Tải bản đầy đủ (.doc) (211 trang)

Chất lượng công tác tư tưởng ở đơn vị quản lý học viên cấp phân đội trong các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (846.8 KB, 211 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trần Xuân Kỳ


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
VÀ CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG Ở ĐƠN VỊ
QUẢN LÝ HỌC VIÊN CẤP PHÂN ĐỘI TRONG CÁC
HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI

1.1.
1.2.

Đơn vị quản lý học viên cấp phân đội và những vấn đề cơ
bản về công tác tư tưởng ở đơn vị quản lý học viên cấp
phân đội trong các học viện, trường sĩ quan Quân đội
Quan niệm, yếu tố quy định và tiêu chí đánh giá chất
lượng công tác tư tưởng ở đơn vị quản lý học viên cấp
phân đội trong các học viện, trường sĩ quan Quân đội



Chương 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG, NGUYÊN NHÂN VÀ

MỘT SỐ KINH NGHIỆM CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG Ở
ĐƠN VỊ QUẢN LÝ HỌC VIÊN CẤP PHÂN ĐỘI TRONG
CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI

2.1.
2.2.

Thực trạng chất lượng công tác tư tưởng ở đơn vị quản lý
học viên cấp phân đội trong các học viện, trường sĩ quan
Quân đội
Nguyên nhân và một số kinh nghiệm công tác tư tưởng ở
đơn vị quản lý học viên cấp phân đội trong các học viện,
trường sĩ quan Quân đội

Chương 3 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG

3.1.
3.2.

CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG Ở ĐƠN
VỊ QUẢN LÝ HỌC VIÊN CẤP PHÂN ĐỘI TRONG CÁC
HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất lượng
công tác tư tưởng ở đơn vị quản lý học viên cấp phân đội
trong các học viện, trường sĩ quan Quân đội hiện nay
Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng công tác tư

tưởng ở đơn vị quản lý học viên cấp phân đội trong các
học viện, trường sĩ quan Quân đội hiện nay

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang

5
11

31
31
56

73
73
92

109
109
120
168
170
171
183



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13
14
15

Chữ viết đầy đủ
Đảng cộng sản
Chính trị Quốc gia
Chủ nghĩa xã hội
Công tác đảng, công tác chính trị
Công tác tư tưởng
Giáo dục chính trị
Học viện
Hội đồng quân nhân
Nhà xuất bản
Quản lý học viên

Quân đội nhân dân
Quân ủy Trung ương
Trường sĩ quan
Tuyên truyền cổ động
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
ĐCS
CTQG
CNXH
CTĐ,CTCT
CTTT
GDCT
HV
HĐQN
Nxb
QLHV
QĐND
QUTW
TSQ
TTCĐ
XHCN


5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Công tác tư tưởng là một nhiệm vụ trọng yếu trong công tác xây dựng
Đảng, một mặt hoạt động cơ bản của CTĐ, CTCT trong QĐND Việt Nam.
Trong các HV, TSQ Quân đội, CTTT có vai trò to lớn đối với công tác xây

dựng đảng bộ và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Ở các đơn vị QLHV
trong các HV, TSQ Quân đội, CTTT giữ vai trò chủ đạo trong xây dựng lập
trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị; hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách
người sĩ quan; bồi dưỡng năng lực, kinh nghiệm tiến hành CTTT cho học viên.
Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài nghiên cứu có tiêu đề: “Chất lượng công tác
tư tưởng ở đơn vị quản lý học viên cấp phân đội trong các học viện, trường sĩ
quan Quân đội hiện nay”. Thực hiện công trình này, tác giả đã nung nấu, đầu
tư công sức, trí tuệ trong suốt hơn 20 năm làm nhiệm vụ QLHV và giảng dạy
tại TSQ Lục quân 1. Trực tiếp tham gia nghiên cứu các đề tài cấp ngành, cấp
trường và đã công bố một số bài báo khoa học trên các tạp chí có uy tín trong
và ngoài Quân đội về CTTT. Trên cơ sở nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về CTTT, tác
giả tham khảo, kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã được
công bố có liên quan đến đề tài; cùng với các nghị quyết, báo cáo sơ kết, tổng
kết của các HV, TSQ Quân đội và số liệu điều tra, khảo sát của tác giả để giải
quyết những nhiệm vụ, mục tiêu mà công trình nghiên cứu đặt ra.
Nội dung của luận án tập trung làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn
và đề xuất các giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng CTTT ở đơn vị QLHV
cấp phân đội trong các HV, TSQ Quân đội hiện nay. Đề tài luận án là một
công trình khoa học độc lập, không trùng lặp với bất cứ công trình khoa học
nào đã công bố.


6
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong
toàn bộ hoạt động của Đảng. CTTT trong QĐND Việt Nam là một bộ phận
hợp thành CTTT của Đảng, một mặt hoạt động cơ bản của CTĐ, CTCT, trực
tiếp góp phần xác lập và củng cố vững chắc hệ tư tưởng của Đảng trong Quân
đội, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, xây
dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm cho

Quân đội luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tiến hành CTTT là
trách nhiệm của các tổ chức, mọi cán bộ, đảng viên, là nhiệm vụ cơ bản
thường xuyên của lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong Quân đội.
Các HV, TSQ đào tạo sĩ quan cấp phân đội là những trung tâm đào tạo sĩ
quan cho toàn quân. Chất lượng đào tạo của các HV, TSQ phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, nhiều khâu, nhiều bộ phận. Trong đó CTTT ở đơn vị QLHV cấp phân đội
có vai trò rất quan trọng, góp phần xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững
mạnh, xây dựng đơn vị học viên vững mạnh toàn diện. Cùng với các mặt công
tác khác CTTT trực tiếp bồi dưỡng nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, văn
hóa, đạo đức cách mạng, phát triển đời sống tinh thần của cán bộ, học viên phù
hợp với mục tiêu yêu cầu đào tạo của các HV, TSQ Quân đội. Động viên, tạo
điều kiện để người học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, hiện thực hóa
quá trình đào tạo thành quá trình “tự đào tạo” để hoàn thiện nhân cách người sĩ
quan Quân đội trong tương lai, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ
Quân đội; chủ động ngăn ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống trong cán bộ, học viên. Đồng thời, tạo sự đoàn kết, thống nhất cao, chống
mọi biểu hiện cơ hội, thực dụng, đấu tranh có hiệu quả trên mặt trận tư tưởng, lý
luận, văn hóa chống mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch,
góp phần giữ vững trận địa tư tưởng, củng cố, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với Quân đội ngay từ cơ sở. Do đó, nâng cao chất lượng CTTT ở đơn vị
QLHV là việc làm rất quan trọng và cần thiết trong đổi mới nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo sĩ quan cấp phân đội của các HV, TSQ trong Quân đội.


7
Thực tiễn những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của các
đảng ủy HV, TSQ Quân đội, CTTT đã được cấp ủy các cấp ở đơn vị QLHV cấp
phân đội quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai toàn diện. Đã có nhiều chủ
trương, giải pháp đúng đắn, phù hợp, kịp thời giải quyết các vấn đề tư tưởng
nảy sinh. Cùng với tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức chính trị tư tưởng,

các đơn vị đã duy trì có nền nếp các khâu, các bước: quản lý, dự báo, định
hướng, đấu tranh và giải quyết tư tưởng. Phát huy tốt vai trò các tổ chức, lực
lượng nhất là cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp và mọi phương tiện trong tiến hành
CTTT. Chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương,
gia đình học viên để quản lý, giáo dục. Nhờ đó, chất lượng CTTT của phần lớn
đơn vị QLHV cấp phân đội trong các HV, TSQ Quân đội đã được nâng lên đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ CTTT ở các đơn vị QLHV đặt ra. Chất lượng giáo dục,
đào tạo ở các HV, TSQ Quân đội luôn được giữ vững và phát triển.
Tuy nhiên, CTTT ở các đơn vị QLHV cấp phân đội vẫn còn những hạn
chế, yếu kém cả về nhận thức và sự lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, cán
bộ chủ trì. Trong tổ chức thực hiện còn chậm đổi mới nội dung, hình thức,
phương pháp tiến hành; xem xét, đánh giá, kết luận tư tưởng còn biểu hiện
nóng vội, thiếu thận trọng, dự báo và giải quyết tư tưởng còn thiếu chủ động,
nhạy bén. Một bộ phận cán bộ chưa thực sự tự giác học tập, rèn luyện, là chỗ
dựa tinh thần cho học viên. Không ít học viên còn biểu hiện trung bình chủ
nghĩa, cơ hội trong học tập, rèn luyện. Công tác QLHV trong giờ nghỉ, ngày
nghỉ vẫn còn không ít hạn chế, bất cập, cá biệt có học viên vi phạm kỷ luật
phải xử lý. Ở một số đơn vị, chưa tạo được dư luận đấu tranh phê phán những
tư tưởng lệch lạc, sai trái, lối sống thực dụng, ích kỷ, thiếu tinh thần trách
nhiệm trong học tập, công tác; thực hiện nền nếp, chế độ nắm, phân loại tư
tưởng còn mang tính hình thức, đối phó…làm ảnh hưởng tới chất lượng
CTTT ở đơn vị QLHV cấp phân đội.
Hiện nay, các HV, TSQ trong Quân đội đang tập trung đổi mới căn bản,
toàn diện, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo trong bối cảnh đất nước tiếp tục


8
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế với nhiều
thuận lợi, nhưng cũng còn không ít khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch
tiếp tục thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” với những thủ đoạn mới, hết

sức tinh vi, thậm chí trắng trợn. Lợi dụng việc tranh chấp chủ quyền Biển Đông,
sự cố môi trường, các tiêu cực, tham nhũng, yếu kém trong Đảng để xuyên tạc,
kích động chia rẽ đoàn kết nội bộ; cổ vũ tư tưởng, lối sống thực dụng, chủ nghĩa
cá nhân, làm phai nhạt lý tưởng, tha hóa về phẩm chất chính trị, đạo đức lối
sống, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Những tiêu cực của
mặt trái cơ chế thị trường đang hàng ngày, hàng giờ tác động đến tâm tư, tình
cảm, quyết tâm của cán bộ, học viên ở đơn vị QLHV…
Tình hình đó đặt ra đòi hỏi cấp thiết phải nâng cao chất lượng CTTT ở
đơn vị QLHV cấp phân đội trong các HV, TSQ Quân đội. Vì vậy, việc nghiên
cứu làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp nâng cao chất
lượng CTTT ở đơn vị QLHV cấp phân đội trong các HV, TSQ Quân đội hiện
nay là vấn đề cơ bản, cấp bách và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Chất lượng công tác tư tưởng
ở đơn vị quản lý học viên cấp phân đội trong các học viện, trường sĩ quan
Quân đội hiện nay” làm luận án tiến sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về chất lượng, đề xuất
giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng CTTT ở đơn vị QLHV cấp phân đội
trong các HV, TSQ Quân đội hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan có liên quan đến đề tài,
khái quát kết quả các công trình khoa học đã công bố và chỉ ra những vấn đề
luận án cần tập trung giải quyết.
- Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về CTTT và chất lượng CTTT
ở đơn vị QLHV cấp phân đội trong các HV, TSQ Quân đội.


9
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra một

số kinh nghiệm CTTT ở đơn vị QLHV cấp phân đội trong các HV, TSQ Quân
đội hiện nay.
- Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng
CTTT ở đơn vị QLHV cấp phân đội trong các HV, TSQ Quân đội hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng CTTT ở đơn vị QLHV cấp phân đội trong các HV, TSQ
Quân đội là đối tượng nghiên cứu của luận án.
Phạm vi nghiên cứu
Luận án đi sâu nghiên cứu hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức tiến
hành CTTT và chất lượng CTTT ở đơn vị QLHV cấp phân đội trong các HV,
TSQ Quân đội (Tập trung nghiên cứu ở các đơn vị QLHV đào tạo cơ bản cấp
phân đội). Các số liệu, tư liệu điều tra, khảo sát chủ yếu ở HV Hậu cần, HV
Phòng không - Không quân, TSQ Lục quân 1, TSQ Lục quân 2, TSQ Chính
trị, TSQ Đặc công, TSQ Phòng hóa từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, của ĐCS Việt Nam, văn kiện, nghị quyết của QUTW về công tác
xây dựng Đảng, CTTT, lý luận, công tác giáo dục, đào tạo của Đảng, CTTT
trong Quân đội.
Cơ sở thực tiễn
Là thực tiễn hoạt động giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, hoạt
động CTTT ở đơn vị QLHV cấp phân đội trong các HV, TSQ Quân đội.
Ngoài ra, tác giả còn kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu ở một số công
trình khoa học của các tập thể, cá nhân có liên quan, nghiên cứu và sử dụng tư
liệu, số liệu trong các nghị quyết báo cáo của các HV, TSQ trong Quân đội.


10

Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học liên ngành và
chuyên ngành. Trong đó, tập trung sử dụng một số phương pháp cụ thể như:
kết hợp lôgíc và lịch sử; phân tích, tổng hợp; điều tra, khảo sát, thống kê; tổng
kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Những đóng góp mới của luận án
Đưa ra quan niệm về chất lượng CTTT ở đơn vị QLHV cấp phân đội
trong các HV, TSQ Quân đội.
Tổng kết một số kinh nghiệm CTTT ở đơn vị QLHV cấp phân đội
trong các HV, TSQ Quân đội.
Đề xuất một số nội dung, biện pháp cụ thể có tính khả thi trong những
giải pháp nâng cao chất lượng CTTT ở đơn vị QLHV cấp phân đội trong các
HV, TSQ Quân đội hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài
Góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta
về CTTT, những vấn đề cơ bản về lý luận chất lượng CTTT ở đơn vị QLHV
trong các HV, TSQ Quân đội hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp thêm luận cứ khoa học cho lãnh
đạo, chỉ huy các cấp trong Quân đội, trực tiếp là các HV, TSQ Quân đội nghiên
cứu, vận dụng vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động CTTT ở phân đội.
Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy ở các nhà trường Quân đội.
8. Kết cấu của luận án
Kết cấu của luận án gồm: Mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh
mục các công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài luận án,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


11

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI
1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến chất
lượng công tác tư tưởng
Các công trình nghiên cứu có liên quan đến chất lượng CTTT ở nước
ngoài khá phong phú, đa dạng. Tài liệu tổng quan được chọn lọc từ một số
công trình nghiên cứu ở nước ngoài đã được dịch ra tiếng Việt, in ấn, phát
hành. Các công trình này có đối tượng, phạm vi nghiên cứu khác nhau, đề cập
nhiều nội dung rộng lớn của CTTT. Để phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu, nội
dung tổng quan tập trung vào những vấn đề liên quan đến CTTT, chất lượng
CTTT của ĐCS và quân đội một số nước do ĐCS lãnh đạo.
1.1. Một số công trình ở nước ngoài nghiên cứu về công tác tư tưởng
và chất lượng công tác tư tưởng của Đảng cộng sản
Bài viết “V.I.Lênin bàn về vai trò và những nguyên tắc công tác tư
tưởng của Đảng cộng sản”, trong cuốn sách Hoạt động tư tưởng của Đảng
Cộng sản Liên Xô [136], M.A.Xê-mi-tra-ép-xki đưa ra quan niệm về CTTT là
“Bộ phận cấu thành hết sức quan trọng trong hoạt động của Đảng là công tác
tư tưởng, mà mục đích cao nhất của nó là biện giải về mặt lý luận đường lối
của Đảng, xây dựng con người phát triển toàn diện và có đời sống tinh thần
phong phú, không ngừng nâng cao ý thức giác ngộ giai cấp của họ, phát triển
tính tích cực sáng tạo của quần chúng” [136, tr.11]. Tác giả, viện dẫn quan
điểm của V.I.Lênin, khẳng định CTTT gồm ba bộ phận hợp thành: hoạt động
lý luận, tuyên truyền và cổ động.
Hình thức hoạt động của CTTT, theo M.A.Xê-mi-tra-ép-xki có: công
tác GDCT - tư tưởng, tuyên truyền và cổ động. Tuyên truyền là truyền bá và
giải thích cho quần chúng hiểu rõ lý luận Mác - Lênin và đường lối của Đảng,
trang bị cho họ những tri thức về quy luật phát triển của xã hội, trên cơ sở đó


12

xây dựng niềm tin vững chắc vào chủ nghĩa cộng sản. Cổ động nhằm thông
tin, giải thích cho quần chúng đường lối của Đảng, làm cho họ tin tưởng vào
sự đúng đắn của đường lối, chính sách, kích thích họ hành động, nâng cao
tính tích cực xã hội và lao động của họ.
Nguyên tắc hoạt động của CTTT được tuân thủ theo những nguyên tắc
tính đảng; tính khoa học; tính trung thực; sự thống nhất của lý luận và thực
tiễn; kết hợp CTTT và công tác tổ chức; quan điểm đồng bộ, tính hệ thống,
tính nhất quán và tính liên tục; tính nhạy bén và tính chất tiến công; tính
thuyết phục, tính dễ hiểu và tính rõ ràng. Trong những nguyên tắc đó, nguyên
tắc “tính đảng là nguyên tắc nền tảng của công tác tư tưởng” [136, tr.18].
Cũng trong cuốn sách Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên
Xô [136] trong bài “Nhiệm vụ và phương hướng cơ bản của công tác giáo
dục chính trị - tư tưởng trong giai đoạn hiện nay”, G.L.Xmia-rơ-nốp xác
định mục đích GDCT - tư tưởng, nhằm xây dựng thế giới quan khoa học,
giáo dục chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế. Xây dựng cho người lao
động những tiêu chuẩn đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Đấu tranh chống những
tàn dư của quá khứ, tiến công chống hệ tư tưởng tư sản và chủ nghĩa xét lại.
Trong bài “Hệ thống phương pháp tuyên truyền của Đảng”, theo B.C.Bátma-ép, phương pháp tuyên truyền gồm ba nhóm: dùng lời nói, trực quan và
phương pháp thực tiễn trong đó phương pháp dùng lời nói chiếm vị trí chủ
đạo. Phương pháp cổ động, theo M.M.Ra-khơ-man-cu-lốp, trong bài “Công
tác cổ động quần chúng của các tổ chức đảng”, gồm: cổ động miệng và cổ
động trực quan. Cổ động miệng được thông qua lời nói sinh động của các cổ
động viên. Cổ động trực quan bằng các khẩu hiệu, tranh cổ động chính trị,
panô, biểu ngữ, trưng bày các chỉ tiêu của phong trào thi đua XHCN, tủ bày
ảnh, bảng tín hiệu bằng ánh điện...


13
Bàn về vai trò của CTTT trong cuốn sách Công tác tuyên truyền tư
tưởng trong thời kỳ đổi mới của Cục Cán bộ, Ban Tuyên huấn Trung ương

ĐCS Trung Quốc [20], xác định: công tác chính trị tư tưởng là công tác sống
còn của công tác kinh tế và của các công tác khác; là khâu trung tâm để đoàn
kết toàn Đảng, toàn dân thực hiện nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước; là ưu thế
chính trị quan trọng của ĐCS Trung Quốc và của Nhà nước XHCN.
Nội dung công tác chính trị, tư tưởng, theo các nhà khoa học Trung
Quốc xác định: lấy giáo dục niềm tin vào lý tưởng làm cốt lõi. Giáo dục các
mặt lý luận cơ bản, đường lối cơ bản, cương lĩnh cơ bản của Đảng, chủ
nghĩa yêu nước, chủ nghĩa tập thể và CNXH. Giáo dục tư tưởng quan trọng
về “ba đại diện” và “ba chú trọng”. Giáo dục tinh thần “uống nước nhớ
nguồn”, “người giàu rồi phải giàu hơn nữa”. Giáo dục chính sách tình thế.
Giáo dục pháp chế dân chủ. Giáo dục lý luận về chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa vô thần, giáo dục tri thức khoa học, tinh thần khoa học và phương
pháp khoa học [20, tr.237- tr.245].
Xắc Xa Vắt Xuân Thêp Phim Ma Son, trong công trình luận án “Công
tác tư tưởng của Đảng nhân dân cách mạng Lào hiện nay” [135], tiếp cận
dưới góc độ khoa học lịch sử cho rằng: Để nâng cao chất lượng CTTT, phải
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ
thống chính trị. Xây dựng chương trình kế hoạch CTTT phù hợp với yêu cầu
thực tiễn. Xây dựng bộ máy và cán bộ làm CTTT gọn nhẹ, hiệu quả từ Trung
ương đến địa phương. Tăng cường sự kết hợp, phối hợp thống nhất hành động
trong CTTT. Mở rộng dân chủ, phát huy tự do tư tưởng trong CTTT. Đổi mới
phương thức CTTT của Đảng, kết hợp giáo dục tư tưởng với kích thích vật
chất; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể, xã hội; kết hợp CTTT, công tác
tổ chức, công tác kinh tế, đổi mới hoạt động thông tin đại chúng. Tăng cường
công tác văn hóa nghệ thuật. Đổi mới nội dung CTTT theo hướng phù hợp đối


14
tượng, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ và có thể thực hành trong cuộc sống. Tăng
cường cơ sở vật chất của CTTT và hợp tác quốc tế.

1.2. Các công trình nghiên cứu về công tác tư tưởng và chất lượng
công tác tư tưởng trong quân đội một số nước xã hội chủ nghĩa
Trong cuốn sách Tóm tắt lịch sử công tác đảng, công tác chính trị
trong các lực lượng vũ trang Liên Xô, từ 1918 - 1973, A.A.E-pi-sép khẳng
định: CTTT có vị trí, vai trò to lớn trong xây dựng quân đội kiểu mới, đặc biệt
khi nhiệm vụ của xã hội càng phức tạp, càng quan trọng thì yêu cầu đối với sự
trưởng thành về tinh thần, sự rèn luyện về chính trị và giai cấp của mọi người
càng phải cao. “Điều đó đạt được trước hết bằng biện pháp tư tưởng, bằng
việc lĩnh hội những tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin” [52, tr.270].
Cùng nghiên cứu về vấn đề này, trong cuốn Giáo trình công tác chính
trị của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc dùng trong các HV, nhà trường
thời kỳ mới [84]. Chương Tử Nghị và các nhà khoa học Trung Quốc xác định:
CTTT có vai trò quan trọng trong nâng cao năng lực nhận thức và giác ngộ tư
tưởng của cán bộ, chiến sĩ, làm cho họ trở thành lớp quân nhân có lý tưởng,
đạo đức, văn hóa, kỷ luật, yêu Đảng, yêu nhân dân, yêu Tổ quốc XHCN, yêu
QĐND, phát huy đầy đủ tính tích cực, chủ động và sáng tạo của họ trong quá
trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm hoàn thành những nhiệm vụ mà
Đảng và Nhà nước giao cho Quân đội.
Trong cuốn sách Chỉ huy tác chiến học, Đinh Bang Vũ cho rằng với
người chỉ huy tố chất chính trị “trình độ tư tưởng chính trị và trạng thái tinh
thần cần có, là sự thể hiện tổng hợp về thế giới quan, nhân sinh quan, giá trị
quan tín ngưỡng chính trị, mức độ tinh thần và lòng yêu nghề” [133, tr.271]. Tố
chất chính trị giúp người chỉ huy có thể xung phong đi đầu, bảo đảm cho bộ đội
có: khí khái vô tiền, khoáng hậu, bất kể trong tình huống khó khăn gian khổ


15
nào cũng đều kiên định bất khuất, chủ động tích cực hoàn thành nhiệm vụ.
Các mặt hoạt động của CTTT trong Quân đội Trung Quốc, bao gồm
công tác GDCT tư tưởng; TTCĐ; văn hóa - giáo dục. Trong đó GDCT tư

tưởng được coi là trọng tâm. Nội dung GDCT cho cán bộ, chiến sĩ trong
Quân đội được khái quát trong cuốn sách Giáo trình công tác chính trị của
Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc dùng trong các HV, nhà trường thời
kỳ mới bao gồm: giáo dục chủ nghĩa Mác, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý
luận Đặng Tiểu Bình; “Bốn nguyên tắc” cơ bản và đường lối, phương châm,
chính sách của Đảng; Văn minh tinh thần XHCN lấy chủ nghĩa Mác làm chỉ
đạo; Xây dựng quân đội cách mạng chính quy hóa, hiện đại hóa; Truyền
thống tốt đẹp bằng “Ba tác phong”; Chủ nghĩa yêu nước chủ nghĩa quốc tế,
chủ nghĩa anh hùng cách mạng; Dân chủ XHCN, pháp chế và kỷ luật; Hình
thù nhiệm vụ và chuẩn bị chiến tranh; Tri thức văn hóa, khoa học hiện
đại...Trong đó, cốt lõi nhất là giáo dục những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác, tư tưởng Mao Trạch Đông [84, tr.153].
Nội dung “Xây dựng văn minh tinh thần với Quân đội Trung Quốc”, lấy
trọng tâm là hình thành phát triển đạo đức XHCN, chú trọng “xây dựng thế giới
quan, nhân sinh quan, giá trị quan đúng đắn” [109, tr.27], xây dựng lòng tin vào
CNXH và chủ nghĩa cộng sản. Nâng cao chất lượng tuyên truyền lý luận, đường
lối, chính sách, quyết sách quan trọng của ĐCS Trung Quốc và QUTW, những
thành tựu và những điển hình tiên tiến của Quân đội. Đưa xây dựng doanh trại
vào quy hoạch tổng thể của xây dựng văn minh tinh thần. Thúc đẩy xây dựng
chính quy trong Quân đội. Những nội dung đó được xác định là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của công tác chính trị tư tưởng trong Quân đội.
Nội dung GDCT cho quân nhân trong Quân đội và Hải quân Liên Xô,
theo A.A.E-pi-sép trong cuốn sách Một số vấn đề công tác đảng, công tác
chính trị trong các lực lượng vũ trang Liên Xô [53] là thế giới quan khoa học


16
và niềm tin cộng sản. Vì vậy, nội dung GDCT điểm chủ yếu là nắm vững
những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận của chủ nghĩa cộng sản
khoa học, các văn kiện, cương lĩnh và nghị quyết của ĐCS Liên Xô.

Hình thức, phương pháp GDCT của Quân đội và Hải quân Liên Xô,
theo A.A.E-pi-sép được thông qua các buổi lên lớp chính trị, thực tiễn lao
động, thực tiễn hoạt động quân sự, báo chí, tham quan, kể truyện truyền
thống... Phương pháp đối với sĩ quan chủ yếu thông qua con đường tự học,
đối với chiến sĩ, thủy thủ có một chế độ học tập, chương trình kế hoạch cụ thể
[53, tr.294-tr.295]. Đối với Quân đội Trung Quốc, theo Chương Tử Nghị và
các nhà khoa học Trung Quốc trong cuốn Giáo trình công tác chính trị của
Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc dùng trong các HV, nhà trường thời
kỳ mới [84], xác định có ba loại hình cơ bản: lên lớp học chính trị; kết hợp
giáo dục giữa xã hội, gia đình và đơn vị; phát triển hoạt động tâm sự. Trong
đó lên lớp học chính trị là phương pháp và hình thức cơ bản. Hình thức văn
hóa - giáo dục được thông qua các hoạt động ca hát; liên hoan văn nghệ; kể
truyện; diễn giảng đọc sách; chơi trò chơi, thi đấu, vui chơi giải trí và thi đấu
trí lực được tổ chức chặt chẽ và có định hướng tư tưởng rõ ràng.
Đánh giá chất lượng GDCT, theo A.A.E-pi-sép trong cuốn sách Một số
vấn đề công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang Liên Xô
phải căn cứ vào sự hiểu biết của mỗi quân nhân về thế giới quan khoa học và
niềm tin cộng sản chủ nghĩa. Đánh giá thông qua hành động, hành vi và việc
làm hàng ngày của cán bộ, chiến sĩ, biểu hiện ở “tình cảm yêu mến đơn vị mình
và qua đó, yêu mến toàn thể Hồng quân, khi người chiến sĩ đó tự hào rằng mình
là chiến sĩ Hồng quân, phấn khởi vui mừng trước những thắng lợi của Hồng
quân và đau buồn trước những thất bại của Hồng quân” [53, tr.294-tr.295].
Khi nghiên cứu về “Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị ở các
trung đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Lào hiện nay”, tác giả Thim Sảo


17
Đuông Chăm Pa [99] cho rằng cấp ủy, cán bộ các cấp cần quán triệt, nắm
vững nội dung, yêu cầu GDCT, đề cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo
và tổ chức thực hiện; phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức

đảng và cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị trong tổ chức GDCT; tích cực đổi
mới chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp GDCT; coi trọng bồi
dưỡng kiến thức và năng lực sư phạm của đội ngũ cán bộ giảng dạy chính trị
và phát huy sức mạnh tổng hợp trong công tác GDCT.
Nâng cao chất lượng TTCĐ, theo Mi Khai Lốp trong bài báo “V.I. Lênin
Đảng Cộng sản Liên Xô bàn về công tác đảng, công tác chính trị trong các lực
lượng vũ trang” [69], cần nắm chắc và vận dụng linh hoạt các nguyên tắc: tính
ứng biến, tính cụ thể, tính linh hoạt của các biện pháp và tính dễ hiểu của nó.
Đồng thời các tập thể, cá nhân phải thường xuyên tìm tòi, sáng tạo ra những
hình thức mới, những biện pháp mới, tránh tuyên truyền theo kiểu công thức
kém hiệu quả. Vì vậy, “đừng bó hẹp trên những thủ đoạn cổ động thông
thường, những bài diễn thuyết, những buổi mít tinh...Cần phát triển công tác cổ
động của các nhóm và các cá nhân trong Hồng quân” [69, tr.9].
Tìm hiểu tư tưởng theo A.A.E-pi-sép trong cuốn sách Tóm tắt lịch sử
công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang Liên Xô, từ
1918 - 1973 [52] phải tìm ra con đường để chiếm được trái tim người chiến sĩ
có nghĩa là phải đi vào đời sống nội tâm của họ, hiểu được suy nghĩ, lo âu, tình
cảm và ý định của họ. Nâng cao hiệu quả nắm, giải quyết tư tưởng, theo
Chương Tử Nghị và các nhà khoa học Trung Quốc trong cuốn sách Giáo trình
công tác chính trị của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc dùng trong các
HV, nhà trường thời kỳ mới [84] cán bộ phải có “Tri tâm” (hiểu hoàn cảnh và
biến hóa tâm lý tư tưởng của cấp dưới, tìm ra chỗ có bệnh, nghiên cứu biện
pháp thích ứng). Có “Giao tâm” (đứng trên lập trường đồng chí, trao đổi ý kiến
bằng thái độ chân thành, bình đẳng…); có tấm lòng ngay thẳng, xuất phát từ lợi


18
ích của Đảng, từ yêu thương bảo vệ đồng chí mà không hề có lòng tư lợi, tuyệt
đối không được phép mượn cơ hội để chỉnh người khác. Tâm sự phải chú ý tế
nhị, kiên nhẫn và phải biết dựa vào phần tử cốt cán.

2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến chất lượng
công tác tư tưởng
2.1. Các công trình nghiên cứu về công tác tư tưởng và chất lượng
công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Quan niệm về CTTT của ĐCS Việt Nam, tác giả Đào Duy Quát và một
số nhà khoa học trong cuốn sách Công tác tư tưởng, tiếp cận ở góc độ hoạt
động của CTTT, xác định CTTT dưới CNXH là: “Hoạt động có mục đích của
Đảng Cộng sản và Nhà nước nhằm phát triển, truyền bá hệ tư tưởng xã hội chủ
nghĩa thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội,
động viên, cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa” [91, tr.9-tr.10].
Các yếu tố cấu thành CTTT, theo tác giả Đào Duy Tùng, trong cuốn
sách Một số vấn đề về công tác tư tưởng [126] gồm: chủ thể, khách thể, nội
dung, phương pháp, hình thức, phương tiện và hiệu quả CTTT. Các bộ
phận cấu thành (hay hình thái) của CTTT gồm ba bộ phận cơ bản : công tác
lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động.
Mục đích CTTT của Đảng trong cuốn sách Góp phần đổi mới công tác
tư tưởng, lý luận, tác giả Trần Trọng Tân xác định “nhằm xây dựng cho con
người có tư tưởng đúng để hành động đúng” [96, tr.162]. Vì vậy, CTTT cần
hướng vào xây dựng Đảng về mặt tư tưởng, xây dựng hình thái ý thức xã
hội cho chế độ XHCN và xây dựng con người sống trong xã hội mới có tư
tưởng XHCN. Xây dựng Đảng về mặt tư tưởng là làm cho Đảng luôn giữ
được bản chất giai cấp công nhân; xây dựng hình thái ý thức xã hội là xây
dựng cách nhìn và lẽ sống theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh; xây dựng con người mới XHCN là xây dựng con


19
người có nhân cách, kiến thức lý luận, hiểu biết sự phát triển xã hội để tự
giác đấu tranh cho tiến bộ xã hội, có ý thức trách nhiệm công dân, có nhiệt

tình cách mạng để phấn đấu, bảo vệ và xây dựng xã hội XHCN.
Trong cuốn sách Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [98], theo tác giả Phạm Tất Thắng mục
tiêu của CTTT là hình thành và phát triển hệ tư tưởng, hình thành và phát
triển cương lĩnh, đường lối chính sách trong từng giai đoạn, truyền bá hệ tư
tưởng, cương lĩnh, đường lối, chính sách nhằm xây dựng thế giới quan
khoa học, nhân sinh quan cộng sản, xây dựng niềm tin, tạo nên sự thống
nhất trong Đảng và sự ủng hộ của xã hội.
Bàn về vai trò của CTTT, trong cuốn sách Một số vấn đề về công tác tư
tưởng, tác giả Đào Duy Tùng cho rằng CTTT là “vũ khí sắc bén trong toàn bộ
quá trình hoạt động của Đảng. Nó đóng vai trò to lớn trong việc xây dựng Đảng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức” [126, tr.15]. Trong công cuộc đổi
mới theo định hướng XHCN, theo tác giả Đào Duy Quát và một số nhà khoa
học trong cuốn sách Công tác tư tưởng [91] khẳng định CTTT có vai trò vô
cùng quan trọng. Tạo động lực cho sự nghiệp đổi mới; góp phần ổn định chính
trị; định hướng, thúc đẩy nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng và phát
huy nhân tố con người. Đồng thời khái quát hệ thống nguyên tắc CTTT của
Đảng gồm các nguyên tắc: tính đảng; tính khoa học; tính trung thực; sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn, gắn với đời sống; quan điểm đồng bộ; tính hệ
thống; tính nhất quán và tính liên tục; tính linh hoạt, tính tiến công; tính thuyết
phục và tính dễ hiểu trong đó tính đảng là nguyên tắc cơ bản nhất.
Cũng theo tác giả Đào Duy Quát và một số nhà khoa học, phương pháp
CTTT của Đảng “là hệ thống các cách tác động tư tưởng của chủ thể và các
cách tiếp nhận tư tưởng của đối tượng, nhằm thực hiện mục đích của công tác
tư tưởng” [91, tr.239]. Phương pháp CTTT được chia thành nhiều loại, căn cứ


20
vào cách sử dụng các phương tiện giáo dục có nhóm phương pháp: “dùng
lời”, “trực quan” và “thực tiễn”. Căn cứ vào tính chất các biện pháp tác động

tư tưởng có: phương pháp thuyết phục, ám thị và nêu gương. Căn cứ vào
phạm vi tác động đối tượng có: phương pháp cá nhân, nhóm và đại chúng.
Căn cứ vào mức độ tự giác của đối tượng có: phương pháp giáo dục và tự
giáo dục; phê bình và tự phê bình…
Tác giả Đào Duy Tùng trong cuốn sách Một số vấn đề về công tác tư
tưởng khi bàn về tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả CTTT xác định có bốn tiêu
chuẩn: Một là, CTTT có góp phần tích cực vào việc xác định đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước hay không? Hai là, CTTT đã góp phần vào thực
hiện nhiệm vụ chính trị như thế nào, tác động của nó đến đâu? Ba là, mức độ
thống trị, chi phối của hệ tư tưởng mác - xít, của không khí tâm lý, tinh thần
lành mạnh trong toàn xã hội. Bốn là, góp phần xây dựng con người mới, phát
triển toàn diện là tiêu chuẩn cơ bản [126, tr.151-tr.154].
Nâng cao chất lượng CTTT, cũng theo tác giả phải nâng cao chất lượng
nội dung tuyên truyền giáo dục là vấn đề có ý nghĩa quyết định. Hình thức và
phương pháp để truyền bá giữ vai trò quan trọng, do đó cùng với việc cải tiến
những hình thức, phương pháp hiện có, cần tìm tòi những hình thức và
phương pháp mới, phong phú, sinh động, khắc phục bệnh công thức, đơn
điệu, nghèo nàn, kém linh hoạt trong CTTT. Yếu tố quyết định nhất đến chất
lượng CTTT là đội ngũ những người làm CTTT, bên cạnh những đội ngũ
chuyên nghiệp, cần bồi dưỡng phát huy đội ngũ không chuyên nghiệp; cải
tiến phong cách lãnh đạo, quản lý; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
CTTT và phát huy sức mạnh tổng hợp trong tiến hành CTTT.
Nâng cao chất lượng CTTT hiện nay trong cuốn sách Công tác tư
tưởng và vấn đề đào tạo cán bộ làm công tác tư tưởng [48], tác giả Trần Thị
Anh Đào cho rằng vấn đề quan trọng là phải không ngừng đổi mới phương


21
thức CTTT (phương pháp và cách thức) theo hướng tăng cường phương
pháp đối thoại; đa dạng hóa phương thức giáo dục truyền thống; khắc phục

hạn chế của xu hướng phi đại chúng thông tin đại chúng và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng với CTTT.
2.2. Các công trình nghiên cứu về chất lượng, hiệu quả công tác tư
tưởng trong Quân đội và một số loại hình đơn vị cơ sở trong Quân đội
2.2.1. Các công trình nghiên cứu về chất lượng, hiệu quả công tác tư
tưởng trong Quân đội
Quan niệm về CTTT trong Quân đội, trong cuốn sách Xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị một số vấn đề lý luận và thực tiễn
[24], tác giả Lê Văn Dũng khẳng định: CTTT - văn hóa trong Quân đội là
một bộ phận quan trọng trong CTTT - văn hóa của toàn Đảng, là một hoạt
động cơ bản, nội dung chủ yếu của CTĐ, CTCT trong các lực lượng vũ trang
nhân dân, là toàn bộ những hoạt động thuộc lĩnh vực ý thức của con người
nhằm biến tư tưởng tiến bộ, cách mạng thành lực lượng vật chất để xây dựng
Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, có văn hóa, đạo đức, lối sống
trong sạch; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng, của giai cấp công nhân, truyền thống tinh hoa, giá trị văn hóa
của dân tộc, của nhân loại thấm sâu và trở thành hệ tư tưởng của Quân đội
bảo đảm cho Quân đội luôn thống nhất ý chí và hành động hoàn thành thắng
lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Tiếp cận dưới góc độ triết học khi nghiên cứu về Nâng cao hiệu quả
công tác tư tưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam [125], tác giả Trần
Ngọc Tuệ, cho rằng các hình thức hoạt động CTTT trong Quân đội bao gồm:
Hoạt động lý luận (nghiên cứu phát triển lý luận và giáo dục lý luận chính trị),
hoạt động TTCĐ và công tác văn hóa.


22
Đánh giá hiệu quả CTTT trong Quân đội, theo tác giả phải dựa trên hai
tiêu chuẩn cơ bản: tiêu chuẩn nhận thức chính trị - tư tưởng và tiêu chuẩn hoạt
động thực tiễn - hành vi của quân nhân.

Các yếu tố khách quan tác động đến hiệu quả CTTT trong Quân đội là
sự tác động của môi trường chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, những biến đổi
của đối tượng và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ chức năng của Quân đội
trong sự nghiệp đổi mới. Các yếu tố chủ quan là năng lực lãnh đạo, quản lý, tổ
chức các hoạt động tư tưởng của các tổ chức đảng, cán bộ chỉ huy, cán bộ chính
trị, cơ quan chính trị và các tổ chức quần chúng.
Nâng cao hiệu quả CTTT trong Quân đội, theo tác giả cần tiếp tục đổi
mới nâng cao chất lượng GDCT - tư tưởng, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và các giá trị truyền
thống của dân tộc, của Quân đội. Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận gắn với việc nghiên cứu, xác định và phổ biến đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Nâng cao tính chiến đấu, chống ảnh hưởng
của tư tưởng sai lầm, thù địch. Xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành
mạnh tác động tích cực đến quá trình phát triển nhân cách quân nhân và xây
dựng tập thể quân nhân. Nâng cao năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện các
hoạt động tư tưởng của các tổ chức và đội ngũ cán bộ.
Bàn về Tăng cường sức mạnh tư tưởng của Quân đội nhân dân Việt Nam
[10], tác giả Lê Bỉnh nhận định hiện nay có năm nội dung chủ yếu tác động đến
Quân đội về phương diện hệ tư tưởng của các thế lực thù địch nhằm vô hiệu hóa,
làm tê liệt Quân đội: Một là, phi chính trị hóa và chiến tranh “phi giai cấp”, “phi
chính trị hóa”. Hai là, xuyên tạc đường lối quân sự của Đảng từ đó kích động
chia rẽ Quân đội với Đảng. Ba là, khoét sâu, cường điệu những tiêu cực trong
Quân đội hòng phủ nhận bản chất tốt đẹp của Quân đội, gây chia rẽ giữa Quân
đội với nhân dân và cơ quan chính quyền nhà nước. Bốn là, phủ nhận thắng lợi
của hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của


23
Đảng và làm suy giảm niềm tin của Quân đội với Đảng. Năm là, ra sức tô vẽ cho
“sự tốt đẹp” của chủ nghĩa đế quốc nhằm làm cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội mất

tinh thần cảnh giác cách mạng, sa sút ý chí chiến đấu.
Để củng cố vững chắc trận địa tư tưởng của Quân đội, theo tác giả cần
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội trên lĩnh vực tư tưởng và
đấu tranh hệ tư tưởng. Đổi mới nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo
dục lý luận chính trị trong Quân đội, bao gồm: đổi mới nội dung, chương trình,
hình thức, phương pháp giáo dục; chăm lo xây dựng và phát huy vai trò đội
ngũ giáo viên lý luận chính trị. Kết hợp chặt chẽ CTTT và công tác tổ chức,
phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan, các lực lượng, các ngành, các cấp để đấu
tranh chống lại sự phá hoại của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý
luận. Đổi mới chính sách xã hội đối với quân nhân và hậu phương Quân đội,
chăm lo xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tiến bộ.
Cuốn sách Một số vấn đề về công tác tư tưởng, lý luận trong Quân đội
trước tình hình mới [134] của tác giả Lê Minh Vụ. Trên cơ sở luận giải làm rõ
những thành tựu, hạn chế của CTTT, tác giả rút ra bốn bài học kinh nghiệm về
CTTT trong Quân đội. Bài học kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kiên định sự lãnh đạo của Đảng
đối với Quân đội, đồng thời vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh gắn với thực tiễn quân sự, hình thành đường lối quân sự đúng đắn,
đưa đường lối vào cuộc sống, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong thời
kỳ cách mạng mới. Bài học phát huy sức mạnh của các cơ quan, các lực lượng
nòng cốt của CTTT, lý luận, trong đó đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ
chuyên trách làm CTTT, lý luận cả về số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ. Bài học thường xuyên đổi mới phương pháp CTTT, lý luận trong
Quân đội và bài học về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm tính định
hướng chính trị đúng đắn trong CTTT, lý luận.


24
Tăng cường CTTT, lý luận trong Quân đội trước tình hình mới, theo tác
giả cần tăng cường tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận trong Quân đội. Chủ

động tiến công trên mặt trận tư tưởng lý luận, làm thất bại chiến lược “Diễn biến
hòa bình” và “phi chính trị hóa” Quân đội. Phát huy vai trò của khoa học xã hội
và nhân văn trong CTTT, lý luận của Quân đội. Phát huy vai trò các phương tiện
thông tin đại chúng trong CTTT, lý luận và tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ làm
CTTT, lý luận trong Quân đội đủ về số lượng, chất lượng ngày càng cao.
2.2.2. Các công trình nghiên cứu về chất lượng, hiệu quả công tác tư
tưởng ở một số loại hình đơn vị cơ sở liên quan trực tiếp đến đề tài luận án
Tác giả Nguyễn Văn Dưỡng khi nghiên cứu về Nâng cao hiệu quả
công tác tư tưởng ở đơn vị cơ sở làm nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu của các
binh đoàn chủ lực Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, xác định hiệu quả
CTTT ở đơn vị cơ sở làm nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu của các binh đoàn
chủ lực “là kết quả thu được so với mục đích của công tác tư tưởng đặt ra với
việc sử dụng tối ưu mọi khả năng hoạt động của công tác tư tưởng trong hoạt
động của công tác tư tưởng trong một điều kiện lịch sử xác định” [25, tr.35].
Theo tác giả, nâng cao hiệu quả CTTT ở các đơn vị cơ sở làm nhiệm vụ
huấn luyện chiến đấu của các binh đoàn chủ lực QĐND Việt Nam, phải nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng đối với CTTT.
Tích cực bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, nâng cao năng lực, trình độ
cho cán bộ làm CTTT. Tiến hành tốt các hoạt động CTTT và phát huy sức
mạnh của các tổ chức, cơ quan, các lực lượng và các phương tiện thông tin
đại chúng tiến hành CTTT, đồng thời chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho
cán bộ, chiến sĩ ở đơn vị cơ sở.
Khi bàn về Một số vấn đề về nâng cao chất lượng giáo dục chính trị
cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở, tác giả Lê Duy Chương đã đề cập có hệ
thống về lý luận, thực tiễn công tác GDCT của hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ
sở. Bằng phương pháp tiếp cận từ chất lượng, bản chất và hệ thống GDCT, tác


25
giả khái quát chất lượng GDCT cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở trong

Quân đội là “Tổng hợp giá trị các hoạt động, các yếu tố được phản ánh ở
phẩm chất và năng lực của chủ thể, các đối tượng trong việc đáp ứng mục tiêu
yêu cầu giáo dục chính trị xác định” [19, tr.35].
Nâng cao chất lượng GDCT theo tác giả, cần tiếp tục đổi mới chương
trình, nội dung, hình thức và phương pháp GDCT; tạo sự chuyển biến về nhận
thức, phát huy vai trò trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng ở đơn vị cơ
sở; phát huy vai trò của cơ quan chính trị cấp trên và vai trò của các cấp, các
ngành ngoài Quân đội; phát huy tính tích cực, tự giác học tập và rèn luyện của
hạ sĩ quan binh sĩ ở đơn vị cơ sở trong Quân đội.
Tiếp cận dưới góc độ tâm lý học, tác giả Nguyễn Hoàng Lân trong cuốn
sách Kỹ năng tuyên truyền của cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân
dân Việt Nam cho rằng “Kỹ năng tuyên truyền của cán bộ chính trị ở đơn vị
cơ sở là một loại kỹ năng đặc thù trong hoạt động nghề nghiệp, thể hiện năng
lực vận dụng một cách thuần thục, sáng tạo những tri thức, kỹ xảo tuyên
truyền phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và đối tượng cụ thể, đạt được mục
đích, yêu cầu mà nhiệm vụ đặt ra” [63, tr.56].
Kỹ năng tuyên truyền của cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở, được tạo
thành bởi tri thức, quy trình tiến hành tuyên truyền, phẩm chất nhân cách và
khả năng giao tiếp của người cán bộ chính trị. Phương pháp trong tuyên
truyền gồm các nhóm phương pháp “dùng lời”, “vũ khí chính của người đi
tuyên truyền” [63, tr.101], nhóm phương pháp “dùng hình ảnh trực quan” và
nhóm phương pháp “thực tế”.
Công trình luận án Bồi dưỡng phương pháp công tác tư tưởng của đội
ngũ chính trị viên ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay của tác
giả Phạm Văn Huynh [62]. Theo tác giả, hệ thống phương pháp CTTT gồm:
Nhóm phương pháp tiến hành hoạt động lãnh đạo, quản lý CTTT (phương pháp
quán triệt mục tiêu, nhiệm vụ; quản lý tư tưởng và CTTT; điều tra nắm tình hình
tư tưởng; kiểm tra, giám sát; phân tích kết quả hoạt động CTTT; dự báo tình hình



26
tư tưởng và CTTT; đề xuất chủ trương, biện pháp lãnh đạo; tổ chức hội nghị; xây
dựng kế hoạch; chỉ đạo, điều hành các lực lượng tiến hành). Nhóm phương pháp
giáo dục tư tưởng (phương pháp giảng dạy chính trị, thuyết phục, nêu gương, đối
thoại, TTCĐ, tổ chức hoạt động văn hóa quần chúng, phát động tư tưởng).
Nhóm phương pháp đấu tranh, giải quyết tình huống tư tưởng (phương pháp rèn
luyện tư tưởng, tạo dư luận tích cực, cảm hóa đối tượng cá biệt và phát huy sức
mạnh tổng hợp trong giải quyết tình huống).
Công trình luận án Đổi mới công tác tuyên truyền cổ động ở các trung,
lữ đoàn công binh Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay của tác giả Hồ Duy
Vĩnh [132]. Theo tác giả, đổi mới công tác TTCĐ ở các trung, lữ đoàn công
binh hiện nay là hoạt động tích cực, sáng tạo của các chủ thể, lực lượng trong
việc kế thừa, phát triển và thay đổi cách nghĩ, cách TTCĐ lạc hậu, lỗi thời,
bằng tư duy, nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện TTCĐ mới tiến
bộ, phù hợp với sự phát triển của tình hình nhiệm vụ, nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác TTCĐ ở các trung, lữ đoàn công binh.
Đổi mới công tác TTCĐ trước hết phải đổi mới tư duy nâng cao nhận
thức của các tổ chức, các lực lượng tiến hành công tác TTCĐ. Đổi mới nội
dung, hình thức, phương pháp TTCĐ, tăng cường cơ sở vật chất, phương
tiện kỹ thuật phục vụ công tác TTCĐ. Đổi mới công tác bồi dưỡng, nâng cao
chất lượng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên và phát huy sức mạnh
tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng trong đổi mới công tác TTCĐ ở các
trung, lữ đoàn công binh hiện nay.
Nghiên cứu về Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền cổ động ở
đơn vị cơ sở hiện nay [100]. Theo tác giả Vũ Minh Thực, nội dung công tác
TTCĐ ở đơn vị cơ sở bao gồm: đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật Nhà nước; tình hình nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ của Quân đội,
của đơn vị; truyền thống của Đảng, Quân đội, đơn vị; tình hình mọi mặt của
đời sống xã hội; tình hình thế giới, khu vực; âm mưu, thủ đoạn chống phá của



×