Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

skkn GIÁO dục GIÁ TRỊ đạo đức TRUYỀN THỐNG CHO học SINH THPT TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY(qua khảo sát tại trường THPT chuyên lương thế vinh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.45 KB, 32 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị: TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG THẾ VINH

Mã số: ................................

(Do HĐTĐSK Sở GD&ĐT ghi)

GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO HỌC
SINH THPT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY(qua khảo sát tại
trường THPT chuyên Lương Thế Vinh)

Người thực hiện: Nguyễn Thị Bích Hồng
Lĩnh vực nghiên cứu:
Phương pháp dạy học bộ môn: Giáo Dục Công Dân

SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC


––––––––––––––––––
I.

THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN

1.

Họ và tên: Nguyễn Thị Bích Hồng

2.

Ngày tháng năm sinh: 03/2/1982


3.

Nam, nữ: Nữ

4.

Địa chỉ:Tân hiệp – Biên Hòa – Đồng Nai

5.

Điện thoại: 01635626581;E-mail:

6.

Chức vụ: Tổ Trưởng Chuyên môn

7.

Nhiệm vụ được giao: Tổ trưởng chuyên môn; giảng dạy môn GDCD lớp 12

8.

Đơn vị công tác: Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh

II.

TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO

-


Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Thạc sĩ

-

Năm nhận bằng: 2012

-

Chuyên ngành đào tạo: phương pháp dạy học môn giáo dục chính trị

III.
-

KINH NGHIỆM KHOA HỌC
Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: giảng dạy môn GDCD
Số năm có kinh nghiệm: 9 năm

-

Các sáng kiến đã có trong 5 năm gần đây:

1. Sử dụng có hiệu quả các tình huống pháp luật thực tế vào giảng dạy môn
GDCD 12
2. Nâng cao năng lực tự học cho HS thông qua dạy học môn GDCD lớp 12
3. Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho HS THPT thông qua dạy học
môn GDCD lớp 12
4. Giáo dục đạo đức với việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh
THPT

2



ĐỀ TÀI: GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO HỌC
SINH THPT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY(qua khảo sát tại trường THPT
chuyên Lương Thế Vinh)
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngay từ thời xa xưa, ông cha ta luôn coi trọng đạo đức, gìn giữ và phát huy
các giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Đó là truyền thống yêu quê hương đất nước,
gắn bó với thiên nhiên, với cộng đồng, đoàn kết thủy chung, quý trọng nghĩa tình;
cần cù, yêu lao động; hiếu học, sáng tạo, dũng cảm, kiên cường. Đó là lòng yêu
nước thương nòi, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp độc lập tự do của tổ
quốc, vì chủ nghĩa xã hội, sống có tình, có nghĩa, có đạo đức, có lý tưởng, vì nước,
vì dân; có ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đoàn kết nhân ái.
Hiện nay nền kinh tế thị trường đã đem lại những điều "kỳ diệu" trong sự
phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên nó cũng là mảnh đất màu mỡ nảy sinh lối sống
ích kỷ, vụ lợi, những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội đã và đang từng ngày,
từng giờ làm băng hoại những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, phá vỡ
nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống. Đặc biệt dưới sự tác động của quá trình đô
thị hoá, bên cạnh một số HS sống có hoài bão, có ý thức trách nhiệm công dân, có
trí tuệ, tài năng, dám nghĩ dám làm. Còn một bộ phận không nhỏ học sinh suy
thoái về đạo đức, sống buông thả, thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã
hội. Trong bối cảnh đó vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho
HSTHPT hiện nay trở nên hết sức bức thiết.
Trong những năm qua, công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc cho HS tại Đồng Nai nói chung và trường chuyên Lương Thế Vinh nói riêng đã
có sự chuyển biến tích cực với nhiều hình thức đa dạng và phong phú phù hợp với
HS. Tuy nhiên, những thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở Đồng Nai
trong những năm qua, nhất là quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường mở cửa
hội nhập quốc tế, đã tạo nên những biến động mạnh mẽ trong đời sống tinh thần
của thế hệ trẻ. Những mặt trái của nền kinh tế thị trường đã có ảnh hưởng tiêu cực

và làm thay đổi các quan điểm về giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, ảnh
hưởng không tốt đến lối sống của một bộ phận HS. Để nâng cao chất lượng và góp
3


phần tạo ra những chuyển biến tích cực trong công tác giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc cho HS tôi chọn đề tài: “Giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài SKKN của mình.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm “Truyền thống”
Khi đề cập đến vấn đề truyền thống, GS. TS Nguyễn Trọng Chuẩn đã có rất
nhiều bài viết về vấn đề này. Ông cho rằng: “Nói đến truyền thống là nói đến phức
hợp những tư tưởng, tình cảm, những tập quán, thói quen, những phong tục, lối
sống, cách ứng xử, ý chí ... của một cộng đồng người đã hình thành trong lịch sử,
đã trở nên ổn định và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác” [2; 17].
Truyền thống là một điều kiện cần thiết của quá trình duy trì và phát triển đời
sống xã hội. Con người ta ngay từ buổi sơ khai trong quan hệ với thiên nhiên và xã
hội đã dần dần tích luỹ được những kinh nghiệm trong sản xuất, chiến đấu và sinh
hoạt hằng ngày nhằm phục vụ đời sống của mình. Những kinh nghiệm quý báu
được giữ lại và đã dần dần ăn sâu vào tâm lý của con người và truyền từ đời này
qua đời khác, trở thành truyền thống. Với truyền thống, con người xã hội tiếp thu
được những giá trị, kinh nghiệm sống của thế hệ trước, rút ngắn được thời gian.
GS. Trần Quốc Vượng Khi nghiên cứu "về truyền thống dân tộc", viết:
“Truyền thống như là một hệ thống các tính cách, các thế ứng xử của một
tập thể (một cộng đồng) được hình thành trong lịch sử, trong một môi trường tự
nhiên và nhân văn nhất định, trở nên ổn định, có thể được định chế hóa bằng luật
hay bằng lệ, và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, để đảm bảo tính
đồng nhất của một cộng đồng” [13; 28-29].
Như vậy, truyền thống có tính cộng đồng, tính ổn định và tính lưu truyền.

Những đặc trưng đó của truyền thống có tính độc lập tương đối, khi những cơ sở,
điều kiện hình thành nên truyền thống đã thay đổi thì sớm muộn những nội dung
của truyền thống cũng dần dần biến đổi theo cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh
mới hoặc những truyền thống mới được hình thành, phát triển. Cho nên truyền
thống sẽ có tính hai mặt đối lập nhau đó là mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực
4


của truyền thống có tác dụng hình thành nên những phẩm chất tốt ở con người và
hành động của con người góp phần thúc đẩy xã hội phát triển, góp phần tạo nên
sức mạnh, là chỗ dựa không thể thiếu của dân tộc trên đường đi tới tương lai, và
ngược lại mặt tiêu cực của truyền thống sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội, “kìm
hãm, níu kéo, làm chậm sự phát triển của một quốc gia, dân tộc nào đó, nhất là khi
quốc gia, dân tộc này hạn chế giao lưu hoặc thi hành chính sách đóng cửa với thế
giới bên ngoài vì các lý do khác nhau” [3; 10]. Hai mặt này của truyền thống luôn
luôn tồn tại, mâu thuẫn biện chứng với nhau trong quá trình lịch sử. Mỗi dân tộc có
một truyền thống của mình, có truyền thống tốt, có truyền thống xấu. Đó là những
phong tục, tập quán, thói quen, những đức tính, lối ứng xử tồn tại lâu dài, được truyền
từ thế hệ trước cho thế hệ sau và có tác dụng tích cực hoặc tiêu cực. Truyền thống
biểu hiện bản sắc của mỗi dân tộc như truyền thống tín ngưỡng tôn giáo ở Ấn Độ,
truyền thống nghệ thuật kiến trúc ở Ý, truyền thống trồng lúa nước ở Việt Nam,
truyền thống du canh du cư của đồng bào dân tộc thiểu số v.v. Cũng có truyền thống
tốt như yêu nước, hiếu học... cũng có truyền thống xấu như mê tín dị đoan, học để
làm quan.
Truyền thống là mối liên hệ lịch sử giữa quá khứ và hiện tại của các hiện
tượng trong đời sống xã hội như tính cách, phẩm chất, tâm lý, phong cách suy nghĩ
và hoạt động, lối ứng xử, phong tục tập quán..., mối liên hệ này mang tính chất ổn
định trường tồn trong sự thay đổi, được số đông thừa nhận và tuân theo, được truyền
lại từ đời này qua đời khác.
1.1.2. Giá trị đạo đức truyền thống

Giá trị đạo đức truyền thống là một thành tố cấu thành của hệ giá trị tinh
thần của dân tộc Việt Nam, nó là nhân lõi, là sức sống bên trong của dân tộc. Giá
trị đạo đức truyền thống dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa của dân tộc được
xác định là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử
giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên (mà ngày nay ta gọi là
giá trị đạo đức sinh thái). Đặc điểm cơ bản của truyền thống nói chung, giá trị đạo
đức truyền thống nói riêng là sự kế thừa. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước, dân tộc Việt Nam đã rèn luyện và tạo nên những thế hệ người Việt Nam giàu
5


lòng yêu nước, yêu thương con người, cần cù, thông minh, sáng tạo, chịu thương,
chịu khó... Những đức tính đó đã trở thành những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam, mà hàng ngàn đời nay chúng ta vẫn nâng niu quý trọng. Theo Giáo
sư, Tiến sĩ Nguyễn Tài Thư “những giá trị truyền thống như: tinh thần yêu nước,
tính cộng đồng, lòng nhân ái, lối sống thanh bạch, cần cù, giản dị,…đã trở thành
những giá trị trường tồn, tồn tại qua nhiều thời đại cho đến tận ngày nay, không thể
vì những giá trị mới vào mà mất đi. Trái lại, nó có sức mạnh hòa tan và uốn nắn
các giá trị từ bên ngoài vào” [3; 181]. Nói đến giá trị truyền thống của một cộng
đồng dân tộc, chính là nói đến truyền thống tốt đẹp của cộng đồng dân tộc đó. Nó
chính là những giá trị bình ổn, tốt đẹp, có thể lưu truyền từ đời này qua đời khác, là
những cái cần được giữ gìn phát huy phát triển cho phù hợp với xã hội hiện tại.
Trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam, giá trị đạo đức truyền thống là
một bộ phận thiết yếu, nổi lên hàng đầu, tạo nên cốt lõi của hệ giá trị tinh thần đó.
Chính vì vậy, khi nói đến những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ta, là nói đến
những phẩm chất tốt đẹp, quý báu đã được hình thành và bảo lưu trong suốt chiều
dài lịch sử của dân tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta được
cô đúc, được thử thách và tái tạo qua nhiều thế hệ khác nhau, theo những bước
thăng trầm của lịch sử, nó chứa đựng một tiềm năng hết sức to lớn và bền vững, nó
chính là sức mạnh vốn có của dân tộc Việt Nam, giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại

và phát triển. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta do chính cộng đồng người
Việt Nam tạo lập trong quá trình dựng nước và giữ nước, với tất cả những điều
kiện lịch sử đặc thù riêng vốn có, đã tạo nên một bản sắc hết sức độc đáo.
1.1.3. Nội dung cơ bản của các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cần
giáo dục cho HS hiện nay
1.1.3.1. Truyền thống yêu quê hương, đất nước
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ngay từ đầu đã gắn bó
con người với thiên nhiên, với quê hương xứ sở của mình. Chính vì vậy truyền
thống yêu nước của dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ tình yêu đối với quê hương
làng xóm, yêu cây đa, bến nước, sân đình, nơi có ông bà, cha mẹ, vợ chồng, anh

6


chị em, con cái, bạn bè, bà con hàng xóm, nơi có mồ mả tổ tiên, nơi con người
hàng ngày vất vả chiến đấu với thiên nhiên để duy trì và xây dựng cuộc sống.
Lòng yêu nước đó được lưu truyền từ Thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc, thời kỳ
đó không để lại một nền văn học chữ viết, nhưng bằng những trang truyền thuyết
gửi gắm lại đời sau, biết bao những tấm gương anh hùng trẻ tuổi thắm đượm tinh
thần yêu nước. Điều đó được thể hiện trong kho tàng truyện thần thoại Việt Nam
về lòng yêu nước như: truyện Hồng Bàng, truyện Sơn Tinh, truyện Thánh Gióng,
truyện Thần Rựa Vàng
Nghiên cứu các truyền thuyết đó ta thấy nổi bật là tinh thần dũng cảm, bất
khuất chống ngoại xâm, chống lũ lụt thiên tai, tinh thần đoàn kết giữa những con
người trong cộng đồng. Đó là cốt lõi của tinh thần yêu nước được phát triển thành
chủ nghĩa yêu nước trong những thời kỳ sau.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam gắn liền với lịch sử chống giặc ngoại xâm. Vì
vậy, yêu nước trước hết là tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Cho dù ở hoàn cảnh nào, nhân dân Việt Nam vẫn luôn kiên cường bất khuất, "thà
hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ",

già trẻ gái trai nhất tề đứng lên đánh giặc, và như Chị Út Tịch nói: "còn cái lai quần
cũng đánh". Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân Củ Chi (Thành phố
Hồ Chí Minh) bỏ công sức đào địa đạo hàng trăm km dưới lòng đất để chống giặc.
Chính vì vậy mà trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, ông cha ta vẫn bám trụ đến
cùng, giữ đất, giữ làng, gắn bó với mồ mả tổ tiên, giữ vững nơi chôn rau, cắt rốn
của mình. Kiên quyết chống lại chính sách đô hộ của ngoại bang, giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào tinh thần yêu nước của dân tộc Việt
Nam không hề giảm sút mà nó luôn luôn được hun đúc, âm ỉ cháy trong lòng mỗi
người dân nước Việt. Mỗi lần Tổ quốc bị xâm lăng thì luôn đặt lợi ích Tổ quốc lên
trên hết, sẵn sàng gạt bỏ lợi ích riêng chấp nhận mọi gian lao, thử thách, hy sinh vì
độc lập dân tộc.
Ngày nay, truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam thể hiện trong xây
dựng đất nước, trước hết là chăm lo xây dựng đất nước về mọi mặt kinh tế, chính
trị, văn hóa... Thể hiện ở sự nhất trí, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng,
7


vào khả năng, sức mạnh tự lực tự cường của mình trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Có thể nói rằng,
dưới thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống yêu nước được phát huy lên tầm cao mới
thành lý tưởng: sống, chiến đấu, lao động, học tập vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa
xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân... Yêu nước không phải là một khái niệm chung
chung mà đó là tình yêu quê hương, đất nước, đoàn kết, là Trung với Đảng, hiếu
với dân, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm
vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Truyền thống yêu nước ngày nay còn được thể hiện ở tinh thần đấu tranh
chống lại những tệ nạn xã hội, tích cực tham gia thực hiện bảo vệ pháp luật, đức hy
sinh, chịu đựng mọi gian khổ, kiên trì khắc phục khó khăn, ra sức học tập, lao động
chống lại đói nghèo, lạc hậu… đó là những nội dung mới của truyền thống yêu
nước của dân tộc ta. Mỗi một chúng ta thấm sâu chủ nghĩa yêu nước chân chính

không rơi vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, ích kỷ phải coi giúp bạn là giúp mình,
góp phần giữ gìn độc lập dân tộc.
1.1.3.2. Truyền thống lòng nhân ái, nhân nghĩa, yêu thương con người
Từ trong sâu lắng của lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn luôn gắn tình yêu quê
hương đất nước với lòng nhân ái - yêu thương con người. Do vậy, người Việt Nam
luôn xả thân vì đất nước, con người yêu nước và con người yêu dân gắn bó chặt
chẽ với nhau. Trong suốt trường kỳ lịch sử, dân tộc ta luôn luôn đứng trước nguy
cơ bị xâm lược và bị đồng hóa, hơn ai hết, chúng ta hiểu rất rõ quyền sống của
mình gắn với vận mệnh của Tổ quốc và dân tộc.
Lòng nhân ái nhân nghĩa của người Việt Nam còn thể hiện ở lòng vị tha cao
thượng, không cố chấp đối với những người lầm đường lạc lối nhưng biết lập công
chuộc tội, trở về với chính nghĩa. Chính tư tưởng "lấy nhân nghĩa để thắng hung
tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo" trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là sự
thể hiện đỉnh cao của lòng nhân ái đó. Người Việt Nam lấy tình yêu thương làm
cách xử thế ở đời, đối với kẻ thù thậm chí còn mở đường hiếu sinh khi thua trận,
Vua Quang Trung sau khi đánh bại quân Thanh còn cấp lương thảo và phương tiện
cho đám tàn quân về nước.
8


Giáo dục lòng nhân ái cho HS vì lòng thương người là đạo lý của cuộc sống,
là đạo lý làm người. "Thương người như thể thương thân" là nét đẹp truyền thống
của dân tộc. Ngày nay, nền kinh tế thị trường đang nuôi dưỡng chủ nghĩa cá nhân
và lối sống thực dụng, lấy đồng tiền làm giá trị cao nhất; quan hệ giữa người với
người theo lối "trả tiền ngay không cần tình nghĩa" đang gặm nhấm dần những giá
trị tốt đẹp của dân tộc, làm khô héo lòng nhân ái trong con người. Trong tình hình
ấy thì việc khơi dậy tình người, lòng yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau rõ ràng là có
ý nghĩa nhất định góp phần đẩy lùi những ô nhiễm của xã hội, làm cân bằng trạng
thái tinh thần của môi trường sống.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng nhân ái, nhân nghĩa. Xuất phát

từ lòng thương yêu con người - người lao động, yêu quê hương đất nước, Bác đã
bôn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Cả cuộc đời mình, Bác hy sinh
cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Đúng như nhà thơ Tố Hữu viết:
"Bác ơi tim Bác mênh mông thế, ôm cả non sông mọi kiếp người".
Lòng nhân ái của Người đã trở thành sức mạnh, nó đã thấm sâu vào chủ trương
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta, có tác dụng cảm hóa hàng vạn con
người lầm đường lạc lối, theo kẻ thù chống lại nhân dân. Bác xem họ như là những
đứa con "lạc bầy" cần được cưu mang.
Trong đường lối đối nội, Đảng ta đã khơi dậy các phong trào "uống nước
nhớ nguồn", "đền ơn đáp nghĩa", chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình
thương binh liệt sĩ, giúp đỡ những người già cả neo đơn không nơi nương tựa. Phát
động phong trào xóa đói giảm nghèo, trợ giúp các dân tộc vùng sâu vùng xa, rút
ngắn khoảng cách thành thị - nông thôn miền xuôi - miền ngược...
Ngày nay, truyền thống đó được thể hiện trong đường lối đối ngoại của
Đảng: "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Lòng nhân ái của người Việt Nam cũng là
lòng yêu chuộng hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Trong quan hệ với các
nước láng giềng, nhân dân ta bao giờ cũng trọng tình hòa hiếu, cố gắng tránh xảy
ra những xung đột.
1.1.3.3. Truyền thống lao động cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo
9


Truyền thống cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo là một giá trị đạo đức
có từ bao đời của dân tộc Việt Nam. Nó được hình thành và phát triển trong điều
kiện, hoàn cảnh tự nhiên xã hội không ít những khó khăn khắc nghiệt ngay từ
những buổi đầu dựng nước và giữ nước.
Đức tính cần cù được đúc kết bằng câu tục ngữ ngắn gọn, trải mấy ngàn năm
vẫn còn giá trị với thời gian “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” ! Bốn yếu tố
này luôn đi liền với nhau thì mùa màng sẽ bội thu, no ấm… “Ai ơi chớ bỏ ruộng

hoang, Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu”. Bên cạnh đó là đức tính tiết kiệm
của người lao động ngày xưa. Bởi làm ra hạt gạo không phải là một điều đơn giản
mà trong từng hạt gạo luôn thấm đẫm những giọt mồ hôi “Cày đồng đang buổi ban
trưa, Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày”.. Vì thế, người xưa quan niệm sống
phải tiết kiệm, phòng khi mùa màng thất bát, bão lụt, thiên tai “Trong cuộc sống
hàng ngày, họ không bao giờ “ăn xổi ở thì” hoặc” vung tay quá trán” mà luôn tâm
niệm phải cẩn thận “Liệu cơm gắp mắm”. Trong sinh hoạt hàng ngày, họ dè xẻn
không có nghĩa là hà tiện mà là tiêu xài vừa đủ để được bền lâu “Buôn tàu buôn bè
không bằng ăn dè hà tiện”. Ngày nay, tinh thần tiết kiệm đó cho đến nay vẫn còn
nguyên giá trị. Đó là hình ảnh “ kiến tha lâu cũng đầy tổ”. Mặt khác, người xưa
cũng phê phán những kẻ chỉ biết hưởng thụ thành quả do người khác tạo ra “Của
đời ông, ăn không cũng hết” hoặc “Miệng ăn núi lở”. Học tập đức tính cần cù, tiết
kiệm là học cách sống của cha ông ta xưa. Những phẩm chất đó đã tạo nên hình
ảnh con người Việt Nam cần cù, yêu lao động và sống tiết kiệm trong khả năng,
điều kiện của mình.
Lối sống thực dụng, sống xa hoa, lãng phí hoàn toàn xa lạ với cách sống
giản dị của con người Việt Nam. Đọc những dòng tục ngữ, ca dao của người xưa;
chúng ta càng trân trọng cha ông xưa đã để lại cho đời sau nhiều bài học quý giá.
Sống giản dị, tiết kiệm; sống lao động cần cù; sống bằng sức lao động của chính
bản thân là cách sống đẹp, sống có nhân cách cao cả. Hồ Chủ tịch đã nêu rõ: con
người phải có bốn đức tính: Cần, kiệm, liêm, chính, so sánh với bốn mùa của trời,
bốn phương của đất, nếu thiếu một đức thì không thành người.

10


Ngày nay, cần cù sáng tạo được biểu hiện càng rõ nét trong lao động sản
xuất, trong khoa học- kỹ thuật, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các phong trào
thi đua rộng rãi và thường xuyên trên mọi lĩnh vực: ở biên cương, nơi đồng ruộng,
trong nhà máy xí nghiệp, trong nhà trường...

Đặc biệt trong quá trình đổi mới đất nước, với mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", hơn bao giờ hết truyền thống cần cù
sáng tạo càng được phát huy cao độ.
1.1.3.4. Truyền thống đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Đoàn kết là sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng dân tộc trong việc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, đoàn kết là điều kiện tất yếu để bảo tồn dân tộc, nhất là
khi đất nước có giặc ngoại xâm. Từ cách lý giải sự ra đời của dân tộc Việt Nam
trong truyền thuyết "Trăm trứng nở trăm con". Đây chính là sự khẳng định truyền
thống đoàn kết anh em giữa các dân tộc.
Ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết đã trở thành điểm tựa tinh thần vững
chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Xưa Nguyễn Trãi nói: "Chèo thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân" để chỉ
sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Dân là gốc, là nền tảng của sự tồn tại và phát
triển. Lúc sinh thời Bác Hồ từng nói: Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm
lần dân liệu cũng xong. Và: "Việc gì khó cho mấy, quyết tâm làm thì làm chắc
được, ít người làm không nổi, nhiều người đồng tâm hiệp lực mà làm thì phải nổi"
[11; 258]. Người còn khẳng định: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công,
thành công, đại thành công. Trước lúc đi xa, Người còn căn dặn các cán bộ, đảng
viên: Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các
đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống của Mặt trận Việt Minh trong sự
nghiệp đổi mới. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay, huy động tinh thần tương
thân, tương ái, phát động nhiều cuộc vận động "lá lành đùm lá rách", "ngày vì
11


người nghèo", "xây dựng ngôi nhà tình nghĩa", đền ơn đáp nghĩa những người có

công với cách mạng", "trái tim cho em", "giúp đỡ đồng bào bị hoạn nạn do thiên
tai gây ra..." làm ấm lòng tình nghĩa đồng bào, quê hương, góp phần đưa đất nước
ta vượt qua mọi khó khăn thử thách do cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và
những tổn thất nặng nề do thiên tai liên tiếp xảy ra, đưa đất nước ta vững vàng
bước tiếp dành những thành tựu to lớn trong quá trình hội nhập và phát triển.
1.1.3.5. Truyền thống giáo dục, hiếu học, tôn sư trọng đạo, trọng hiền tài
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục, với truyền thống hiếu
học, tôn trọng hiền tài, nên ngay từ xưa, ông cha ta đã biết chăm sóc, bồi dưỡng
nhân tài cho đất nước. Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) là kiểu trường đại học
quốc lập đầu tiên ở Việt Nam được thành lập, để đào tạo nhân tài. Trong bia tiến sĩ
khoa Nhâm Tuất, hiệu Đại Bảo thứ ba năm 1442 ở Văn Miếu (Hà Nội) còn ghi:
Hiền tài là nguyên khí của Nhà nước, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh,
nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy, cho nên các đấng thánh đế minh vương
không ai không chăm lo việc gây dựng nhân tài, bồi đắp nguyên khí.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế
giới - luôn luôn quan tâm và coi trọng giáo dục. Cả cuộc đời và sự nghiệp của
Người cũng chỉ phấn đấu cho một mục đích tối cao là làm sao để "ai cũng có cơm
ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Bác đã đặt hy vọng vào lớp trẻ mai sau, trong
thư gửi học sinh cả nước, tháng 9/1945 Bác nói: Non sông ta có trở nên tươi đẹp
hay không, dân tộc ta có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc,
năm châu được hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta ý thức một cách đầy đủ chủ
trương "giáo dục là quốc sách hàng đầu", là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát
huy nguồn lực con người. Việc phát huy truyền thống hiếu học, tôn trọng người
hiền tài càng trở nên có ý nghĩa, tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài, tôn trọng
sáng tạo trên cơ sở, nền tảng đạo đức trong sáng. Trong những năm qua, chúng ta đã
xây dựng được đội ngũ giáo viên và các cán bộ quản lý giáo dục ngày càng đông đảo,
phần lớn có phẩm chất đạo đức và ý thức chính trị tốt, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
12



ngày càng cao. Đội ngũ này về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng
của đất nước. Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước Tỉnh Đồng Nai của chúng
ta cũng luôn coi trọng đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài cho tỉnh. Công tác đào
tạo bồi dưỡng cán bộ luôn được coi trọng, hàng năm Sở Khoa Học Công Nghệ
Đồng Nai có những suất học bổng hoặc những nguồn vốn lớn cho cán bộ, công
chức và sinh viên vay để tha gia học tập nâng cao trình độ chuyên môn. Ủy Ban
Nhân dân Tỉnh đã đầu tư xây dựng nhiều cơ sở giáo dục hiện đại như trường THPT
chuyên Lương Thế Vinh, trường Đại Học Đồng Nai …và đặc biệt sở Giáo cũng rất
qua tâm và chú trọng trong việc giáo dục đạo đức truyền thống cho HS ngày nay.
1.1.3.6. Truyền thống lạc quan, yêu đời, giữ gìn phẩm giá và tâm hồn của
người Việt Nam
Truyền thống lạc quan, yêu đời được kết tinh qua hàng ngàn năm nhân dân
ta vượt qua muôn ngàn khó khăn, lạc quan tin tưởng vào tiền đồ của dân tộc, tin
tưởng vào chính mình. Chủ Tịch Hồ Chí Minh là điểm kết tinh rực rỡ của truyền
thống lạc quan yêu đời của dân tộc, đã tạo cho mình một sức mạnh phi thường
vượt qua mọi khó khăn thử thách đi đến chiến thắng.
Tinh thần lạc quan, yêu đời và hoài bão lớn của tuổi trẻ Việt Nam không chỉ
được lưu truyền trong truyền thuyết mà còn thể hiện rõ trong lịch sử đấu tranh
chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam bằng những người thật việc thật được sử
sách ghi nhận.
Bà Triệu Thị Trinh giỏi võ nghệ, có chí lớn. Năm 19 tuổi đáp lời người hỏi
Bà về việc chồng con, Bà nói: Ta muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ,
chém cá kình ở biển Đông đánh đuổi quân Ngô cởi ách nô lệ há chịu khom lưng
làm tỳ thiếp người ta ư đã thể hiện khí phách, tinh thần lạc quan yêu đời, khát vọng
tự do và gìn giữ phẩm giá tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam từ xa xưa của lịch
sử. Với ngọn cờ thêu 6 chữ vàng “Phá cường địch, báo Hoàng ân” Trần Quốc
Toản cùng những binh sĩ trẻ tuổi của mình hiên ngang tung hoành nơi trận mạc đã

thể hiện ý chí quật cường của tuổi trẻ Việt Nam.

13


Tinh thần lạc quan yêu đời của tuổi trẻ Việt Nam còn thể hiện ở lòng trung
thành với Tổ quốc, không chịu khuất phục bất cứ kẻ thù nào dù chúng ác độc đến
đâu. Trần Bình Trọng - vị tướng trẻ đã khẳng khái trả lời: “Ta thà làm quỷ nước
Nam chứ không thèm làm Vương đất Bắc”. Nguyễn Trung Trực khẳng khái trả lời
bọn thực dân Pháp “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người
Nam đánh Tây” và anh dũng hy sinh không chịu đầu hàng giặc đã chứng minh
hùng hồn cho tinh thần lạc quan yêu đời và hoài bão lớn của tuổi trẻ, giữ gìn phẩm
giá và tâm hồn Việt Nam.
Qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tuổi trẻ Việt Nam từ thế hệ này
đến thế hệ khác đã sinh ra, lớn lên và gắn bó cuộc đời mình, sức trẻ của mình với
vận mệnh dân tộc. Chính họ đã cùng với nhân dân ta, dân tộc ta làm nên những kỳ
tích lịch sử chiến thắng giặc ngoại xâm và chinh phục sự khắc nghiệt của thiên
nhiên, mở mang bờ cõi, xây dựng một dãy giang sơn gấm vóc.
1.2. Tính tất yếu, sự cần thiết phải giáo dục đạo đức cho HS trong giai
đọan hiện nay
Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, sức cạnh
tranh giữa các nước ngày càng mãnh liệt, để có thể tiếp cận được với tương lai,
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hơn bao
giờ hết, người HS hiện nay phải tìm mọi cách vươn lên nắm lấy tri thức của thời
đại, phải thực sự trở thành những con người nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ,
những người có đủ tài, nhưng đây mới chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ, người HS
đồng thời phải là người có đạo đức trong sáng, bởi lẽ nếu có tài mà thiếu tình cảm
đạo đức trong sáng thì cái tài đó sẽ mất phương hướng hoạt động, hoặc thậm chí
còn làm nguy hại đến lợi ích của cộng đồng.
Hơn nữa, nhân cách HS là loại hình nhân cách "chưa hoàn chỉnh", chưa

hoàn thiện mà còn ở dạng "định hình", do đó, các yếu tố hợp thành nhân cách cần
phải được xây dựng, củng cố, phát triển để đạt đến mẫu hình nhân cách mà xã hội
yêu cầu. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Chú trọng xây
dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể

14


chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là
trong thế hệ trẻ” [4; 126].
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống để hoàn thiện nhân cách HS là một
quá trình đấu tranh giữa cái tiến bộ với cái lạc hậu; cái tích cực với cái tiêu cực
trong mỗi chủ thể đạo đức HS. Theo số liệu thống kê của một số tổ chức, cơ quan
hay các đề tài nghiên cứu khoa học, cũng như những đánh giá của Đảng ta về công
tác HS, hiện lên trước mắt chúng ta một bức tranh đa màu sắc mà ở đó sự đan xen,
lẫn lộn giữa cái tốt với cái xấu, cái tiến bộ với cái lạc hậu... đòi hỏi chúng ta phải
khẩn trương hơn nữa, quyết liệt hơn nữa, cụ thể hơn nữa trong công tác giáo dục
đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ hôm nay khi họ còn ngồi trên ghế nhà trường.
HS là những chủ nhân của tương lai, là người kế tục sự nghiệp xây dựng đất
nước, chính vì vậy, họ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực phản động, đang
cản trở con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với chiến lược “Diễn biến
hoà bình”, chúng đang từng giờ, từng ngày tác động vào HS trên các mặt tư tưởng,
chính trị, lối sống, đặc biệt là đạo đức nhằm làm xói mòn niềm tin đối với Đảng, làm
băng hoại về mặt đạo đức với mục đích biến họ thành những con người ích kỷ, chỉ
biết có mình, quay lưng với sự nghiệp xây dựng đất nước mà cha ông đã mất bao
nhiêu mồ hôi, xương máu, hy sinh phấn đấu để xây dựng, bồi đắp nên…Chính vì
vậy, bên cạnh việc học chữ, thì việc xây dựng đạo đức mới cho HS càng trở nên cấp
thiết hơn.
Giáo dục đạo đức truyền thống sẽ giúp cho HS có niềm tin khoa học vào chủ
nghĩa xã hội, vào sự nghiệp cách mạng, từ đó sẽ xây dựng cho mình có quan điểm

đúng đắn, biến lý tưởng cao đẹp của Đảng thành hiện thực cuộc sống. Đạo đức
truyền thống giúp HS trở thành những con người có ý chí, học tập sáng tạo, chăm
chỉ, có tinh thần đoàn kết, biết phấn đấu vì lợi ích chung, có lối sống lành mạnh,
tôn trọng kỷ cương, phép nước, quy ước cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện
môi trường sinh thái.
Đặc biệt với sự tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường làm cho những
thói hư tật xấu, tâm lý đòi hỏi sự hưởng thụ, ích kỷ, chỉ muốn thoả mãn nhu cầu
của bản thân bằng mọi giá “bất chấp lương tâm, danh dự cũng như lòng tự trọng
15


đạo đức” dễ trỗi dậy, chính lúc này, đạo đức phải trở thành cán cân cơ bản điều chỉnh
từ sự nhận thức đến hành vi ứng xử của mỗi con người, đặc biệt là HS – đối tượng
nhạy cảm, dễ tiếp thu cái tốt, nhưng cũng rất dễ ngộ nhận dẫn đến việc nhận thức sai
lệch, đưa họ tới những hành vi lệch lạc, ảnh hưởng đến chính nhân cách của mình.
Việc xây dựng cho họ những quan điểm, phẩm chất đạo đức truyền thống, lối
sống lành mạnh sẽ giúp cho HS nhận diện được những việc làm phi đạo đức, dám đấu
tranh chống lại hiện tượng tiêu cực, phản văn hoá trong xã hội, hướng HS phát triển
theo hướng lành mạnh, tích cực, tự tạo ra khả năng phòng chống sự băng hoại về đạo
đức của bản thân, tin tưởng vào cuộc sống, từ đó, giúp họ xác định đúng đắn động cơ,
thái độ học tập của mình, có hướng phấn đấu, rèn luyện để thành tài, giúp ích cho
bản thân và cho xã hội.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO HỌC SINH THPT
3.1. Nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho HS trong nhà trường .
Để nâng cao nhận thức về công tác Giáo dục đạo đức truyền thống cho HS
trong giai đoạn hiện nay trường chuyên Lương Thế Vinh cần phải thực hiện các
giải pháp sau:
Một là, xác định rõ trách nhiệm của BGH nhà trường, Đoàn trường, giáo

viên chủ nhiệm và tất cả các giáo viên Bộ môn trong việc Giáo dục đạo đức truyền
thống cho HS. Xem việc quán triệt và thực hiện tốt công tác giáo dục đạo đức
truyền thống cho HS là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của nhà trường. Đưa
nhiệm vụ Giáo dục đạo đức truyền thống vào vào kế hoạch giáo dục, vào chương
trình hành động của Đoàn trường, các chi đoàn…Cụ thể hoá nhiệm vụ, chương
trình Giáo dục đạo đức truyền thống gắn với việc thực hiện chương trình giáo dục
để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Hai là, nâng cao nhận thức của cán bộ lãnh đạo Đảng, cán bộ lãnh đạo
Đoàn, về vị trí, vai trò, yêu cầu của việc giáo dục đạo đức truyền thống cho HS
trước yêu cầu của việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, trước sự phát triển
16


và tác động của nền kinh tế thị trường, sự bùng nổ của thông tin, trước những thách
thức của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở phân tích tình hình thực tiễn
của xã hội, của trường chuyên Lương Thế Vinh, đặc biệt là những hiện tượng tiêu
cực, mặt trái của cơ chế thị trường, của mở cửa, hội nhập để làm rõ tầm quan
trọng, vị trí của công tác giáo dục đạo đức truyền thống cho HS, xem đây là khâu
mở đường là phương tiện trọng yếu để tạo ta một sự chuyển biến lớn về nhận thức
và thói quen.
Ba là, khẳng định giáo dục đạo đức truyền thống là một trong những nội
dung cơ bản của công tác giáo dục của HS nhằm tiếp tục xây dựng thế hệ thanh
niên giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc; kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; có đạo đức cách mạng, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn
hóa, vì cộng đồng; có năng lực, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế; có sức khỏe, tri
thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp trong lao động tập thể, trở thành những
công dân tốt của đất nước. Cổ vũ từng HS nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, xung
kích, sáng tạo, làm chủ khoa học - công nghệ tiên tiến, vươn lên ngang tầm thời
đại. Hình thành một lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành và
xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; góp phần to lớn vào sự

nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
3.1.2. Nâng cao hiệu qủa giáo dục giá trị đạo đức truyền thống thông qua
đổi mới nội dung, chất lượng giảng dạy GDCD trong nhà trường.
Môn GDCD hiện nay có vai trò to lớn trong việc trang bị cho HS những tri
thức cơ bản và thiết thực về Triết học, Kinh tế chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa
học, và pháp luật. Thông qua nội dung giảng dạy sẽ giúp HS hình thành thế giới
quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, lòng yêu nước, yêu CNXH, rèn luyện
bản lĩnh chính trị cho HS, giúp cho HS nhìn nhận và hiểu được những sự cống hiến
của các thế hệ đi trước, truyền thống nhân đạo sâu sắc và còn nhiều truyền thống,
giá trị cao đẹp khác của dân tộc.
Hiện nay, chuyên Lương Thế Vinh thực hiện phương châm lý luận liên hệ
với thực tiễn, gắn lý thuyết với thực hành; gắn việc học tập lý luận ở trường với
thực tiễn đời sống xã hội, gắn học tập với rèn luyện tư cách đạo đức. 100% giáo
17


viên của GDCD đã được bồi dưỡng phương pháp dạy học tích cực và đã áp dụng
phương pháp dạy học tích cực (kết hợp thuyết trình, thảo luận nhóm, tình huống,
nêu vấn đề…) phát huy tính tự giác, chủ động học tập của HS trên cơ sở hướng
dẫn gợi mở của giáo viên; tăng cường thảo luận, liên hệ, vận dụng những kiến thức
đã học với việc giải quyết các tình huống trong xã hội. Chất lượng giảng dạy
GDCD của nhà trường thời gian qua đạt được hiệu quả cao. Để thực hiện việc nâng
cao chất lượng giảng dạy các môn GDCD một trong những biện pháp quan trọng
nhất chính là đổi mới phương pháp dạy học.
Hằng năm, tổ GDCD có họp chuyên môn để sửa đổi, bổ sung những nội
dung trong sách giáo khoa chưa cập nhật được những sữa đổi của pháp luật nước ta
như: luật Nghĩa vụ Quân sự sửa đổi bổ sung năm2014, Luật Hôn nhân và Gia đình
sửa đổi bổ sung 2014… Cùng với nhiệm vụ giảng dạy, giáo viên môn GDCD tổ
chức lồng ghép vào môn học khác cho HS thảo luận, ximina, sinh hoạt ngoại khóa,
chiếu nhiều phim tư liệu về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và các phim về lịch

sử..v.v. làm sáng tỏ những vấn đề từ thực tiễn. Một trong những nội dung có tính
giáo dục đạo đức truyền thống cho HS THPT là chương trình môn GDCD lớp 10,
phần “công dân với đạo đức” cụ thể một số bài như: Bài 11: “Một số phạm trù
cơ bản của đạo đức học”, Bài này học sinh được học những khái niệm, phạm trù
đạo đức như: lương tâm, nhân phẩm, danh dự. Trong bài học này, chúng ta có thể
tích hợp các giá trị truyền thống của dân tộc ở từng phần để thông qua đó khẳng
định những phạm trù đạo đức như lương tâm, nhân phẩm, danh dự là những phẩm
chất tốt đẹp của dân tộc đã được ông cha ta gìn giữ từ ngàn đời nay. Khi giảng khái
niệm trọng danh dự, giáo viên cũng có thể lồng ghép giáo dục lòng yêu nước bằng
câu chuyện kể về tấm lòng yêu nước của Trần Bình Trọng, khi bị giặc bắt và
khuyên hàng với rất nhiều bổng lộc, ông đã khảng khái trả lời: “Ta thà làm quỷ
nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Từ sự phân tích và dẫn chứng của giáo
viên, học sinh có thể rút ra khái niệm danh dự là gì và thấy được đó là những phạm
trù đạo đức đã được hình thành và minh chứng qua hàng nghìn năm lịch sử. Một
nội dung mà trong phần cơ sở lý luận đã trình bày, tình yêu thương con người là
một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Yêu thương con người không
18


phải là một phạm trù chung chung mà nó thể hiện trước hết ở tình yêu đối với anh
chị em trong gia đình, ở tình yêu thương giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng với
nhau sau đó mới mở rộng ra thành tình yêu đối với làng xóm, quê hương, giống nòi
dân tộc với nội dung kiến thức này HS sẽ được học ở bài 12: Công dân với tình
yêu, hôn nhân và gia đình. Thông qua nội dung bài học này giáo viên cũng cần
hướng học sinh đến việc phê phán lối sống không có trước có sau, không chung
thuỷ, bạc tình, bạc nghĩa. Hay ở bài 13: Công dân với cộng đồng, bài 14: Công
dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiến thức của bài 13 có liên quan
chặt chẽ tới truyền thống đoàn kết làng xã, yêu thương đùm bọc lẫn nhau: “cộng
cư, cộng sinh, cộng cảm” của dân tộc Việt Nam. Ở Kiến thức bài 14 của bài này có
liên qua chặt chẽ đến truyền thống yêu nước. Giáo viên có thể vận dụng truyền

thống yêu nước và các tấm gương tiêu biểu để làm cho bài giảng tăng thêm sức
thuyết phục thông qua đó chỉ rõ trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc trong
giai đoạn hiện nay. Từ đó HS hiểu biết thêm về lịch sử, truyền thống hào hùng của
dân tộc, giáo dục cho HS đạo đức làm người, lòng yêu nước và tự hào dân tộc, tin
tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn mà Đảng và Bác Hồ đã chọn, biết tôn trọng các
giá trị lịch sử, để mỗi HS dần dần hình thành nên nhân cách con người mới XHCN
vừa “hồng”, vừa “chuyên” đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
Giáo viên cần phải tự nâng cao kỹ năng tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên
lớp như: tổ chức các trò chơi dân gian, các hoạt động ngoại khóa, phối hợp với các
đơn vị quản lý di tích, danh thắng trên địa bàn tổ chức cho học sinh tham quan, tìm
hiểu, lao động ngoại khóa tại các di tích lịch sử, văn hóa. Qua đó, tạo môi trường
giáo dục thân thiện, tích cực, kéo học sinh về gần hơn với các giá trị truyền thống
lịch sử của dân tộc ta.
3.1.3. Phát huy tính tự giác và tính chủ động học tập, rèn luyện các giá trị
đạo đức truyền thống của HS.
Giáo dục là một quá trình hai mặt, một mặt đó là sự tác động từ bên ngoài
vào đối tượng giáo dục, mặt khác thông qua sự tác động làm cho đối tượng tự biến
đổi, tự hoàn thiện mình, đây chính là quá trình tự giáo dục.

19


Con người với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức, quá trình cải tạo
thế giới, là chủ thể của mọi quan hệ xã hội, thông qua hoạt động giáo dục (trong đó
có mặt thứ hai của giáo dục là tự giáo dục) con người có khả năng tự biến đổi nhân
cách của mình một cách có ý thức. HS là những người được giáo dục bởi nhà
trường, gia đình và xã hội. Cùng với quá trình được giáo dục đó thì tự giáo dục là
một quá trình HS tự hoàn thiện nhân cách của mình, sao cho phù hợp với yêu cầu
của cuộc sống. Để đáp ứng những đòi hỏi, yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống,
của xã hội, của thị trường sức lao động, đòi hỏi HS phải phát huy cao độ tính tự

giác và tính chủ động, sáng tạo trong học tập, nghiên cứu khoa học, trong việc giữ
gìn các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc.
Đạo đức không phải là cái gì sẵn có, mà nó được củng cố phát triển chủ yếu
do sự đấu tranh rèn luyện hàng ngày, tu dưỡng rèn luyện đạo đức cũng giống như
"ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". Khác với quan điểm duy
tâm và tôn giáo, chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng, đạo đức không phải là
cái gì sẵn có, mà nó được củng cố phát triển chủ yếu do sự đấu tranh rèn luyện
hàng ngày, tu dưỡng rèn luyện đạo đức cũng giống như “ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong”. Quá trình này là cuộc đấu tranh giữa cái tốt với cái
xấu, cái tiến bộ với cái lạc hậu, làm cho cái tốt, cái tiến bộ chiếm ưu thế trong đời
sống của từng chủ thể đạo đức.
Việc phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, vai trò tự giáo dục, tự rèn
luyện các giá trị đạo đức truyền thống của HS là một trong những nội dung hiện
đại hóa phương pháp giáo dục: Lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là chủ đạo,
là hoàn toàn phù hợp với nguyên lý "tự thân vận động" của triết học. Với ý nghĩa
đó, hơn bao giờ hết, chúng ta phải tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất giúp cho HS có
cơ hội để thể hiện mình, để tự mình vươn lên trong cuộc sống. Tính tự giác, tính
chủ động, vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện các giá trị đạo đức truyền thống của HS
là con đường tất yếu đối với sự phát triển, hoàn thiện nhân cách của HS ngày nay.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn còn một số HS chưa xác định động cơ, thái
độ học tập đúng đắn. Trước hết, đó là ý thức học tập như đi học muộn, bỏ tiết, trốn
học, trong lớp học làm việc riêng, nói chuyện, học tủ, không chịu tìm tòi nghiên
20


cứu. Vì vậy, mỗi HS cần phải xác định động cơ, thái độ học tập đúng đắn, chủ
động, sáng tạo và khoa học. Phải có thói quen tự học, phương pháp tự học hợp lý
và thường xuyên đổi mới phương pháp học, tích cực, không thụ động trong quá
trình học tập, phải có bản lĩnh và nghị lực vượt qua khó khăn thứ thách. Bên cạnh
việc học tập, HS cần rèn luyện cho bản thân kỷ năng sống, kỷ năng làm việc,

thường xuyên trau dồi đạo đức lối sống và nhân cách, học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, khiêm tốn,
giản dị, trung thực thông qua các hoạt động ngoại khóa của Đoàn thanh niên nhà
trường.
3.1.4. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong việc giáo
dục giá trị đạo đức truyền thống cho HS
Gia đình, nhà trường và xã hội luôn là “tam giác” giáo dục quan trọng đối
với mỗi HS. C.Mác từng viết rằng: trong tính hiện thực của nó, bản chất con người
là tổng hoà những quan hệ xã hội. Điều đó khẳng định rằng, sự phát triển nhân
cách, phát triển của mỗi con người chịu sự chi phối trực tiếp của môi trường sống,
môi trường xã hội, trong đó gia đình, nhà trường, cộng đồng xã hội là những thành
tố cơ bản. Do đó, hơn lúc nào hết, sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội
để giáo dục đạo đức cho HS, rèn luyện họ trở thành những người thừa kế xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" là giải pháp hết sức cần thiết. Văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định: “Kết hợp và phát huy đầy
đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường,.., trong việc chăm lo xây dựng con
người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức tự chủ, trách nhiệm công dân, có tri
thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình…”[4; 76-77].
Hồ Chí Minh đã dạy: phải liên hệ mật thiết với gia đình và học trò. Bởi vì,
giáo dục trong nhà trường, chỉ là một phần, còn cần phải có sự giáo dục ngoài xã
hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn.
Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài
xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn.
Trường chuyên Lương Thế Vinh với đặc thù là có rất nhiều HS phải sống xa
nhà, không có sự quản lý, giáo dục một cách trực tiếp của gia đình. Mộ số HS ở
21


ký túc xá nhà trường, số còn lại phải tự thuê mướn nhà hoặc trọ nhà người thân để
ở, trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, môi trường kinh tế - xã hội còn lắm

phức tạp. Điều này thực sự là một trở ngại lớn trong công tác quản lý HS cũng như
việc giáo dục đạo đức cho HS.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của sự kết hợp giữa nhà trường với gia
đình và xã hội trong công tác giáo dục đạo đức cho HS, trước mắt Trường chuyên
Lương Thế Vinh cần giải quyết tốt một số điểm sau đây:
Thứ nhất: giữa gia đình, nhà trường, xã hội phải có sự thống nhất về quan
điểm, chủ trương, mục đích trong việc giáo dục đạo đức truyền thống cho HS. Có
như vậy thì chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục đạo đức truyền thống mới
không ngừng được nâng cao. Gia đình và xã hội phải có những hiểu biết nhất định
về các yêu cầu của nhà trường trong việc giáo dục đạo đức truyền thống cho HS và
phải thường xuyên quan tâm đến công tác này. Trên thực tế, có một số gia đình do
thiếu thông tin, hiểu biết không đầy đủ về nội dung và hình thức giáo dục đạo đức
truyền thống ở nhà trường nên đã cản trở con cái tham gia một số phong trào hoạt
động có tính chất thực hành chính trị - xã hội, do Đoàn thanh niên tổ chức, điều
này có ảnh hưởng không tốt đến công tác giáo dục đạo đức truyền thống cho HS.
Thứ hai: Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc
giáo dục đạo đức truyền thống cho HS. Đây là vấn đề có ý nghĩa then chốt. Thực
tiễn công tác giáo dục - đào tạo những năm qua cho phép chúng ta khẳng định rằng
ở đâu và lúc nào, Ban giám hiệu trường và Đoàn Thanh Niên cần quan tâm đến
công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, đạo đức, lối sống, đến quyền lợi chính đáng
của HS, thường xuyên phối hợp với gia đình và chính quyền địa phương trong
công tác quản lý, giáo dục đạo đức truyền thống cho HS, thì ở đó, lúc đó HS ít vi
phạm kỷ luật, định hướng chính trị được giữ vững, phong trào học tập, nghiên cứu
khoa học được đẩy mạnh, mọi hoạt động sẽ đi vào nề nếp ổn định, tạo điều kiện
cho sự phát triển của nhà trường. Mọi sự hạ thấp hay buông lỏng vai trò quản lý
của Ban giám hiệu và các tổ chức đoàn thể khác như Đoàn TNCSHCM, sẽ dẫn đến
nguy cơ chệch hướng trong giáo dục, xa rời mục tiêu phát triển giáo dục - đào tạo
đã được đề ra.
22



Ngoài sự kết hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội, ngay bản thân các
tổ bộ môn, Đoàn TNCSHCM, các giáo viên trong nhà trường cũng cần có sự kết
hợp chặt chẽ trong công tác giáo dục đạo đức cho HS. Trên thực tế, sự kết hợp này
ở một số trường nhiều lúc, nhiều nơi làm chưa tốt, tư tưởng phó thác cho môn
GDCD giáo viên chủ nhiệm vẫn còn. Do đó việc làm cho mọi người - nhất là đội
ngũ các thầy, cô giáo ý thức được trách nhiệm của mình trong công tác giáo dục
đạo đức truyền thống cho HS là vô cùng cần thiết.
Tóm lại, kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục
đạo đức truyền thống cho HS là một giải pháp hết sức căn bản, là một nguyên tắc
cơ bản của giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa, tạo mọi thuận lợi cho việc giáo dục
những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, đồng thời đẩy mạnh công tác đấu tranh
chống lại những tư tưởng bảo thủ, những phong tục tập quán lạc hậu ngăn cản sự
phát triển của xã hội, góp phần mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc
những tinh hoa văn hoá nhân loại trong đó có những giá trị đạo đức mang tính phổ
quát toàn nhân loại.
3.1.5. Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho HS thông qua các hình
thức sinh hoạt mang ý nghĩa chính trị - xã hội - thực tiễn
Nguyên lý giáo dục hiện nay ở nước ta được quy định ở Điều 3 Luật Giáo
dục là "học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn
liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã
hội". Để thực hiện nguyên lý đó, trong giáo dục đạo đức cho HS chúng ta một mặt
giáo dục lý luận đạo đức học cho HS, mặt khác phải kết hợp với các hình thức hoạt
động mang ý nghĩa chính trị thực tiễn để tiến hành giáo dục đạo đức cho HS.
Trên thực tế, những năm gần đây Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Đoàn trường Trường chuyên Lương Thế Vinh đã tổ chức nhiều hình thức hoạt
động mang tính giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cao, thu hút đông đảo HS
tham gia như: thăm tặng quà những trẻ em mồ côi, trẻ em bị chất độc màu da cam,
các bà mẹ Việt Nam anh hùng trên địa bàn Thành phố Biên Hòa và các huyện lân
cận. Nhưng so với yêu cầu và khả năng vốn có của HS, các hình thức hoạt động

này cần được triển khai một cách rộng khắp và đa dạng, phong phú, hợp với lứa
23


tuổi HS hơn nữa. Đã tạo ra những “sân chơi” bổ ích cho HS. Đây là dịp để HS
có cơ hội thể hiện tính tích cực của mình, phát huy cao độ năng lực tự chủ, tính
độc lập sáng tạo trong hoạt động, gắn “học với hành, lý luận với thực tiễn”;
không ngừng nâng cao tình cảm đạo đức cách mạng cho HS. Chính thông qua
môi trường sinh hoạt tập thể, giúp HS tự vươn lên để hoàn thiện bản thân mình.
Để công tác giáo dục đạo đức cho HS qua các hình thức hoạt động mang ý
nghĩa chính trị - xã hội - thực tiễn đạt hiệu quả cao, các trường và Đoàn thanh niên,
cần phải đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung, sâu sắc về ý nghĩa tư tưởng
phải được coi là mục tiêu hàng đầu của các hình thức hoạt động giáo dục này. Có
như vậy chúng ta mới đáp ứng được những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của
HS, đồng thời chúng ta mới đạt được yêu cầu mục tiêu giáo dục đạo đức cho HS
qua các hình thức hoạt động xã hội mang tính thực tiễn. Để làm được điều đó đạt
hiệu quả cao, Nhà trường cần chú ý giải quyết tốt các vấn đề sau:
+ Thông qua tiết học giáo dục công dân, giúp HS tìm hiểu về truyền thống
nhà trường, về tình hình kinh tế- xã hội của tỉnh, các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, về quy chế học tập, thi cử, nghiên cứu khoa học, các chế độ
chính sách liên quan đến HS. Từ đó, HS ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình,
không ngừng trau dồi phẩm chất, nhân cách, kỹ năng sống để trở thành người công
dân tốt.
+ Thi tìm hiểu lịch sử truyền thống là một trong những hình thức và giải
pháp giáo dục truyền thống cho HS. Một số cuộc thi như: “Tìm hiểu về Đoàn
Thanh niên ”, “tìm hiểu cuộc đời, thân thế, sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh, và
một số nhà cách mạng khác mà HS đã được học”…. đã trở thành một phong trào
thu hút được đông đảo HS tham gia.
+ Sinh hoạt văn nghệ truyền thống thông qua các ngày lễ lớn như: 3/2, ,
20/11, 22/12, 26/3... Đây là hình thức sinh hoạt thu hút được rất nhiều HS tham

gia, có sức hấp dẫn rất lớn đối với tuổi trẻ, hình thành ở họ tình cảm sâu sắc, bền
lâu. Sinh hoạt văn nghệ mang tính giáo dục truyền thống có thể được tổ chức dưới
nhiều dạng: ca nhạc, thơ văn, vũ kịch, xem phim tư liệu.. Với nhiều loại hình như:
hội diễn văn nghệ, đêm thơ, thi hoá trang, thi hát Quốc ca, Đoàn ca, Hội ca.
24


Thông qua những loại hình nghệ thuật đó HS sẽ nâng cao được nhận thức về
bản sắc văn hoá của dân tộc, về quá trình lao động, đấu tranh bền bỉ của cha ông
suốt 4000 năm dựng nước và giữ nước. Những buổi sinh hoạt văn nghệ truyền
thống còn giúp hình thành những tình cảm, quan niệm sống đẹp, kiến thức phong
phú, kinh nghiệm sống, ước mơ, lý tưởng trong HS. Định hướng cho HS thưởng
thức và hoạt động văn hóa nghệ thuật trước sự tác động của quá trình hội nhập
quốc tế.
+ Thường xuyên tổ chức các phòng trào "Đền ơn đáp nghĩa", "Uống nước
nhớ nguồn"
Nhà trường cần tổ chức cho HS tham quan những khu di tích lịch sử, khu
bảo tàng, gặp gở giao lưu với những danh nhân văn hóa. Như năm học 2012- 2013
trường THPT chuyên Lương Thế Vinh đã tổ chức cho HS gặp gỡ, giáo lưu với cố
giáo sư Trần Văn Khê các em rất hào hứng vì qua buổi giao lưa HS không những
tiếp thu được những tri thức khoa học cụ thể …. mà các em còn được trải nghiệm
thực tế sinh động về lý tưởng sống, kinh nghiệm sống của thế hệ đi trước. Thăm
hỏi và tặng quà các " Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, Gia đình thương binh liệt sĩ, gia
đình có công với cách mạng trên địa bàn thành Phố Biên Hòa vào các dịp ngày lễ
lớn của đất nước. Qua đó giúp HS hình thành thái độ, tình cảm tốt đẹp đối với quá
khứ và sự hy sinh của các thế hệ cha anh, HS ý thức được trách nhiệm của mình
với thế hệ đi trước, nêu cao tinh thần tương thân tương ái, phát huy truyền thống
nhân đạo của dân tộc, từ đó thể hiện thành hành động cụ thể thiết thực.
+ Du lịch tham quan di tích lịch sử: Du lịch tham quan các di tích lịch sử là
hình thức giáo dục trực quan, đáp ứng yêu cầu của tuổi trẻ. Di tích lịch sử văn hóa

và cách mạng là tượng trưng cho nét đẹp của quá khứ, là minh chứng hùng hồn,
sống động của lịch sử. Những di tích đó cung cấp những kiến thức lịch sử văn hoá,
tạo nên sự hưng phấn trong HS, có tác dụng giáo dục trên nhiều mặt. Trong những
năm qua, Trường chuyên Lương Thế Vinh đã tổ chức được nhiều chuyến tham
quan thực tế cho HS về các di tích lịch sử như: Tham quan văn miếu Trấn Biên,
bảo Tàng Đồng Nai, Địa đạo Củ Chi… đây có lẽ là những hoạt động thú vị và bổ

25


×