Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Di sản múa Chăm qua một số tác phẩm điêu khắc Chăm Pa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.87 KB, 27 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

--------------------------------

Nguyễn Thúy Nga

DI SẢN MÚA CHĂM
QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM ĐIÊU KHẮC CHĂM PA

Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62 31 06 40

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Hà Nội - 2017


2

Công trình được hoàn thành tại:
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS.NSND Lê Ngọc Canh
Phản biện 1: GS.TS Đào Mạnh Hùng
Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam.
Phản biện 2: PGS.TS Thành Phần
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.


Phản biện 3: TS Phan Quốc Anh
Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Ninh Thuận.
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện, tại Viện
Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam
Số 32 Hào Nam, Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội
Vào hồi……..giờ…….ngày……tháng……năm 2017

Có thể tìm đọc luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Người Chăm là một tộc người sống lâu đời trên dải đất miền Trung
Việt Nam. Từ cuối thế kỷ thứ II sau công nguyên, họ đã lập ra các nhà
nước cổ với các tên gọi: Lâm Ấp, Hoàn Vương và Chiêm Thành. Tuy
lịch sử của vương quốc đã từng phải trải qua những bước thăng trầm, rồi
sụp đổ, nhưng nền văn hóa cổ Chăm Pa đã để lại cho đất nước Việt Nam
những di sản văn hóa vô cùng quí giá. Đó là cả một hệ thống những đền
tháp cổ kính, những pho tượng cổ Chăm Pa tuyệt mỹ và rất nhiều những
di sản văn hóa vật chất và tinh thần mang đậm bản sắc văn hóa Chăm.
Trong số các di sản văn hóa đó, nổi bật lên di sản nghệ thuật múa được
thể hiện qua những hình người nhảy múa trong những tác phẩm điêu
khắc Chăm Pa.Và, những hình người múa trong điêu khắc này thực sự
đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa và
nghệ thuật Chăm Pa.
Cũng như nhiều tộc người khác trong khu vực Đông Nam Á, người
Chăm Pa xưa và người Chăm hiện nay rất yêu thích múa và múa đã trở

thành món ăn tinh thần không thể thiếu vắng trong đời sống văn hóa của
họ. Bên cạnh những vũ điệu dân gian đặc sắc của người Chăm hiện nay,
trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu cũng đã chú ý tới những
tác phẩm điêu khắc cổ Chăm Pa với khá nhiều bức tượng, hình phù điêu
thể hiện các vị thần và người trong các tư thế mang yếu tố múa. Tuy là
bộ phận gắn liền với các công trình kiến trúc đền tháp cổ, nhưng các
hiện vật chạm khắc này là cứ liệu quan trọng giúp các nhà nghiên cứu
tìm hiểu về nghệ thuật múa Chăm trong quá khứ. Nhận thấy, những giá
trị văn hóa, giá trị thẩm mỹ của nghệ thuật múa Chăm Pa xưa là sản
phẩm trí tuệ của tộc người Chăm cần phải được bảo lưu và phát huy, vì


2
vậy, NCS đã lựa chọn vấn đề Di sản múa Chăm qua một số tác phẩm
điêu khắc Chăm Pa làm đề tài nghiên cứu của luận án.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra những nét tinh túy của nghệ thuật múa Chăm Pa hiện còn
lưu dấu trên những tác phẩm điêu khắc Chăm, nhằm phục dựng và phát
huy những giá trị của múa Chăm Pa xưa trên sân khấu đương đại Việt
Nam. Luận án sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích, phục vụ công tác nghiên
cứu, giảng dạy và học tập trong các chuyên ngành nghệ thuật múa ở
Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, truy tìm và phân tích dấu vết những vũ điệu Chăm đang
bị chìm khuất trên những bức phù điêu trong điêu khắc Chăm Pa.
Thứ hai, phân tích các đặc trưng và đặc điểm của múa Chăm Pa
xưa qua một số tác phẩm điêu khắc Chăm Pa.
Thứ ba, giải mã những hình tượng múa trên di sản điêu khắc Chăm
Pa qua liên hệ, so sánh với múa cổ điển Ấn Độ - Bharata Natyam.

Thứ tư, phân tích một số tác phẩm múa thành công trên sân khấu
chuyên nghiệp Việt Nam được các nhà biên đạo múa khai thác và sáng
tạo trên cơ sở nghiên cứu hình tượng múa trong điêu khắc Chăm Pa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những tạo hình và hình dáng múa được thể hiện trên một số tác
phẩm điêu khắc Chăm Pa tiêu biểu đã được các nhà nghiên cứu xác định
niên đại, nguồn gốc trong các công trình khoa học đã được công bố
trước đây. Ngoài ra, luận án cũng đề cập đến một số tác phẩm múa được
xây dựng và khai thác từ hình ảnh các “vũ công hóa đá” trên điêu khắc


3
Chăm Pa đã thu được thành công trên sân khấu đương đại Việt Nam
trong những năm qua.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài nhấn mạnh đến việc tìm hiểu, nghiên cứu
những hình tượng múa, trong mối liên hệ mật thiết với không gian phân
bố (nơi phát hiện) và lưu giữ (các bảo tàng, các di tích đền tháp) các tác
phẩm điêu khắc Chăm Pa có các hình tượng và hình người múa.
Về thời gian: Vì những tác phẩm điêu khắc là những sản phẩm của
vương quốc Chăm Pa xưa, cho nên phạm vi thời gian nghiên cứu của
luận án gần như là cả chiều dài lịch sử vương quốc Chăm Pa giai đoạn
từ cuối thế kỷ II (khi vương quốc Chăm Pa ra đời) đến cuối thế kỷ XV
(khi vương quốc Chăm Pa bị phụ thuộc và chia cắt).
4. Phương pháp nghiên cứu
NCS đã sử dụng các phương pháp tiếp cận liên ngành trong văn
hóa học. Trong đó sử dụng các phương pháp nghiên cứu: lịch sử, so
sánh, hệ thống – phân loại để giải quyết các vấn đề đặt ra của luận án.
5. Giả thuyết nghiên cứu

Thứ nhất, Phải chăng di sản điêu khắc Chăm Pa chứa đựng những
giá trị của nghệ thuật múa cổ Chăm Pa?
Hình tượng múa Chăm trong kho tàng nghệ thuật điêu khắc Chăm
Pa, là kết quả của sự giao thoa giữa nghệ thuật đỉnh cao với thế giới tâm
linh huyền bí. Mặc dù múa cổ Chăm Pa không còn tồn tại trong thực tế,
song những kết quả tìm được sẽ là mấu chốt quan trọng để hiểu thêm về
giá trị của múa Chăm qua điêu khắc, cung cấp thêm chất liệu múa, kiểu
dáng trang phục độc đáo, hấp dẫn.Từ đó, khơi gợi khả năng biểu đạt nội
tâm và làm điểm tựa cho sáng tạo của các nghệ sĩ múa trong tương lai
trong việc sáng tác các tác phẩm múa mới.


4
Thứ hai, Phải chăng hình tượng múa Chăm trong điêu khắc Chăm
Pa có mối liên hệ mật thiết với nghệ thuật múa cổ điển Ấn Độ?
Trong quá khứ, văn hóa Chăm Pa chịu ảnh hưởng sâu đậm nền văn
hóa nghệ thuật Ấn Độ. Việc ảnh hưởng đó đã được các nhà nghiên cứu
khẳng định trong những công trình khoa học đã công bố. Vì vậy để giải
mã những hình tượng múa trên điêu khắc Chăm Pa mang tính thuyết
phục, nhất thiết phải quay trở lại đất nước Ấn Độ. Việc lựa chọn, nghiên
cứu so sánh, liên hệ với múa cổ điển Ấn Độ - Bharata Natyam là cần
thiết để giải quyết các vấn đề đặt ra của luận án.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ những nét đặc
trưng độc đáo của nghệ thuật múa cổ Chăm Pa được thể hiện trên một
số tác phẩm điêu khắc Chăm Pa. Và góp phần định hướng cho công tác
bảo tồn, phục dựng, phát huy các giá trị văn hóa của nghệ thuật múa cổ
Chăm Pa trong xây dựng các tác phẩm múa mới trên sân khấu đương
đại Việt Nam. Đồng thời, góp thêm một cách nhìn, một tiếng nói và
những gợi ý mang tính tham khảo cho các nhà nghiên cứu trong lĩnh

vực văn hóa, nghệ thuật.
7. Bố cục của Luận án
Luận án gồm 170 trang, trong đó được chia làm 2 phần, phần chính
văn và phần phụ lục. Phần chính văn gồm 134 trang: mở đầu (7 trang),
kết luận (3 trang), tài liệu tham khảo (7 trang), nội dung luận án gồm 3
chương (117 trang):
Chương 1: Cơ sở lý luận và lịch sử nghiên cứu (30 trang)
Chương 2: Những hình tượng múa trên điêu khắc Chăm Pa (38
trang)
Chương 3: Những bàn luận rút ra từ kết quả nghiên cứu (49 trang)


5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng
Căn cứ vào Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), Nghị quyết 23
và Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Những nghị
quyết trên là định hướng là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần bảo tồn,
phát triển văn hóa văn nghệ nói chung, trong đó có di sản múa của dân
tộc Chăm.
1.1.2. Cơ sở văn hóa
Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ vào Chăm Pa được phát huy mạnh
mẽ trong khoảng từ thế kỷ VII đến cuối thế kỷ XV. Tuy nhiên văn hóa
Chăm là "văn hóa mở", vì vậy bên cạnh tiếp thu văn hóa Ấn Độ, người
Chăm còn tiếp nhận những ảnh hưởng văn hóa của các nước khác trong
khu vực. Trong số các tác động từ bên ngoài, đạo Bà La Môn của Ấn
Độ, đặc biệt là dòng thờ Shiva, đã chi phối và ảnh hưởng lớn đến đời

sống văn hóa của Chăm Pa. Những tác động trên đã tạo nên sự gắn kết
chặt chẽ giữa tôn giáo với các công trình kiến trúc và các tác phẩm điêu
khắc tại các quần thể kiến trúc trong các đền tháp của người Chăm.
1.1.3. Cơ sở khoa học
Tuy văn hóa nghệ thuật Chăm Pa chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn
hóa Ấn Độ, nhưng nhờ ý thức dân tộc, người Chăm đã biết chắt lọc
những yếu tố tinh hoa để xây dựng nên nền văn hóa của riêng mình
mang đậm dấu ấn bản địa, dấu ấn tộc người. Loại hình nghệ thuật nổi
trội trong nền văn minh Chăm Pa là nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc.

Và trong đó bao gồm cả nghệ thuật múa cổ Chăm Pa mà giờ đây vẫn


6
còn hiện hữu trên những tác phẩm điêu khắc trong các đền tháp Chăm.
Do vậy, để hiểu được những hình tượng múa Chăm trên điêu khắc
Chăm Pa, nhất thiết phải trở về cội nguồn của nền văn hóa cổ vĩ đại Ấn
Độ, mà cụ thể là nghiên cứu – so sánh với múa cổ điển Ấn Độ - Bharata
Natyam để giải mã các hình tượng múa đó bằng lý luận khoa học
1.2. Áp dụng lý thuyết vào đề tài luận án
Vì đối tượng nghiên cứu của luận án khá phức tạp, nên trong quá
trình nghiên cứu, NCS sẽ sử dụng một số lý thuyết của ngành khoa học
nhân học văn hóa, văn hóa dân gian làm phương pháp tiếp cận.
1.2.1. Lý thuyết bản sắc văn hóa tộc người
Áp dụng lý thuyết bản sắc văn hóa tộc người giúp NCS nghiên cứu
sâu về những đặc điểm đặc trưng nhất của nghệ thuật múa Chăm qua
điêu khắc, những lý do và bối cảnh xã hội đã tạo dựng nên một diện
mạo múa Chăm đã từng tồn tại trong quá khứ, cũng như những yếu tố
chính đã tạo nên mối liên hệ khăng khít giữa văn hóa Chăm với những
hình tượng múa trong di sản điêu khắc Chăm Pa.

1.2.2. Lý thuyết tiếp biến văn hóa
Việc áp dụng lý thuyết này trong luận án sẽ giúp NCS hiểu được sự
thay đổi như thế nào của múa Chăm qua các mốc thời gian, về vai trò và
vị trí của múa Chăm trong cuộc sống của người dân Chăm Pa trước đây
và trong xã hội đương đại, cũng như mối quan hệ mật thiết giữa hình
tượng múa Chăm với văn hóa và nghệ thuật múa Ấn Độ trong quá khứ.
1.2.3. Lý thuyết phân loại các hình thái múa ở Việt Nam
Áp dụng lý thuyết phân loại các hình thái múa ở Việt Nam giúp
NCS phân biệt được múa Chăm qua điêu khắc Chăm Pa thuộc hình thái
múa nào, từ đó đi sâu nghiên cứu về nghệ thuật múa Chăm qua điêu
khắc theo một hệ thống logic, khoa học.


7
1.3. Những khái niệm liên quan đến đề tài
Đề tài nghiên cứu dưới góc độ văn hóa học, vì vậy nhất thiết phải
sử dụng những khái niệm cơ bản sau đây trong quá trình thực hiện đề
tài, luận án.
1.3.1. Chăm và Chăm Pa
Chăm là tên gọi của tộc người Chăm, một dân tộc vốn sinh tụ lâu
đời ở vùng duyên hải miền Trung Việt Nam. Dân tộc Chăm đã tạo nên
một nền văn hóa rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Ðộ. Họ
đã xây dựng nên vương quốc Chăm Pa, là một quốc gia cổ đã từng tồn
tại độc lập liên tục qua các thời kỳ từ năm 192 đến 1832.
1.3.2. Văn hóa
Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử hình thành và phát triển của
mỗi dân tộc. Vì vậy, khi nghiên cứu nghệ thuật múa, hay bất cứ một loại
hình nghệ thuật nào đó, cần thiết phải đặt nó trong môi trường văn hóa,
trên nền tảng văn hóa của một tộc người, một quốc gia.

1.3.3. Di sản văn hóa
Di sản văn hóa là tinh hoa của quá trình sáng tạo văn hóa mà thế hệ
trước để lại, được trao truyền từ đời này sang đời khác thể hiện giá trị và
tầm cao của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia trong lịch sử của chính dân tộc
mình. Trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam có nhiều loại hình khác
nhau nhưng nổi trội hơn cả là hệ thống đền tháp của người Chăm, mà
trong đó bao gồm cả những hình tượng múa trên di sản điêu khắc Chăm
Pa, vì vậy cần phải được gìn giữ, bảo lưu và phát huy trong xã hội.
1.3.4. Giá trị văn hóa
Giá trị văn hóa là thành tố quan trọng của các quan hệ văn hóa.
Trong văn hóa học, giá trị cùng với các khái niệm giá trị văn hóa, truyền


8
thống, bản sắc, biểu tượng…tạo nên một hệ thống các khái niệm khác
nhau nhưng có mối liên hệ, gắn kết với nhau. Giá trị văn hóa của người
Chăm được thể hiện trên nhiều lĩnh vực: tôn giáo, chữ viết, văn học,
phong tục tập quán, âm nhạc, múa... Trong đó, nghệ thuật múa của
người Chăm đã đạt đến trình độ thẩm mỹ cao và nhận được nhiều sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật
trong và ngoài nước. Những giá trị đó cần phải được tỏa sáng và phát
huy rộng rãi trong xã hội.
1.3.5 Bản sắc văn hóa
Bản sắc văn hóa là yếu tố mang đặc điểm riêng của một tộc người,
để phân biệt tộc người này với tộc người khác. Việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, trong đó có nghệ thuật múa của dân tộc Chăm
cần phải được coi trọng nhằm góp phần củng cố và xây dựng nền văn
hóa Việt Nam ngày càng phát triển bền vững.
1.3.6. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
Bảo tồn di sản văn hóa là gìn giữ những giá trị văn hóa đặc sắc

của một dân tộc, một cộng đồng. Nếu không bảo tồn và phát huy thì tính
dân tộc của nền văn hóa đó sẽ bị mờ hoặc mất đi bản sắc dân tộc. Do
vậy, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa là một trong hai nhiệm vụ quan
trọng của sự kế thừa để phát triển nền văn hóa dân tộc của mỗi quốc gia.
1.3.7. Biểu tượng
Trong văn hóa học, biểu tượng là một hình tượng nào đó được phô
bày và trở thành một dấu hiệu, ký hiệu tượng trưng, nhằm để diễn đạt về
một ý nghĩa mang tính trừu tượng. Trong nghệ thuật múa và một số loại
hình nghệ thuật khác, việc nghiên cứu, tìm hiểu hệ biểu tượng là cần
thiết để giải mã một vấn đề nào đó cần phải được làm sáng tỏ.


9
1.3.8. Thuật ngữ Múa
Các nhà nghiên cứu theo chủ nghĩa Mác và học giả phương Tây đã
đưa ra một số định nghĩa và có thể hiểu một cách đơn giản như sau:
"Múa là loại hình nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ hình thể của con người,
thể hiện tư tưởng tình cảm và được cách điệu hóa". Trong kho tàng múa
của các dân tộc Việt Nam, có 3 hình thái múa chính, đó là: múa dân
gian, múa cung đình và múa tôn giáo. Căn cứ vào các hình thái thái múa
đã được xác định, giúp NCS có cơ sở nhận biết về múa Chăm trên di sản
điêu khắc Chăm Pa thuộc hình thái múa nào?
1.4. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nhằm tìm ra “khoảng trống” cần phải giải quyết, NCS chú trọng
đến những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài
nước đã công bố, ít nhiều có liên quan đến đề tài nghiên cứu của mình.
Đó là những công trình thuộc các nhóm vấn đề sau đây.
1.4.1. Những công trình có đề cập đến nghệ thuật múa Chăm và
các vấn đề có liên quan
Những tài liệu thành văn nói tới múa Chăm sớm nhất có lẽ là các

sử liệu của Việt Nam. Thế nhưng chỉ là những ghi chép rất sơ lược, các
thông tin cụ thể về múa Chăm có thể tìm thấy trong sách Thiên Nam dư
tập [55] do vua Lê Thánh Tôn sai Thân Nhân Trung Quách Đình Bảo,
Đỗ Nhuận biên tập năm 1483, bảng Văn bia chùa Đọi (Duy Tiên, Hà
Nam), niên đại 1121 [55]. Đặc biệt trong sách Việt Sử tiêu án của Ngô
Thời Sĩ, Sài Gòn (1960) đã xác nhận về sự hiện diện của múa Chăm
trong vương triều: “năm 1044 vua Lý Thái Tông mang quân đi đánh
Chiêm Thành, tiến vào kinh đô Phật Thệ (Vijaya) bắt hơn 100 cung nữ
của vua Chiêm đưa về Thăng Long kén người nào giỏi hát và biết múa
điệu khúc Tây Thiên” [55, tr.52].Các nhà nghiên cứu nước ngoài chủ


10
yếu là người Pháp cũng rất quan tâm đến văn hóa Chăm, và đã viết khá
nhiều công trình khảo cứu về các lĩnh vực khác nhau của văn hóa Chăm.
Có thể kể đến một số công trình sau:
Năm 1889, A.Bergaigne công bố công trình đầu tiên về lịch sử
Chăm Pa qua các văn bản cổ và đến năm 1893 ông cho ra đời công trình
về văn bản gốc và bản dịch 16 bia ký cùng lời bình. Sang đầu thế kỷ
XX, vào năm đầu tiên 1901, L.Finot xuất bản danh mục các kiến trúc
Chăm Pa cũng như nghiên cứu của ông về các tôn giáo của Chăm Pa cổ.
Sau đó đến năm 1918, ông cho ra mắt một loạt các bài viết về văn tự
Chăm. Năm 1909, H.Parmentier công bố tập I và năm 1918 tập II cuốn
Thống kê khảo tả các di tích Chăm ở Trung Kỳ [39].
Năm 1942, P.Stern công bố cuốn Nghệ thuật Chăm Pa và tiến trình
của nó [74]. Khoảng giữa những năm 1910 - 1913, G.Maspero cho ra
đời cuốn sách Vương quốc Chăm Pa. Vào năm 1927, R.Majumdar cho
ra đời cuốn sách Các thuộc địa Ấn Độ Viễn Đông mô tả về lịch sử và
tôn giáo Chăm. Năm 1947, R.Stein cho ra mắt cuốn Lâm Ấp và P.
Dupont xuất bản cuốn Đông Dương thế kỷ VI-XII mô tả mối quan hệ

giữa vương triều Panduranga với Chân Lạp. Năm 1957, J.Boisselier cho
in bài về Nghệ thuật Chăm và cuốn sách về Tượng Chăm năm 1963
[21].
Điểm qua các công trình nghiên cứu ở trên có thể kết luận, trước
năm 1975: chưa có một công trình chuyên khảo nào về nghệ thuật múa
Chăm ở Việt Nam. Từ sau năm 1975, các sách về lịch sử, văn hóa, văn
học, nghệ thuật Chăm Pa đã được các nhà nghiên cứu Việt Nam quan
tâm nhiều hơn. Bên cạnh các công trình viết về văn hóa, riêng về điêu
khắc Chăm Pa, phải kể đến tác phẩm Điêu khắc Chăm [52] của nhóm
tác giả Nguyễn Văn Kự, Cao Xuân Phổ, Phạm Ngọc Long và tác phẩm


11
Điêu khắc Chăm và thần thoại Ấn Độ (2006) [36] của Huỳnh Thị Được.
Tác phẩm Nghệ thuật Chăm Pa câu chuyện những pho tượng cổ (2014)
[28] của PGS.TS. Ngô Văn Doanh là công trình đi sâu nghiên cứu dưới
góc độ văn hóa học và nghệ thuật học về những tác phẩm điêu khắc nổi
tiếng của Chăm Pa. Những công trình trên đã cung cấp những tư liệu về
văn hóa, nghệ thuật của vương quốc Chăm Pa, đồng thời, cũng cung cấp
thêm một số thông tin về ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ đối với nghệ
thuật Chăm Pa.
1.4.2. Những công trình nghiên cứu chuyên sâu về nghệ thuật
múa Chăm
Trong số hơn 500 công trình tư liệu bằng văn bản đã được công bố,
không thấy một công trình hay một chuyên đề nào về nghệ thuật múa,
có chăng chỉ là một đôi dòng, đôi đoạn rất sơ lược. Chỉ từ sau năm 1975
mới có một số ít công trình, sách chuyên khảo về nghệ thuật múa xuất
hiện.
Công trình Nghệ thuật múa Chăm [12], tác giả GS.TS.NSND Lê
Ngọc Canh đã khảo tả khá toàn diện về nghệ thuật múa truyền thống

Chăm. Trong công trình Bước đầu tìm hiểu, phục hồi múa cung đình
Chăm [43] của mình, NSND Đặng Hùng khẳng định có Nghệ thuật múa
cung đình Chăm. Bằng chứng là các hình tượng múa còn lưu lại trên các
bản điêu khắc đá.
Múa Chăm ở Ninh Thuận (2009), luận văn thạc sĩ văn hóa học của
Nguyễn Thị Hội An nghiên cứu về các điệu múa trong lễ hội của người
Chăm ở các làng Hữu Đức, Đô Vinh, Bàu Trúc (Ninh Thuận) và ở nhiều
địa phương có người Chăm sinh sống.
Khảo cứu hình người nhảy múa qua điêu khắc Chăm (2011) [38],
luận văn Thạc sĩ nghệ thuật sân khấu của Đinh Thu Hà đã nhận định:


12
múa cung đình Chăm là một hiện tượng có thật trong lịch sử, từ thế kỷ
VIII đến thế kỷ X, đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ và để lại dấu ấn sâu sắc
trên di sản điêu khắc Chăm Pa...
Múa trong lễ hội dân tộc Chăm (2013), luận văn thạc sĩ nghệ thuật
sân khấu của Nguyễn Thùy Dương chủ yếu viết về các hình thái múa
trong lễ hội của người Chăm.
Nhìn lại vấn đề nghiên cứu, cho đến nay di sản múa Chăm qua điêu
khắc Chăm Pa chưa là đối tượng của một công trình khoa học độc lập,
vẫn đang còn là một điểm trống trong lịch sử nghiên cứu văn hóa người
Chăm ở Việt Nam. Do vậy, NCS quyết định chọn vấn đề này để nghiên
cứu một cách chuyên sâu và theo hệ thống khoa học. Trong quá trình
nghiên cứu, NCS có chọn lọc, kế thừa thành tựu nghiên cứu của những
nhà khoa học đi trước, đồng thời tăng cường sưu tầm tư liệu mới trong
quá trình tra cứu tài liệu và đi nghiên cứu thực tế. Từ đó, đưa ra những
những kết luận mới trong nghiên cứu trường hợp Di sản múa Chăm qua
một số tác phẩm điêu khắc Chăm Pa, để có được cái nhìn toàn diện, sâu
sắc và chi tiết hơn về nghệ thuật múa của dân tộc Chăm trong qua khứ.

Tiểu kết
Chương 1 của luận án đã trình bày cơ sở lý luận khoa học áp dụng
vào trong quá trình thực hiện đề tài luận án và một số khái niệm liên
quan đến đề tài nghiên cứu. Đây sẽ là những cơ sở lý luận cơ bản để tiếp
cận, nghiên cứu về múa Chăm qua điêu khắc Chăm Pa. Đồng thời,
thông qua việc điểm qua các công trình nghiên cứu của các tác giả trước
đây, NCS cố gắng tìm ra những vấn đề còn bỏ ngỏ để có thể tiếp tục
thực hiện trong nghiên cứu mới về múa Chăm. Các vấn đề nêu ra đều có
mối liên hệ khăng khít với nhau trong quá trình thực hiện luận án. Có
thể nói, nghệ thuật múa Chăm được hình thành và phát triển rực rỡ như


13
ngày hôm nay chính là nhờ nền tảng văn hóa đậm đà bản sắc của dân
tộc Chăm. Mặc dù phải trải qua nhiều đổi thay của lịch sử, nhưng nền
văn hóa ấy vẫn mang đậm nét đặc trưng riêng và thật sự là kho tàng
nghệ thuật quí báu của dân tộc cần phải được gìn giữ và phát huy.
Chương 2
NHỮNG HÌNH TƯỢNG MÚA TRÊN ĐIÊU KHẮC CHĂM PA
2.1. Khái quát lịch sử và văn hóa Chăm Pa
2.1.1. Khái quát lịch sử Chăm Pa
Căn cứ vào tài liệu khảo cổ tìm thấy trên địa bàn cư trú tập trung
của người Chăm (Nam Trung Bộ), thuộc thời đại từ đồng thau đến sắt
sớm, có niên đại từ 4000 năm đến 2000 năm trước đây được cho là văn
hóa tiền Chăm Pa, có thể cho rằng, người Chăm chí ít cũng đã có mặt ở
Việt Nam từ trước Công nguyên.
Người Chăm Pa lập quốc vào cuối thế kỷ thứ II, với các tên gọi
Lâm Ấp, Hoàn Vương và Chiêm Thành. Người Chăm có cùng nguồn
gốc nhân chủng với các tộc người thuộc nhóm ngữ hệ Malayo –
Polynesien. Về không gian sinh tồn, vương quốc Chăm Pa có 5 vùng: 1/

Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên và thư tịch cổ Chăm Pa ghi là
Indrapura. 2/Quảng Nam và Quảng Ngãi, trong bia ký và thư tịch cổ
Chăm Pa ghi là Amaravati. 3/ Bình Định, trong bia ký và thư tịch cổ ghi
là Vijaya. 4/Khánh Hòa (qua khỏi đèo Cả), trong bia ký và thư tịch cổ
Chăm Pa ghi là Kauthara. 5/ Ninh Thuận và Bình Thuận, trong bia ký
và thư tịch cổ ghi là Panduranga.
2.1.2. Khái quát về văn hóa Chăm Pa
Từ khi tiếp nhận những ảnh hưởng của văn hóa – văn minh Ấn Độ,
người Chăm theo Ấn Độ giáo, thờ một hay cả ba vị thần của Tam vị
nhất thể là Brahma – Vishnu – Shiva. Tuy nhiên người Chăm tôn sùng


14
thần Shiva hơn cả. Và cũng như các nước trong khu vực Đông Nam Á,
người Chăm đã sớm tiếp thu hệ thống văn tự cổ Ấn Độ để sáng tạo ra
chữ viết của mình. Văn học Chăm Pa phong phú, đa dạng về hình thái
lẫn nội dung. Thành tựu nổi bật của nền văn hóa Chăm Pa là hệ thống
kiến trúc đền tháp và điêu khắc. Trong các di sản văn hóa Chăm, múa là
một kho tàng nghệ thuật quí báu và phong phú. Bên cạnh những điệu
múa dân gian, người Chăm còn có những phong cách múa truyền thống
mà ngày nay còn thấy hiện hữu trên các hình điêu khắc cổ Chăm Pa.
2.2. Điêu khắc Chăm Pa – thành tố đặc trưng của nền văn hóa
Chăm Pa
2.2.1. Khái quát nghệ thuật điêu khắc Chăm Pa
Ngay từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhiều nhà khoa học Pháp
đã công bố những công trình giới thiệu về các hiện vật tượng cổ Chăm
Pa. Dựa vào niên đại của các bia ký cũng như những phân tích cụ thể
các công trình kiến trúc (đền tháp), H.Parmentier chia lịch sử nghệ thuật
Chăm Pa ra làm hai thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất (từ thế kỷ VII đến hết thế
kỷ X) gồm: nghệ thuật nguyên thủy, nghệ thuật hình khối và nghệ thuật

hỗn hợp. Thời kỳ thứ hai bắt đầu từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVI (kết thúc
nghệ thuật cổ Chăm Pa) gồm nghệ thuật cổ điển và nghệ thuật biến loại
nối tiếp nghệ thuật nguyên thủy của thời kỳ trước [28]. Bốn chục năm
sau, vào năm 1942, nhà nghiên cứu người Pháp P.Stern đã chia nghệ
thuật Chăm Pa thành 7 phong cách và giai đoạn. Từ năm 1942 đến nay,
bảng phong cách và niên đại nghệ thuật Chăm Pa của P.Stern được các
nhà chuyên môn trên thế giới chấp nhận. Dựa trên những phương pháp
và kết quả mà P.Stern đã áp dụng và đạt được, năm 1963, J.Boisselier
đã phân chia nghệ thuật điêu khắc Chăm Pa thành 9 phong cách và giai
đoạn sau. Và, từ năm 1963 đến nay, với những kết quả nghiên cứu của


15
J.Boisselier, cả thế giới đã biết tới một cách đầy đủ và hệ thống về tiến
trình nghệ thuật điêu khắc cổ Chăm Pa.
2.2.2. Điêu khắc Chăm Pa và những ảnh hưởng của văn hóa Ấn
Độ
Sự ảnh hưởng của Ấn Độ về nghệ thuật điêu khắc là khá rõ nét, có
thể thấy trong một số tác phẩm điêu khắc của Chăm Pa đã gợi nhớ về
các tác phẩm tương tự ở Ấn Độ như: tượng Shiva ở Phong Lệ và Mĩ
Sơn C-I, tượng Shiva trên Nandin ở Khương Mỹ …[23]. Để tìm hiểu về
múa Chăm xưa, các tác phẩm điêu khắc Chăm Pa chính là nguồn cứ liệu
khoa học quan trọng trong việc giải mã các hình tượng múa trên các bản
ghi khắc bằng đá.
2.3. Các tác phẩm điêu khắc Chăm Pa có hình người múa
2.3.1. Điêu khắc thể hiện Shiva múa
Cho đến nay, ở Việt Nam, hiện đã phát hiện được mười một tác
phẩm điêu khắc đá Chăm Pa thể hiện thần Shiva múa, đó là:
2.3.1.1. Hai bức phù điêu Mỹ Sơn C.1 và A’1: Cả hai bức phù điêu
đều mô tả cảnh thần Shiva múa trên đầu con quỷ lùn đang nằm soài ở

bên dưới. Và, ở cả hai tác phẩm điêu khắc Mỹ Sơn, thần Shiva đều chỉ
có hai cánh tay chính.
2.3.1.2. Phù điêu Lương Hậu: Bức phù điêu cao 0,96m, đáy rộng
1,17m, miêu tả thần Shiva đang nhảy múa trên tòa sen lớn với 12 cánh
tay phụ thể hiện ở các biểu tượng khác nhau.
2.3.1.3. Hai bức phù điêu Bích La và Phong Lệ: Thần Shiva múa
trên phù điêu Bích La được thể hiện với những nét mang tính nhân
chủng rất đặc trưng của phong cách Đồng Dương. Phù điêu Phong Lệ
mô tả thần Shiva có 16 cánh tay đang múa ở giữa với một vòng người
đang chiêm bái ở xung quanh.


16
2.3.1.4. Bức phù điêu Trà Kiệu: Thần Shiva Trà Kiệu có 4 tay và
giống với tư thế chân của thần Shiva Phong Lệ của phong cách tiền thân
trước đó là phong cách Khương Mỹ.
2.3.1.5.Hai bức phù điêu Khương Mỹ: Hai bức phù điêu lớn
Khương Mỹ thuộc phong cách nghệ thuật điêu khắc Trà Kiệu.
2.3.1.6. Ba bức Phù điêu Tháp Mắm: Ba phù điêu chạm nổi này đã
thể hiện những cảnh tượng vị thành niên của thần Shiva.
2.3.1.7. Bức phù điêu Pô Klaung Garai: Tác phẩm điêu khắc thể
hiện Shiva có 4 tay và đứng múa trên trán cửa tháp Pô Klaung Garai.
2.3.1.8. Bức phù điêu Mỹ Sơn H.1: Phù điêu thể hiện thần Shiva có
tám cánh tay đứng trên bông sen hai lớp cánh với bàn chân phải đặt trên
mặt đất còn bàn chân trái thì đặt nửa bàn chân chạm đất và nhấc gót lên.
Tất cả mười một tác phẩm điêu khắc Shiva múa đều thể hiện vị
chúa tể của vũ đạo mang sức mạnh của vũ trụ và tuy còn mang dấu ấn
của văn hóa Ấn Độ nhưng lại trở thành những kiệt tác của Chăm Pa.
2.3.2. Điêu khắc thể hiện Uma múa (Mahishamardini)
Ngoài Ấn Độ , tại khu vực Đông Nam Á , nơi đã phát hiện được

nhiều nhất những tác phẩm điêu khắc đá thể hiện

nữ thần giết quỉ đầu

trâu - Mahishamardini là nền nghệ thuật điêu khắc cổ

Chăm Pa. Nếu

tính cả chiếc trán cửa Chiên Đàn mới phát h iện thì đã có tới sáu chiếc
trán cửa đá mô tả khá tỉ mỉ về Mahishamardini.
2.3.2.1. Trán cửa Mỹ Sơn E.4: Nữ thần Durga của Mỹ Sơn E .4 có
mười tay rất đặc biệt và gần với phong cách truyền thống Ấn Độ.
2.3.2.2. Trán cửa Chiên Đàn I: Khác với của Mỹ Sơn E .4, nữ thần
Durga của Chiên Đàn chỉ có sáu cánh tay.
2.3.2.3. Trán cửa Tháp Mắm: Rất tiếc bức phù điêu chỉ còn lại
phần trên của chiếc trán cửa thể hiện nữ thần có tám cánh tay.


17
2.3.2.4. Trán cửa Tháp Pô Nagar (Nha Trang): Tác phẩm Tháp
Bà Nha Trang có niên đại cuối thế kỷ X và thuộc cuối phong cách điêu
khắc Trà Kiệu và đầu phong cách Chánh Lộ (đầu thế kỷ XI).
2.3.2.5. Trán cửa Chiên Đàn II: Phù điêu Chiên I và Chiên Đàn II
khá giống nhau vì cả hai nữ thần đều có sáu tay.
2.3.2.6. Trán cửa núi Cấm: Phù điêu nữ thần núi Cấm rất gần với
tạo hình múa của thần Shiva Trà Kiệu và của các vũ nữ trên bệ đá Trà
Kiệu. Đây là phẩm đẹp nhất trong sáu tác phẩm mô tả Mahishamardini.
Tóm lại, có thể nhận thấy, trong nghệ thuật điêu khắc cổ Chăm Pa ,
có bốn hình thức chính thể hiện Mahishamardini: "1. thể hiện nữ thần có
bốn tay và không cầm cung tên (trán cửa Pô Nagar); 2. thể hiện nữ thần

có sáu tay và cầm cung (hai trán cửa Chiên Đàn ); 3. thể hiện nữ thần có
tám tay và không cầm cung tên (trán cửa Tháp Mắm ) và 4. thể hiện nữ
thần có mười tay v à cầm cung tên (trán cửa Mỹ Sơn E .4)" [30, tr.257258] . Đó là cả một sự thể hiện phong phú về nữ thần Durga giết quỷ
đầu trâu.
2.3.3. Điêu khắc thể hiện vũ nữ, vũ công
Ngoài thần Shiva là chúa tể của nghệ thuật múa, trong điêu khắc
Chăm Pa, còn thấy các phù điêu thể hiện các nữ thần, tiên nữ, chiến
binh, đấu sĩ, vua và các loài vật có đường nét, tạo hình giống múa.
Trong đó, hình tượng các vũ nữ được thể hiện theo nhiều bố cục khác
nhau với hình thức múa đơn hoặc múa tập thể. Và ở mỗi phong cách, vũ
điệu của các vũ nữ đều mang những đường nét sinh động và tạo hình
khác nhau như: cảnh ba người trong điệu múa khăn ở Thành bậc đài thờ
Mỹ Sơn E.1; Phù điêu vũ nữ Trà Kiệu (Apsara); Các vũ nữ trên đài thờ
Trà Kiệu…Bên cạnh các điêu khắc mô tả vũ nữ, có không ít các tác
phẩm mô tả các vị vua cầm kiếm, dũng sĩ diệt thủy quái, chiến binh


18
xung trận, dũng sĩ đấu vật, tiêu biểu là: Phù điêu đấu vật Khương Mỹ thế kỷ X (Quảng Nam Đà Nẵng); Chiến sĩ bay Mỹ Sơn – thế kỷ VIII
(Quảng Nam).
Tiểu kết
Chương 2 của luận án tập trung nghiên cứu 24 tác phẩm tiêu biểu
có hình người múa trong điêu khắc Chăm Pa bằng các dẫn chứng và cứ
liệu khoa học quan trọng đã được sử liệu ghi chép và các nhà khoa học
khẳng định qua các công trình nghiên cứu đã công bố trước đây. Do
hoàn cảnh thay đổi của lịch sử, múa Chăm qua điêu khắc Chăm Pa nay
đã không còn tồn tại trong thực tế, mà chỉ còn lưu lại trên các bức phù
điêu và nhờ bàn tay tài năng của các nghệ nhân điêu khắc cổ để lại.
Nghiên cứu múa Chăm qua di sản điêu khắc Chăm Pa chính là tìm về
cội nguồn, tìm về nền tảng văn hóa Chăm trong tiến trình lịch sử hình

thành và phát triển văn hóa Chăm. Trong đó, di sản múa Chăm qua điêu
khắc Chăm Pa chính là kết quả của tư duy thẩm mỹ, cấu trúc nghệ thuật
và là thành tố trong chỉnh thể văn hóa của dân tộc Chăm cần phải được
làm sáng tỏ nhằm làm tốt công tác phục dựng và phát huy trong xã hội.
Chương 3
NHỮNG BÀN LUẬN RÚT RA TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Kết quả nghiên cứu giá trị đặc trưng của những hình
tượng múa trong di sản điêu khắc Chăm Pa
3.1.1. Đặc điểm múa Chăm qua điêu khắc Chăm Pa
Nghiên cứu, so sánh 24 tác phẩm điêu khắc đá Chăm Pa có đường
nét, tạo hình múa ở chương 2, có thể rút ra 3 đặc điểm nổi bật sau: Thứ
nhất, hình tượng múa với đường nét, tạo hình gấp khúc nhưng mềm
mại. Thứ hai, tạo hình múa theo qui tắc cân đối mang tính niêm luật.
Thứ ba, dùng cơ thể làm phương tiện biểu đạt thuyết sinh tồn.


19
3.1.2. Phong cách múa Chăm qua điêu khắc Chăm Pa
Qua khảo cứu các hình tượng về Shiva múa, nữ thần Uma và vũ
nữ, vũ công trong điêu khắc Chăm Pa, nổi bật lên 2 phong cách múa
khác nhau với sự tiếp thu kế thừa được nối tiếp từ giai đoạn này đến giai
đoạn khác. Đó là phong cách múa Shiva và phong cách múa Vũ nữ.
3.2. Kết quả nghiên cứu các “vũ công hóa đá” qua liên hệ - so
sánh với múa cổ điển Ấn Độ
Từ góc độ nghiên cứu vũ đạo học, qua nghiên cứu so sánh với múa
cổ điển Ấn Độ - Bharata Natyam, NCS nhận thấy trên các hình tượng
múa trong điêu khắc Chăm Pa, có những dấu ấn đặc trưng mang đậm
phong cách múa cổ điển Ấn Độ. Đó là các tư thế tay, chuyển động của
chân, đầu, cổ và mắt với các tên gọi như sau:
3.2.1. Thế tay đơn (Các động tác một tay): Pataka –lá cờ; Arala –

T
2
5

T
2
5

uốn cong; Katakamukha –mở vòng tay; Suchi –kim nhọn; Padmakosa –
T
2
5

T
2
5

nụ hoa sen; Hamsasya –mỏ con thiên nga; Palli – Biểu tượng phụ nữ.
Từ những biểu tượng bàn tay trong múa cổ điển Ấn Độ - Bharata
Natyam, đối chứng với những phù điêu múa Chăm Pa, nhận thấy có
những điểm tương đồng như: Shiva múa Phong Lệ, 14 cánh tay phụ đều
giữ ở thế tay Arala, tay phải chính ở thế tay Pataka; Shiva múa Bích La
với hai bàn tay chính và 8 tay phụ đều ở thế tay Katakamukha; Shiva
múa Mỹ Sơn H1 với tay phải chính ở thế tay Pataka, hai tay phụ cuối
cùng ở thế tay Anjali; Vũ nữ Trà Kiệu với tay phải ở thế tay Suchi; Vũ
nữ tháp Mắm với tay phải ở thế tay Hamsasya, tay trái ở thế tay Pataka;
Mahishamardini tháp Bà Nha Trang với bàn tay phải chính ở thế tay
Palli hasta. Đây là cơ sở khoa học quan trọng, là đầu mối để NCS tiến
gần đến việc giải mã các vũ công hóa đá trong điêu khắc Chăm Pa đạt
kết quả.



20
3.2.2. Thế tay đôi: Anjali - cung kính; Yoga Uttarabodhi – hoàn
T
2
5

T
2
5

T
2
5

hảo. Qua so sánh – đối chiếu, ở thế tay Anjali giữ ở trên đầu là các phù
T
2
5

T
2
5

điêu: Shiva múa Khương Mỹ và Shiva múa Mỹ Sơn H1; Uttarabodhi
1
T6
2
5


1
T6
4

T
4

mudra - biểu tượng của sự hoàn hảo là hình ảnh Shiva múa tháp Mắm
T
4

T
4

T
4

T
4

T
4

T
4

T
4


T
4

với hai cánh tay phụ cuối cùng giơ cao trên đầu; Mahishamardini núi
T
4

T
4

Cấm (Bình Định) và Mahishamardini Chiên Đàn I, với hai cánh tay phụ
T
4

đang giữ ở biểu tượng Uttarabodhi.
3.2.3. Bước chuyển động của chân: Tatta Adavu - dậm chân tại
T
2
5

chỗ; Tatti Metti Adavu - chân chuyển động về phía trước. Có thể nhận
T
2
5

thấy trong những bức phù điêu sau: Shiva múa Trà Kiệu, Shiva múa
tháp Mắm, Vũ nữ Trà Kiệu và Mahishamardini tháp Bà Nha Trang với
hai chân trùng ở tư thế Aramandi; Shiva múa Pô Klaung Girai, Shiva
múa Mỹ Sơn H1, Mahishamardini núi Cấm và Vũ nữ tháp Mắm với bàn
chân ở thế Prenkhana.

3.2.4. Tư thế múa “Chim bồ câu”: So sánh tạo hình trong phù
điêu Chiến sĩ bay Mỹ Sơn rất giống với tư thế Chim bồ câu trong bài tập
Yoga.
3.2.5. Chuyển động của đầu: Sama - đầu giữ thẳng; Paravrtta đầu quay sang trái. Có thể nhận thấy Sama (đầu giữ thẳng) trong các
phù điêu: Shiva múa tháp Mắm, Shiva múa Pô Klaung Girai và Shiva
múa Mỹ Sơn H1; Paravrtta (đầu quay sang bên trái), trong các bức phù
điêu Shiva múa Phong Lệ và Vũ nữ Trà Kiệu.
3.2.6. Chuyển động của mắt: Sama - nhìn thẳng; Sachi - liếc bên
cạnh; Nimilita - ti hí; Ullokita - nhìn lên. Có thể nhận thấy Sama (mắt
nhìn thẳng), trong các bức phù điêu: Shiva múa Phong Lệ, Shi va múa
Trà Kiệu, Shiva múa tháp Mắm, Shiva múa Pô Kaung Girai, Vũ nữ Trà
Kiệu và Mahishamardini núi Cấm; Sachi (liếc mắt bên cạnh), trong các


21
bức phù điêu Mahishamardini tháp Bà Nha trang và Shiva múa Bích La;
Nimilita (nhắm mắt ti hí), trong bức phù điêu Shiva múa Mỹ Sơn H1;
Ullokita (mắt nhìn lên), trong bức phù điêu Shiva múa Phong Lệ.
3.2.7. Chuyển động của cổ: Sundari (cổ di chuyển sang hai bên
phải, trái); Tiraschina (cổ chuyển động lên và xuống, sang phải và trái
giống như con rắn đang trườn); Privartita (cổ chuyển động từ phải sang
trái giống như trăng lưỡi liềm). Có thể nhận thấy: Sundari trong bức phù
điêu Shiva múa Bích La; Tiraschina trong bức phù điêu Mahíshamardini
tháp Bà Nha Trang; Privartita trong bức phù điêu Shiva múa Phong Lệ.
Các tư thế tay, chuyển động của chân, đầu, cổ và mắt nêu trên là
những căn cứ quan trọng góp phần làm sáng tỏ những hình tượng múa
trên di sản điêu khắc Chăm Pa.
3.3. Kết quả nghiên cứu các “vũ công hóa đá” qua một số tác
phẩm múa
Năm 1976, GS.TS.NSND Lê Ngọc Canh đã trình làng tác phẩm

múa Thiếu nữ Chăm. Đây là tác phẩm đầu tiên đưa hình tượng
APSARA lên sân khấu múa chuyên nghiêp. Năm 1980, NSND Đặng
Hùng đã biến những tượng đá cổ APSARA, SHIVA thành những tượng
đá biết nói, có hồn, có sức sống, đó chính là tác phẩm múa Khát vọng.
Năm 1985, PGS.TS.NSND Ứng Duy Thịnh đã gửi tới khán giả và bạn
bè đồng nghiệp tác phẩm múa Khúc biến tấu từ pho tượng cổ, mang hơi
thở và đường nét của SHIVA – NATARAJA nam tính. Năm 1990,
NGND Phạm Minh Phương trong một chuyến đi thực tế tại Nha Trang,
đã sáng thành công tác phẩm múa Những cánh hoa Chàm với vẻ đẹp
quyến rũ, nhẹ nhàng, tinh khiết của các VŨ NỮ THIÊN THẦN. Những
tác phẩm kể trên là những tác phẩm múa tiêu biểu được các nhà biên
đạo khai thác từ các “vũ công hóa đá" trong điêu khắc Chăm Pa.


22
3.4. Kết quả nghiên cứu về sự lan tỏa của múa Chăm trong khu
vực
Vị sứ giả đã lưu truyền âm nhạc và múa Lâm Ấp vượt ra khỏi biên
giới là nhà sư Phật Triết. Theo nguồn tư liệu ghi chép, hình thức múa
Chăm đã lan tỏa sang Nhật Bản đó là “Lâm Ấp bát nhạc”. Và, vũ đạo
Chăm xuất hiện ở Tây Tạng với tên gọi là Bon Cham. Cho đến nay, tại
các khu vực trên, các điệu múa và các điệu nhạc Chăm vẫn còn tồn tại
và được coi trọng trong các dịp lễ của Phật giáo [55].
3.5. Ứng dụng và phát huy nghệ thuật múa Chăm vào múa
đương đại
Múa Chăm qua điêu khắc là sản phẩm của văn hóa Chăm Pa đang
đứng trước những thách thức to lớn và đang có nguy cơ mất dần theo
thời gian. Đứng trước thực trạng đó, nhằm khắc phục những mặt hạn
chế và phát huy những giá trị nghệ thuật của múa Chăm qua điêu khắc,
cần thực hiện tốt một số công việc sau: Thứ nhất, xây dựng và phát triển

đội ngũ các nhà nghiên cứu; Thứ hai, cung cấp tư liệu về múa Chăm cho
đội ngũ biên đạo, sáng tác; Thứ ba, căn cứ vào các bản ghi khắc trên đá
phục chế trang phục và đạo cụ biểu diễn; Thứ tư, nghiên cứu âm nhạc
dân gian Chăm sáng tác âm nhạc phù hợp với tác phẩm được phục chế;
Thứ năm, công diễn và đánh giá tác phẩm đã được phục dựng với khán
giả và đồng nghiệp để kịp thời chỉnh sửa, bổ sung cho hoàn thiện.
Tiểu kết
Phục dựng lại các vũ điệu Chăm đã bị chìm khuất từ
di sản điêu khắc Chăm Pa là việc đáng làm và cần thiết. Đặc biệt, đây là
loại múa hình thành từ TÔN GIÁO. Từ những kết quả nghiên cứu đã
nêu trong luận án, phần luận bàn để làm thế nào ứng dụng các kết quả
nghiên cứu vào việc phục dựng các giá trị múa Chăm trên sân khấu


23
đương đại Việt Nam phù hợp với sự phát triển của đất nước và nhu cầu
thưởng thức của xã hội. Các giải pháp được xây dựng trên cơ sở lý luận
và thực tiễn trong quá trình nghiên cứu. Múa Chăm trong điêu khắc
Chăm Pa là di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Chăm. Nếu múa
Chăm tiếp tục nhận được sự quan tâm và có định hướng phát triển đúng
đắn, chắc chắn sẽ có một tương lai hết sức rộng mở và tươi sáng.
KẾT LUẬN
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những vấn đề đã trình bày ở trên,
NCS rút ra 5 kết luận như sau:
Thứ nhất, Múa Chăm trong di sản điêu khắc Chăm Pa là hình thái
múa TÔN GIÁO đã không còn tồn tại trong thực tế, và hiện chỉ còn lưu
lại trên các bản ghi khắc bằng đá. Qua nghiên cứu 24 tác phẩm điêu
khắc có tạo hình, hình dáng múa, NCS nhận thấy có ba đặc điểm nổi
bật, đó là: hình tượng múa với đường nét, tạo hình gấp khúc nhưng mềm
mại; tạo hình múa theo qui tắc cân đối mang tính niêm luật; dùng cơ thể

làm phương tiện biểu đạt thuyết sinh tồn. Và hai phong cách múa đặc
trưng, đó là: Phong cách múa Shiva và phong cách múa Vũ nữ.
Thứ hai, văn hóa, nghệ thuật Chăm chịu ảnh hưởng sâu đậm văn
hóa nghệ thuật Ấn Độ, trong đó, có nghệ thuật múa. Văn hóa, tôn giáo
Ấn Độ đã nhanh chóng hòa nhập và chi phối tư duy sáng tạo của người
Chăm. Nhưng, với bản lĩnh, trí tuệ, tài năng sáng tạo, tư duy văn hóa,
thẩm mỹ, người Chăm đã tạo dựng cho mình một nền văn hóa nghệ
thuật múa độc đáo, mang đặc trưng văn hóa bản địa Chăm. Bên cạnh đó,
nghệ thuật múa Chăm không chỉ tồn tại, phát triển tại quê hương mà còn
lan tỏa, phát triển bền vững tại một số nước trong khu vực.
Thứ ba, trên cơ sở liên hệ so sánh với múa cổ điển Ấn Độ Bharata Natyam, NCS đã khảo cứu 24 bức phù điêu tiêu biểu có đường


×