Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Nông thôn trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (883.25 KB, 48 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
***************

BÙI THỊ KHÁNH DUNG

NÔNG THÔN TRONG TẬP TRUYỆN
KÌ NHÂN LÀNG NGỌC
CỦA TRẦN THANH CẢNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới cô giáo, TS. Nguyễn
Thị Tuyết Minh - ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình thực
hiện khóa luận này. Xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ
văn, đặc biệt là các thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam đã giúp đỡ và tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa luận.
Mặc dù đã cố gắng nhƣng khóa luận này vẫn không tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong nhận đƣợc sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn để
khóa luận hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả khóa luận



Bùi Thị Khánh Dung


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Bản khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả này
không trùng với bất cứ công trình nghiên cứu nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm!
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả khóa luận

Bùi Thị Khánh Dung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
4. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 5
6. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 5
7. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 6
CHƢƠNG 1: ĐỀ TÀI NÔNG THÔN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN
ĐẠI .................................................................................................................... 6
1.1. Đề tài nông thôn qua các giai đoạn của văn học Việt Nam hiện đại ......... 6
1.1.1. Đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX ............... 6
1.1.2 Đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam nửa sau thế kỉ XX ................. 8

1.1.3. Đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XXI ................... 10
1.2. Tác giả Trần Thanh Cảnh và tập truyện Kì nhân làng Ngọc ................... 12
1.2.1. Vài nét về tác giả Trần Thanh Cảnh ..................................................... 12
1.2.2. Tập truyện Kì nhân làng Ngọc .............................................................. 13
CHƢƠNG 2: HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG NÔNG THÔN VÀ CON NGƢỜI . 16
TRONG TẬP TRUYỆN KÌ NHÂN LÀNG NGỌC ......................................... 16
2.1. Hiện thực đời sống nông thôn .................................................................. 16
2.1.1. Hiện thực đời sống gia đình, dòng họ ................................................... 16
2.1.2. Hiện thực đời sống văn hóa................................................................... 20
2.2. Con ngƣời trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc....................................... 23
2.2.1. Con ngƣời bi kịch .................................................................................. 23
2.2.2. Con ngƣời tha hóa ................................................................................. 25


CHƢƠNG 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN ........ 30
ĐỀ TÀI NÔNG THÔN TRONG TẬP TRUYỆN KÌ NHÂN LÀNG NGỌC .. 30
3.1. Nghệ thuật kể chuyện ............................................................................... 30
3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................. 33
3.3. Giọng điệu ................................................................................................ 37
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Một đất nƣớc có gần 80% dân số làm nông nghiệp và nông thôn là địa
bàn cƣ trú chủ yếu của ngƣời dân nhƣ Việt Nam thì tất yếu trong nền văn học,
đề tài nông thôn là mảng đề tài lớn. Đây là mảng đề tài từng ghi danh nhiều
tác giả tiêu biểu nhƣ: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Đào Vũ, Nguyễn
Kiên, Nguyễn Minh Châu…

Đại thắng mùa xuân 1975 mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc. Đặc
biệt sau năm 1986, cùng với sự phát triển và hội nhập, kinh tế Việt Nam có
những bƣớc chuyển biến mau lẹ, khu vực nông thôn đang trong quá trình tiếp
biến thay đổi mạnh mẽ. Quá trình công nghiệp hóa nông thôn diễn ra với tốc
độ nhanh chóng, đời sống ngƣời dân nông thôn, những giá trị văn hóa đằng
sau lũy tre làng Việt Nam đã có những thay đổi đến không ngờ. Mặt trái của
kinh tế thị trƣờng khiến nhiều giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống đang
đứng trƣớc nguy cơ mai một. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng
sự thật”, các nhà văn đã hƣớng ngòi bút vào phản ánh bức tranh đời sống và
con ngƣời ở nông thôn một cách chân thực và khách quan. Có thể kể đến
những tác giả, tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài nông thôn nhƣ:Lê Lựu với
Thời xa vắng, Dƣơng Hƣớng với Bến không chồng, Nguyễn Khắc Trƣờng với
Mảnh đất lắm người nhiều ma, Hoàng Minh Tƣờng với Thuỷ hoả đạo tặc,
Đào Thắng với Dòng sông mía… và Trần Thanh Cảnh với Kì nhân làng
Ngọc.
Vào nghề văn khá muộn, hơn 40 tuổi Trần Thanh Cảnh mới cầm bút
nhƣng ông cũng để lại những dấu ấn riêng trong sáng tác của mình và gặt hái
đƣợc thành công nhất định. Ngô Văn Giá cho rằng:“Trần Thanh Cảnh vào
nghề muộn nhưng chín sớm”. Với tập truyện Kì nhân làng Ngọc, Trần Thanh
Cảnh đã vinh dự nhận giải thƣởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2015. Tập

1


truyện khắc họa chân thực, sinh động hình ảnh nông thôn Việt Nam, tái hiện
rõ nét bức tranh hiện thực và cuộc sống con ngƣời Việt Nam thời kì đổi mới ở
những mảng màu sáng, tối với nhiều số phận, tính cách khác nhau.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài khóa
luận:“Nông thôn trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh”
với mong muốn góp một tiếng nói khẳng định vị trí của đề tài nông thôn trong

văn xuôi Việt Nam đƣơng đại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Là một tác phẩm vinh dự nhận giải nhất của Hội Nhà văn Việt
Nam năm 2015, Kì nhân làng Ngọc còn nguyên tính “thời sự”, chƣa có nhiều
độ lùi thời gian, nhƣng tác phẩm đã nhận đƣợc sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu, phê bình. Có thể kể đến một số bài viết sau đây:
Trên báo Nhân dân, tác giả Nguyễn Văn Hùng trong bài Nét đặc sắc của
Kì nhân làng Ngọc khẳng định:“Tác phẩm của anh cuốn hút người đọc bởi
cái bề bộn, ngổn ngang, đa diện, sống động đến từng chi tiết của cuộc sống
và con người nơi vùng Kinh Bắc; sự đa dạng, nhiều chiều của thế giới nhân
vật; sự mới lạ, đa tầng của không gian và thời gian; cái độc đáo, tươi rói
trong ngôn từ, giọng điệu thể hiện; cái sâu lắng, độ ngân vang trong những
trầm tích, biểu tượng văn hóa, lịch sử… Tất cả được thai nghén, chắt lọc từ
chính những chiêm nghiệm của một người vốn quan niệm viết như một sự giải
tỏa tâm hồn, một món nợ cuộc đời cần phải trả cho quê hương; được thăng
hoa, sáng tạo trong khát vọng “vượt thoát”, nỗ lực làm mới, làm khác của
người nghệ sĩ với ý hướng văn chương mình lựa chọn” [4]. Nguyễn Văn
Hùng còn nhấn mạnh: “Truyện ngắn của Trần Thanh Cảnh chú tâm vào cái
thường nhật, những xung đột, mâu thuẫn phức tạp, những góc khuất, bí ẩn
nội tâm, những trạng huống tâm lý đa chiều với bao quan hệ nhân sinh chồng
chéo, ẩn chìm cùng cái nhìn sâu vào đời tư - thế sự - nhân văn. Và nó đã thật

2


sự giữ vai trò cốt yếu trong cảm quan nghệ thuật của nhà văn khi sáng tạo về
đề tài nông thôn” [4].
Tác giả Hoài Nam trong bài Viết về Kinh Bắc trường hợp Trần Thanh
Cảnh khẳng đinh: “Kỳ nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh không phải một
công trình nghiên cứu tâm lý xã hội học địa phương, mà nó là tác phẩm văn

chương. Nó không đóng khung trong sự phản ánh, mà là hư cấu, là một diễn
giải Kinh Bắc theo cách của Trần Thanh Cảnh” [9].
Hồ Anh Thái trong bài Chuyện không dứt về một làng quê – đƣợc chọn
làm lời giới thiệu cho tập truyện Kì nhân làng Ngọc cho rằng: “Kỳ nhân làng
Ngọc thực ra cũng chẳng có gì kỳ lạ lắm. Cuộc đời một con người như thế dễ
thấy trên cả đất nước hàng chục năm chinh chiến này. Vừa vào truyện, tác
giả đã để cho nhân vật can tội hiếp dâm, rồi bị kỷ luật đi lao động công
trường trên miền cao, rồi mãn hạn thì xung phong đi bộ đội, rồi thành người
lính đánh giặc dũng cảm, rồi trở về hậu phương, chẳng biết đi đâu đành về
lại cái làng quê mà mình đã tưởng chỉ nên từ bỏ. Đường tình duyên thì có
mấy người đàn bà, từ cô gái hồn nhiên mới lớn, từ những người bán phấn
buôn hương ở Khâm Thiên, từ người đàn bà quá lứa lỡ thì làm vợ đầu tiên,
đến người vợ hai là tấm gương lao động tập thể hợp tác xã, đến bà già ngẩn
ngơ ở bến sông quê” [1, 5- 6]. Có thể thấy, “thông qua số phận một con
người, tác giả cho thấy những thời đoạn lịch sử của đất nước: sau thời kỳ cải
cách ruộng đất, sang thời hòa bình kiến thiết, thời chiến tranh chống ngoại
xâm, đến thời kỳ thống nhất đất nước và xây dựng lại. Lịch sử hiện lên thông
qua sự lồng ghép vào số phận nhân vật, lịch sử gây hứng thú hơn cho người
đọc, và câu chuyện cũng vượt lên so với một chuyện tình éo le thông thường.”
[1, 6]. Kì nhân làng Ngọc đƣợc Hồ Anh Thái ví nhƣ tấm “danh thiếp” của
Trần Thanh Cảnh để nhà văn tự giới thiệu mình.

3


Sƣơng Nguyệt Minh trong bài Buồn vui và hy vọng (Tạp chí Văn nghệ
quân đội số 837, 838) nhận xét: “Kì nhân làng Ngọc là tập truyện ngắn mới
nhất của Trần Thanh Cảnh, chỉ kể chuyện trong một làng mà đủ cả hỉ nộ ái ố,
nhân tình thế thái. Con mắt nhà văn nhìn đời khá lọc, tinh ranh và văn cũng
vì thế mà già giặn sắc sảo nhưng vẫn có hồn, có tình” [8].

Nhìn chung, Kì nhân làng Ngọc còn “nóng hổi tính thời sự” nên các bài
viết về nó mới chỉ dừng lại ở những bài giới thiệu, những đánh giá khái quát.
Đến nay, chƣa có một công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu toàn diện về
tác phẩm. Đó là khoảng trống để khóa luận của chúng tôi tập trung tìm hiểu:
“Nông thôn trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh”.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là tập truyện Kì nhân làng Ngọc của
Trần Thanh Cảnh (gồm 14 truyện), do NXB Trẻ ấn hành năm 2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là đi sâu nghiên cứu về đề tài nông
thôn trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh và trong một
chừng mực nhất định sẽ có sự so sánh đối chiếu với những tác phẩm cùng
thời khác viết về đề tài nông thôn.
4. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu về bức tranh hiện thực đời sống nông thôn và con ngƣời trong
tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh.
- Tìm hiểu một số phƣơng diện nghệ thuật thể hiện đề tài nông thôn
trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh.
- Khẳng định những đóng góp của nhà văn trong mảng văn xuôi viết về
nông thôn thời kì đổi mới.

4


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phƣơng pháp khảo sát, thống kê
- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp

6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận làm rõ bức tranh đời sống nông thôn và con ngƣời trong tập
truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh. Qua đó, khẳng định đóng
góp của nhà văn trong mảng văn xuôi viết về nông thôn thời kì đổi mới.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
đƣợc triển khai thành 3 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam hiện đại
Chƣơng 2: Đời sống nông thôn và con ngƣời trong tập truyện Kì nhân
làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh
Chƣơng 3: Một số phƣơng diện nghệ thuật thể hiện đề tài nông thôn
trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh

5


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
ĐỀ TÀI NÔNG THÔN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

1.1. Đề tài nông thôn qua các giai đoạn của văn học Việt Nam hiện đại
1.1.1. Đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX
Trong tâm thức mỗi ngƣời dân Việt Nam - cƣ dân của nền văn hóa gốc
nông nghiệp, hình ảnh về nông thôn và ngƣời nông dân luôn là sự ám ảnh
khôn nguôi. Đề tài nông thôn luôn là đề tài lớn đối với văn học Việt Nam qua
nhiều giai đoạn. Đầu thế kỉ XX xã hội Việt Nam có nhiều biến động. Đó là
một xã hội náo nhiệt xô bồ mà đồng tiền tƣ sản, lối sống tƣ sản, đạo đức tƣ
sản đang dần chiếm vị trí quan trọng trong chốn thị thành. Trong khi đó ở
nông thôn bọn cƣờng hào, quan lại địa chủ cấu kết với nhau hà hiếp dân lành.
Cuộc sống của dân nghèo vốn đã lam lũ, khốn khó nay lại càng điêu đứng gấp

bội. Hiện thực cuộc sống ngày càng phức tạp với bao vấn đề nhức nhối khiến
nhà văn không thể làm ngơ. Vấn đề nông thôn, cuộc sống tối tăm của ngƣời
nông dân đƣợc đặt ra trong nhiều tác phẩm nổi tiếng nhƣ: Bước đường cùng,
Đồng hào có ma, Tinh thần thể dục của Nguyễn Công Hoan; Tắt đèn, Việc
làng của Ngô Tất Tố; Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao; Vỡ đê, Giông tố của
Vũ Trọng Phụng…
Sáng tác của Nguyễn Công Hoan đả kích sâu cay xã hội cũ với hình ảnh
bọn cƣờng hào, địa chủ, quan lại, mà điển hình là nhân vật Nghị Lại trong tiểu
thuyết Bước đường cùng. Bên cạnh đó, các truyện ngắn trào phúng: Đồng hào
có ma, Tinh thần thể dục, Chiếc quan tài... hƣớng thẳng vào sự phê phán quan
lại, địa chủ, tƣ sản và những xấu xa của xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, sự
phơi bày số phận đen tối của những ngƣời dân nghèo khổ trong xã hội.

6


Ngô Tất Tố vốn là một nhà nho, xuất thân trong một gia đình nghèo ở
nông thôn, sống gắn bó máu thịt với những ngƣời nông dân. Các tệ nạn xã
hội, cũng nhƣ các tập tục, tập quán lạc hậu chốn thôn quê đƣợc Ngô Tất Tố
phanh phui, lên án từ quan điểm dân chủ tiến bộ qua hai thiên phóng sự Việc
làng và Tập án cái đình nổi tiếng. Đặc biệt tiểu thuyết Tắt đèn đƣợc ví nhƣ là
một bản tố khổ sâu sắc, một bản cáo trạng đanh thép về chính sách sƣu thuế,
nạn cƣờng hào xôi thịt, nạn hà hiếp, cƣớp bóc... của chế độ thực dân phong
kiến làm điêu đứng bao ngƣời nông dân nghèo khổ. Đồng thời, tác phẩm đã
làm thức tỉnh những ngƣời có lƣơng tri mong muốn nhanh chóng huỷ bỏ chế
độ thuế thân - một thứ thuế vô nhân đạo thời trung cổ đánh vào đầu ngƣời
đang sống và cả ngƣời đã chết.
Một nhà văn đƣợc coi là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa hiện thực phê
phán viết về mảng đề tài nông thôn trong giai đoạn này là Nam Cao. Với quan
điểm "khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có", Nam

Cao đã để lại sự ám ảnh trong lòng ngƣời đọc về bức tranh làng quê nông
thôn Việt Nam một cách chân thƣc, để lại ấn tƣợng khó quên về số phận của
ngƣời nông dân qua các tác phẩm nhƣ:Dì Hảo, Lão Hạc, Nghèo, Một bữa no,
Một đám cưới, Trẻ con không được ăn thịt chó... Lão Hạc trong truyện ngắn
Lão Hạc bị dồn tới cùng đƣờng đã chọn cái chết, dù thê thảm nhƣng đó là
cách duy nhất để bảo toàn nhân cách trong sạch của mình. Cái chết của lão
thật dữ dội, phản ánh sự ngột ngạt, tăm tối của xã hội Việt Nam đƣơng thời.
Qua cái chết của lão Hạc, ngƣời đọc nhận thấy, ngƣời nông dân nếu không
chấp nhận sự tha hoá thì chỉ còn con đƣờng chết. Lão Hạc đã chọn cho mình
cái chết để quyết giữ bản chất lƣơng thiện của mình. Không chỉ dừng lại ở
việc miêu tả sự bần cùng hoá của ngƣời nông dân, Nam Cao còn khái quát
quá trình tha hoá, lƣu manh của một bộ phận nông dân qua truyện ngắn xuất
sắc Chí Phèo. Từ một anh nông dân hiền lành, lƣơng thiện, có ý thức về nhân

7


cách, Chí Phèo bị Bá Kiến đẩy đi ở tù, rồi bị nhà tù thực dân biến thành kẻ
lƣu manh, cƣớp giật, đâm thuê chém mƣớn. Cuộc đời hắn ngày càng chìm
dần trong vòng tội lỗi đến khi nhận ra mình thì không còn ai chấp nhận hắn là
ngƣời nữa. Chí Phèo buộc phải lựa chọn cái chết để tự giải thoát.
Có thể thấy, bằng khả năng quan sát tinh tƣờng, các cây bút văn xuôi
viết về đề tài nông thôn nửa đầu thế kỉ XX nhƣ đã truyền đƣợc cả “không
khí” của đời sống nông thôn, phản ánh chân thực nhiều khía cạnh cuộc sống
của con ngƣời đƣơng thời trong xã hội vào tác phẩm.
1.1.2 Đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam nửa sau thế kỉ XX
Cách mạng tháng Tám thành công, lịch sử dân tộc Việt Nam bƣớc sang
một trang mới. Sức sống của cuộc cách mạng nhƣ một cơn gió lớn thổi sáng
mát trên gƣơng mặt đất nƣớc, trên gƣơng mặt con ngƣời để làm bừng dậy một
sinh khí mới mẻ, vui tƣơi. Đời sống nông thôn đã có những thay đổi lớn lao.

Cuộc cách mạng ấy đã “giải phóng dân tộc đồng thời giải phóng cho văn học
thoát khỏi những trói buộc của quan niệm nghệ thuật cũ”[5, 10]. Sự phản ánh
đời sống, con ngƣời nông thôn trong văn học thời kì này đƣợc thể hiện trên
nhiều thể loại với những tác phẩm tiêu biểu nhƣ: Làng (Kim Lân), Con trâu
(Nguyễn Văn Bổng), Vợ chồng A Phủ ( Tô Hoài), Vỡ đất (Hoàng Văn Bổn)…
Hình ảnh ngƣời nông dân hiện lên trong các tác phẩm thời kì này là những
ngƣời cần cù, vƣợt khó, vƣợt khổ, tuy họ kém về văn hóa, ngây thơ, khờ khạo
nhƣng rất nhạy cảm với cách mạng, với kháng chiến, hăng hái tham gia cách
mạng, tuyệt đối tin tƣởng vào cách mạng.
Năm 1954 thắng lợi của chiến dịch Điên Biên Phủ làm chấn động địa
cầu, đánh dấu sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, ác liệt.
Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đồng
bằng đến miền núi, từ núi rừng đến hải đảo xa xôi, đất nƣớc bừng lên một sức
sống mới với sắc màu lung linh của hình sông thế núi, rực rỡ về văn hóa, ấm

8


áp về tình ngƣời. Sau năm 1954 thời kì cải cách ruộng đất, nông thôn đi vào
các tác phẩm văn học ở một diện mạo mới với các tác phẩm tiêu biểu nhƣ: tập
truyện Nông dân với địa chủ (Nguyễn Công Hoan), tiểu thuyết Bếp đỏ lửa
(Nguyễn Văn Bổng) hay tập truyện ngắn Ông lão hàng xóm (Kim Lân)…
Cùng với các tác phẩm viết về nông thôn trong cải cách ruộng đất, ở phong
trào hợp tác hóa nông nghiệp, văn học về đề tài nông thôn tập trung vào việc
miêu tả sự lựa chọn giữa hai con đƣờng: ra hay vào hợp tác trong thời kì đầu
của hợp tác hóa nông nghiệp, rồi tiến đến là chủ đề con ngƣời mới trong thời
kì cải tiến quản lí hợp tác xã và xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc. Đó còn là những tác phẩm mang âm hƣởng sử thi, có những phát
hiện mới về số phận cá nhân và khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc của
ngƣời nông dân khi viết về nông thôn trong chiến tranh chống Mỹ nhƣ: Cái

sân gạch, Vụ lúa chiêm (Đào Vũ); Cái hom giỏ, Vợ chồng ông lão chăn vịt
(Vũ Thị Thƣờng); Mùa lạc (Nguyễn Khải); Cửa sông (Nguyễn Minh Châu)…
Bên cạnh đó, những tác phẩm văn xuôi viết về nông thôn trong văn học giải
phóng miền Nam thời kì kháng chiến chống Mỹ chủ yếu phản ánh sự thức
tỉnh tinh thần yêu nƣớc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quần chúng nhƣ:
Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi); Rừng U Minh (Trần Hiếu
Minh); Hòn Đất (Anh Đức); Gia đình má Bẩy, Mẫn và tôi (Phan Tứ)…
Đại thắng mùa xuân 1975 đã mở ra một kỉ nguyên mới của dân tộc - đất
nƣớc độc lập đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nhƣng cuộc sống hòa bình đặt
con ngƣời với những thử thách mới. Những mất mát sau chiến tranh, nền kinh
tế đất nƣớc lâm vào tình trạng tự cung tự cấp, chế độ quản lí quan liêu bao
cấp… Đất nƣớc hết chiến tranh nhƣng tiếng súng vẫn tiếp tục nổ ở biên giới
phía Bắc, phía Tây Nam. Thêm vào đó, hệ thống các nƣớc xã hội chủ nghĩa
rơi vào khủng hoảng và sụp đổ. Đất nƣớc đứng trƣớc muôn vàn khó khăn thử
thách và một lần nữa ngƣời nông dân lại đứng trƣớc những thử thách mới.

9


Cũng vì thế, những tác phẩm văn học viết về nông thôn thời kì này có những
dấu hiệu chuyển mình. Một số nhà văn hƣớng ngòi bút vào phản ánh hiện
thực khổ cực của ngƣời nông dân do cách làm ăn cũ, đồng thời phê phán cung
cách làm ăn và quản lí nông thôn kiểu cũ nhƣ: Nhìn dưới mặt trời (Nguyễn
Kiên), Bí thư cấp huyện (Đào Vũ), Cù lao Tràm (Nguyễn Mạnh Tuấn)...
Trong khi đó, một số nhà văn khác lại hƣớng ngòi bút của mình vào cuộc
sống đƣơng thời với những vấn đề tồn tại của xã hội nhƣ: Mùa lá rụng trong
vườn (Ma Văn Kháng); Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người (Nguyễn
Khải); Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê (Nguyễn Minh
Châu)... Văn học Việt Nam giai đoạn khoảng mƣời năm sau chiến tranh viết
về nông thôn đã có ít nhiều thay đổi diện mạo, chuẩn mực để thích ứng với

đặc điểm thời đại. Tuy nhiên, nhiều tác phẩm vẫn thiên về phản ánh vấn đề
nóng bỏng của xã hội mà chƣa quan tâm thực sự đến số phận riêng tƣ của
ngƣời nông dân. Văn học viết về đề tài nông thôn chỉ thực sự thay đổi bắt đầu
từ sau năm 1986.
1.1.3. Đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XXI
Sau năm 1986, đời sống xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi. Bƣớc vào
thời kì đổi mới, cuộc sống đô thị đã phần nào đƣợc lƣu tâm trong văn học
nhƣng vấn đề nông thôn và số phận những ngƣời nông dân vẫn đƣợc văn học
đặc biệt coi trọng. Đề tài nông thôn trong văn học giai đoạn này tiếp tục là
một vùng đề tài nóng bên cạnh đề tài lịch sử, chiến tranh hay đề tài thành thị.
Hầu hết, những tác phẩm viết về nông thôn luôn gây đƣợc sự chú ý của đông
đảo dƣ luận và để lại dấu ấn đối với bạn đọc.
Thời kì đất nƣớc mở cửa, giao lƣu văn hóa đa chiều, đề tài nông thôn
đƣợc mở rộng ở nhiều nội dung phản ánh mà bình diện trung tâm là khám phá
số phận con ngƣời cá nhân trên nhiều góc độ, xoay quanh các mối quan hệ:
con ngƣời cá nhân với gia đình, dòng họ, làng xóm… thậm chí với chính bản

10


thân mình. Nhân vật và các kiểu nhân vật không còn đƣợc bao bọc bởi một
bầu không khí vô trùng nữa mà đƣợc nhà văn cảm nhận, khám phá trong mối
quan hệ nhiều chiều, phức tạp. Mỗi con ngƣời luôn đƣợc đan cài giữa phần
con và phần ngƣời, giữa phần thiện và phần ác. Bên cạnh đó, hiện thực nông
thôn thời mở cửa cũng là vấn đề đƣợc các nhà văn đặc biệt chú ý ở các khía
cạnh: nhiệt tình cổ vũ sự đổi mới ở nông thôn, vạch trần những hậu quả mà
ngƣời nông dân phải gánh chịu trong quá trình công nghiệp hóa nông thôn,
phê phán ý thức văn hóa phong kiến còn tồn tại nghiêm trọng ở nông thôn, sự
lạc hậu của ngƣời nông dân, sự thiếu ý thức dân chủ ở nông thôn, việc lạm
dụng quyền hành của cán bộ nông thôn, sự cạnh tranh vai vế của các dòng họ

trong các làng xã... Tiêu biểu phải kể đến các tác phẩm: Mảnh đất lắm người
nhiều ma (Nguyễn Khắc Trƣờng), Bến không chồng (Dƣơng Hƣớng), Phiên
chợ Giát, Khách ở quê ra (Nguyễn Minh Châu), Thời xa vắng (Lê Lựu),
Cuốn gia phả để lại (Đoàn Lê), Ác mộng (Ngô Ngọc Bội), Bước qua lời
nguyền (Tạ Duy Anh)… Chƣa bao giờ văn xuôi viết về đề tài nông thôn lại
gặt hái đƣợc nhiều thành công nhƣ vậy. Văn xuôi giai đoạn này đã có sự
chuyển đổi về chất liệu, hƣớng tới tiếp cận đời sống với tinh thần “nhìn thẳng
vào sự thật” không né tránh sự thật. Dƣới ngòi bút các nhà văn, các nhân vật
trong văn xuôi đã vật lộn, giằng xé, đấu tranh quyết liệt với cái ác, cái xấu, cái
thấp hèn…
Đầu thế kỉ XXI số lƣợng tác phẩm viết về đề tài nông thôn có sự chững
lại. Một số đề tài khác của đời sống xã hội nhƣ: đề tài đô thị, đề tài chiến
tranh hoặc tìm về đề tài lịch sử đã thu hút đƣợc sự chú ý của nhiều nhà văn.
Dù vậy, vẫn có một số tác phẩm viết về đề tài nông thôn gây đƣợc sự chú ý
của bạn đọc nhƣ: Giã biệt bóng tối (Tạ Duy Anh), Cánh đồng bất tận
(Nguyễn Ngọc Tƣ), Dưới chín tầng trời (Dƣơng Hƣớng), Ma làng (Trịnh
Thanh Phong)…

11


Nhƣ vậy, có thể thấy đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam hiện đại
là mảng đề tài văn học có sức hút lớn và đạt đƣợc nhiều thành tựu vƣợt trội.
Nó góp phần không nhỏ vào tiến trình phát triển của nền văn học Việt Nam.
1.2. Tác giả Trần Thanh Cảnh và tập truyện Kì nhân làng Ngọc
1.2.1. Vài nét về tác giả Trần Thanh Cảnh
Trần Thanh Cảnh sinh năm 1954, là ngƣời con xứ Kinh Bắc - một mảnh
đất giàu truyền thống văn hóa và là cái nôi quan họ của xứ Kinh Kỳ. Trƣớc
đây, ông đã từng tốt nghiệp trƣờng Đại học dƣợc Hà Nội và cầm súng chiến
đấu ở vùng biên giới phía Bắc. Ông bƣớc vào nghề văn khá muộn, hơn 40

tuổi mới bắt đầu cầm bút nhƣng đã để lại dấu ấn riêng trong sáng tác của
mình và gặt hái đƣợc thành công. Ngô Văn Giá cho rằng:“Trần Thanh Cảnh
vào nghề muộn nhưng chín sớm”.
Năm 2015, tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh vinh dự
nhận giải nhất của Hội Nhà văn Việt Nam. Với tập truyện này, Trần Thanh
Cảnh đã khẳng định đƣợc vị thế của mình trong làng văn Việt Nam. Kì nhân
làng Ngọc đã khắc họa cuộc đời của những con ngƣời làng Ngọc, tái hiện
phần nào hiện thực nông thôn Việt Nam một cách chân thực, rõ nét, qua các
giai đoạn lịch sử của đất nƣớc: Thời chiến tranh chống ngoại xâm, thời cải
cách ruộng đất và sau đó là chiến thắng, thống nhất đất nƣớc, xây dựng kiến
thiết đất nƣớc.
Bên cạnh công việc chính là một doanh nhân hoạt động trong lĩnh vực y
dƣợc, Trần Thanh Cảnh còn dành tình yêu cho lĩnh vực văn chƣơng. Những
tác phẩm nhƣ Kỳ nhân làng Ngọc, Mỹ nhân làng Ngọc, Đại gia đều ít nhiều là
những câu chuyện có thật từ chính quê hƣơng Trần Thanh Cảnh. Nhân vật
chính trong các tác phẩm đƣợc tác giả Trần Thanh Cảnh miêu tả rất đa dạng:
Từ một kẻ tứ cố vô thân không danh phận cho đến những ông tiến sĩ đầu bạc,
quyền cao vọng trọng… Dù là ai thì số phận họ là những ngƣời chịu ảnh

12


hƣởng to lớn bởi thời cuộc, nhất là thời kỳ sau đổi mới. Văn chƣơng thời kỳ
đổi mới luôn chạy theo điều bất thƣờng để thể hiện, còn Trần Thanh Cảnh lại
đi ngƣợc với dòng chảy ấy. Ông tìm về cái đạo giữa dòng đời bất biến từ đó
toát lên đƣợc cái nhân văn trong câu chữ. Nhà văn Sƣơng Nguyệt Minh trong
buổi tọa đàm giới thiệu cuốn sách Kì nhân làng Ngọc nhận xét: “Trần Thanh
Cảnh là một nhà văn mạnh về đời sống. Anh đã thu nạp hết hiện thực, đến
một thời điểm thích hợp cho nó vỡ òa trong con chữ. Truyện ngắn của Trần
Thanh Cảnh mang tầm vóc của một tiểu thuyết. Hiện thực được dồn nén đến

cô đọng, đến cực điểm. Các nhân vật trong tác phẩm vừa có chất người vừa
có gì đó quái quái. Cái kết của một truyện ngắn khiến người ta xót xa nhưng
rất nhân văn”.
1.2.2. Tập truyện Kì nhân làng Ngọc
Kỳ nhân làng Ngọc thể hiện lòng trăn trở cũng nhƣ tình yêu đối với quê
hƣơng của một ngƣời con Kinh Bắc. Tập truyện gồm 14 truyện ngắn khắc họa
số phận của những con ngƣời ở làng Ngọc - một ngôi làng nằm cạnh núi
Thiên Thai ở vùng Kinh Bắc ven sông Đuống. Đây cũng chính là quê hƣơng
của Trần Thanh Cảnh. Từ hàng nghìn năm nay, ngôi làng này đã sinh ra nhiều
danh nhân lƣu tên trong sử sách và ở thời hiện đại, trong những biến động của
thế cuộc, làng Ngọc lại sinh ra biết bao số phận kỳ lạ.
Trong Kì nhân làng Ngọc, Trần Thanh Cảnh tỏ ra là một ngƣời rất am
hiểu mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Những hình ảnh lễ hội, phong tục,
nếp sống, quan niệm của ngƣời dân nơi đây đều đƣợc tái hiện sống động trên
trang giấy. Nhà văn thể hiện tình yêu sâu sắc của mình đối với mảnh đất quê
hƣơng.
Kỳ nhân làng Ngọc vừa mới mẻ vừa gần gũi, quen thuộc. Mới mẻ không
chỉ bởi nội dung viết về những vấn đề nóng hổi, sex mà còn mới mẻ ở lối viết
của nhà văn. Đọc Kỳ nhân làng Ngọc, độc giả không hình dung nhiều đến một

13


Kinh Bắc thâm trầm cổ kính, một Kinh Bắc của những câu hát quan họ quyến
luyến, níu giữ hồn ngƣời, một Kinh Bắc của những hội hè đình đám miên
man suốt mấy tháng xuân nhƣ trong tập thơ Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm.
Mƣời bốn truyện ngắn miêu tả chân thực nét đẹp văn hóa tín ngƣỡng phồn
thực ở làng quê Việt Nam. Ngay truyện đầu tiên của tập là Hội làng, Trần
Thanh Cảnh đã đƣa ngƣời đọc vào một không gian lễ hội còn bảo lƣu rất đậm
những thực hành của tín ngƣỡng phồn thực:“Làng Ngọc, quê Hằng, thờ Bà

Cái và vật thiêng sinh thực khí của bà, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng
tươi tốt, nhân khang vật thịnh, con đàn cháu đống… Làng có lệ, đêm hội làng
làm lễ trút xiêm y cho bà, mở khán lấy sinh thực khí, hai trai chưa vợ cầm
chắc trong tay, theo nhịp hô của cụ từ: Tình xòe tình phập, tình xòe tình phập.
Mỗi lần phập lại đưa sinh thực khí vào nường. Cứ thế ba lần, sau đó, tắt đèn
đuốc “tháo khoán” [1, 12]. Truyện ngắn đƣợc lấy tên chung cho cả tập Kỳ
nhân làng Ngọc có đoạn mô tả:“Dân làng Ngọc từ xưa đến nay, già trẻ nam
nữ thường hay ra tắm trần ngoài đầm. Trên cầu ao, các cô thôn nữ hồn nhiên
cởi trần dội nước ào ào và kỳ cọ bộ ngực trinh nữ rắn chắc hồng hào. Ở bên
cầu ao chỗ khác, mấy ông già làng thì lại điềm nhiên khỏa thân tắm gội, chim
cò để thỗn thện cứ như cuộc đời này chả còn gì quan tâm” [1, 281].
Không chỉ mang đậm tín ngƣỡng phồn thực, đọc Kì nhân làng Ngọc độc
giả còn bắt gặp những dƣ ảnh hay tiếng đồng vọng của những vấn đề đang
diễn ra trong đời sống xã hội ngày hôm nay. Truyện Ngay trong đêm, Giỗ hậu
phản ánh tệ nạn cờ bạc. Truyện Có trời là thói nhận hối lộ nơi công đƣờng,
truyện Sếp tổng là cung cách làm ăn dối trá cốt để móc tiền của các doanh
nghiệp nhà nƣớc, truyện Ngôi biệt thự bỏ hoang là đủ thứ trò vè đầy nhếch
nhác ám muội của ngành giáo dục, Giấc mơ phản ánh hiện tƣợng sinh viên
thất nghiệp sau khi ra trƣờng… Đúng nhƣ những gì nhà văn Sƣơng Nguyệt
Minh đã từng viết:“Kì nhân làng Ngọc là tập truyện ngắn mới nhất của Trần

14


Thanh Cảnh, chỉ kể chuyện trong một làng mà đủ cả hỉ nộ ái ố, nhân tình thế
thái. Con mắt nhà văn nhìn đời khá lọc, tinh ranh và văn cũng vì thế mà già
dặn sắc sảo nhưng vẫn có hồn, có tình” [8]. Kì nhân làng Ngọc xứng đáng là
“tấm danh thiếp” đƣợc nhà văn Trần Thanh Cảnh dùng để tự giới thiệu mình.

15



CHƢƠNG 2
HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG NÔNG THÔN VÀ CON NGƢỜI
TRONG TẬP TRUYỆN KÌ NHÂN LÀNG NGỌC
2.1. Hiện thực đời sống nông thôn
2.1.1. Hiện thực đời sống gia đình, dòng họ
Ở nông thôn Việt Nam, mối quan hệ gia đình, họ tộc bao giờ cũng thống
chế chi phối các mối quan hệ khác. Gia đình đƣợc ví nhƣ tế bào của xã hội,
gắn kết các thành viên dƣới một mái nhà. Tìm về mái nhà nhƣ tìm về mái ấm
bình yên trong tâm hồn con ngƣời. Tình cảm gia đình từ xƣa đến nay luôn là
thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý đối với mỗi ngƣời dân Việt Nam, đặc biệt
là những ngƣời dân ở thôn quê. Và dòng họ, họ tộc ở làng quê Việt Nam cũng
vậy. Ngƣời dân ở thôn quê bao giờ cũng coi trọng tình làng nghĩa xóm cũng
nhƣ những vị trí ngôi thứ trong làng, trong dòng họ, bởi vậy vấn đề họ tộc rất
đƣợc coi trọng.
Viết về hiện thực đời sống gia đình và dòng họ ở nông thôn đã đƣợc
nhiều nhà văn đƣơng đại quan tâm. Truyện ngắn Bước qua lời nguyền của Tạ
Duy Anh là câu chuyện về dòng họ ở một vùng quê, từ đó đặt ra nhiều vấn đề
thế sự khiến chúng ta phải suy nghĩ. Mối tình trong sáng giữa Quý Anh, con
địa chủ Hứa vốn có nợ máu với gia đình nhân vật “tôi” dai dẳng từ bốn đời.
“Tôi” - ngƣời đƣợc giao trách nhiệm nặng nề phải trả thù cho dòng họ, sẽ rơi
vào bi kịch, vào sự hận thù truyền kiếp nếu không dám bƣớc qua thù hận,
bƣớc qua rào cản lời nguyền để phá bỏ những vòng trầm luân trên cõi nhân
thế. Truyện Nỗi đau dòng họ của Sƣơng Nguyệt Minh cũng đề cập đến chủ đề
này. Câu chuyện kể về mối hận thù truyền kiếp (dựa trên câu chuyện có thật)
giữa hai dòng họ trong một ngôi làng chỉ vì bộ xƣơng vô chủ. Không hiểu sao
một bộ xƣơng vô chủ lại đƣợc táng vào mộ tổ dòng họ Nguyễn. Sự nghi ngờ

16



dòng họ Ninh làm việc này đã dẫn đến họ Nguyễn và họ Ninh rơi vào cuộc
chiến tƣơng tàn suốt mấy thế hệ. Sự đố kỵ, kình địch giữa các dòng họ đã gây
ra những tấn bi kịch thảm khốc: những cuộc đụng độ xảy ra hàng ngày, những
vụ kiện tụng dai dẳng, những cuộc trả thù đẫm máu gây oan nghiệt cho bao
kiếp ngƣời. Từ đời này qua đời khác, những mối tình trai gái bị cấm đoán,
những đứa con sinh ra không đƣợc thừa nhận, bị tẩy chay, phải chịu nỗi bất
hạnh không cha không mẹ. Trong làng quê tƣởng nhƣ êm đềm của vùng đồng
bằng Bắc Bộ, bóng đêm đã phủ lên số phận của bao ngƣời nông dân.
Trong tiểu thuyết, bức tranh về hiện thực gia đình, dòng họ còn đƣợc thể
hiện nhức nhối hơn qua những tác phẩm nổi tiếng nhƣ Mảnh đất lắm người
nhiều ma của Nguyễn Khắc Trƣờng, Bến không chồng của Dƣơng Hƣớng,
Lão Khổ của Tạ Duy Anh, Cuốn gia phả để lại của Đoàn Lê… Ở mỗi tác
phẩm, bức tranh hiện thực gia đình, dòng họ đƣợc hiện lên chân thực, rõ nét
nhƣ đang diễn ra trƣớc mắt ngƣời đọc về một xã hội nông thôn đang có những
chuyển biến phức tạp.
Đến với tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh, bạn đọc lại
đƣợc tiếp cận với bức tranh hiện thực gia đình, dòng họ ở nông thôn Việt
Nam. Một bức tranh về làng quê mà những giá trị đạo đức, tình cảm tốt đẹp
của con ngƣời ngày càng bị mai một bởi mặt trái của xu thế toàn cầu hóa. Đó
còn là một làng quê mang nặng lễ giáo phong kiến với những hủ tục, quan
niệm lạc hậu đang dần “bóp nghẹt” cuộc sống của con ngƣời. Tất cả đều đƣợc
nhà văn Trần Thanh Cảnh miêu tả một cách chân thực, sinh động.
Ngay trong đêm là câu chuyện về cuộc sống gia đình của nhân vật Số. Vì
quan niệm “trọng nam khinh nữ”, Số phải có trách nhiệm cao cả với gia đình,
dòng họ là phải sinh con trai nối dõi tông đƣờng. Nhƣng cuộc đời thật trớ trêu
khi mà vợ chồng Số chỉ sinh đƣợc hai “vịt giời”, “những buổi giỗ chạp về
làng, bị bố mẹ họ hàng nói ra nói vào về chuyện không có thằng con trai nối


17


dõi tông đường. Những hôm đi họp đồng môn, đồng ngũ, rượu chán, hết
chuyện, mấy thằng bạn đểu lại lôi chuyện không có con trai thừa tự ra trêu
chọc”[1, 90]. Để rồi Số đã bỏ mặc ngƣời vợ xinh đẹp cùng hai cô con gái giỏi
giang để đi cặp bồ, lấy vợ hai và sinh ra hai cậu con “quý tử”. Nhƣng đây
cũng chính là nguồn cơn bi kịch của đời Số, bởi hai thằng con thì “một thằng
ăn chơi nức tiếng từ nứt mắt rồi sinh ra nghiện ngập, giờ suốt ngày lang
thang vật vạ như thằng chết rồi. Một thằng thì đua xe, cờ bạc đề đóm thành
thần” [1, 96]. Cuộc đời Số càng bất hạnh kể từ khi Vân Anh, ngƣời vợ trƣớc
bỏ lên thành phố với hai con gái làm giảng viên đại học, còn anh phải ở quê
với vợ sau cùng hai đứa con trai hƣ hỏng.
Nhân vật Vi trong Ngôi biệt thự bỏ hoang cũng có hoàn cảnh giống nhƣ
Số. Cũng vì trách nhiệm với dòng họ, gia đình, thỏa mãn ƣớc nguyện của cha
Vi phải sinh con trai để “nối dõi tông đƣờng”. Mỗi khi “nhìn vào cái phơi dây
quần áo trên sân thượng, ông (cha Vi) không nén nổi một tiếng thở dài. Ông
chỉ ước ao trên dây phơi quần áo có mấy bộ đồ con trai cho vui thôi”[1, 181].
Để làm tròn bổn phận với gia đình, họ tộc đặc biệt là thực hiện nguyện vọng
của cha, Vi đã “tìm giải pháp” và “hành động ngay”. Trong một lần đi công
tác, Vi đã cặp bồ với một giáo viên dạy hợp đồng ở một huyện xa nhằm mục
đích có đƣợc con trai “nối dõi tông đƣờng”. Và đây cũng là nguyên nhân gây
ra bi kịch của gia đình Vi. Vì nghĩ Vi bỏ mặc hai mẹ con nên “tình nhân” của
Vi đã uống thuốc ngủ tự vẫn khi trong bụng đang mang thai đứa con trai năm
tháng tuổi. Biết đƣợc tin này ông Vân (cha Vi) đã đột quỵ và mắc bệnh
Alzheimer. Từ đó, căn biệt thự to và đẹp nhất làng Ngọc trở nên hoang tàn,
không có bóng dáng ngƣời ở.
Nhƣ vậy, qua hai truyện Ngay trong đêm và Ngôi biệt thự bỏ hoang tác
giả cho thấy hiện thực bức tranh gia đình, dòng họ với những hủ tục, quan
niệm lạc hậu trọng nam khinh nữ vẫn còn ngự trị ở làng quê ngày nay. Quan


18


niệm ấy đã làm tan cửa nát nhà biết bao gia đình nhƣ gia đình nhân vật Số
(Ngay trong đêm) và Vi (Ngôi biệt thự bỏ hoang). Cả Số và Vi đã có gia đình
êm ấm với các cô con gái ngoan hiền, nhƣng vẫn mong muốn có con trai nối
dõi nên lén lút đi lại với ngƣời phụ nữ khác, gây ra những tai họa khôn lƣờng.
Ngƣời thì "mất cả chì lẫn chài", ngƣời bị chính những đứa con trai mà họ
khao khát làm cho tan nát cửa nhà. Truyện là tiếng nói phản đối hủ tục lạc hậu
vẫn còn tồn tại trong đời sống của làng quê Bắc Bộ ngày nay.
Bức tranh hiện thực gia đình, dòng họ ở nông thôn Việt Nam còn đƣợc
Trần Thanh Cảnh miêu tả chân thực, rõ nét trong tác phẩm Có trời. Câu
chuyện phản ánh sự đảo lộn những giá trị đạo đức truyền thống, sự mai một
đạo lí thông thƣờng, đánh mất tôn ti trật tự trong gia đình. Gia đình giờ đây
chẳng còn là mái ấm bình yên để ta trở về những lúc mệt mỏi mà là nơi đầy
giông bão. Đó là những cảnh tƣợng con chửi cha, cầm dao chém cha; chồng
thì coi vợ nhƣ ngƣời ở, mắng nhiếc và đổ lỗi cho vợ không dạy đƣợc con.
Chuyện cặp bồ, cờ bạc, thƣờng xuyên ăn cắp tiền của vợ khiến vợ Quang Bản
Phủ quyết định“dọn xuống nhà ngang ở một mình. Ngày ra phố, dọn cái sạp
hàng khô, tối đêm mới về chả để ý gì đến Quang”[1, 108]. Vậy mà, bố vợ
Quang khi nghe tin con rể mình cặp bồ đã chạy về nhà khóc lóc than
thở:“Trai anh hùng năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng. Nó
ra ngoài chấm mút nọ kia, nhưng về nhà vẫn vợ con nội ngoại chu đáo là
được. Thế là được rồi” [1,110]. Thật đáng sợ là ngay cả những ngƣời già mà
vẫn quan niệm lạc hậu nhƣ thế.
Có thể thấy, dƣới ngòi bút của Trần Thanh Cảnh, bức tranh hiện thực đời
sống gia đình, dòng họ ở nông thôn thế kỉ XXI này vẫn đầy rẫy hủ tục của lễ
giáo phong kiến. Mọi mặt tốt xấu nhƣ đang đƣợc phơi bày trƣớc mắt bạn đọc.
Điều đó cho thấy những bất ổn của làng quê ngày nay.


19


2.1.2. Hiện thực đời sống văn hóa
Tập truyện Kì nhân làng Ngọc của nhà nhà văn ngƣời Kinh Bắc đã mở ra
một không gian làng quê nổi tiếng với những truyền thống văn hóa độc đáo,
gắn với chiều dài lịch sử của đất nƣớc. Trần Thanh Cảnh đã vẽ lên trƣớc mắt
bạn đọc bức tranh hiện thực đời sống văn hóa làng quê Kinh Bắc, nơi ông
sinh ra mà ở đây chính là làng Ngọc cũng chính là hình ảnh nông thôn Việt
Nam.
Trên mảnh đất nông thôn Việt Nam có các trầm tích văn hóa cổ xƣa của
những cộng đồng kế tiếp nhau tích tụ thành một bức tranh văn hóa nông thôn
nhiều màu sắc. Ngƣời nông dân sống gắn bó với làng quê, cùng lƣu giữ
những nét đẹp văn hóa, đời sống tinh thần, phong tục tập quán từ nhiều đời.
Trần Thanh Cảnh đi sâu miêu tả bức tranh văn hóa với những tập tục, nếp
sống và tín ngƣỡng dân gian. Tác giả đã đem đến cho ngƣời đọc những trải
nghiệm, những hiểu biết về tập tục văn hóa độc đáo của ngƣời dân quê.
Truyện Hội làng đƣa ngƣời đọc vào một không gian văn hóa lễ hội còn
bảo lƣu rất đậm nét thực hành tín ngƣỡng phồn thực. Ở Việt Nam, tín ngƣỡng
phồn thực phát triển rất phong phú. Tín ngƣỡng này đƣợc thể hiện rõ nhất
trong các lễ hội diễn ra vào mùa xuân, mùa của sự sinh sôi, nảy nở. Tín
ngƣỡng phồn thực mang tính phổ quát có nguồn cội trong kho tàng tín
ngƣỡng dân gian. Với cƣ dân nông nghiệp trồng lúa nƣớc, các biểu tƣợng âm
- dƣơng, đất - trời, non- nƣớc là những nhân tố chính tạo nên sự sinh sôi nảy
nở của vạn vật, tất cả quyện hòa giữa sinh khí tự nhiên để tồn tại và phát triển.
Trong mọi thời đại, con ngƣời vẫn có ƣớc nguyện đƣợc tìm hiểu, nắm bắt mọi
điều về thế giới xung quanh. Thực tiễn đó đã hình thành nên hệ thống tín
ngƣỡng đa dạng và phong phú, trong đó có tín ngƣỡng phồn thực, thể hiện
niềm tin của con ngƣời trong nguyện cầu đƣợc sinh sôi nảy nở, phát triển

giống nòi, ƣớc mong đƣợc sản xuất phồn thịnh, mùa màng đƣợc bội thu. Dân

20


×