người làm việc đủ thời gian qui định và có thu nhập lớn hơn
tiền lương tối thiểu hiện hành là những người có việc làm đày đủ.
1.1.1.3. Thiếu việc làm
- Người thiếu việc làm gồm những người trong tuần lễ có tổng số giờ làm
việc dưới 40 giờ hoặc có số giờ làm việc ít hơn giờ quy định đối với các công việc
theo quy định hiện hành của Nhà nước. Họ có nhu cầu làm thêm giờ và sẵn sàng
làm việc nhưng không có việc để làm, hoặc họ có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm
việc nhưng không tìm được việc làm.
- Phân loại:


- Thiếu việc làm vô hình: Là những người có đủ việc làm làm đủ thời
gian, thậm chí còn quá thời gian qui định nhưng thu nhập thấp do tay nghề, kỹ
năng lao động thấp, điều kiện lao động xấu, tổ chức lao động kém, cho năng
suất lao động thấp thường có mong muốn tìm công việc khác có mức thu
nhập cao hơn.
Thiếu việc làm hữu hình: Là hiện tượng người lao động làm việc với thời
gian ít hơn quỹ thời gian qui định, không đủ việc làm và đang có mong muốn
kiếm thêm việc làm và luôn sẵn sàng để làm việc.
Thược đo của thiếu việc làm hữu hình là:

K

=

Số giờ làm việc thực tế
Số giờ quy định

x

100%

1.1.1.4. Thất nghiệp
- Theo "Thực trạng lao động việc làm" của Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội: “Người thất nghiệp là những người thuộc lực lượng lao động có khả năng
lao động trong trong tuần lễ điều tra không có việc làm, có nhu cầu về việc làm
nhưng không tìm được việc làm”.[24]


9


- Theo khái niệm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “Thất nghiệp (theo
nghĩa chung nhất) là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao động
muốn có việc làm nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công nhất định.
Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, không có
việc làm và đang có nhu cầu tìm việc làm” [16].
Như vậy, những người thất nghiệp tất yếu họ phải thuộc lực lượng lao động
hay dân số hoạt động kinh tế. Một người thất nghiệp phải có 3 điều kiện: Đang
mong muốn và tìm việc làm; Có khả năng làm việc; Hiện đang chưa có việc làm.
Với cách hiểu như thế, không phải bất kỳ ai có sức lao động nhưng chưa làm
việc đều được coi là thất nghiệp. Do đó một tiêu thức quan trọng để xem xét một
người được coi là thất nghiệp thì phải biết được người đó có muốn đi làm hay
không. Bởi lẽ, trên thực tế nhiều người có sức khoẻ, có nghề nghiệp song không có
nhu cầu làm việc, họ sống chủ yếu dựa vào “nguồn dự trữ” như kế thừa của bố mẹ,
nguồn tài trợ.
1.1.1.5. Tạo việc làm:

Tạo việc làm cho người lao động là một công việc hết sức khó khăn và
nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: Vốn đầu tư , sức lao động , nhu cầu
thị trường về sản phẩm .
Bởi vậy tạo việc làm là quá trình kết hợp các yếu tố trên thông qua nó để
người lao động tạo ra các của cải vật chất (số lượng, chất lượng), sức lao động
(tái sản xuất sức lao động) và các điều kiện kinh tế xã hội khác
Ta có thể biểu thị mối quan hệ giữa việc làm với một số nhân tố cơ bản.
Số lượng việc làm được tạo ra phụ thuộc vào sực lao động nhu cầu về thị
trường số vốn mà họ đầu tư
Ta nhận thấy rằng: Khối lượng của việc làm được tạo ra tỉ lệ thuận với các
yếu tố trên. Chẳng hạn như vốn đầu tư để mua sắm thiết bị máy móc, nhà xưởng mở
rộng quy mô sản xuất là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn. Khi vốn đầu tư tăng thì tạo



10

ra được nhiều chỗ làm việc mới và ngược lại đầu tư ít thì quy mô bị thu nhỏ lại kéo
theo sự giảm đi về số lượng việc làm được tạo ra.
Tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào làm việc để tạo
ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra hàng hóa và dịch
vụ theo yêu cầu thị trường.
Thị trường lao động chỉ có thể được hình thành khi người lao động và người
sử dụng lao động gặp gỡ trao đổi đi đến nhất trí vấn đề sử dụng sức lao động. Do
vậy vấn đề tạo việc làm phải được nhìn nhận ở cả người lao động và người sử dụng
lao động. Người sử dụng lao động là người chủ yếu tạo ra chỗ làm việc cho người
lao động, bao gồm các Doanh nghiệp có vốn đầu tư trong và ngoài nước, các cơ sở
SXKD,... Để có quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động
phải có những điều kiện nhất định. Đó là người sử dụng lao động cần phải có vốn,
công nghệ, kinh nghiệm, thị trường tiêu thụ,… Còn người lao động phải có sức
khỏe trình độ, chuyên môn, kinh nghiệm phù hợp với công việc của mình.
Để có việc làm, được trả công theo ý muốn của mình thì người lao động phải
học hỏi, trau dồi kiến thức cho mình để theo kịp sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật.
Ngoài ra người lao động phải luôn tự đi tìm việc làm phù hợp với mình để đem lại
thu nhập cho gia đình. Trong vấn đề này, Nhà nước có vai trò quản lý quan hệ lao
động bằng các chính sách khuyến khích động viên nhằm đem lại lợi ích cho cả hai
bên. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho cả người lao động và người sử dụng lao
động để họ phát huy tối đa năng lực của mình.
Hiện nay, việc đầu tư của Nhà nước cũng như của tư nhân chủ yếu tập trung
ở thành thị và các KCN vì ở những nơi này sản xuất tạo ra tỷ suất lợi nhuận cao hơn
và có khả năng liên kết với nhau hơn. Chính vì điều này sẽ gây ra hiện tượng người
lao động từ nông thôn ra thành thị và cũng làm tăng tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn,
do đó cần phải có chính sách tạo việc làm phù hợp cho cả người lao động ở thành
thị và nông thôn.
1.1.1.6. Giải quyết việc làm

GQVL là tạo ra các cơ hội để người lao động có việc làm và tăng thu nhập,


11

phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội. GQVL cần phải
xem xét cả từ ba phía: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
GQVL theo nghĩa rộng là tổng thể những biện pháp, chính sách kinh tế - xã
hội của Nhà nước, cộng đồng và bản thân người lao động tác động đến mọi mặt của
đời sống xã hội để đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động và được lao động.
GQVL theo nghĩa hẹp là các biện pháp, chính sách chủ yếu hướng vào đối
tượng thất nghiệp, chưa có việc làm hoặc thiếu việc làm nhằm tạo việc làm cho
người lao động, để giảm tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm.
Khái niệm GQVL rộng hơn khái niệm tạo việc làm. Trong phạm trù GQVL,
ngoài nội dung tạo việc làm (như đã đề cập ở trên), còn có nội dung môi giới việc
làm. Môi giới việc làm về thực chất là hoạt động nhằm giúp người lao động đang
tìm việc làm và chủ sử dụng lao động đang cần tuyển lao động dễ dàng gặp nhau,
qua đó giúp người lao động dễ dàng tìm được việc làm. Xuất khẩu lao động và
chuyên gia về thực chất cũng là một hoạt động môi giới việc làm.
1.1.1.7. Vai trò của việc làm đối với người lao động ở nông thôn
Khi giải quyết được việc làm cho lao động khu vực nông thôn sẽ:
- Có điều kiện nâng cao mức sống của người dân, đây là điều kiện phát triển
kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế ở nông thôn, là điều kiện quan trọng hình thành
nguồn nhân lực có chất lượng cao cung cấp cho nền kinh tế quốc dân.
- Nâng cao mức sống của cư dân nông thôn là điều kiện quan trọng để ổn
định xã hội, phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
- Ngăn chặn được dòng người di cư tự do từ nông thôn ra thành thị, ổn định
kinh tế xã hội ở cả nông thôn và thành thị.
1.1.1.8. Một số loại hình việc làm đặc trưng ở khu vực nông thôn
- Việc làm thuần nông: Việc làm thuần nông là những việc làm đặc trưng và

mang tính phổ biến của khu vực nông thôn. Ở nước ta, việc làm thuần nông bao
gồm trồng trọt và chăn nuôi. Trồng trọt và chăn nuôi là hai công việc chính, chiếm
hầu hết thời gian trong năm của người nông dân và cũng là nguồn thu chính để nuôi
sống bản thân và gia đình của họ.


12

- Việc làm phi nông nghiệp: Việc làm phi nông nghiệp bao gồm các ngành
nghề ngoài nông nghiệp nhưng gắn chặt với nông nghiệp, chẳng hạn như: Sơ chế,
chế biến các sản phẩm nông, lâm, thủy sản, các hoạt động gia công cơ khí, sửa chữa
các vật tư nông nghiệp, các hoạt động vận tải và các dịch vụ có liên quan. Bên cạnh
đó việc làm phi nông nghiệp còn bao gồm các ngành nghề mới như: Mây tre đan,
đan nón, nghề mộc … So với việc làm thuần nông, việc làm phi nông nghiệp mang
lại thu nhập cao và khá ổn định cho lao động ở khu vực nông thôn, góp phần giải
quyết bài toán việc làm ở khu vực nông thôn, đặc biệt là bộ phận lao động nông
nhàn.
1.1.2. Cơ sở lý luận cơ bản về lao động
1.1.2.1. Khái niệm về lao động
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm lao động, nhưng suy cho
cùng lao động là hoạt động đặc thù của con người, phân biệt con người với con vật
và xã hội loài người và xã hội loài vật. Bởi vì, khác với con vật, lao động của con
người là hoạt động có mục đích, có ý thức tác động vào thế giới tự nhiên nhằm cải
biến những vật tự nhiên thành sản phẩm phục vụ cho nhu cầu đời sống của con
người. Theo C.Mác “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và
tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm
trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên” [2]
Ph.Ăng-ghen viết: “Khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi của cải.
Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cung cấp những vật liệu
cho lao động đem biến thành của cải. Nhưng lao động còn là một cái gì vô cùng lớn

lao hơn thế nữa, lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài
người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao
động đã sáng tạo ra bản thân loài người”.[5]
1.1.2.2. Lực lượng lao động
Theo quan niệm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) là bộ phận dân số
trong độ tuổi lao động theo thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp.


13

Theo giáo trình Kinh tế phát triển, trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội
(2005), ở nước ta hiện nay thường sử dụng khái niệm sau: “Lực lượng lao động là
bộ phận dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người thất nghiệp”. Lực
lượng lao động theo quan niệm như trên là đồng nghĩa với dân số hoạt động kinh tế
(tích cực) và nó phản ánh khả năng thực tế về cung ứng lao động của xã hội.
1.1.2.3. Nguồn lao động
Theo giáo trình Kinh tế phát triển của trường Đại học Kinh tế quốc dân
(2005) đưa ra khái niệm: “Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động
theo quy định của pháp luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao
động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang làm việc
trong các ngành kinh tế quốc dân”.
Ở mỗi quốc gia khác nhau thì việc quy định độ tuổi lao động là khác nhau,
thậm chí khác nhau ở các giai đoạn của mỗi nước. Điều đó tuỳ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế. Ở nước ta, theo quy định của Bộ Luật Lao động (2002), độ tuổi
lao động đối với nam từ 15-60 tuổi và nữ là từ 15-55 tuổi. [15]
1.1.2.4. Sức lao động:
Sức lao động là toàn bộ thể lực, trí lực và tâm lực tồn tại trong con người và
có khả năng bỏ ra để hoàn thành công việc trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất
định.[12]
1.1.2.5. Năng suất lao động

Năng suất lao động là sức sản xuất của lao động cụ thể có ích. Nói lên kết
quả hoạt động của con người trong một đơn vị thời gian nhất định. Năng suất lao
động được đo bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian; hoặc
bằng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Năng suất lao động được xác định bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong
một thời gian lao động. Công thức tính:
W
Trong đó:

=

Q
T


14

W: Là số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hay là
năng suất lao động, thường được biểu diễn dưới dạng chỉ tiêu kép: Hiện vật, thời
gian hay giá trị thời gian.
Q: Là khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong một thời gian nhất định.
T: Là tổng thời gian hao phí để sản xuất ra Q sản phẩm.
1.1.2.6. Lao động khu vực nông thôn
Lao động khu vực nông thôn là bộ phận dân số trong và ngoài độ tuổi lao
động, thuộc khu vực nông thôn, có khả năng lao động và có nhu cầu lao động.
Đặc điểm cơ bản của lao động khu vực nông thôn:
- Trình độ thể lực hạn chế do kinh tế kém phát triển, mức sống thấp. Điều
này ảnh hưởng đến năng suất lao động và phát triển kinh tế.
- Trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật cũng như trình độ tiếp cận thị trường
thấp. Đặc điểm này cũng ảnh hưởng đến khả năng tự tạo việc làm của lao động.

- Lao động khu vực nông thôn nước ta còn mang nặng tư tưởng và tâm lý tiểu nông,
sản xuất nhỏ, ngại thay đổi nên thường bảo thủ và thiếu năng động.
1.1.3. Cơ sở lý luận cơ bản về nông thôn
1.1.3.1. Khái niệm, đặc điểm của nông thôn
* Khái niệm: Nông thôn là vùng khác với thành thị ở chỗ ở đó có cộng đồng
chủ yếu là nông dân sinh sống và làm việc, mật độ dân cư thấp, cơ cấu hạ tầng kém
phát triển hơn, trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hóa thấp hơn.[13]
* Đặc điểm nông thôn: Nông thôn nước ta hiện có 60,96 triệu người, chiếm
69,4% dân số cả nước (theo số liệu Tổng cục Thống kê năm 2011).[18] Đây thực
sự là một lực lượng lao động bị chi phối lớn trong ngành sản xuất vật chất.
Nói đến nông thôn là nói đến nông dân, những người hoạt động sản xuất
nông-lâm nghiệp. Như vậy, nông dân là tầng lớp đông đảo nhất sinh sống và làm
việc ở nông thôn. Nông dân Việt Nam cũng như nông dân trên thế giới là lực lượng
sản xuất trực tiếp ra lương thực, thực phẩm cho nhân loại.
Xuất phát từ đặc điểm nông thôn nước ta trải dài khắp lãnh thổ, địa lý và
điều kiện tự nhiên khác nhau mà sự phân bố dân cư và mật độ dân cư khác nhau.


15

Việc dân cư phân tán, phân bố không đồng đều là những trở ngại trong phát triển
kinh tế xã hội và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân.
Như vậy, những đặc điểm khác nhau về địa lý, địa hình, về điều kiện tự
nhiên, văn hóa xã hội mà nông thôn, nông dân nước ta có những nét đặc trưng riêng
trong phát triển kinh tế xã hội.
1.1.3.2. Vai trò của nông thôn
- Nông thôn là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm cho nhu cầu thiết yếu của
xã hội, là cơ sở cho sự phát triển của phân công lao động xã hội;
- Nông thôn là nơi cung cấp nguồn nhân lực chủ yếu cho phát triển kinh tế xã hội;
- Nông thôn là nơi cung cấp nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp

nhẹ và công nghiệp chế biến;
- Nông thôn là thị trường rộng lớn tiêu thụ mạnh mẽ sản phẩm của ngành
công nghiệp và các ngành khác;
- Nông thôn là nơi tập trung phần lớn tài nguyên của đất nước. Cho nên,
muốn khai thác tài nguyên một cách có hiệu quả và bền vững thì cần phải đầu tư
phát triển nông thôn;
- Nông thôn cũng là nơi có vị trí trọng yếu trong cũng cố và giữ gìn an ninh
quốc phòng của đất nước.
1.1.4. Khái niệm về thu nhập
TheoTừ điển Kinh tế thị trường: “Thu nhập cá nhân là tổng số thu nhập đạt
được từ các nguồn thu khác nhau của cá nhân trong thời gian nhất định, thu nhập cá
nhân từ nhiều nguồn khác nhau đều từ thu nhập quốc dân”.
Thu nhập là phần chênh lệch giữa khoản thu về và khoản chi phí đã bỏ ra.Về
bản chất, theo nghĩa rộng thu nhập gồm hai bộ phận hợp thành: thù lao cần thiết
(tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp mang tính chất tiền lương,...) và phần
có được từ thặng dư sản xuất (hoặc lợi nhuận).
Tóm lại, thu nhập của người lao động là số tiền mà họ nhận được từ các
nguồn thu và họ được toàn quyền sử dụng cho bản thân và cho gia đình. Ta có thể


16

hiểu thu nhập của người lao động là toàn bộ các khoản thu khác nhau mà người lao
động có được trong một khoảng thời gian nhất định (thông thường là một tháng).
1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm
1.1.5.1. Nhân tố về điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái
Ở bất kỳ một quốc gia, một địa phương nào khi có điều kiện tự nhiên, môi
trường sinh thái thuận lợi thì ở đó sẽ có nhiều cơ hội thu hút được nhiều những
chương trình, dự án đầu tư, đây cũng là cơ hội để GQVL cho lao động nói chung và
lao động khu vực nông thôn nói riêng. Ngược lại, không thể có sự thuận lợi trong

GQVL tại chỗ đối với người lao động sống ở những nơi điều kiện tự nhiên bất lợi.
GQVL vừa là nhiệm vụ bức xúc, vừa là chiến lược lâu dài. Vấn đề đặt ra là
phải bảo đảm cho môi trường nhân tạo hoà hợp với môi trường thiên nhiên, coi đây
là một mục tiêu chính quan trọng trong GQVL, đồng thời phải có giải pháp khắc
phục tác động với thiên tai, sự biến động khí hậu bất lợi và hậu quả chiến tranh còn
lại đối với môi trường sinh thái nước ta.Vấn đề này cần được xuyên suốt trong toàn
bộ chiến lược về việc làm thể hiện trong từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực, từng
cộng đồng dân cư để con người thực sự làm chủ được môi trường sống của mình
hoặc hạn chế được đến mức thấp nhất những tác động xấu của biến động môi
trường. Như vậy, bảo vệ và cải thiện môi trường không chỉ là mục tiêu trong GQVL
mà còn là điều kiện để phát triển bền vững.
1.1.5.2. Nhân tố về dân số
Dân số là nguồn nhân lực, là yếu tố quyết định đến sự phát triển kinh tế xã
hội của đất nước. Tăng trưởng dân số với tốc độ và quy mô hợp lý là nguồn cung
cấp nguồn nhân lực vô giá. Tuy nhiên, nếu dân số phát triển quá nhanh, quy mô
phát triển lớn, vượt quá khả năng đáp ứng và yêu cầu của xã hội, thì tăng trưởng
dân số không phải là yếu tố tích cực mà lại là gánh nặng cho nền kinh tế.
Mức sinh, mức chết, cơ cấu giới, tuổi của dân số đều ảnh hưởng đến quy mô
của lực lượng lao động. Nếu mức sinh cao dẫn đến gia tăng nhanh chóng số lượng
người trong độ tuổi lao động trong tương lai,...


17

Ngoài ra, vấn đề di dân và các dòng di dân, đặc biệt là di dân từ nông thôn ra
đô thị gây ra các áp lực kinh tế - xã hội và chính trị còn nguy hiểm hơn so với tỷ lệ
gia tăng dân số nhanh chóng. Quá trình đô thị hoá gây ra hậu quả trực tiếp đến vấn
đề việc làm, để có thể thu hút hết số lao động này, cần phải nhanh chóng tạo ra một
số lượng lớn chỗ làm việc. Một vấn đề khác là chất lượng của số lao động này về
học vấn, đào tạo, trình độ nghề nghiệp không đáp ứng được với yêu cầu công việc

trong khu đô thị. Do đó, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm sẽ tăng lên.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, việc khống chế mức tăng dân số
được gắn với vấn đề giảm áp lực đối với việc làm. Vấn đề dân số thường được gắn
với vấn đề sử dụng nguồn lao động và GQVL. Nhìn chung, giảm tỷ lệ gia tăng dân
số cũng có nghĩa là có sự đầu tư cao hơn vào các lĩnh vực giáo dục, sức khoẻ và các
dịch vụ xã hội.
1.1.5.3. Nhân tố về chính sách vĩ mô
Để GQVL cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là Nhà nước phải tạo
các điều kiện và môi trường thuận lợi để người lao động tự tạo việc làm trong cơ
chế thị trường thông qua những chính sách cụ thể. Có thể có rất nhiều chính sách
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc làm, hợp thành một hệ thống chính sách
hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau hướng vào phát triển cả cung và
cầu về lao động, đồng thời làm cho cung và cầu phù hợp với nhau. Thực chất là tạo
ra sự phù hợp giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động.
Nhóm chính sách khuyến khích phát triển những lĩnh vực, hình thức và vùng
có khả năng thu hút được nhiều lao động trong cơ chế thị trường như: Chính sách
phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách di dân và phát triển vùng kinh tế
mới, chính sách đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, chính sách khôi
phục và phát triển làng nghề,... Nhóm chính sách việc làm cho các đối tượng là
người có công và chính sách xã hội đặc biệt khác như: Thương binh, bệnh binh, gia
đình liệt sĩ, người tàn tật, đối tượng xã hội...
Chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội, nhưng phương thức
và biện pháp GQVL mang nội dung kinh tế đồng thời liên quan đến những vấn đề


18

thuộc về tổ chức sản xuất kinh doanh như: Tạo môi trường pháp lý, vốn, lựa chọn
và chuyển giao công nghệ, cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ sản phẩm...
1.1.5.4. Nhân tố liên quan đến Giáo dục - Đào tạo và KHCN

- Về Giáo dục và Đào tạo: Tiềm năng kinh tế của một đất nước phụ thuộc
vào trình độ khoa học, công nghệ của đất nước đó. Trình độ khoa học công nghệ lại
phụ thuộc vào các điều kiện giáo dục. Giáo dục và Đào tạo giúp cho người lao động
có đủ tri thức, năng lực, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của công việc, người lao
động qua quá trình đào tạo sẽ có nhiều cơ hội để thực hiện các công việc mà xã hội
phân công sắp xếp.
Giáo dục và Đào tạo là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản để đảm bảo
việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội. Giáo dục và Đào tạo nhằm vào định
hướng phát triển, trước hết cung cấp cho xã hội một lực lượng lao động mới đủ về
số lượng, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả để đảm bảo việc thực hiện
thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Về Khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ đã làm biến đổi cơ cấu đội
ngũ lao động. Bên cạnh những ngành nghề truyền thống đã xuất hiện những ngành
nghề mới và cùng với nó là xu hướng tri thức hoá công nhân, chuyên môn hoá lao
động, giảm bớt lao động chân tay nặng nhọc.
Trong nền kinh tế phát triển, người lao động muốn thích ứng với các công
việc mà xã hội yêu cầu, trước hết họ phải là những người được trang bị một kiến
thức nhất định về khoa học công nghệ. Tuy nhiên, trong thực tế ở những nước sản
xuất kém phát triển thường có mâu thuẫn: Nếu công nghệ sản xuất tiên tiến với các
dây chuyền sản xuất tự động hoá, chuyên môn hoá cao thì trình độ người lao động
chưa bắt kịp dễ dẫn đến tình trạng một bộ phận người lao động bị gạt ra khỏi quá
trình SXKD. Vì thế, bên cạnh công việc đào tạo nâng cao trình độ lành nghề cho
người lao động, vấn đề lựa chọn áp dụng mức độ công nghệ nào trong dây chuyền
kinh doanh phải tính toán thận trọng, bởi vì chính sách khoa học công nghệ có tác
động mạnh mẽ đến vấn đề GQVL cho người lao động.


19

1.1.5.5. Nhân tố quốc tế trong quá trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế

Toàn cầu hoá đặt ra những thách thức và những nguy cơ lớn đối với tình
trạng việc làm ở tất cả các nước trên thế giới. Số lượng việc làm ở khu vực này có
thể tăng lên nhưng lại giảm đi ở khu vực khác, một số loại việc làm sẽ mất đi nhưng
một số loại việc làm mới xuất hiện.
Những biến đổi về quy mô và cơ cấu việc làm như vậy sẽ gây không ít khó
khăn và những chi phí lớn của cá nhân gia đình và toàn xã hội do mất việc làm, phải
tìm chỗ làm việc mới, phải học tập những kiến thức và kỹ năng mới, phải di chuyển
từ nơi này đến nơi khác để tìm việc làm, phải thích nghi với những điều kiện sống
luôn thay đổi. Gây gánh nặng về đào tạo lại, trợ cấp xã hội, trợ cấp thất nghiệp do
Chính phủ phải gánh chịu.
Trong điều kiện thế giới ngày nay, để khai thác và sử dụng tốt các yếu tố bên
ngoài, đồng thời phải phát huy tối đa nội lực, kết hợp nội lực với ngoại lực thành
sức mạnh tổng hợp trong GQVL một cách năng động, hiệu quả, bền vững, tránh
được những rủi ro. Cần có những nghiên cứu, mang tính hệ thống về tình hình thế
giới, khu vực và các mối quan hệ giữa các điều kiện bên trong và bên ngoài, nhận
thức và vận dụng đúng đắn quan hệ đó khi xây dựng chiến lược việc làm.
1.2. THỰC TIỄN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN
1.2.1. Trên thế giới
1.2.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới, với gần 1,339 tỷ dân (năm 2011)
nhưng gần 70% dân số vẫn còn ở khu vực nông thôn, hàng năm có tới trên 10 triệu
lao động đến tuổi tham gia vào lực lượng lao động xã hội nên yêu cầu GQVL trở
lên gay gắt hơn.
Trước đòi hỏi bức bách đó, thực tế từ những năm 1978 Trung Quốc đã thực
hiện mở cửa cải cách nền kinh tế, và thực hiện phương châm “Ly nông bất ly
hương, nhập xưởng bất nhập thành”, do đó Trung Quốc đã thực hiện nhiều chính
sách phát triển và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động ở


20


nông thôn, rút ngắn sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, coi phát triển công
nghiệp nông thôn là con đường để giải quyết vấn đề việc làm.
Những kết quả ngoạn mục về phát triển kinh tế và GQVL ở Trung Quốc đạt
được trong những năm đổi mới vừa qua đều gắn với bước đi của công nghiệp nông
thôn. Từ thực tiễn phát triển công nghiệp nông thôn, GQVL ở nông thôn Trung
Quốc thời gian qua có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
- Thứ nhất: Trung Quốc thực hiện chính sách đa dạng hoá và chuyên môn
hoá sản xuất kinh doanh, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông thôn,
thực hiện phi tập thể hoá trong sản xuất nông nghiệp thông qua áp dụng hình thức
khoán sản phẩm, nhờ đó khuyến khích nông dân đầu tư dài hạn phát triển sản xuất
cả nông nghiệp và mở các hoạt động phi nông nghiệp trong nông thôn.
- Thứ hai: Nhà nước tăng thu mua giá nông sản một cách hợp lý, giảm giá
cánh kéo giữa hàng nông nghiệp và hàng công nghiệp, qua đó tăng sức mua của
người nông dân, tăng mạnh cầu cho các hoạt động sản xuất kinh doanh phi nông
nghiệp ở nông thôn. Cùng với chính sách khuyến khích phát triển sản xuất đa dạng
hoá theo hướng sản xuất những sản phẩm có giá trị kinh tế hơn, phù hợp yêu cầu
của thị trường đã có ảnh hưởng lớn đối với thu nhập trong khu vực nông thôn. Theo
kết quả điều tra cho thấy thu nhập thực tế bình quân đầu người ở khu vực nông thôn
đã tăng lên. Chính sức mua trong khu vực nông thôn tăng nhanh chóng đã làm tăng
cầu về các hàng hoá tiêu dùng từ hàng thực phẩm và hàng hoá thiết yếu sang tiêu
dùng những sản phẩm có độ co dãn theo thu nhập cao hơn. Tăng thu nhập và sức
mua của người dân nông thôn đã tạo ra cầu cho các Doanh nghiệp công nghiệp ở
nông thôn phát triển thu hút thêm lao động.
- Thứ ba: Tạo môi trường thuận lợi để công nghiệp phát triển.
- Thứ tư: Thiết lập một hệ thống cung cấp tài chính có hiệu quả cho Doanh
nghiệp nông thôn, giảm chi phí giao dịch để huy động vốn và lao động cho công
nghiệp nông thôn.
- Thứ năm: Duy trì và mở rộng mối quan hệ hai chiều giữa Doanh nghiệp
nông thôn và Doanh nghiệp Nhà nước.[14]



21

1.2.1.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Khác với các nước ở khu vực châu Âu và Châu Mỹ, ở Nhật Bản các nhân
viên Nhật Bản được xí nghiệp tuyển dụng làm thuê suốt đời cho đến khi về hưu.
Thậm chí có những nhân viên xuất sắc đã đến tuổi về hưu vẫn được thuê làm cố vấn
cho xí nghiệp, truyền thống về kinh tế là nguyên nhân đi tới chế độ thu dụng đặc sắc
này.
Ở Nhật Bản, vấn đề cung cầu được giải quyết rất hài hòa, năm 1995 cứ một
chỗ làm việc trong ngành công nghiệp có 3,6 người xin vào làm thì đến năm 2000
cứ một người xin việc việc thì có 3 nơi cần tuyển. Chính vì thế, tình trạng thất
nghiệp ở một nước có 100 triệu dân về cơ bản đã được giải quyết từ những năm 60.
Xét trên góc độ kinh tế nhiều tài liệu phương Tây cho biết: Nhật Bản đã duy
trì được một cơ cấu kinh tế “nhiều tầng”. Tầng trên là các công ty lớn, các xí nghiệp
lớn, các tập đoàn tài chính,… có từ 300 đến 1000 công nhân. Còn tầng dưới 300
công nhân thậm chí có xí nghiệp khoảng 10 công nhân có tính chất gia đình chiếm
51,5%. Nhật Bản mặc dù là một nước có nền công nghiệp phát triển thế nhưng họ
rất chú ý đến sự phát triển của nền sản xuất tiểu thủ công nghiệp và kinh tế gia đình,
Nhật Bản đã giải quyết được mâu thuẫn lao động ít vốn mà mọi người dân đều có
việc làm, trong đó Nhà nước là người đề ra chính sách và tổ chức thực hiện.
Ngoài ra họ còn làm việc tại nhà bằng máy tính, cứ 3 người làm việc có một
người làm việc tại nhà, đối với người tàn tật nội trợ về hưu có trình độ chuyên môn
tốt không thể đến cơ quan làm việc hàng ngày có thể tham gia vào thị trường lao
động nhờ việc làm tại nhà.[3]
1.2.2. Tại Việt Nam
1.2.2.1. Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về giải quyết việc làm ở
nông thôn
a) Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành

Nghị quyết số 26-NQ/T.Ư ngày 5/8/2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (sau
đây gọi tắt là Nghị quyết số 26-NQ/T.Ư)
Mục tiêu tổng quát của Nghị quyết là: Không ngừng nâng cao đời sống vật


22

chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến
nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản
xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng
vai trò làm chủ nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo
hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả
và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả
trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp
với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn
ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái
được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng
cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí
thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp
CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Một số mục tiêu liên quan đến lao động, việc làm và thu nhập ở nông thôn
đến năm 2020:
- Giải quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp
trên 2,5 lần so với hiện nay.
- Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỷ lệ lao động
nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng
50%.[1]
b) Quyết định số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào
tạo nghề cho lao động nông thôn đế n năm 2020”

Mục tiêu tổ ng quát: Bình quân hàng năm đào ta ̣o nghề cho khoảng 1triê ̣u lao
đô ̣ng nông thôn, trong đó đào tạo, bồi dưỡng 100.000lượt cán bộ, công chức xã.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình
độ, năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý hành chiń h, quản lý,
điều hành kinh tế - xã hô ̣i và thực thi công vụ phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn.


23

Mục tiêu cụ thể cho giai đoạn 2011 - 2015: Đào ta ̣o nghề cho 5.200.000lao
động khu vực nông thôn, trong đó: Đào tạo nghề cho khoảng 4.700.000lao động
khu vực nông thôn (1.600.000người ho ̣c nghề nông nghiê ̣p; 3.100.000 người ho ̣c
nghề phi nông nghiệp); Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, năng lực quản lý
hành chính, quản lý kinh tế - xã hô ̣i cho khoảng 500.000lươ ̣t cán bộ, công chức xã.
Mục tiêu cụ thể cho giai đoạn 2016 - 2020: Đào ta ̣o nghề cho 6.000.000lao
động khu vực nông thôn, trong đó: Đào tạo nghề cho khoảng 5.500.000 lao động
khu vực nông thôn (1.400.000người ho ̣c nghề nông nghiê ̣p; 4.100.000người ho ̣c
nghề phi nông nghiệp); Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, năng lực quản lý hành chiń h,
quản lý kinh tế - xã hô ̣i chuyên sâu cho khoảng 500.000lươ ̣t cán bộ, công chức xã.
c) Chính sách đối với giáo dục - đào tạo
Nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của giáo dục đào tạo, Đảng ta chỉ rõ:
“Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả ba mặt: mở
rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả”.[8] Mặc dù lực lượng lao
động khu vực nông thôn rất đông đảo, nhưng phần lớn đều là lao động phổ thông,
chưa qua đào tạo về CMKT. Trong xu thế hội nhập, mở cửa hiện nay, yêu cầu đặt ra
đối với nước ta không chỉ là phải chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang
nền kinh tế công nghiệp hiện đại mà còn phải thực hiện bước chuyển từ nền kinh tế
công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Chính vì vậy sẽ dẫn đến một thực tế là sẽ có

một bộ phận lớn lao động phổ thông dư thừa và thiếu nghiêm trọng đội ngũ lao
động có chất xám. Điều đó đặt ra nhiệm vụ to lớn cho giáo dục và đào tạo là phải
đào tạo đội ngũ lao động có chất xám nhằm đáp ứng nhu cầu lao động có trình độ
cao trong giai đoạn hiện nay.
Để giải quyết được khó khăn trên đòi hỏi Nhà nước phải tập trung đầu tư cho
giáo dục và đào tạo, phải có chính sách và giải pháp hữu hiệu để khắc phục ngay
những yếu kém, bất cập trong giáo dục, phát triển mạng lưới trường học có chất
lượng rộng khắp cả nước từ cấp phổ thông đến đại học và sau đại học, đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất trong giáo dục, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Phát


×