Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Biểu tượng cây cầu – từ đời sống văn hóa đến ca dao trữ tình người Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (973.13 KB, 53 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ THU HƢƠNG

BIỂU TƢỢNG CÂY CẦU – TỪ ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA ĐẾN CA DAO TRỮ TÌNH
NGƢỜI VIỆT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Em xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến cô giáo hướng dẫn - TS. Nguyễn
Thị Ngọc Lan, các thầy giáo, cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam cùng toàn
thể các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
trong thời gian qua đã tận tình dạy bảo giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp này.
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Thu Hƣơng


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận: Biểu tượng cây cầu – Từ đời sống văn hóa đến ca dao trữ


tình người Việt được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô Nguyễn
Thị Ngọc Lan. Tôi xin cam đoan:
-Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
-Kết quả này không trùng với kết quả của bất cứ tác giả nào đã được
công bố. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Thu Hƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 2
5. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
6. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
Chương 1. BIỂU TƯỢNG CÂY CẦU TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
NGƯỜI VIỆT .................................................................................................... 7
1.1. Cây cầu trong đời sống tâm linh ................................................................ 7
1.2. Cây cầu với bản sắc văn hóa vùng miền .................................................. 12
1.2.1. Cây cầu đá Bắc bộ ................................................................................. 12
1.2.2. Cây cầu ngóiTrung Bộ .......................................................................... 19
1.2.3. Cây cầu khỉ Nam Bộ ............................................................................. 26
Chương 2. TÍN HIỆU BIỂU ĐẠT CỦA BIỂU TƯỢNG CÂY CẦU TRONG
CA DAO TRỮ TÌNH NGƯỜI VIỆT ............................................................. 33
2.1. Cây cầu - nơi hò hẹn, gặp gỡ ................................................................... 33

2.2. Cây cầu - khát vọng giao hòa tình cảm .................................................... 36
2.3. Cây cầu - sự trắc trở trong tình yêu.......................................................... 42
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Làng quê Việt Nam ở đâu cũng vậy, ẩn chứa trong nó bao điều mộc
mạc, giản dị. Mỗi miền quê đều có những câu hò, điệu hát rất chung mà lại rất
riêng, mang âm hưởng của từng vùng, miền. Tất cả cùng hòa vào nhau để tạo
nên một dòng chảy ca dao Việt Nam đa dạng mà vẫn vô cùng tinh tế.
Thuộc phương thức trữ tình và mang bản chất trữ tình, ca dao là thể loại
chứa đựng trong nó những giá trị to lớn ở cả hai phương diện nội dung và
nghệ thuật. Chính vì thế, ca dao trở thành đối tượng khám phá từ nhiều góc độ
khác nhau. Đặc biệt, tiếp cận ca dao từ góc độ thi pháp học, nhiều vấn đề như
nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ, thể thơ, các thủ pháp trong biểu hiện và miêu
tả… đã được các nhà nghiên cứu làm sáng tỏ. Trong đó vấn đề biểu tượng
cũng thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên cứu.
Có thể thấy, hệ thống biểu tượng ca dao hết sức phong phú và chứa
đựng nhiều tầng ý nghĩa. Nói một cách cụ thể, “biểu tượng mang tính kí hiệu,
tình quy ước, nghĩa là chỉ cần nêu hình ảnh biểu tượng lên là người đọc đã
hiểu được cái mà nó biểu trưng, không cần có yếu tố giải mã bởi nó đã được
ăn sâu trong tư tưởng thẩm mĩ của dân gian” [14, 86]. Ta có thể bắt gặp trong
ca dao trữ tình người Việt những hình ảnh có tính biểu tượng cao, chẳng hạn
biểu thị cho thân phận con người có hình ảnh con cò, cái bống… hay biểu thị
cho sự gắn kết lứa đôi có hình ảnh trúc – mai, rồng – mây, loan – phượng…
Nói đến hệ thống biểu tượng trong ca dao, không thể không nhắc đến
biểu tượng cây cầu. Qua khảo sát chúng tôi thấy rằng biểu tượng “cây cầu”
mang nhiều tầng ý nghĩa có liên quan đến đời sống con người Việt Nam. Ý

nghĩa biểu tượng này hòa quyện với lòng yêu mến dòng ca dao truyền thống
của dân tộc đã tạo nên chất men say nồng hấp dẫn. Vì vậy chúng tôi đã lựa

1


chọn Biểu tượng cây cầu – từ đời sống văn hóa đến ca dao trữ tình người Việt
làm đề tài nghiên cứu, với mong muốn góp phần tìm hiểu một biểu tượng văn
hóa, văn học dân gian đặc sắc.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
+ Mục đích: Bổ sung và nâng cao kiến thức về biểu tượng văn hóa, văn
học thông qua việc tiếp cận một biểu tượng độc đáo – biểu tượng cây cầu.
Đây là một trong những biểu tượng có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của
người Việt nói chung, cư dân sông nước nói riêng.
+ Nhiệm vụ: Làm rõ sự hiện diện và dấu ấn đặc trưng của biểu tượng cây
cầu trong đời sống văn hóa của người Việt ở các vùng miền; Thấy được sự
biến đổi tín hiệu biểu đạt của biểu tượng này, từ đời sống văn hóa đến ca dao.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu: Biểu tượng cây cầu trong văn hóa, văn học dân
gian, cụ thể là ca dao trữ tình người Việt với những nét nghĩa biểu đạt của nó.
+ Phạm vi nghiên cứu
- Về tư liệu: chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu trong ca dao người
Việt, chủ yếu qua các công trình sưu tầm, tuyển chọn như : Tục ngữ ca dao
Việt Nam [7]; Kho tàng ca dao người Việt tập 1,2,3,4 [4],...
- Về nội dung: Tìm hiểu biểu tượng cây cầu trong đời sống người Việt
với dấu ấn vùng miền; Sự biến đổi tín hiệu biểu đạt của biểu tượng cây cầu từ
đời sống văn hóa đến ca dao trữ tình người Việt.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
- Phương pháp so sánh

- Phương pháp phân tích, tổng hợp
5. Lịch sử vấn đề
Thực tế cho thấy, vấn đề biểu tượng trong ca dao đã được các nhà nghiên

2


cứu đề cập từ khá sớm. Có thể kể tới một số bài viết trên tạp chí chuyên
ngành hay các công trình sưu tầm, tuyển chọn ca dao như: Những yếu tố trùng
lặp trong ca dao trữ tình (Đặng Văn Lung); Tục ngữ ca dao, dân ca Việt Nam
(Vũ Ngọc Phan); Về nghiên cứu thi pháp văn học dân gian (Chu Xuân
Diên)…
Khá nhiều bài viết, công trình chuyên luận coi biểu tượng ca dao là đối
tượng nghiên cứu chuyên biệt như: Biểu tượng trăng trong thơ ca dân gian
(1988) của Hà Công Tài. Tác giả đã có những phát hiện mới về vai trò, đặc
điểm của biểu tượng trong thơ ca dân gian và “Biếu tượng trong thơ ca dân
gian thì cực kì phong phú. Chỉ riêng biếu tượng thiên nhiên như trăng sao, núi
đồi, cây cỏ, sông nước... đã có thể tới mức bách khoa về địa lý - phong tục
Việt Nam trong đại ngàn thời gian và không gian lịch sử. Nhưng hơn hết
chúng ta từ đó mà có thế tìm hiếu về mĩ học dân tộc, về đặc điếm tư duy thơ
ca dân tộc, đồng thời góp thêm một hướng tiếp cận thơ”. Ngoài ra còn có
công trình Giá trị biểu trưng nghệ thuật của một số vật thể nhân tạo trong ca
dao cổ truyền Việt Nam (1991) của tác giả Trương Thị Nhàn, Thi pháp ca dao
(1992) của Nguyễn Xuân Kính, Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền
thống (2002) của Nguyễn Thị Ngọc Điệp… Nhìn chung, các công trình đã
giới thuyết và phân tích khá cặn kẽ về các vấn đề: khái niệm biểu tượng,
nguồn gốc, phân loại biểu tượng và chức năng của biểu tượng nghệ thuật
trong ca dao trữ tình.
Đề cập trực tiếp đến biểu tượng cây cầu trong ca dao, có thể kể đến bài
viết Mô típ nghệ thuật dân gian: Cái cầu trong ca dao in trên Tạp chí văn học

số 2/1994 của tác giả Nguyễn Xuân Lạc. Theo đó,“Ca dao có nhiều mô típ
nghệ thuật. Cái cầu là một trong những mô típ nghệ thuật quen thuộc và đặc
sắc của ca dao. Từ mô típ nghệ thuật này, ta hiểu được đời sống tình cảm
phong phú, mãnh liệt nhưng cũng hết sức tế nhị, duyên dáng của người bình

3


dân Việt Nam...”. Ở đây, nhà nghiên cứu qua khảo sát, đã nhận diện hình ảnh
cây cẩu như một mô típ nghệ thuật chứ chưa đi sâu phân tích ý nghĩa biểu
tượng của nó.
Biểu tượng cây cầu với đặc trưng văn hóa vùng miền, cũng được phân
tích khá cụ thể trong bài viết: Cây cầu trong văn hóa Nam Bộ của Nguyễn Thị
Phương Duyên. Tác giả cho rằng: “Nói đến vùng sông nước Nam Bộ là nói
đến xứ sở của những cây cầu khỉ. "Khó đi" và "lắt lẻo" trong cuộc sống hàng
ngày đến mức khi đi vào tâm thức của người Nam Bộ, cây cầu của vùng đất
này cũng vẹn nguyên tính đặc trưng ấy. Hình ảnh cây cầu trong tâm thức
người Nam Bộ gần với những khó khăn, trắc trở của đường đời hơn là vẻ thơ
mộng, đáng yêu của hình ảnh những cây cầu ở Bắc Bộ. Mỗi cây cầu dù ít hay
nhiều đều liên quan đến đời người bởi cây cầu, trước hết, là không gian quê
hương, đất nước, là cảnh vật quen thuộc nơi làng xã, thôn xóm. Không gian
này đã tác động trực tiếp đến con người, được con người phản ánh vào trong
đời sống của mình thông qua nhiều phương diện sinh hoạt tinh thần như thần
thoại, ca dao - dân ca.
Trong cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới của hai tác giả Jean
Chevalier và Alain Gheerbrant năm 2014 cũng đã đề cập đến biểu tượng cây
cầu: “Ý nghĩa tượng trưng của cái cầu: nó là lối đi qua và là nơi thử thách.
Thế nhưng ở đây cái cầu chỉ có một chiều kích đạo lý, nghi lễ và tôn giáo.
Khi đi sâu theo hướng phân tâm này, ta có thể nói là cây cầu tượng trưng cho
bước quá độ giữa hai trạng thái nội tâm, giữa hai điều ước muốn mâu thuẫn

nhau: cây cầu có thể chỉ ra lối thoát từ một tình huống xung đột. Phải qua cầu,
lẩn tránh qua cầu không giải quyết được gì hết.”[5]
Trong khóa luận tốt nghiệp, 2015 với đề tài: Biểu tượng dòng sông trong
ca dao trữ tình người Việt, Bùi Thị Tình cũng có những khám phá về hình
ảnh cây cầu trong sự sóng đôi với biểu tượng dòng sông: “Như một quy luật

4


tất yếu của cuộc sống, yêu là nhớ, xa là mong chờ, hình tượng “sông” - “cầu”
đã phần nào nói lên những ước vọng của con người về một tình yêu trong
sáng, nên thơ, sắc son, bền chặt. Với những lý do trên “sông” - “cầu” đã trở
thành biểu tượng tiêu biểu cho tình yêu, nó trường tồn trong trái tim mọi
người như sự bất tử của ca dao Việt”.
Điểm qua tình hình nghiên cứu, có thể thấy biểu tượng cây cầu trong đời
sống văn hóa và trong ca dao trữ tình của người Việt chưa thực sự được
nghiên cứu một cách cụ thể và kĩ lưỡng. Vì vậy với đề tài nghiên cứu này,
người viết hi vọng sẽ góp thêm một cái nhìn về một biểu tượng độc đáo trong
văn hóa, văn học dân gian.
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung của
khóa luận bao gồm hai chương :
Chương 1: Biểu tượng cây cầu trong đời sống văn hóa người Việt.
Chương 2: Tín hiệu biểu đạt của biểu tượng cây cầu trong ca dao trữ
tình người Việt.

5


NỘI DUNG

Chƣơng 1. BIỂU TƢỢNG CÂY CẦU
TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA NGƢỜI VIỆT
Sông nước hiện diện khắp nơi trên mảnh đất Việt Nam và ai cũng mang
trong mình hình ảnh một con sông quê hương. Sông tưới tắm cho một nền văn
hóa nông nghiệp trù phú, đồng thời nó cũng biểu hiện cho sự ngăn cách tự
nhiên. Chính vì thế mà hình ảnh những cây cầu nối liền đôi bờ đã trở thành
một biểu tượng đi sâu vào tiềm thức của mỗi con người, nó không chỉ là
phương tiện đi lại không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt mà nó còn có mặt
trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Việt, góp phần làm tăng thêm
nét đẹp dịu dàng, nên thơ trữ tình cho những con sông quê.
1.1. Cây cầu trong đời sống tâm linh
Trong lịch sử chinh phục tự nhiên và xây dựng xã hội con người, những
cây cầu xuất hiện khá sớm với nhiều kiểu hình, nhiều mục đích khác nhau.
Hình ảnh những cây cầu ngày càng hiện đại và mang nhiều giá trị biểu tượng
khác nhau, tùy theo những mong muốn và cảm nhận trong đời sống của con
người.
Đất nước ta có mạng lưới sông ngòi chằng chịt, vì thế văn hóa sông
nước in đậm trong tư duy và sản phẩm nghệ thuật của người bình dân. Cây
cầu là hình ảnh quen thuộc, gắn bó trong đời sống sinh hoạt và tình cảm của
họ. Nơi nào có nước nơi đó có cầu. Cây cầu bắc qua các con mương, cái lạch,
dòng sông, nối liền đôi bờ, thành nơi gặp gỡ, hò hẹn, đón đưa. Bên cạnh cây
cầu đời thường đó còn có cây cầu trừu tượng nối những tấm lòng, những trái
tim... Hình ảnh cây cầu trong suy nghĩ con người vốn đã hàm chứa nhiều ý
nghĩa. Đó là sự kết nối, “nhịp cầu nối hai bờ vui”, là sự gặp gỡ giữa hai vùng
đất, là sự thiết lập những quan hệ mới giữa đất với đất, giữa người với người.

7


Bên cạnh đó, hình ảnh cây cầu còn là sự vượt qua khó khăn, là sự chế ngự

thiên nhiên để phát triển, để vươn tầm ảnh hưởng đến những vùng lân cận. Vì
vậy trong bản thân cây cầu đã luôn mang ý nghĩa ước lệ cho sự tăng cường
những mối quan hệ xã hội và vận động chuyển mình .
Những cây cầu tre, cầu khỉ ở mỗi làng quê cũng đã chất chứa trong nó
những mối liên hệ cộng đồng, làng xóm, chất phác và bền chặt. Những hình
ảnh giao duyên “qua cầu gió bay”, “cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi” đã hình
thành rất lâu trong dân ca, ca dao thôn quê và được lưu giữ trong tâm hồn
Việt, để rồi hồi sinh khi những cây cầu ra đời đã phác họa lại được những vẻ
đẹp văn hóa truyền thống.
Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp
Em theo không kịp
Tội lắm anh ơi!
Bấy lâu mang tiếng chịu lời
Anh có xa em đi nữa
Cũng tại ông Trời nên xa.
[21]
Từ cây cầu tre lắc lẻo tới những cây cầu ván đóng đanh, cầu xi măng,
cầu sắt… đã từ lâu, cây cầu không chỉ trong đời sống sinh hoạt vật chất, gắn
liền với việc đi lại, từ nơi này sang nơi khác, cây cầu còn có mặt trong đời
sống tinh thần của người bình dân, mà còn là sợi dây tình cảm xóa sự xa cách
giữa “nhà bậu” và “nhà qua”, giữa “mình” và “ta”. Cây cầu là nơi hò hẹn của
đôi ta, nối những nhịp vui đôi bờ.
Anh về xẻ ván cho dày,
Bắc cầu sông Cái cho thầy mẹ
Thầy mẹ sang em cũng theo
Đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo.
[18]

8



Trong lời đối đáp, cô gái sắc sảo mượn hình ảnh cây cầu mồng tơi tỏ
thật tình cảnh với người thương:
Mồng tơi bắc chả nên cầu
Chàng về xẻ gỗ bắc cầu em sang
Chỉ xanh, chỉ đỏ, chỉ vàng
Một trăm thứ chỉ bắc ngang đầu cầu
Nào em đã có chồng đâu
Mà chàng đón trước rào sau làm gì.
[19]
Cây cầu không những là minh chứng cho những câu chuyện tình yêu
ngọt ngào, say đắm mà nó còn chứng kiến sự tan vỡ chia lìa trong tình duyên :
Qua cầu một trăm cái nhịp
Em không theo kịp kêu bớ hỡi chàng
Cái điệu tào khang sao chàng vội dứt
Đêm nằm nghỉ tức, giọt lệ tuôn rơi
Nhón chân lên kêu: Bớ hỡi trời!
Ai bày mưu cho bạn, bạn dứt nơi ân tình"
[19]
Những cây cầu mang giá trị tâm linh trong đời sống nhân dân. Hình ảnh
cây cầu đi sâu vào đời sống của người dân lao động, trong lời ăn tiếng nói
hàng ngày, người dân miệt đồng còn sử dụng những hình ảnh về các cây cầu
vốn không có thực trong thực tế. Nó tồn tại trong điển tích, tôn giáo, có điều
nó đã được các văn gia thi sĩ sử dụng vào các tác phẩm nổi tiếng. Từ góc độ
văn hóa, xét trong chiều ảnh hưởng, tiếp biến, có thể kể đến một số cầu như
vậy! Đầu tiên là cầu Ô (Ô Thước). Ca dao có câu:
Khi xa ai biết ai đâu
Vì chim Ô Thước bắc cầu sông Ngân.

9



Cầu Ô thì không hẳn là cầu, nó có nguồn gốc từ câu chuyện cổ tích
Ngưu Lang Chức Nữ. Có hai phiên bản, một của Việt Nam và một của Trung
Quốc. Truyện cổ tích này có liên quan đến các sao Chức Nữ và sao Ngưu
Lang cùng với hiện tương mưa Ngâu diễn ra vào đầu tháng Bảy âm lịch ở
Việt Nam. Người Việt kể rằng: Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Ngọc Đế,
vì say mê một tiên nữ phụ trách việc dệt vải tên là Chức Nữ nên bỏ bê công
việc được giao. Chức Nữ cũng vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên trễ nải
việc dệt vải. Ngọc Hoàng nổi giận, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu,
kẻ ở cuối Ngân Hà. Sau đó, Ngọc Hoàng thương tình nên ban ơn cho hai
người mỗi năm được gặp nhau một lần vào đêm mùng bảy tháng bảy. Trời
truyền cho loài quạ đến tháng bảy là phải họp nhau lại lên trời đội đá, bắc cầu
Ô, cho Ngưu – Chức gặp nhau. Vì phải đội đá nên lũ quạ trọc đầu. Khi tiễn
biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi
xuống trần hóa thành cơn mưa, trần gian gọi là mưa ngâu. Có dị bản khác cho
rằng tên gọi của Ô kiều là cầu Ô Thước do chim Ô (quạ) và chim Thước
(chim khách) kết cánh tạo ra. Vậy là hình ảnh cây cầu “Thước kiều” trong
tâm thức của người dân nó đã trở thành biểu tượng cho sự mai mối hoặc đoàn
tụ vợ chồng.
Một thứ cầu khác, không có trên mặt đất mà lại ở trên trời cao, đó là cầu
vồng. Cầu vồng xét về mặt khoa học thì đó là hiện tượng tán sắc của các ánh
sáng từ Mặt Trời khi khúc xạ và phản xạ qua các giọt nước mưa mà thành,
cầu vồng tuy đẹp nhưng ngắn ngủi, nó tượng trưng cho hạnh phúc của con
người, ước mơ vươn tới một cuộc sống tương lai tốt đẹp hơn. Đáng quan tâm
là cầu vồng cũng xuất hiện trong ca dao:
Trên trời có cả cầu vồng
Có cái mống cụt đằng đông sờ sờ
Vẫn vơ như con cá núp bóng cầu
Em chờ anh khác thể như con sao hầu đợi trăng.

[15]

10


Vấn đề tâm linh từ xa xưa đã được người Việt rất coi trọng. Hầu như
trong tâm thức của mỗi một người đều tồn tại một cái gì đó mà ta khó có thể
gọi thành tên, nó giống như một cõi mông lung. Từ xa xưa, con người cũng
đã biết và đã bàn luận nhiều về hiện tượng này. Người ta giải thích rằng, khi
con người chết đi, Diêm Vương sẽ mở sổ ghi chép đánh giá công, tội để cho
đi tái sinh vào các cõi khác nhau. Họ cho rằng cây cầu không những có trong
đời sống thực mà nó còn xuất hiện trong cõi âm. Tương truyền, nơi cõi Âm
phủ có một cây cầu rất mỏng manh, bắc ngang một con sông lớn, ván lót gập
ghềnh, trơn trợt, rất khó lên cầu để đi qua sông. Hơn nữa, dưới cầu là sông lớn
có đủ các thứ rắn độc, cua kình hung dữ, đợi người nào lọt xuống thì chúng
xúm lại xé thây ăn thịt. Các linh hồn nơi Âm phủ khi đến cầu này muốn lên
cầu qua sông, khi nhìn thấy cảnh tượng như thế thì nản lòng thối bước, không
biết làm thế nào để đi qua cầu cho được an toàn. Nhiều người cố đi qua,
nhưng đến giữa cầu thì bị té xuống sông, rắn rít cua kình giành nhau phanh
thây ăn thịt, thật là ghê gớm.[22]
Cầu Nại hà bắc giăng sông lớn,
Tội nhơn qua óc rởn dùn mình
Hụt chơn, ván lại gập ghềnh,
Nhào đầu xuống đó, cua kình rỉa thây.
(Kinh Phật)
Trong Văn tế thập loại chúng sinh, Nguyễn Du cũng viết:
Gặp phải lúc lạc đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bao giờ?

Cầu Nại Hà là biểu tượng cho sự luân hồi tái sinh, sau khi chết con
người sẽ được đầu tha chuyển kiếp. Con người phải trải qua nhiều kiếp cho

11


đến khi chịu đủ sự trả quả tương xứng về những gì đã làm và không tạo nên
nghiệp xấu thì mới mong được tới cõi an lạc mà Phật giáo gọi là cõi Niết Bàn
(Nirvana). Những ai phạm điều xấu, ác thì khi chết phải đọa vào địa ngục và
chịu những sự xử phạt công minh, đó thể hiện quan niệm của đạo phật và
cũng chính là của dân gian “Gieo nhân nào, gặt quả ấy”.
Như vậy biểu tượng cây cầu trong đời sống tâm linh của con người
mang nhiều sắc thái và những tầng ý nghĩa khác nhau, nó vừa thực vừa ảo
mang một nét huyền bí mà con người vẫn chưa thể lý giải hết được.
1.2. Cây cầu với bản sắc văn hóa vùng miền
Trên đất nước ta về mặt văn hóa vùng, từ khái niệm rằng "vùng văn hoá
là một vùng lãnh thổ, một khu vực địa lý mà trên đó cộng đồng cư dân có
những nét khá tương đồng về kinh tế - văn hoá - xã hội, tương đồng về môi
trường tự nhiên và lịch sử xã hội. Trong quá trình chung sống, giữa cộng
đồng người này có quá trình giao lưu tiếp biến văn hoá lẫn nhau hình thành
nên đặc trưng văn hoá của vùng, có thể phân biệt với vùng văn hoá khác. Đặc
biệt trên dải đất hình chữ S với mạng lưới sông ngòi, kênh mương dày đặc thì
cây cầu là một phương tiện không thể thiếu trong đời sống của người dân, cầu
là minh chứng cho sức mạnh của con người trong công cuộc chinh phục thiên
nhiên để phục vụ lợi ích kinh tế - xã hội của mình. Tuổi của cầu không tính
bằng năm bằng tháng mà hàng thế kỷ, vì thế nó trở nên thân quen và gắn bó
với cuộc sống con người. Tồn tại cùng thời gian, mỗi cây cầu đã mang trên
mình không biết bao nhiêu kỷ niệm của con người và chứng kiến không biết
bao nhiêu biến đổi của lịch sử, mỗi cây cầu lại còn mang những nét đặc trưng
văn hóa của mỗi vùng miền khác nhau, nó ngân vang mãi với sóng nước và

muôn vạn nỗi lòng.
1.2.1. Cây cầu đá Bắc bộ
Đồng bằng Bắc Bộ là vùng đất mang nhiều nét truyền thống của văn hóa

12


Việt Nam. Đây được coi là cái nôi của văn hoá - lịch sử dân tộc. Trên đường
đi tới xây dựng một nền văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc, vùng văn
hóa này vẫn có những tiềm năng nhất định. Về vị trí địa lí vùng châu thổ Bắc
Bộ là tâm điểm của con đường giao lưu quốc tế theo hai trục chính: Tây Đông và Bắc - Nam. Vị trí này khiến cho nó trở thành vị trí tiền đồn để tiến
tới các vùng khác trong nước và Đông Nam Á, là mục tiêu đầu tiên của tất cả
kẻ thù xâm lược muốn bành trướng thế lực vào lãnh thổ Đông Nam Á. Nhưng
cũng chính vị trí địa lí này tạo điều kiện cho cư dân có điều kiện thuận lợi về
giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Một đặc điểm nữa là môi
trường nước, đồng bằng Bắc Bộ có một mạng lưới sông ngòi khá dày, khoảng
0,5 – l,0km/km2, gồm các dòng sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình,
sông Mã, cùng các mương máng tưới tiêu dày đặc. Do ảnh hưởng của khí hậu
gió mùa với hai mùa khô và mưa nên thủy chế các dòng sông, nhất là sông
Hồng cũng có hai mùa rõ rệt: mùa cạn, dòng chảy nhỏ, nước trong và mùa lũ
dòng chảy lớn, nước đục. Ngoài khơi, thủy triều vịnh Bắc Bộ theo chế độ nhật
triều, mỗi ngày có một lần nước lên và một lần nước xuống. Chính yếu tố
nước tạo ra sắc thái riêng biệt trong tập quán canh tác, cư trú, tâm lí ứng xử
cũng như sinh hoạt cộng đồng của cư dân trong khu vực, tạo nên nền văn
minh lúa nước, vừa có cái chung của văn minh khu vực, vừa có cái riêng độc
đáo của mình.
Một trong những nét đặc trưng độc đáo ấy phải kể đến những cây cầu đá ở Bắc
bộ, một phương tiện đi lại không thể thiếu của cư dân nông nghiệp nơi đây.
Trong lịch sử loài người từ buổi sơ khai, các cây cầu được xây dựng
bằng đá đầu tiên được cấu tạo từ những vòm đá lớn tự nhiên. Sau đó, con

người bắt đầu xây dựng chúng bằng những phương pháp đơn giản và thô sơ
nhất. Đó là đặt những phiến đá to, bằng phẳng lên trên các trụ dầm bằng đá
được xếp chắc chắn bên dưới. Cầu đá là một loại hình di sản văn hóa vật chất

13


độc đáo chứa đựng nhiều giá trị về mặt lịch sử, văn hóa, khoa học và kiến trúc
dân gian truyền thống của cộng đồng cư dân Việt cổ trên vùng đồng bằng
châu thổ sông Hồng. Hiện nay số lượng cầu đá cổ còn khá khiêm tốn, đa số đã
trở thành phế tích, nhiều địa phương tuy vẫn còn bia đá ghi chép về việc làm
cầu nhưng hiện tại cầu không còn, có những nơi chỉ còn lưu giữ được vài cây
cột, tấm lát mặt, dầm cầu… Tuy nhiên cũng vẫn còn một số cây cầu đá còn
tồn tại cho tới ngày nay.
Như chúng ta đã biết, đến với Bắc Ninh - Kinh Bắc, một mảnh đất với
bao lễ hội truyền thống diễn ra hằng năm, những làn điệu dân ca quan họ
mượt mà đằm thắm của các liền anh, liền chị, cùng những ngôi chùa mang vẻ
đẹp mộc mạc cổ kính, thì ta còn được chiêm ngưỡng một vài cây cầu đá cổ có
niên đại hàng trăm năm tuổi còn lại cho tới ngày nay.
Tiêu biểu là cây cầu đá ở Làng Chuông (Thuận Thành, Bắc Ninh), một
cây cầu đá có kiến trúc đẹp, được bảo tồn nguyên vẹn và vẫn được sử dụng
cho đến nay. Kiến trúc của cầu đá làng Chuông có thể coi như điển hình cho
loại hình kiến trúc cầu đá vùng Đồng bằng Bắc bộ. Cầu có 9 nhịp 10 hàng cột,
mỗi hàng cột có 3 cột đá chống hơi xiên xuống mặt nước và được liên kết với
nhau bởi một dầm ngang, mỗi nhịp có khẩu độ khoảng 1,2 m. Cầu được tạo
dáng hơi cong, khỏe khoắn, phần đầu các dầm ngang được đẽo gồ lên để giữ
cho các phiến đá khỏi xô lệch và cũng là nơi tập trung các trang trí. Các mô
típ thường gặp là vân mây, hoa lá cách điệu thành hình đầu rồng. Các họa tiết
trang trí này mang đậm phong cách nghệ thuật dân gian và đều liên quan đến
yếu tố nước cho thấy ước muốn ngàn đời về nguồn nước dồi dào cho sản xuất

của cư dân nông nghiệp. Điều này cũng cho thấy yếu tố nghệ thuật và tâm
linh cũng luôn được chú trọng khi xây dựng các cây cầu truyền thống.[11]
Bên cạnh cầu đá Làng Chuông thì còn có hai cây cầu đá khác cũng ở
Thuận Thành – Bắc Ninh đó là cây cầu đá nằm trong khuôn viên đền Lũng

14


Khê (thôn Lũng Khê, xã Thanh Khương) thuộc khu vực thành cổ Luy Lâu và
cây cầu đá thuộc địa phận giáp ranh giữa hai thôn Thuận An và Đức Nhân (xã
Trạm Lộ).
Trong khu di tích đền Lũng Khê hiện còn bảo lưu được cây cầu đá cổ
khởi dựng từ thời Lê Trung Hưng, được trùng tu vào năm Quý Mão, niên hiệu
Thiệu Trị 3 (1843). Cầu bắc qua một ao nước phía trước đền và là lối để đi
vào khu vực đền chính. Cầu làm bằng đá xanh nguyên khối gồm 7 nhịp với
chiều dài tổng cộng là 10m38, chiều rộng mặt cầu 1m67, chiều dài trung bình
mỗi nhịp là 1m40. Các bộ phận cấu thành cầu gồm: tấm lát mặt, dầm cầu, cột
trụ. Tất cả có hơn 20 tấm đá lát mặt cầu kích thước tấm lớn nhất rộng 60cm,
dài 1m43, tấm nhỏ nhất rộng 38cm, mỗi nhịp có 3 tấm lát mặt (có nhịp gồm 4
tấm) thường tấm ở giữa để phẳng, 2 tấm bên cạnh tạo gờ nổi hai bên rìa tạo
dáng thành cầu. Tám chiếc dầm cầu kích thước dài trung bình 2m25, hai bên
đầu dầm cầu trang trí vân mây xoắn, tạo dáng hình đầu rồng. Phía bên trên hai
đầu dầm cầu trang trí các con vật, hoa lá cách điệu như: hổ phù, cá chép, rơi,
lá sen, lá đề, hoa chanh, dây lá cách điệu… Tổng cộng có 24 chiếc cột trụ đỡ
cầu, cột có kích thước dài khoảng từ 2,5m đến 3m.

Cầu đá bắc qua ao nước phía trước cửa đền Lũng Khê .
( Nguồn : Internet )

15



Cầu đá Trạm Nộ hiện nay nằm trên bờ sông Gáo địa điểm giáp ranh
giữa hai làng Thuận An và Đức Nhân thuộc xã Trạm Lộ còn tồn tại một cây
cầu đá cổ. Tương truyền cầu đá do cụ Nguyễn Quang Sáng là người thôn Đức
Nhân bỏ tiền ra mua đá, thuê thợ làm để cung tiến cho làng cách đây gần 200
năm. Khi ấy cụ đang làm chức Xuất huyện của huyện Siêu Loại dưới đời vua
Minh Mệnh (1820 - 1840). Cầu đá được bắc trên con đường chính nối liền từ
cửa chùa làng Đức Nhân sang làng Thuận An. Con đường này hiện nay không
còn nữa nhưng cây cầu đá vẫn còn tồn tại nguyên vẹn. Cầu làm bằng đá xanh
nguyên khối gồm 5 nhịp với chiều dài tổng cộng là 8m30, chiều rộng mặt cầu
1m48, chiều dài trung bình mỗi nhịp là 1m45. Các bộ phận cấu thành cầu
gồm: tấm lát mặt, dầm cầu, cột trụ. Tất cả có gần 20 tấm đá lát mặt cầu kích
thước tấm lớn nhất rộng 56cm, dài 1m45, tấm nhỏ nhất rộng 38cm, mỗi nhịp
có 3 tấm lát mặt (có nhịp gồm 4 tấm) thường tấm ở giữa để phẳng, 2 tấm bên
cạnh tạo gờ nổi hai bên rìa tạo dáng thành cầu, 6 chiếc dầm cầu kích thước dài
trung bình 2m, hai bên đầu dầm cầu trang trí vân mây xoắn, tạo dáng hình đầu
rồng. Tổng cộng có 14 chiếc cột trụ đỡ cầu, riêng hai bên đầu cầu mỗi bên có
3 cột trụ đỡ dầm cầu, cột có kích thước dài khoảng từ 2m đến 2,5m.[10]
Dường như vẻ đẹp của cái nôi văn hóa Kinh Bắc càng được tô điểm
thêm khi mảnh đất này có sự hiện diện của những cây cầu đá với lối kiến trúc
độc đáo cổ xưa. Mỗi cây cầu lại mang những nét đẹp riêng, tùy thuộc vào sự
sáng tạo và đôi bàn tay khéo léo của những kiến trúc sư dân gian. Cây cầu đá
được xây dựng nhằm mục đích chính là phục vụ cho việc đi lại của người dân,
rút ngắn khoảng cách từ nơi này sang nơi khác. Nếu như cầu đá làng Chuông
mang nét đẹp của nơi thôn quê dân dã, mộc mạc thì đến với cây cầu đá phía
trước cửa đền Lũng Khê lại mang một nét đẹp cổ kính, trang trọng, là lối đi để
vào được khu vực đền chính. Nó giống như con đường mà quan thời xưa đi
qua để vào diện kiến nhà vua.


16


Ngoài ra cũng phải kể đến cây cầu đá còn khá nguyên vẹn nằm trong
Tỉnh Hưng Yên đó là cầu Nôm.
Không chỉ mang giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc độc đáo, cây cầu đá
cổ hơn 200 năm tuổi của làng Nôm, xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm. Đi qua
chiếc cổng làng rêu phong, cổ kính uy nghi như cổng một tòa thành đến cầu
Nôm bắc ngang dòng sông Nguyệt Đức. Nằm giữa quần thể di tích cổ kính
làng Nôm, cầu Nôm là điểm nhấn độc đáo mang lại sức hút đặc biệt cho
không gian văn hóa thuần Việt của làng. Cầu được làm hoàn toàn bằng đá.
Mặt cầu rộng gần 2m, làm bằng đá xanh nguyên khối, gắn khít nhau. Những
phiến đá lớn được các nghệ nhân dân gian đục đẽo rất công phu. Cầu xây 9
nhịp, theo quan niệm của người xưa số 9 tượng trưng cho sự may mắn... Dầm
cầu hình chữ nhật. Mặc dù bị rêu mốc và cây leo bám, nhưng những nét văn
hoa cổ tinh tế của cầu vẫn rất dễ quan sát. Hai bên thành cầu còn hầu như
nguyên vẹn các mỏm đá dầm cầu được chạm trổ vân mây cách điệu, một họa
tiết thường sử dụng trang trí trong kiến trúc cổ, được tạo tác công phu, nghệ
thuật, rất tinh xảo và cầu kỳ, trông như những cái đầu rồng của những thuyền
rồng mà vua chúa ngày xưa hay dùng để đi du ngoạn. Chân cầu là những cột
đá hình trụ, không đều nhau được đẽo thô để gác dầm cầu, đã bị xói mòn bởi
thời gian, trở nên rêu phong, cổ kính. Điểm đặc biệt của cây cầu còn là tính
bền vững về kết cấu. Mặc dù mặt cầu, mố cầu và chân cầu chỉ gác lên nhau
chứ không có vật liệu liên kết, nhưng trải qua thời gian hơn 200 năm mặt cầu
vẫn phẳng, chắc chắn và vững chãi. Điều đó cho thấy trình độ thiết kế, gia
công vật liệu và thi công cầu của những người thợ ngày xưa rất đáng nể phục.
Các cụ cao niên của làng kể rằng, khi xưa cầu được làm bằng gỗ lim nhưng để
thuận tiện cho giao thương vào chợ Nôm, sau cầu được xây dựng lại bằng đá.
Trước đây còn có một cây gạo cổ to đẹp ở đầu cầu phía bên chùa Nôm, nhưng
nay bị cụt ngọn vì gió bão, dù dân làng đã cố cứu nhưng cây chẳng còn


17


nguyên vẹn... Hơn hai thế kỷ đã qua, trải bao vật đổi sao dời, cây cầu vẫn
vững chãi nối nhịp giao thương cho làng nghề đồng nát vang tiếng một thời
và chứng kiến bao đổi thay của làng quê. Cây cầu đá cổ còn gắn với câu
chuyện về một trong người chiến sỹ cách mạng đầu tiên của làng Nôm, liệt sỹ
Phùng Văn Thực, người đã không ngại hiểm nguy đứng ra bảo vệ sự tồn tại
của cây cầu khi cầu bị bọn giặc tìm cách cài mìn đánh sập. Câu chuyện ấy giờ
đây vẫn được người làng xúc động kể lại với niềm kính trọng và tự hào.
Đến với làng Nôm ta sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một không gian
làng quê còn khá nguyên vẹn với những hàng cau thẳng tắp, những cây nhãn
vàng ươm bởi những sợi tơ hồng quấn quýt, cây đa, giếng nước cùng những
cánh đồng lúa xanh bát ngát yên bình. Bao bọc quanh làng Nôm vẫn còn
nguyên những rặng tre xanh kĩu kịt gió đưa. Ngoài ra cây cầu đá cổ mà ta đã
tìm hiểu ở trên chính là sự khác biệt trong kiến trúc của làng Nôm và cũng là
một biểu tượng của ngôi làng cổ khi tên làng, tên cầu hòa làm một, đi vào câu
ca dao :
Ai về cầu đá làng Nôm
Mà xem phong cảnh nước non hữu tình.
[18]
Hay:
Đồng nát thì về cầu Nôm
Con gái nỏ mồm về ở với cha…
[18]
Ta thấy gần như các câu ca dao tục ngữ về làng Nôm xưa đều được
thông qua biểu tượng chính là cây cầu này. Không chỉ mang giá trị lịch sử,
văn hóa, kiến trúc độc đáo, cây cầu đá cổ hàng trăm năm tuổi này còn là một
công trình độc đáo còn nguyên vẹn chưa từng thấy ở bất cứ làng cổ nào của


18


Đồng bằng sông Hồng.

Cầu Nôm, xã Đại Đồng (Văn Lâm)
(nguồn : Internet)

Như vậy với những nét kiến trúc độc đáo hàng trăm năm tuổi của những
cây cầu đá này đã góp phần tạo nên những đặc điểm riêng của vùng văn hóa
Bắc bộ. Nó còn là những di sản văn hóa vật chất đặc sắc của ông cha còn để
lại trong kho tàng văn hóa dân tộc.
1.2.2. Cây cầu ngói Trung bộ
Về mặt địa lý, khác với hai vùng châu thổ ở hai đầu đất nước vốn được
bồi tụ từ một trục sông chính cùng với sự kết nối chặt chẽ của các chi lưu,
vùng duyên hải miền Trung là nơi chịu sự phân cắt mạnh bởi địa hình, tạo
thành các tiểu vùng, giới hạn bởi các dải núi từ dãy Trường Sơn ở phía tây
vươn ra tới biển. Các dòng sông trong vùng thường ngắn và dốc, chảy theo
hướng đông - tây ra biển, lưu vực nhỏ, cửa sông thường bị chế ngự bởi các
cồn cát chạy dài dọc bờ biển. Vì thế trong toàn vùng không có sự liên kết trực

19


tiếp bằng mạng lưới đường thủy như các vùng châu thổ ở Bắc Bộ và Nam Bộ.
Với đặc điểm cấu tạo địa hình như vậy, không gian văn hóa vùng duyên hải
miền Trung thường bao hợp cả không gian văn hóa biển đảo, văn hóa duyên
hải, văn hóa nông thôn đồng bằng và văn hóa miền núi - trung du.
Đến với dải đất miền Trung, chúng ta sẽ thấy được bản sắc văn hóa

vùng miền qua những cây cầu ngói. Không phổ biến như cầu sắt, cầu đá hay
cầu gỗ thông thường, cầu ngói là loại cầu có kiến trúc đặc biệt và có giá trị
nghệ thuật cao. Những cây cầu có tuổi đời mấy trăm năm, lợp mái ngói cổ
kính, nằm soi mình trên dòng nước trong xanh đã làm cho phong cảnh làng
quê Việt Nam nói chung cũng như dải đất Miền Trung nói riêng có thêm một
vẻ đẹp hữu tình thật khó quên.
Ngoài hai cây cầu ngói còn lại ở miền Bắc Bộ như cầu ngói Phát Diệm Ninh Bình, cầu ngói Chùa Lương - Nam Định, thì chúng ta phải kể đến hai
cây cầu ngói nằm ở Miền Trung với lối kiến trúc độc đáo đó là cầu ngói
Thanh Toàn - Huế và Chùa Cầu - Hội An.
Đến với xứ Huế du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mộng mơ của
những danh lam thắng cảnh, được nghe những điệu điệu hò bên dòng sông
Hương thơ mộng, nơi đã chứng kiến những dấu son đáng nhớ trong tiến trình
lịch sử Việt Nam. Nơi đây, những công trình kiến trúc, những giá trị văn hóa
một thời vẫn còn được lưu giữ, trong đó phải kể đến cây cầu ngói Thanh
Toàn.
Cầu ngói Thanh Toàn, một cây cầu cổ xưa, mang kết cấu đặc biệt, là cây
cầu vòm bằng gỗ với mái ngói bắc qua một con mương làng Thanh Thủy
Chánh, thuộc xã Thuỷ Thanh, thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế,
cách thành phố Huế khoảng 8 km về phía Đông Nam. Đây là cây cầu gỗ được
xếp vào loại hiếm và có giá trị nghệ thuật cao. Trải qua bao thăng trầm của
thời gian và lịch sử cây cầu vẫn còn lưu giữ được những nét kiến trúc đặc

20


trưng một thời. Cầu nằm trên hệ thống trụ đỡ có 3 hàng, mỗi hàng có 6 cột,
mỗi hàng đều có trụ bằng đá, tất cả đều có chung một khối mộng để chống
lún. Hai đầu là hai mố cầu, có 7 hệ thống thống thoát nước, nối liền các đầu
mối cầu là hệ thống trụ đỡ, các thanh bê tông chạy dọc từ 2 đầu vào giữa dốc
dần lên đến gần gian giữa thì nằm ngang tạo sự gãy khúc cả mặt cầu lẫn mái

cầu, đồng thời nâng cổng giữa lên cao để tạo cho một độ cao khỏe đẹp và cho
ghe thuyền qua lại dễ dàng. Trên cầu các hệ thống trụ cầu có dầm gỗ bắc
ngang qua để trên đó dựng cột làm khung nhà. Mỗi vi có 4 hàng cột, ở giữa 2
cột là lòng cầu để làm lối đi lại và từ 2 bên cột cái trở ra cột hiên thì được
nâng lên cao làm chỗ hóng mát, bên ngoài có lan can chấn song kiểu “con tiện
bình hoa” để ngồi khỏi ngã. Chỉ có phần sườn cầu làm bàn thờ thì bịt kín còn
đều để cho thông thoáng. Các hệ thống xà thượng, xà hạ đều là hệ thống xà
kép, xà trên nằm trên đầu cột, xà dưới thì di chuyển qua mộng cột. Các bộ
phận kiến trúc đều bằng gỗ, nhưng lại có đặc điểm thú vị là không chạm khắc
hay trang trí mà ở đây chỉ gồm hai loại tiết diện tròn và vuông để tạo vẻ đẹp.
Bộ mái cây cầu các nghệ nhân đã chạm khắc hình con vật với chủ đề tứ linh:
Long – Lân – Quy – Phụng. Về trang trí, trước đó chỉ có con Giao Long, sau
này thay bằng con Rồng ở hai đầu và đôi phượng chầu mặt trời ở giữa. Cầu
được chia làm 7 gian, gian giữa dùng để thờ cúng. Ở 2 lối vào của cây cầu có
đôi hàng câu đối chữ Hán được khắc trực tiếp lên trên cầu, nhưng do thời gian
tàn phá nên khó tìm ra câu nguyên vẹn. Đây là một trong những câu đối trên
cây cầu: Kiệt cấu thiên thu truyền thắng tích Ngỏa kiều thắng cảnh cựu quy
mô Tạm dịch là: (Kiệt tác kiến trúc này là một di tích lưu truyền mãi nghìn
năm sau… Cầu Ngói là một thắng cảnh làm theo quy mô cũ).

21


Cầu ngói Thanh Toàn (Nguồn: Internet)
Cầu ngói Thanh Toàn hiện hữu không chỉ mang chức năng đón đưa
người qua lại, mà nó còn mang giá trị thẩm mỹ và nhân đạo sâu sắc, nhìn từ
xa xa ta có cảm tưởng cây cầu giống như một con tôm khổng lồ đang cong
mình lên nối liền hai bên bờ. Ngoài ra cây cầu còn mang vẻ đẹp cổ kính,
duyên dáng, rất hài hòa với cảnh quan thanh bình của một làng quê, đầu cầu
là một cái chợ nhỏ nằm ẩn mình dưới tán bốn gốc đa cổ thụ xanh mát hai bên

bờ như đang bao bọc lấy cầu. Đây là nơi buôn bán và cũng nơi gặp gỡ, giao
lưu, sinh hoạt văn hóa của dân làng, một không gian văn hóa đậm chất đồng
quê để nghe câu hát bài chòi, nhâm nhi bát nước chè xanh, thử sức với những
trò chơi giân dan, dạo chơi phiên chợ làng để được chọn mua những món quà
quê bình dị mà thơm thảo tấm lòng người dân quê xứ Huế. Thanh Toàn không
còn là một cái tên xa lạ với du khách thập phương cũng như du khách nước
ngoài, đó là “Món quà của một tấm lòng đã được vua và dân khắc ghi”.
Không những thế nó còn đi vào những câu ca dao, dân ca quen thuộc :
Ai về cầu ngói Thanh Toàn

22


×