Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp lớn tại sở giao dịch i ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 72 trang )

Lời mở đầu
Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), hiện nay Việt
Nam có gần 300.000 doanh nghiệp, chiếm 96,5% trong số đó là doanh nghiệp
nhỏ và vừa, hàng năm đóng góp khoảng 40% GDP của cả nước, thu hút khoảng
50% tổng số lao động trong doanh nghiệp và chiếm 17,46% tổng nộp ngân sách.
Trong khi đó, các doanh nghiệp lớn chỉ chiếm hơn 3% số doanh nghiệp nhưng
thu hút tới 50% tổng số lao động và chỉ riêng 50 doanh nghiệp hàng đầu trong
Bảng danh sách xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (Danh sách
VNR500) đã đóng góp tới 36,2% tổng thu ngân sách của cả nước. Cần phải thừa
nhận rằng các doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam (doanh nghiệp VNR500) đã và
đang giữ vai trò chiến lược trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Tại ngân hàng thường phát sinh những khoản tín dụng lớn của các Doanh
nghiệp lớn. Những khoản tín dụng chiếm phần lớn dư nợ của ngân hàng đồng
thời mang lợi nguồn doanh thu cao nhất so với các nhóm khách hàng khác
Với những ý nghĩa đó au quá trình nghiên cứu và thực tập tại phòng quan
hệ khách hàng I tại Sở Giao Dịch I ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đề
tài : “ Nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp lớn tại Sở Giao Dịch I
ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” được chọn làm đề tài tốt nghiệp. Bài
viết gồm ba phần:
- Chương I : Doanh nghiệp lớn và hiệu quả cho vay của ngân hàng đối
với doanh nghiệp lớn.
- Chương II : Thực trạng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp
lớn tại Sở Giao Dịch I ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
- Chương III: Các giảp pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả cho
vay doanh nghiệp lớn tại Sở

1


Chương I : DOANH NGHIỆP LỚN VÀ HIỆU QUẢ CHO VAY


CỦA NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP LỚN.
1.1 Doanh nghiệp lớn :
1.1.1 Khái niệm
Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cũng như pháp luật của mỗi nước quyết
định cách phân chia quy mô doanh nghiệp khác nhau. Một doanh nghiệp đặt
trong điều kiện kinh tế của nước này là doanh nghiệp lớn nhưng trong điều kiện
kinh tế của nước khác lại là doanh nghiệp nhỏ và ngược lại. Vì vậy khi nói đến
doanh nghiệp lớn thì ta nên xác định rõ doanh nghiệp đó đang ở trong môi
trường kinh tế nào? Ở thời điểm nào? Hay ta chỉ có thể xác định được đó là
doanh nghiệp lớn khi đặt nó trong một quốc gia cụ thể và tại một thời điểm nhất
định.Đưa ra một định nghĩa chính xác về doanh nghiệp lớn cho riêng mình có
một ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Thông thường định nghĩa về doanh nghiệp lớn dựa trên một nhóm các chỉ
tiêu định tính và định lượng trong đó các chỉ tiêu định lượng đóng vai trò quyết
định phân biệt doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ. Có ba
chỉ tiêu định lượng thường được dùng độc lập hoặc kết hợp với nhau để xác định
tính chất lớn của doanh nghiệp:
- Tổng vốn đầu tư vào máy móc dây chuyền sản xuất.
- Số lượng lao động.
- Quy mô sản xuất hoặc doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các chỉ tiêu định tính thường thường được xem xét là cơ cấu của doanh
nghiệp: số người quản lý, người ra quyết định, ngành nghề kinh doanh và rủi ro
có thể xảy ra. Các nước trên thế giới có sự phân loại hình thức doanh nghiệp lớn
không liên quan đến hình thức sở hữu cũng như tư cách pháp nhân của doanh
nghiệp.Các khái niệm sẽ được áp dụng chung cho doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty liên doanh...

2



Dưới đây là một số định nghĩa của các quốc gia tiêu biểu của châu Á và thế
giới về doanh nghiệp lớn:
Philippine: Doanh nghiệp được coi là doanh nghiệp lớn khi tổng tài sản
của doanh nghiệp nhiều hơn 60 triệu P.
Nhật Bản: Việc phân loại doanh nghiệp được căn cứ trên các chỉ tiêu cho
từng ngành
Khu vực
Quy mô lao động/ Vốn
Sản xuất, khai thác và chế biến
>300 người/ 100 triệu Yên
Ngành bán buôn
>100 người/ 30 triệu Yên
Bán lẻ và dịch vụ
>50 người/ 10 triệu Yên
Malaixia: Nhứng doanh nghiệp được coi là lớn nếu doanh nghiệp đó có
nhiều hơn 75 công nhân viên, không kể người làm bán thời gian hoặc có số vốn
cổ phần nhiều hơn 1 triệu USD.
Các nước thuộc cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC): Doanh nghiệp có
quy mô lớn nếu doanh nghiệp đó có doanh thu hàng năm vượt quá 50 triệu EUR,
có nhiều hơn 250 lao động, hoặc tổng giá trị tài sản vượt quá 43 triệu EUR.
Tại Việt Nam Theo Điều 3 Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày
23/11/2001, doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Như vậy,
doanh nghiệp có vốn đăng ký trên 10 tỷ đồng và số lao động trên 300 người
được coi là doanh nghiệp lớn .
Quan niệm thế nào là doanh nghiệp lớn ở mỗi quốc gia khác nhau, nhưng
ta có thể kết luận rằng thuật ngữ ”Doanh nghiệp lớn” bao hàm một tập hợp các
thực thể kinh tế có quy mô lớn nếu xét trên phương diện vốn và lao động so với
mặt bằng chung của nền kinh tế ở mỗi quốc gia nhất định.

1.1.2. Đặc điểm.
* Hoạt động của doanh nghiệp.

3


Các doanh nghiệp lớn thường là các doanh nghiệp hoạt động lâu năm do đó
hoạt động của những doanh nghiệp này thường ổn định và tăng trưởng đều đặn.
Lợi thế của các doanh nghiệp lớn là quy mô đủ lớn và có sự ổn định, chống chịu
tốt trong điều kiện kinh tế cạnh tranh mạnh mẽ. Nhưng với những doanh nghiệp
vừa và nhỏ với độ linh hoạt cao dễ dàng thích nghi với những biến động của của
nền kinh tế thì doanh nghiệp lớn lại gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề này.
Doanh nghiệp lớn tương ứng một hệ thống sản xuất lớn nên khi nền kinh tế biến
động thì bộ máy sản xuất cồng kềnh như vậy sẽ không dễ dàng thay đổi để thích
nghi với môi trường. Ngoài ra doanh nghiệp lớn cũng gặp phải một số khó khăn
đó là: bộ máy quản lý nặng nề, thay đổi chậm đối với những thay đổi đột ngột
của thị trường...
* Ngành nghề.
Doanh nghiệp lớn với quy mô và nguồn lực dồi dào, có thể tham gia vào rất
nhiều lĩnh vực kinh doanh, những ngành quan trọng của nền kinh tế như: Ngân
hàng tài chính, bảo hiểm, may mặc, công nghiệp nặng, khai thác khoáng sản,
luyện kim,... Các ngành trên là các ngành nghề quan trọng bậc nhất của mỗi
quốc gia. Về dịch vụ các doanh nghiệp lớn thường tập trung vào các lĩnh vực
như: các dịch vụ viễn thông, vận tải liên tỉnh và quốc tế, bảo hành chăm sóc
khách hàng,... Thương mại cũng là một thế mạnh của doanh nghiệp lớn: tham gia
phân phối sản phẩm, mua nguyên vật liệu trong nước và nước ngoài…Các ngành
nghề được nêu ở trên đều là các ngành nghề có tổng số vốn đầu tư ban đầu rất
lớn, công nghệ sử dụng cao và độ chính xác cao, lao động sử dụng là lao động có
tay nghề cao và lượng lao động rất nhiều.
* Chu kỳ kinh doanh

Đặc điểm quy mô lớn nên chu kỳ kinh doanh của các doanh nghiệp này
không giống như các doanh nghiệp vừa và nhỏ có chu kỳ kinh doanh theo mùa,
chớp thời cơ nhanh chóng và không ổn định. Chu kỳ kinh doanh của các doanh

4


nghiệp lớn thường diễn ra đều đặn và độ ổn định cao. Việc lập chiến lược phát
triển dài hạn cho doanh nghiệp lớn là rất quan trọng và không thể bỏ qua.
Một số sản phẩm và dịch vụ mà các doanh nghiệp lớn tập trung bao gồm:
- Các sản phẩm làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất với chức
năng là nguyên vật liệu chính của quá trình sản xuất. Nó thường là bộ phận chính
của chi tiết lớn trong các ngành: cơ khí, tự động hoá, công nghiệp ô tô, máy
bay…Đó là những sản phẩm hàm lượng kỹ thuật rất cao và rất quan trọng.
- Các sản phẩm cung cấp năng lượng cho quá trình sản suất như: xăng, ga
than, dầu khí, …
- Các sản phẩm tiêu dùng thiết yếu như: may mặc, vật liệu xây dựng, đồ gia
dụng…
- Các sản phẩm dịch vụ như: dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn
thông… Các sản phẩm dịch vụ này được coi là mạch máu của nền kinh tế mỗi
quốc gia.
* Thị trường và cạnh tranh.
Sản phẩm của các doanh nghiệp lớn là các sản phẩm thiết yếu, chất lượng
tốt của nền kinh tế nên khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp lớn là rất cao.
Các doanh nghiệp lớn thường chỉ gặp phải sự cạnh tranh của các doanh nghiệp
lớn trong nước cũng như nước ngoài do các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước
không đủ nguồn lực để cạnh tranh. Do cung cấp các sản phẩm thiết yếu nên thị
trường về hàng hoá của các doanh nghiệp lớn rất rộng từ thành thị đến nông
thôn, từ người giàu đến người nghèo...
1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp lớn.

Tại Việt Nam trong thời gian qua, doanh nghiệp lớn đã có mặt ở hầu hết
các ngành nghề, các lĩnh vực của nền kinh tế và giữ vai trò quan trọng thể hiện ở
một số mặt sau:
* Doanh nghiệp lớn chiếm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân

5


Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp lớn thuộc những ngành then
chốt, đặc biệt còn có những ngành độc quyền. Các doanh nghiệp lớn giữ vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế hoàng hóa nhiều thành phần bởi nó vẫn tồn tại và phát
triển được ở những ngành, những lĩnh vực chủ đạo của nền kinh tế.
* Doanh nghiệp lớn đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội.
Mục tiêu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế đều là hoạt động nhằm
mang lại lợi nhuận. Các doanh nghiệp lớn càng phải coi trọng nhiệm vụ đó.
Những doanh nghiệp này với nguồn lực mạnh mẽ của mình đã đem lại rất nhiều
của cải cho nền kinh tế, đó là tham gia vào sản xuất các sản phẩm thiết yếu.
Quan hệ mật thiết với nền kinh tế thì doanh nghiệp lớn càng hoạt động hiệu quả ,
lợi ích đem lại cho nền kinh tế càng lớn giúp đất nước ngày càng phát triển.
* Các doanh nghiệp lớn mà phần nhiều trong số đó là các doanh nghiệp
Nhà nước đã trở thành công cụ điều chỉnh vĩ mô qua đó thể hiện các mục tiêu
phát triển xã hội như giải quyết vấn đề việc làm, đảm bảo công bằng xã hội, và
tăng trưởng kinh tế. Doanh nghiệp lớn với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế sẽ
góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi để hoà nhập với khu vực và
thế giới, từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, rút ngắn khoảng
cách so với các nước trên thế giới
1.1.4. Các doanh nghiệp lớn ở Việt Nam.
Nền kinh tế Việt Nam đang rất cần sự phát triển bền vững của các doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn để góp phần tạo nên sự ổn định kinh tế
vĩ mô, sự an toàn và hấp dẫn của môi trường kinh doanh. Theo Phòng Thương

mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), hiện nay Việt Nam có gần 300.000
doanh nghiệp, chiếm 96,5% trong số đó là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hàng năm
đóng góp khoảng 40% GDP của cả nước, thu hút khoảng 50% tổng số lao động
trong doanh nghiệp và chiếm 17,46% tổng nộp ngân sách. Trong khi đó, các
doanh nghiệp lớn chỉ chiếm hơn 3% số doanh nghiệp nhưng thu hút tới 50%
tổng số lao động và chỉ riêng 50 doanh nghiệp hàng đầu trong Bảng danh sách

6


xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (Danh sách VNR500) đã đóng
góp tới 36,2% tổng thu ngân sách của cả nước. Cần phải thừa nhận rằng các
doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam (doanh nghiệp VNR500) đã và đang giữ vai
trò chiến lược trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam ..
1.2 Tín dụng Ngân hàng và vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với
doanh nghiệp lớn.
1.2.1 Tín dụng Ngân hàng
a. Khái quát NHTM.
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và của hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân
hàng.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết các nền kinh
tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã
hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn
xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình.
Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia
đình và một phần đối với Nhà nước (tỉnh, thành phố...). Đối với các doanh

nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua
hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi doanh
nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán các khoản mua hàng hoá và dịch vụ,
họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ thanh toán hay tài khoản điện tử... Và
khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến các
ngân hàng để nhận được lời tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho
Chính phủ ( thông qua chứng khoán Chính phủ ) là nguồn tài chính quan trọng
để đầu tư phát triển. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là

7


chính sách tiền tệ, vì vậy là công cụ quan trọng trong chính sách kinh tế của
Chính phủ nhằm phát triển kinh tế bền vững.
Tóm lại, ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh
toán- và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất cứ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế. Qua định nghĩa trên ta có thể thấy ba chức năng cơ
bản của một ngân hàng thương mại là: trung gian tài chính; tạo phương tiện
thanh toán và trung gian thanh toán.
Hiện nay trên thế gới một ngân hàng thương mại có thể có hàng chục, thậm
chí hàng trăm dịch vụ ngân hàng khác nhau. Sau đây là một số dịch vụ ngân
hàng cơ bản: mua, bán ngoại tệ; nhận tiền gửi; cho vay; bảo quản hộ tài sản;
cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán; quản lý ngân quỹ; tài
trợ các hoạt động của Chính phủ; bảo lãnh; cho thuê thiết bị trung và hạn
(Leasing); cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn; cung cấp các dịch vụ tư vấn
chứng khoán; cung cấp các dịch vụ bảo hiểm; cung cấp các dịch vụ đại lý...
b. Tín dụng NHTM
Các ngân hàng thương mại lớn hiện nay thực hiện đa dạng các hình thức tín
dụng từ cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn, bảo lãnh cho khách hàng, mua tài

sản cho thuê...
* Chiết khấu thương phiếu.
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua chịu hàng hoá và
dịch vụ giữa các khách hàng với nhau. Người bán có thể giữ thương phiếu đến
hạn đòi tiền người mua hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn.
Số tiền ngân hàng ứng trước vào lãi suất chiết khấu, thời hạn chiết khấu và lệ phí
chiết khấu.
Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân
hàng và những người ký tên trên thương phiếu. Để thuận tiện cho khách hàng,
ngân hàng thường ký với khách hàng hợp đồng chiết khấu. Khi cần chiết khấu,

8


khách hàng chỉ cần gửi thương phiếu lên ngân hàng xin chiết khấu. Ngân hàng sẽ
kiểm tra chất lượng của thương phiếu và thực hiện chiết khấu. Do tối thiểu có 2
người cam kết trả tiền cho ngân hàng nên độ an toàn của thương phiếu là tương
đối cao. Hơn nữa, ngân hàng thương mại có thể tái chiết khấu thương phiếu tại
ngân hàng Nhà nước để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp.
* Cho vay.
- Thấu chi.
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được
chi trội hơn số tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định trong
một khoảng thời gian nhất định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và
thời gian thấu chi. Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ
nhiệm chi, mua thẻ... vượt quá số tiền gửi để chi trả. Khi khách hàng có tiền
nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Các khoản chi quá
hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi xuất phạt và đình chỉ sử dụng hình thức này.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời

gian và quy mô. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt đơn giản,
phần lớn là không có bảo đảm, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân. Nhìn
chung hình thức này chỉ sử dụng với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều
đặn và kỳ thu nhập ngắn.
- Cho vay từng lần.
Cho vay từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng
đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để
đáp ứng hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn trình ngân
hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp
đồng cho vay, lãi xuất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt
thành các hồ sơ khác nhau.
- Cho vay theo hạn mức.

9


Đây là hình thức cho vay theo đó ngân hàng thoả thuận cung cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng nhất định đảm bảo dư nợ cho vay của khách hàng tại
ngân hàng mức dư nợ khách hàng đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Hạn mức được cấp dựa trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, chu kỳ
kinh doanh và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kỳ khách hàng có thể
thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp
các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi
kiểm tra tính hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ giải ngân cho khách
hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho khách hàng vay mượn thường
xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong
nghiệp vụ này ngân hàng có thể ấn định hạn trả nợ dựa trên chu kỳ sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do

đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay
không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả
từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo
tài chính, hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
- Cho vay luân chuyển.
Cho vay luân chuyển là cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh
nghiệp sau khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua
hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quý, người vay
phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với
nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và
khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong một hoặc
nhiều năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng
xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không

10


tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài
chính của khách hàng.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn doanh
nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch luân chuyển hàng hoá để dự đoán dòng
ngân quỹ trong thời gian tới.
Cho vay luân chuyển rất thuận lợi cho khách hàng. Thủ tục chỉ cần thực
hiện cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy
việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn đơn giản. Nếu doanh nghiệp
gặp khó khăn trong tiêu thụ thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong thu hồi vốn do
thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng.
- Cho vay trả góp.
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng thoả thuận. Cho vay trả gốp

thường được áp dụng cho các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố
định hoặc hàng hoá lâu bền. Số tiền trả mỗi lần sẽ được tính toán sao cho phù
hợp với khả năng trả nợ.
Ngân hàng thường cho vay trả góp với người tiêu dùng thông hạn mức nhất
định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hoá mà khách hàng
đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía
ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách hàng trả tiền trực
tiếp cho ngân hàng. Đây là hình thức tài trợ cho người mua nhằm khuyến khích
tiêu thụ hàng hoá.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá
mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay.
Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của
ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp
thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất của ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp.

11


Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó ngân
hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là các hình thức cho
vay thông qua các tổ chức trung gian.
Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội
Nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ… Các tổ chức này thường liên kết
các thành viên theo mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ
quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy, việc phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói
giảm nghèo luôn được các tổ chức này quan tâm.
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ
chức trung gian như thu nợ, phát tiền vay… Tổ chức trung gian cũng có thể đứng
ra đảm bảo cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho

một thành viên vay. Điều nay rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không
đủ tài sản thế chấp.
Ngân hàng cũng có thể cho vây thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu
vào của quá trình sản xuất. Cho vay theo cách này sẽ giúp cho việc hạn chế
người vay sử dụng tiền sai mục đích.
Cho vay gián tiếp thường được áp dụng cho thị trường có nhiều món vay
nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay
qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay.
Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bớt tủi ro, chi phí cho ngân hàng.
Tuy nhiên nó cũng bộc lộ các khiếm khuyết, nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế
của mình để tăng lãi suất cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên cho
riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán sản phẩm kém chất lượng
hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
* Cho thuê tài sản ( thuê- mua ).
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là cho vay để khách hàng
mua tài sản. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp khách hàng không đủ hoặc chưa
đủ điều kiện để đi vay. Để mở rộng tín dụng, ngân hàng thương mại đã mua tài

12


sản theo yêu cầu của khách hàng để cho khách hàng thuê. Vì tài sản thuộc sở hữu
của ngân hàng nên ngân hàng có thể thu hồi hoặc cho người khác thuê khi người
thuê không trả nợ được. Điều này giảm bớt thiệt hại cho ngân hàng.
Hoạt động cho thuê bắt nguồn từ doanh nghiệp sản xuất hoặc cung cấp thiết
bị, nhà cửa có giá trị lớn, thời hạn sử dụng dài. Do người mua không đủ tiền
mua, hoặc chỉ có nhu cầu sử dụng trong thời gian ngắn hơn thời gian khấu hao
của tài sản… đã làm nảy sinh nhu cầu thuê. Các doanh nghiệp sản xuất và cung
cấp có nhu cầu tiêu thụ để tăng doanh thu và giảm hao mòn của tài sản. Từ đó
phát sinh nhu cầu đi thuê- cho thuê.


13


* Bảo lãnh ( tái bảo lãnh ).
Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo
lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi
khách không thực hiện đúng như nghĩa vụ đã cam kết.
Bảo lãnh thường có 3 bên: Bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên
bảo lãnh. Bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa ngân hàng là bên bảo lãnh; khách
hàng của ngân hàng là người được bảo lãnh; và người hưởng bảo lãnh là bên thứ
ba.
1.2.2 Vai trò của cho vay đối với doanh nghiệp lớn
a. Hình thành cơ cấu vốn
Trong nền kinh tế thị trường hiếm có doanh nghiệp nào chỉ sử dụng vốn tự
có để hoạt động kinh doanh. Việc này không những hạn chế khả năng mở rộng
sản xuất kinh doanh mà còn làm tăng gia vốn của doanh nghiệp đó. Hiện nay để
thực hiện các quyết định đầu tư, một doanh nghiệp có thể sử dụng từ hai nhóm
nguồn vốn: vốn tự có và vốn đi vay. Nhưng không phải doanh nghiệp muốn vay
bao nhiêu cũng được mà còn tuỳ thuộc điều kiện và yêu cầu theo quy định, luật
định. Nếu vốn vay quá lớn thì chi phí vào giá thành sẽ tăng. Chính vì vậy buộc
doanh nghiệp phải xây dựng cơ cấu vốn tối ưu. Cơ cấu vốn tối ưu là sự kết hợp
hợp lý nhất các nguồn vốn tài trợ cho kinh doanh của một doanh nghiệp nhằm
mục đích tối đa hoá giá trị thị trường của doanh nghiệp tại mức giá vốn bình
quân rẻ nhất.
b. Mở rộng sản xuất
Tín dụng ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động của mình thông qua việc
huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong toàn nền kinh tế để tài trợ cho các thành
phần kinh tế nói chung và các doanh nghiệp lớn nói riêng. Để đảm bảo cho các
doanh nghiệp lớn không chỉ duy trì sản xuất mà còn tái sản xuất mở rộng, đặc

biệt trong những ngành mũi nhọn của đất nước, tín dụng ngân hàng tài trợ vốn
cho các doanh nghiệp không chỉ ngắn hạn mà còn cả trung hạn. Muốn mở rộng

14


sản xuất kinh doanh phải có thị trường. Ngoài thị trường tiềm năng trong nước
các doanh nghiệp còn phải chú trọng thị trường nước ngoài. Tín dụng ngân hàng
thông qua nghiệp vụ bảo lãnh, tài trợ cho xuất nhập khẩu đã giúp doanh nghiệp
thực hiện tốt điều này. Khi doanh nghiệp là người xuất khẩu, ngân hàng đóng vai
trò là ngân hàng thông báo thu hồi vốn cho họ. Còn khi các doanh nghiệp là
người nhập khẩu máy móc thiết bị ngân hàng thông quan nghiệp vụ bảo lãnh, mở
thư tín dụng tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Và ngân
hàng với các hình thức tín dụng phù hợp của mình đã thực sự trở thành người
bạn tốt của các doanh nghiệp trong quá trình mở rộng thị phần và mở rộng sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
c. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Đặc trưng của tín dụng ngân hàng không phải cấp phát vốn mà là có hoàn
trả gốc và lãi theo thời hạn quy định. Do đó không chỉ thu hồi vốn là đủ mà các
doanh nghiệp còn phải tìm nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tiết
kiệm, tăng nhanh vòng quay của vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất
ngân hàng thì doanh nghiệp mới trả nợ được và kinh doanh có lãi.
Hiện nay ngân hàng chỉ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp có phương án
sản xuất kinh doanh có hiệu quả, như vậy doanh nghiệp muốn có vốn của ngân
hàng đầu tư phải tự khẳng định mình làm ăn có hiệu quả.
Hơn nữa, tín dụng ngân hàng với quy trình kiểm soát trước, trong và sau
khi cho vay, giám sát chặt chẽ tiến độ và mục đích sử dụng vốn của doanh
nghiệp giúp doanh nghiệp đi đúng hướng đã chọn nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận
cao nhất. Tín dụng ngân hàng cũng góp phần buộc doanh nghiệp phải làm ăn
đúng đắn thông qua việc kiểm tra định kỳ các báo cáo tài chính doanh nghiệp. Vì

quá trình tạo ra lợi nhuận của tư bản ngân hàng có liên quan đến chu trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên để đảm bảo lợi ích của mình cũng như
của doanh nghiệp, ngân hàng luôn cùng doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn

15


trong phạm vi cho phép, tư vấn cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả
hơn.
1.2.3. Hiệu quả cho vay của Ngân hàng thương mại đối với doanh
nghiệp lớn.
a. Khái niệm hiệu quả cho vay doanh nghiệp lớn.
Tín dụng luôn là hoạt động mang lại hiệu quả cao cho các ngân hàng
thương mại, song không phải tất cả các ngân hàng thương mại đều thực hiện tốt
nhiệm vụ này. Một số ngân hàng gặp khó khăn trong vấn đề quản lý, thu hồi nợ,
một số khác lại gặp khó khăn trong việc tìm kiếm dự án thích hợp để cho vay
hoặc gặp khó khăn trong huy động vốn... Nhưng hầu hết các rủi ro mà ngân hàng
gặp phải đều rơi vào hoạt động cho vay. Hiệu quả của hoạt động cho vay ảnh
hưởng rất nhiều đến hiệu quả hoạt động tín dụng và hiệu quả hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Từ việc đánh giá hiệu quả của hoạt động cho vay, ngân
hàng sẽ có định hướng, giải pháp để khắc phục các hạn chế, khó khăn cũng như
đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cho vay của ngân hàng. Tuỳ vào từng đối tượng
khách hàng mà ngân hàng có cách thức đánh giá hiệu quả cho vay riêng.
Hiệu quả của hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp lớn được thể hiện
trên hai góc độ kinh tế và xã hội.
Xét trên góc độ hiệu quả kinh tế ( hiệu quả tài chính): đó là khoản lợi nhuận
mà hoạt động cho vay đem lại cho ngân hàng. Khoản lợi nhuận này được tính
dựa trên chênh lệch giữa lãi vay và lãi huy động và các khoản phí khác. Khi
khoản cho vay này đem lai lợi nhuận tức là hoạt động cho vay của ngân hàng có
hiệu quả. Đó là về phía ngân hàng, còn đối với doanh nghiệp cũng phải có một

khoản thu nhập hợp lý so với dự kiến ban đầu. Khoản thu này sẽ giúp doanh
nghiệp tái sản xuất giản đơn và mở rộng hơn hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình và dời sống của người lao động mới được đảm bảo.
Ở phần trên chúng ta đã không ít lần đề cập đến vai trò to lớn của doanh
nghiệp lớn trong tiến trình phát triển của đất nước. Các doanh nghiệp lớn ở Việt

16


Nam có một phần lớn là các doanh nghiệp Nhà nước nên ngoài hiệu quả về mặt
kinh tế còn có hiệu quả về mặt xã hội. Một khoản tín dụng hay cho vay có hiệu
quả sẽ góp phần thực hiện các mục tiêu của Nhà nước như cân bằng kinh tế giữa
các thành phần, các vùng kinh tế hay trong việc giải quyết công ăn việc làm cho
người dân... Các doanh nghiệp lớn có mạnh, hoạt động có hiệu quả thì mới phát
huy được hết vai trò, tính năng của mình trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
của đất nước.
Dựa vào các hình thức thể hiện khác nhau mà hiệu quả hoạt động cho vay
đối với doanh nghiệp lớn được hiểu theo các cách khác nhau, nhưng nhìn chung
hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp lớn được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu vay
hợp lý của các doanh nghiệp và nhu cầu đó phải phù hợp với sự phát triển của
nền kinh tế, xã hội và phải đảm bảơ tồn tại và phát triển của ngân hàng.
b. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả cho vay doanh nghiệp lớn.
Cho vay không chỉ là hoạt động kinh tế có vai trò quan trọng không chỉ
đối vớicác doanh nghiệp, với bản thân ngân hàng mà còn có vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát ttriển ổn định, bền vững. Xét trên cương vị
những nhà ngân hàng thì hiệu quả hoạt động hoạt động cho vay chính là hiệu quả
về quy mô, chất lượng và lợi nhuận mà hoạt động đó mang lại cho ngân hàng.
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào khi có quan hệ đi vay đối với ngân hàng thì các
ngân hàng đều phải đánh giá hiệu quả của các mối quan hệ đó.
* Chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ cho vay doanh nghiệp lớn.

Dư nợ cho vay DN lớn
Tổng dư nợ cho vay
Chỉ tiêu này phản ánh quy mô đối với doanh nghiệp lớn trong hoạt đông

Tỷ trọng dư nợ c/vay DN lớn =

cho vay của ngân hàng đồng thời phản ánh mức độ ảnh hưởngcủa hiệu quả hoạt
động cho vay đối với doanh nghiệp lớn đến hiệu quả tín dụng ngân hàng nói
riêng và hiệu quả kinh doanh ngân hàng nói chung.
* Chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ cho vay doanh nghiệp lớn.
Dư nợ cho vay DN lớn năm sau

17


Tăng trưởng dư nợ cho vay DN lớn

Dư nợ cho vay DN lớn năm

=
trước
Chỉ tiêu này dùng để phản ánh tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay đối với
doang nghiệp lớn trong các năm. Cùng với chính sách tín dụng của ngân hàng
trong từng thời kỳ và chỉ tiêu thứ hất chúng ta đánh giá được xem hoạt động cho
vay của ngân hàng đối với doang nghiệp lớn có theo đúng chủ trương và quy
định của ngân hàng hay không.

18



* Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn cho vay đối với doanh nghiệp lớn.
Dư nợ quá hạn cho vay DN lớn
Tổng dư nợ cho vay DN lớn
Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả cho vay của ngân hàng

Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay DN lớn =

đối với doanh nghiệp lớn. Đây là một trong các chỉ tiêu đánh giá uy tín trong
quan hệ tín dụng của doanh nghiệp lớn với ngân hàng. Chỉ tiêu này cho biết
trong tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp lớn thì có bao nhiêu là nợ quá hạn, hay
nói cách khác là nợ quá hạn chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng dư nợ.
* Chỉ tiêu tỷ lệ dư nợ cho vay doanh nghiệp lớn có tài sản đảm bảo.
Dư nợ c/vay DN lớn có TSĐB
Dư nợ cho vay DN lớn
Hiệu quả tín dụng ngân hàng nói chung, hiệu quả hoạt động cho vay doanh

Tỷ lệ nợ c/vay DN lớn có TSĐB =

nghiệp lớn nói riêng không chỉ phụ thuộcvào khả năng đảm bảo bằng tài sản mà
chủ yếu phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của dự án. Tuy nhiên tỷ lệ dư nợ cho
vay có tài sản đảm bảo đối với doanh nghiệp lớn là một chỉ tiêu cần thiết khi
đánh giá hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp lớn. Do xuất phát từ thực tế về
hoạt động kinh doanh và cơ cấu của doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế mà tỷ lệ
này được coi là cần thiết để đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh
nghiệp lớn.
* Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng đối với doanh nghiệp lớn.
Vòng quay vốn t/dụng đ/v DN lớn =

Doanh số thu nợ DN lớn
Dư nợ cho vay DN lớn bình


quân
Vòng quay vốn tín dụng cao thể hiện nguồn vốn ngân hàng lưu chuyển
nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, kinh doanh hàng hoá. Với cùng một
lượng vốn cung cấp cho nền kinh tế nhưng nếu tốc độ vòng quay vốn tín dụng
nhanh thhì ngân hàng có thể đáp ứng nhiều hơn nhu cầu về vốn của doanh
nghiệp lớn.
* Chỉ tiêu dư nợ cho vay ngắn, trung và dài hạn đối với doanh nghiệp lớn.

19


Chỉ tiêu này cho biết cả số tương đối với số tuyệt đối về dư nợ cho vay
ngắn, trung và dài hạn của doanh nghiệp lớn trong tổng dư nợ là bao nhiêu. Qua
đó, so sánh với tình hình huy động vốn của ngân hàng, xem hoạt động cho vay
đó có hiệu quả không, có đúng với quy luật của thị trường hay không…
* Chỉ tiêu tỷ lệ lợi nhuận, thu dịch vụ mà các doanh nghiệp lớn mang lại
cho ngân hàng trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng đối
với doanh nghiệp lớn không chỉ dừng lại ở quan hệ cho vay mà còn bao gồm cả
những hoạt động khác của ngân hàng đối với doanh nghiệp lớn như bảo lãnh uỷ
quyền…Do vậy để đánh gía toàn diện hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng
thì ta phải đánh giá cả khoản lợi nhuận từ hoạt động dịch vụ mà doanh nghiệp
lớn mang lại cho ngân hàng.
* Chỉ tiêu thu hồi nợ cho vay doanh nghiệp lớn, hiệu quả hoạt động cho vay
không chỉ thể hiện ở việc khoản cho vay đó đem lại lợi nhuận bao nhiêu, nó có
được đảm bảo không hay tỷ lệ nợ quá hạn của nó ra sao… mà hiệu quả cho vay
còn được đánh giá qua ccong tác thu hồi nợ, thực chất đây là một trong những
cách để đánh giá tỷ lệ nợ quá hạn, nhưng tỷ lệ nợ quá hạn chỉ cho ta biết tỷ lệ
chung, còn chỉ tiêu này dùng để đánh giá cụ thể từng doanh nghiệp lớn một, xem
ngân hàng thu được bao nhiêu. Công tác thu hồi nợ không chỉ phản ánh các

khoản vay trong năm mà còn là những khoản thu nợ quá hạn, nợ khó đòi mà
ngân hàng có thể thu được từ những doanh nghiệp lớn tưởng chừng như không
thể trả nổi khoản vay. Vì vậy đây cũng là một chỉ tiêucần xem xét khi đánh giá
hiệu quả hoạt động cho vay ngân hàng đối với doanh nghiệp lớn.
Mỗi một chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh, một góc độ riêng đối với hoạt
động cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp lớn. Hoạt động kinh doanh
thông thường đã khó xác định hiệu quả, trong khi đó ở đây hoạt động cho vay là
hoạt động kinh doanh tiền tệ thì càng khó xác định hơn. Bản thân tiền tệ, quy
trình vận hành của nó đã khó xác định nên chúng ta phải dụng các chỉ tiêu khác
nhau để đánh giá hiệu quả thực tế mà nó đem lại. Do đó ta không thể bỏ qua bất

20


cứ chỉ tiêu nào trong các chỉ tiêu trên, các chỉ tiêu này luôn có quan hệ qua lại
với nhau, giúp cho việc đánh giá hiệu quả cho vay được chính xác nhất. Có thể
với các doanh nghiệp cụ thể khác nhau còn có thêm các chỉ tiêu khác, tuỳ thuộc
vào ngành nghề mà họ kinh doanh, nhưng nhìn chung nếu đánh giá hoạt động
cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp thì ta sẽ sử dụng các chỉ tiêu trên.
Xét trên góc độ toàn nền kinh tế, hiệu quả hoạt động cho vay của ngân
hàng đối với doanh nghiệp lớn được xét thông qua những lợi ích mà doanh
nghiệp lớn đem lại cho toàn nền kinh tế. Ví dụ như doanh nghiệp có tạo ra được
môi trường kinh doanh lành mạnh hay không, có tạo thêm công ăn việc làm cho
người lao động không, đóng góp của doanh nghiệp lớn vào ngân sách Nhà nước
là bao nhiêu…Sau khi tham gia hoạt động cho vay với ngân hàng, doanh nghiệp
lớn và ngân hàng đã đem lại gì cho xã hội, tác động của nó ra sao, có trở thành
động lực thúc đẩy các doanh nghiệp khác phát triển theo hay không, đời sống vật
chất và tinh thần của người lao động trong doanh nghiệp lớn, ngân hàng và xã
hội có được cải thiện hay không nhờ hoạt động cho vay đó.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả cho vay

doanh nghiêp lớn.
a. Môi trường vĩ mô.
Trước tiên là sự tác động của môi trường pháp lý. Một môi trường pháp lý
chặt chẽ và ổn định sẽ là điều kiện tiên quyết thúc đẩy hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi hơn để doanh nghiệp có thể vay vốn tại
ngân hàng. Ngược lại, một sự thay đổi nào đó trong nghị định, một hiệp định
thương mại được ký kết hay một sự bảo hộ từ các nước láng giềng đều có thể tác
động tới hiệu quả cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp nói chung và với
doanh nghiệp lớn nói riêng. Sự tác động của môi trường pháp lý có thể gây ra sự
giảm sút về dư nợ, gây tăng đột ngột các khoản nợ quá hạn, hạn chế khả năng
sinh lời của doanh nghiệp, và vì vậy hiệu quả cho vay của ngân hàng có thể bị
giảm sút nhanh chóng.

21


Môi trường kinh doanh tác động đến hiệu quả cho vay của ngân hàng thông
qua các biến số kinh tế như tỷ giá, lạm phát, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất…Các
chỉ tiêu này tác động lên khả năng cho vay, đồng thời tác động trực tiếp lên chi
phí của ngân hàng. Sự tăng lên của tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc lạm phát sẽ làm
giảm khả năng cho vay và làm tăng chi phí trả lãi cho các nguồn huy động, lãi
suất trên thị trường tăng cũng làm hạn chế tốc độ tăng trưởng dư nợ đồng thời lại
làm tăng nhanh chi phí trả lãi của các ngân hàng. Đối với doanh nghiệp, các biến
số này có tác động hai mặt, nó thúc đẩy sự phát triển của nhóm doanh nghiệp
này thì kìm hãm sự phát triển của nhóm doanh nghiệp khác. Ví dụ, nếu tỷ giá
tăng thì nhóm doanh nghiệp xuất khẩu sẽ hoạt động tốt trong khi các doanh
nghiệp nhập khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì thế để đánh giá một yếu tố thuộc
môi trường vĩ mô tác động như thế nào đến hiệu quả cho vay của mình thì các
ngân hàng phải phân loại được các khách hàng chủ yếu mà mình phục vụ, từ đó
có chiến lược đối phó phù hợp.

b. Các nhân tố xuất phát từ doanh nghiệp.
Đây là nhân tố tác động quan trọng nhất đến hiệu quả hoạt động cho vay
của ngân hàng,thể hiên thông qua các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp như khả
năng thanh toán, khả năng sinh lời, hệ số nợ... Các doanh nghiệp luôn mong
muốn vay được vốn và tìm mọi cách để có được nguồn vốn từ ngân hàng. Do
vậy, có doanh nghiệp vận dụng các hình thức tích cực như làm tăng hiệu quả
hoạt động, trung thực và hợp tác với ngân hàng, tuy nhiên cũng có nhiều daonh
nghiệp sử dụng các biện pháp không tích cực như làm sai lệch các báo cáo tài
chính, không cung cấp đầy đủ và trung thực các thông tin cần thiết cho ngân
hàng. Nhiều doanh nghiệp sau khi vay được tiền thì sử dụng tiền vay sai mục
đích, cố tình lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng. Các hình thức này thường
rơi vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nó không chỉ tác động đến hiệu quả của
bản thân món vay mà còn làm mất uy tín của doanh nghiệp đối với ngân hàng
khiến cho các ngân hàng phải áp dụng nhiều biện pháp bảo đảm hơn, vì thế tác

22


động trở lại làm hạn chế khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của các doanh nghiệp
chân chính. Cũng có doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc các yêu cầu của ngân
hàng nhưng các cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn yếu kém không quản lý
và khai thác nguồn vốn có hiệu quả khiến cho hiệu quả hoạt động cho vay vì thế
mà giảm sút. Những nhân tố tác động từ phía doanh nghiệp rất khó kiểm soát và
đánh giá. Nó phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm và trình độ của cán bộ tín dụng
c. Các nhân tố xuất phát từ ngân hàng.
Đây là nhân tố chủ quan mà ngân hàng có thể điều chỉnh và khắc phục
được. Nó bao gồm chiến lược phát triển của ngân hàng, công nghệ ngân hàng, uy
tín và kinh nghiệm điều hành, nhận thức của cán bộ nhân viên về doanh nghiệp
lớn, và đạo đúc của cán bộ tín dụng. Chiến lược phát triển của ngân hàng tạo ra
một định hướng chung về khách hàng mục tiêu của ngân hàng, tạo lập các chính

sách hỗ trợ cho nhóm khách hàng đó. Với xu hướng hiện nay, các doanh nghiệp
lớn ngày càng được sự quan tâm của các ngân hàng và nhiều ngân hàng đã thiết
lập những chính sách mới hỗ trợ tốt hơn cho các doanh nghiệp lớn. Công nghệ
và uy tín của ngân hàng tác động đến chi phí của khoản vay và khả năng mở
rộng quy mô dư nợ, công nghệ càng cao ngân hàng càng có khả năng tiết kiệm
chi phí và đưa ra các mức lãi suất cạnh tranh. Nhận thức và đạo đức của các cán
bộ tín dụng đóng vai trò quan trọng nhất trong số các nhân tố tác động đến hiệu
quả cho vay của ngân hàng. Như đã nói ở trên nhiều doanh nghiệp tìm mọi các
để có được nguồn vốn, họ có thể tiếp xúc, móc nối với cán bộ tín dụng để đạt
được mục đích. Chính vì vậy để giữ được sự trung thành của các nhân viên, ngân
hàng phải có một chính sách đãi ngộ thoả đáng, thường xuyên giáo dục nhắc nhở
các nhân viên về đạo đức, nhận thức cũng như ý thức trách nhiệm trong công
việc.
1.2.5 Quy trình cấp tín dụng

23


MÔ TẢ QUY TRÌNH TÍN DỤNG
Khách hàng:
Cung cấp các tài
liệu và thong tin

Thu thập thông tin qua
phỏng vấn, viếng
thăm, trao đổi

Cập nhật thông tin thị
trường, chính sách,
cung pháp lý


Nhân viên tín dụng:
- Tiếp xúc, hướng dẫn
- Phỏng vấn khách hàng

Tổ chức phân tích và
thẩm định
Pháp lý
Bảo đảm nợ vay

Quyết định tín dụng:
Hội đồng phán quyết
Cá nhân phán quyết

Chấp nhận

Lập hồ sơ:

Giấy đề nghị vay
Hồ sơ pháp lý
Phương án/ dự án

Kết quả ghi nhận:
-Biên bản báo cáo
-Tờ trính
-Giấy tờ về bảo
đảm nợ
Từ
chối


Giấy báo lý
do

Hợp đồng tín dụng
Đàm phán
Ký kết HĐ tín dụng
Ký kết HĐ phụ khác

Giải ngân
Chuyển tiền vào tài khoản
khách hàng
Trả cho nhà cung cấp

Tổ chức giám sát:
Nhân viên kế tóan
Nhân viên tín dụng
Thanh tra, kiểm soát viên

Thu nợ cả gốc và lãi
Thanh lý hợp đồng
tín dụng bắt buộc

Xử lý:
Tòa án
Cơ quan thẩm
quyền

Đầy đủ và đúng hạn

Giám sát

tín dụng

Không đủ,
không đúng
hạn
Biện pháp: cảnh cáo, tăng
cường kiểm soát, ngừng giải
ngân, tái xét tín dụng.

Thanh lý HĐTD mặc nhiên
Không đủ, không
đúng hạn

24

Vi phạm
hợp đồng


Chương II. Thực trạng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp lớn
tại Sở Giao Dịch I ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
2.1. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của SGD I - BIDV
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Sở Giao dịch I Ngân hàng
Đầu tư và phát triển Việt nam
* Lịch sử hình thành
Sở giao dịch 1 Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (ĐT&PTVN), có
lịch sử hình thành phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của Ngân hàng
ĐT&PTVN. Ngân hàng ĐT&PTVN có tên viết tắt là BIDV. BIDV có tiền thân
là Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam, được thành lập năm 1957 để thực hiện nhiệm
vụ nhận vốn từ ngân sách Nhà nước cho vay các dự án đầu tư xây dựng cơ bản.

Hiện nay, BIDV là một trong những ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất
Việt Nam với 3 Sở giao dịch, 131 chi nhánh, 400 điểm giao dịch, có quan hệ hợp
tác kinh doanh với hơn 800 ngân hàng trên thế giới.
BIDV với tư cách một ngân hàng thương mại nhà nước thành lập để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước giao phó. Vì vậy, cùng với đà phát triển
của nền kinh tế, ngân hàng có những thay đổi gắn những mốc giai đoạn nhằm
đáp ứng những nhiệm vụ được giao đồng thời đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
của khách hàng.
- Thời kỳ 1957 – 1980: BIDV được thành lập với tên gọi Ngân hàng Kiến
Thiết Việt Nam trực thuộc Bộ tài chính với nhiệm vụ cơ bản của Ngân hàng
trong giai đoạn này là thực hiện cấp phát, quản lý vốn kiến thiết cơ bản từ nguồn
vốn ngân sách cho tất các các lĩnh vực kinh tế, xã hội
- Thời kỳ 1981 – 1989: Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam đổi tên thành
Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam với nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng là cấp phát, cho

25


×