Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Nâng cao chất lượng bảo lãnh tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Vịêt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.96 KB, 78 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đã
và đang tiến bước những bước tiến vững chắc hội nhập cùng nền kinh tế thế
giới. Sự mở rộng giao lưu và hợp tác kinh tế quốc tế cũng như sự phát triển
mạnh mẽ nội tại của đất nước đã hình thành nên nhiều mối quan hệ kinh tế
phức tạp hơn. Và để đảm bảo những mối quan hệ này hình thành và phát triển
một cách an toàn và chắc chắn hơn dựa trên sự tin cậy giữa các bên thì cần có
một biện pháp đảm bảo để các bên thực hiện đúng và đầy đủ những nghĩa vụ
của mình, đó chính là điều kiện để bảo lãnh ngân hàng ra đời và phát triển.
Bảo lãnh là một nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại, sự ra đời và phát
triển nghiệp vụ bảo lãnh ở Việt Nam là một nhu cầu tất yếu và theo đúng quy
luật của tiến trình phát triển của nền kinh tế. Bảo lãnh ra đời không những tạo
ra sự phong phú trong hoạt động của NHTM mà còn là phương tiện đảm bảo
có hiệu quả trong các mối quan hệ kinh tế thương mại. Tuy nhiên hoạt động
bảo lãnh ở Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu cả về chất lượng
và số lượng của thị trường. Chất lượng bảo lãnh ngân hàng còn ở mức thấp,
điều đó khơng chỉ ảnh hưởng đến hoạt động chung của các NHTM mà nó cịn
ảnh hưởng đến sự phát triển của cả nền kinh tế.
Qua quá trình thực tập và nghiên cứu, tìm hiểu hoạt động của NHTM
tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam em đã chọn đề tài
“ Nâng cao chất lượng bảo lãnh tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Vịêt Nam” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Thơng qua chun
đề tốt nghiệp này em muốn phân tích tình hình thực trạng chất lượng bảo lãnh
ngân hàng của SGD I cũng như của các NHTM để từ đó tìm ra những biện
pháp để nâng cao chất lượng bảo lãnh tại SGD nói riêng và tại các NHTM nói
chung.


Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Chuyên đề của em gồm 3 chương chính:
Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động bảo lãnh và chất lượng bảo
lãnh của NHTM


Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh và chất lượng bảo lãnh tại Sở
giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh tại Sở giao dịch I
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam


Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH VÀ
CHẤT LƯỢNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1.Tổng quan về nghiệp vụ bảo lãnh trong NHTM
1.1.1.Khái niệm bảo lãnh ngân hàng:
“Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (Bên
bảo lãnh) với bên có quyền (Bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng (Bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền được trả
thay” (Quyết định 26/2006/QĐ – NHNN)
1.1.2. Đặc điểm nghiệp vụ bảo lãnh trong NHTM
- Bảo lãnh là một dạng nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, xuất hiện ở thị
trường nội địa nước Mỹ vào những năm 60 và bắt đầu tham gia vào các giao
dịch quốc tế vào những năm 70, sự ra đời của bảo lãnh giúp cho mối quan hệ
quốc tế đựơc an toàn hơn và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các bên tham gia.
Khi Việt Nam bước sang giai đoạn phát triển, hội nhập vào những năm 90 tạo
điều kiện thuận lợi và tất yếu của sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo
lãnh và tái bảo lãnh tại Việt Nam.
- Nghiệp vụ bảo lãnh trong các NHTM xét về bản chất vẫn được coi là
một trong những hình thức tín dụng mặc dù ngay thời điểm kí kết hợp đồng
bảo lãnh khơng có sự chuyển giao vốn giữa TCTD với người được bảo lãnh.
Và nghĩa vụ chi trả hộ của ngân hàng chỉ được thực hiện khi có sự vi phạm

của khách hàng (bên được bảo lãnh). Đây được xem là một hình thức tài trợ
bằng uy tín.


- Nghiệp vụ bảo lãnh là một nghiệp vụ ngoại bảng điển hình trong các
NHTM, nền kinh tế càng phát triển thì các mối quan hệ càng trở nên đa dạng
hơn do vậy mà nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng trở nên cần thiết hơn. Trong
trường hợp mà khách hàng phải thực hiện việc trả thay cho khách hàng về
khoản bảo lãnh thì khoản này sẽ đựơc chuyển vào hạch tốn trong tài khoản
“nợ xấu” của ngân hàng. Chính vì vậy mà bảo lãnh cũng chứa đựng những rủi
ro và cần được phân tích, đánh giá và quản lý một cách chặt chẽ.
1.1.3. Vai trò và các quan hệ của bảo lãnh
1.1.3.1. Các mối quan hệ trong hợp đồng bảo lãnh
Từ định nghĩa về bảo lãnh ta cũng thấy được rằng trong quan hệ về bảo
lãnh thì có ít nhất ba bên tham gia:
- Bên bảo lãnh: Đó chính là các NHTM, các ngân hàng khác, các tổ
chức tín dụng phi ngân hàng khác hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng và
thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh.
- Bên được bảo lãnh: Là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tại Việt
Nam, các tổ chức tín dụng khác, hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều
kiện, các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên
doanh và đầu tư đấu thầu các dự án tài Việt Nam.
- Bên nhận bảo lãnh: Là tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước được
quyền thụ hưởng bảo lãnh của TCTD.
Bên được Bảo lãnh

(2) HĐ mua bán, dự thầu

Đơn xin bảo lãnh (1)


Bên nhận Bảo lãnh
(3) Thư Bảo lãnh

Bên bảo lãnh
( NHTM)
Sơ đồ 1.1: Quan hệ bảo lãnh 3 bên trong hợp đồng bảo lãnh


Để thực hiện một hợp đồng bảo lãnh thì ít nhất phải tồn tại 3 mối quan hệ
đi kèm cùng với nó là các văn bản ràng buộc. Thứ nhất là mối quan hệ giữa
khách hàng (người được bảo lãnh) với ngân hàng được hình thành trên cơ sở
đơn xin bảo lãnh của khách hàng hay hợp đồng dịch vụ bảo lãnh của ngân
hàng. Thứ hai là mối quan hệ giữa bên được bảo lãnh và bên hưởng bảo lãnh,
đây là mối quan hệ gốc và là sở để phát sinh yêu cầu bảo lãnh. Mối quan hệ
này được xác lập trên cơ sở hợp đồng kinh tế giữa hai bên, đây có thể là hợp
đồng mua bán hoặc hợp đồng đấu đấu thầu… Thứ ba là mối quan hệ giữa
ngân hàng phát hành bảo lãnh với người hưởng bảo lãnh dựa trên sự cam kết
bồi thường đầy đủ số tiền bảo lãnh khi có sự vi phạm của người được bảo
lãnh, cam kết này được thể hiện rõ trong thư bảo lãnh hay là hợp đồng bảo
lãnh của ngân hàng đối với bên hưởng quyền. Có thể nói rằng bảo lãnh ngân
hàng chỉ có thể được thực hiện khi có sự thống nhất giữa các bên và yêu cầu
của các mối quan hệ này được giải quyết một cách thoả đáng.
Trong trường hợp “Bảo lãnh đối ứng” thì có sự tham gia của một ngân
hàng khác gọi là bên đối ứng, bên này sẽ cam kết thực hiện nghĩa vụ tài chính
cho bên bảo lãnh khi phát sinh sự cố.
Như vậy trong đối với bảo lãnh ngân hàng thì mối quan hệ không đơn
thuần chỉ là mối quan hệ giữa bên được bảo lãnh với ngân hàng mà còn có
các mối quan hệ khác như giữa ngân hàng với người thụ hưởng, giữa người
được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh hay là quan hệ giữa các bên đối ứng.
1.1.3.2. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng

* Đối với nền kinh tế
- Bản thân bảo lãnh là công cụ trợ giúp cho các giao dịch kinh tế, nó là cơ
sỏ đảm bảo cho sự tin tưởng lẫn nhau giữa người được bảo lãnh và người
nhận bảo lãnh. Sự tin tưởng giữa các bên là một yếu tố quan trọng để hình


thành các mối quan hệ lâu dài, chính nó đã góp phần thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế.
- Sự xuất hiện của hoạt động bảo lãnh trong nền kinh tế làm giảm bớt tính
rủi ro trong các mối quan hệ kinh tế. Đó là hình thức tín dụng nhằm san sẻ rủi
ro cho các đối tượng tham gia đồng thời đem lại lợi ích cho tất cả các bên
tham gia.
- Hoạt động bảo lãnh là hoạt động tài trợ dựa trên uy tín của ngân hàng
chính vì vậy mà khi được các ngân hàng có uy tín bảo đảm thì các bên được
bảo lãnh có thể thực hiện các hoạt động vay vốn trong nước cũng như ở nước
ngoài một cách thuận lợi hơn. Điều này giúp cho nền kinh tế có thêm một
lượng vốn cho hoạt động đầu tư phát triển, đổi mới công nghệ… So với biện
pháp cầm cố, thế chấp tài sản thì nó mang lại nhiều tiện ích hơn và đạt được
hiệu quả cao hơn.
* Đối với ngân hàng
- Bảo lãnh là một dịch vụ của ngân hàng, sự ra đời của nó làm đa dạng
thêm các sản phẩm của ngân hàng từ đó góp phần hồn thiện sự đồng bộ
trong gói sản phẩm dịch vụ của ngân hàng tạo ra tiện ích lớn nhất cho khách
hàng.
- So với hoạt động cho vay, hình thức bảo lãnh có chi phí rẻ hơn nhưng
mang lại thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Hơn thế nữa việc ký quỹ của khách
hàng được bảo lãnh tạo thêm nguồn tiền trong thanh toán cho ngân hàng.
- Trên cơ sở các mối quan hệ bảo lãnh, ngân hàng có thể tăng cường thêm
các mối quan hệ khác đối với khách hàng từ đó tìm kiếm những khách hàng
tiềm năng và các khách hàng mới.

* Đối với khách hàng
- Bảo lãnh là một hình thức có thể hạn chế được rủi ro, chống lại những
thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra cho người nhận bảo lãnh.


- Đây cũng là cách tiếp cận nguồn vốn với chi phí rẻ và mang lại nhiều
hiệu quả cho người được bảo lãnh.
- Hoạt động bảo lãnh giúp tăng cường uy tín giữa các bên đối tác với nhau
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.1.4. Chức năng của bảo lãnh
Trong các mối quan hệ kinh tế chứa đựng những mối rủi ro nhất định mà
người ta khó có thể lường trước được và đơi khi lịng tin giữa các đối tác bị
làm cho méo mó đi, chính vì vậy mà cần có một biện pháp chắc chắn đảm bảo
cho mối quan hệ thương mại được diễn ra thuận lợi hơn và an tồn hơn đó là
nền tảng cho sự ra đời của bảo lãnh. Sự xuất hiện của bảo lãnh đã góp phần
tạo ra sự an tồn trong các mối quan hệ thương mại và nó đem lại lợi ích cho
các bên tham gia. Nếu nhìn từ góc độ ngân hàng thì ta có thể thấy rằng bảo
lãnh là một hoạt động dịch vụ và nó đem lại nguồn lợi nhuận cho ngân hàng
nhờ thu phí bảo lãnh, đây là nghiệp vụ ngoại bảng nên không ảnh hưởng đến
việc huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng. Còn nếu đứng trên góc độ
là khách hàng, thì bảo lãnh là một công cụ hỗ trợ cho khách hàng.
1.1.4.1.Bảo lãnh là công cụ bảo đảm
Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh. Bởi vì khi hợp đồng bảo
lãnh được kí kết thì bên bảo lãnh sẽ có nghĩa vụ chi trả bồi thường nếu như có
sự cố vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh, và như vậy thì ngân hàng với
vai trị là người bảo lãnh đã tạo ra một sự đảm bảo chắc chắn cho người nhận
bảo lãnh. Với sự đảm bảo chắc chắn này thì các bên sẽ có được sự tin tưởng
nhau hơn và việc kí kết các hợp đồng cũng sẽ dễ dàng thuận tiện hơn, điều
này làm nên sự khác biệt giữa bảo lãnh ngân hàng với tín dụng chứng từ.
Nói tóm lại bảo lãnh như là một chất xúc tác trong việc kí kết các hợp

đồng thương mại, xây dựng, giao dịch hàng hoá trong nước và quốc tế được
diễn ra một cách thuận lợi hơn, đồng thời do chịu trách nhiệm trong việc chi


trả bồi thường nếu sự cố xẩy ra nên ngân hàng phát hành bảo lãnh sẽ tăng
cường giám sát, kiểm tra và đôn đốc khách hàng được bảo lãnh trong việc
thực hiện hợp đồng tạo ra sự lành mạnh hoá trong các mối quan hệ.
1.1.4.2. Bảo lãnh là công cụ tài trợ
Đối với người thụ hưởng thì bảo lãnh là một công cụ bảo đảm nhưng đối
với người được bảo lãnh thì nó lại là một cơng cụ tài trợ có hiệu quả tốt.
Trong hợp đồng thì phía đối tác sẽ yêu cầu một sự đảm bảo chắc chắn là hợp
đồng sẽ được thực thi một cách chính xác và đầy đủ, khi đó nếu như khơng
muốn xuất quỹ để đặt cọc cho phia bên kia thì bên này phải nhờ mơt ngân
hàng bảo lãnh cho mình. Khi được ngân hàng bảo lãnh, người được bảo lãnh
sẽ không phải xuất quỹ ra, hơn nữa còn được thu hồi vốn nhanh, được vay nợ
hoặc kéo dài thời gian thanh toán tiền hàng hố, dịch vụ … và như vậy thì
mặc dù không trực tiếp cấp vốn cho vay nhưng bảo lãnh ngân hàng giúp cho
khách hàng được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ với chi phí hợp lý.
1.1.4.3. Bảo lãnh là công cụ đôn đốc
Thật vậy, khi hợp đồng bảo lãnh được xác lập thì các bên phải tuân theo
những thoả thuận trong hợp đồng. Và với trách nhiệm là người phát hành bảo
lãnh, người thực hiện chi trả những khoản bồi thường khi có sự cố xảy ra
ngân hàng phải tích cực đơn đốc người được bảo lãnh thực hiện đúng nghĩa
vụ của mình với bên nhận bảo lãnh, nó tạo ra một áp lực buộc bên được bảo
lãnh phải hồn thành nghĩa vụ. Như vậy có thể nói rằng bảo lãnh làm tăng
thêm tính trách nhiệm của các bên tham gia, làm cho mối quan hệ giữa các
bên thêm lành mạnh hơn.
1.1.4.4. Bảo lãnh là công cụ đánh giá
Bảo lãnh cũng là một hình thức tín dụng và như vậy trước khi kí kết một
hợp đồng bảo lãnh thì người bảo lãnh cũng phải tiến hành các hình thức nhằm

đánh giá năng lực tài chính cũng như khả năng hoạt động của khách hàng.


Nếu khách hàng đảm bảo đủ các điều kiện của ngân hàng đặt ra thì hợp đồng
mới được thơng qua. Điều đó có nghĩa rằng một khi hợp đồng bảo lãnh được
kí kết thì ngân hàng đã đánh giá khả năng thực hiện nghĩa vụ là có thể chấp
nhận được mặc dù đây không phải là chỉ tiêu đánh giá duy nhất và lúc nào
cũng chính xác.
1.1.5. Các loại hình bảo lãnh
Bảo lãnh ngân hàng có thể được phân thành những loại khác nhau theo các
tiêu thức khác nhau
1.1.5.1. Theo bản chất của hoạt động bảo lãnh
Có thể chia bảo lãnh thành hai loại sau:
- Bảo lãnh đồng nghĩa vụ ( bảo lãnh bổ sung)
Là một loại bảo lãnh mang tính truyền thống, với loại bảo lãnh này ngân
hàng và người được bảo lãnh được xem là cùng nghĩa vụ. Tuy nhiên, nghĩa vụ
của khách hàng là nghĩa vụ đầu tiên, nghĩa vụ này nếu khơng thực hiện đầy
đủ thì ngân hàng mới thực hiện nghĩa vụ bổ sung của mình. Và để thực hiện
nghĩa vụ của mình thì ngân hàng bắt buộc phải biết rõ tình hình và mối quan
hệ của các bên, do đó ngân hàng phải can thiệp sâu vào giao dịch này, chính
vì thế mà nó ít được sử dụng trong quan hệ quốc tế.
-

Bảo lãnh độc lập

Được coi như là một dạng bảo lãnh của ngân hàng hiện đại, được sáng tạo
từ yêu cầu của thực tiễn. Nó hoạt động dựa trên quy tắc là độc lập và hồn
tồn phù hợp, theo đó thì nghĩa vụ của ngân hàng phát hành bảo lãnh hoàn
toàn độc lập với nghĩa vụ của người được bảo lãnh. Và như vậy thì việc thanh
tốn chỉ được thực hiện theo những điều khoản đã quy định trong văn bản bảo

lãnh, tuy nhiên sự độc lập này cũng có tính tương đối mà thôi. Loại bảo lãnh
này đem lại sự thuận lợi cho cả người hưởng bảo lãnh và ngân hàng phát hành
bảo lãnh nên nó được sử dụng rộng rãi trong các quan hệ quốc tế.


1.1.5.2. Theo mục đích bảo lãnh
- Bảo lãnh dự thầu
Là cam kết của TCTD với bên mời thầu để đảm bảo nghĩa vụ tham gia dự
thầu của khách hàng. Khi xảy ra sự cố vi phạm quy định đấu thầu mà khách
hàng phải nộp phạt nhưng không nộp hoặc nộp khơng đầy đủ tiền phạt cho
bên mời thầu thì TCTD sẽ thực hiện thay. Bảo lãnh dự thầu đảm bảo cho bên
mời thầu có được sự chắc chắn về quyền lợi của mình ngay cả khi bên đấu
thầu khơng tham gia đấu thầu theo như đã thoả thuận.
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Là loại bảo lãnh được sử dụng trong các hợp đồng mua bán, hợp đồng xây
dựng, cung ứng thiết bị cơng nghệ….trong nước cũng như nước ngồi. Nó
nhằm để thay thế cho việc ký quỹ của người mua hàng đối với người cung
ứng hàng hoá để đảm bảo bồi thường vi phạm hợp đồng, tạo ra sự chống đỡ
rủi ro cho người thụ hưởng (bên bán hàng). Giá trị tối đa của bảo lãnh được
tính bằng tỷ lệ % trên giá trị của hợp đồng và thường giao động ở mức 10%15%, nó tương đương với mức bồi thường vi phạm hợp đồng. Trong trường
hợp khách hàng không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ theo thoả thuận
trong hợp đồng thì TCTD sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
- Bảo lãnh hoàn thanh tốn
Là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng phát hành cam kết hoàn trả tiền ứng
trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh trong
trường hợp bên được bảo lãnh có sự vi phạm những thoả thuận trong hợp
đồng giữa hai bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh mà bên được bảo lãnh
khơng hồn trả được hoặc hồn trả khơng đầy đủ số tiền ứng trước. Loại bảo
lãnh này thường được sử dụng trong các hợp đồng thương mại mà người đặt
hàng đã ứng trước một khoản tiền nhất định cho bên cung ứng, nó đảm bảo

quyền lợi và tâm lý an toàn hơn cho người mua khi phải bỏ ra một khoản tiền


ứng trước để mua hàng hay dịch vụ, đồng thời việc người mua chấp nhận ứng
trước tiền cho nhà cung ứng sẽ tạo điều kiện thuận lợi về vốn để sản xuất
hàng hố dịch vụ, giảm thiểu khó khăn tạm thời về ngân quỹ. Tuy nhiên, việc
thực hiện bảo lãnh này cũng cần phải lưu ý để tránh sự lạm dụng của người
thụ hưởng, vì vậy mà bảo lãnh này chỉ có hiệu lực khi có sự ứng trước của
người thụ hưởng.
- Bảo lãnh thanh toán (bảo lãnh trả chậm)
Là loại bảo lãnh được sử dụng trong các hợp đồng mua bán thiết bị trả
chậm. Ở đây người mua và người bán đã tạo ra một mối quan hệ tín dụng
thương mại với việc người bán chấp nhận cho người mua trả tiền tại một thời
điểm khác trong tương lai theo kỳ hạn nợ. Và để đảm bảo chắc chắn người
mua trả nợ thì bên bán u cầu phải có một sự bảo đảm từ một tổ chức có uy
tín như một ngân hàng và đó chính là bảo lãnh thanh toán. Bảo lãnh thanh
toán được sử dụng rất rộng rãi trong các quan hệ thương mại đặc biệt là ở các
nước đang phát triển, nó có thể thay thế cho hình thức tín dụng chứng từ.
- Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm
Là một loại bảo lãnh theo đó ngân hàng phát hành sẽ phải bảo đảm khách
hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng sản phẩm theo hợp đồng đã
ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng bị phạt do không
thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm mà
không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì ngân hàng phát hành sẽ thực hiện thay
nghĩa vụ đã cam kết đó.
- Ngồi ra cịn có các loại bảo lãnh tài chính khác nhằm bảo đảm việc
thực hiện nghĩa vụ tài chính của khách hàng trong trường hợp vi phạm và
người hưởng bảo lãnh trong các loại bảo lãnh này thường là các cơ quan nhà
nước như hai quan, cơ quan thuế…Loại bảo lãnh này chỉ giúp khách hàng
tạm thời chưa thực hiện ngay nghĩa vụ của mình đối với nhà nước, nó cũng



chỉ kéo dài trong một thời gian hạn chế nhưng có thể làm cho khách hàng
thốt khỏi khó khăn tạm thời về tài chính.
1.1.5.3. Theo phương thức phát hành bảo lãnh
- Bảo lãnh trực tiếp
Đây là loại bảo lãnh mà ngân hàng phát hành bảo lãnh theo yêu cầu trực
tiếp của khách hàng và khi mà ngân hàng đã thực hiện bồi thường về khoản vi
phạm cho khách hàng thì ngân hàng sẽ trực tiếp thu hồi khoản bồi hoàn từ
khách hàng được bảo lãnh đó.
Bảo lãnh trực tiếp thường có ba bên tham gia: Ngân hàng phát hành (bên
bảo lãnh), người yêu cầu bảo lãnh (người được bảo lãnh), người thụ hưởng
(bên nhận bảo lãnh). Trường hợp người thụ hưởng là người nước ngồi thì có
thể thơng qua một ngân hàng khác ở cùng quốc gia với người thụ hưởng gọi
là ngân hàng thông báo.
- Bảo lãnh gián tiếp
Đây là loại bảo lãnh mà phải thực hiện qua hai ngân hàng, một ngân hàng
nhận yêu cầu bảo lãnh từ phía khách hàng được bảo lãnh gọi là ngân hàng chỉ
thị, và một ngân hàng thực hiện cam kết bảo lãnh cho người thụ hưởng gọi là
ngân hàng phát hành bảo lãnh. Đối với loại bảo lãnh này thì ngân hàng phát
hành sẽ khơng nhận bồi hồn từ khách hàng được bảo lãnh mà nhận khoản đó
từ ngân hàng chỉ thị thông qua một cam kết nữa gọi là bảo lãnh đối ứng do
chính ngân hàng chỉ thị đưa ra. Mối quan hệ trong bảo lãnh gián tiếp là mối
quan hệ bốn bên nên nó phức tạp hơn nhưng lại đảm bảo chắc chắn hơn, nó
thường được sử dụng trong các hợp đồng với các đối tác nước ngoài.
- Đồng bảo lãnh
Khi thực hiện những dự án có giá trị lớn, để giảm thiểu các rủi ro thì các
ngân hàng có thể thực hiện đồng bảo lãnh. Để thực hiện được hoạt động đồng
bảo lãnh này thì một trong số các ngân hàng tham gia phải đóng vai trị là



ngân hàng đầu mối phát hành bảo lãnh, còn các ngân hàng khác là thành viên
tham gia. Trong trường hợp phải bồi hồn cho người thụ hưởng thì ngân hàng
đầu mối có thể địi tiền từ các ngân hàng đồng minh theo tỷ lệ thoả thuận
trước và các ngân hàng này sẽ đòi nợ từ khách hàng được bảo lãnh.
1.1.5.3. Dựa trên điều kiện thanh toán của bảo lãnh thành các loại:
- Bảo lãnh theo yêu cầu
Với loại bảo lãnh này thì người thụ hưởng chỉ cần xuất trình yêu cầu thanh
toán cho ngân hàng phát hành là được ngân hàng thanh toán. Văn bản yêu cầu
thanh toán ở đây hoàn toàn do người thụ hưởng đơn phương lập ra và nó
khơng cần xác nhận của bên được bảo lãnh. Do đó trong loại bảo lãnh này thì
người thụ hưởng sẽ được lợi nhất, ngân hàng cũng khơng mấy khó khăn trong
việc làm thủ tục thanh toán cho người thụ hưởng. Tuy nhiên, đây chính là
điều bất lợi cho người được bảo lãnh vì có thể sẽ phải gặp phải rủi ro do sự
lừa dối của bên thụ hưởng.
- Bảo lãnh kèm chứng từ
Trường hợp này người thụ hưởng muốn được ngân hàng thanh tốn thì
phải cung cấp chứng từ có xác nhận của một bên thư ba có đủ chuyên môn về
sự vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh . So với bảo lãnh yêu cầu thì loại
bảo lãnh này đảm bảo quyền lợi cho người thụ hưởng nhiều hơn và cũng có
nghĩa là ưu quyền của người thụ hưởng sẽ bị giảm đi, còn đối với ngân hàng
thì việc kiểm tra chứng từ sẽ trở nên phức tạp hơn.
- Bảo lãnh kèm phán quyết của trọng tài hay toà án.
Một yêu cầu quan trọng khi thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong loại bảo
lãnh này phải có sự phán quyết của tồ án hoặc trọng tài về sự vi phạm hợp
đồng và trách nhiệm của các bên tham gia, tuy nhiên việc này đòi hỏi nhiều
thời gian và gây ra nhiều rắc rối nên loại này ít được sử dụng.


1.1.6. Quy trình bảo lãnh

Tuỳ thuộc vào từng loại bảo lãnh và từng ngân hàng khác nhau mà quy
trình bảo lãnh có những điểm khác nhau. Tuy nhiên thì để thực hiện được một
hợp đồng bảo lãnh thì phải qua các bước cơ bản sau:
Bước 1: Tiếp nhận và hoàn thiện hồ sơ
Ngân hàng phát hành bảo lãnh sẽ tiếp nhận hồ sơ xin bảo lãnh của khách
hàng, nếu thấy chưa hợp lệ và đầy đủ thì điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện hồ
sơ. Đối với từng loại bảo lãnh khác nhau thì bộ hồ sơ cũng có những u cầu
khác nhau phù hợp với từng đặc điểm riêng của hoạt động bảo lãnh.
Bước 2: Quyết định bảo lãnh
Bộ hồ sơ hoàn chỉnh sẽ được tiếp nhận và chuyển lên các phịng chun
mơn để thẩm định và ra quyết định có thực hiện phát hành bảo lãnh hay
khơng. Nếu như được phê duyệt thì thực hiện tiếp bước 3
Bước 3: Phát hành bảo lãnh
Các cán bộ có thẩm quyền thực hiện ký kết hợp đồng bảo lãnh và phát
hành thư bảo lãnh trong thời hạn quy định
Bước 4: Xử lý sau khi phát hành thư bảo lãnh
Sau khi phát hành bảo lãnh ngân hàng phải theo dõi phát sinh nghĩa vụ bảo
lãnh và thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, thực hiện việc hạch toán số dư bảo lãnh,
thực hiện việc thu phí bảo lãnh theo quy định và theo dõi việc thực hiện hợp
đồng bảo lãnh để có những biện pháp giải quyết kịp thời khi có sự cố xẩy ra.
Bước 5: Kết thúc bảo lãnh
Ngân hàng thực hiện tất toán bảo lãnh, giải toả tài sản đảm bảo, ký quỹ
(nếu có), đánh giá kết quả bảo lãnh và rút kinh nghiệm và thực hiện lưu trữ hồ
sơ theo quy định.


1.1.7. Các rủi ro phát sinh từ hoạt động bảo lãnh và nguyên nhân phát sinh
- Các rủi ro từ hoạt động bảo lãnh
Hoạt động bảo lãnh mang bản chất là một hoạt động tín dụng nên nó cũng
chứa đựng những rủi ro nhất định. Trong trường hợp khách hàng khơng thực

hiện đúng các nghĩa vụ của mình đối với bên hưởng bảo lãnh thì ngân hàng sẽ
là người trực tiếp chi trả các khoản bồi thường cho bên thụ hưởng. Sau khi
thực hiện xong nghĩa vụ của mình đối với bên thụ hưởng thì ngân hàng có
quyền địi tiền từ phía bên được bảo lãnh. Và các khoản nợ này sẽ được hạch
toán như một khoản nợ xấu đối với khách hàng và ngân hàng đó có thể phải
chịu rủi ro mất vốn nếu như khơng có biện pháp bảo đảm trước đó.
- Nguyên nhân xảy ra các rủi ro bảo lãnh
Nguyên nhân khách quan
Do có sự thay đổi về tình hình chính trị xã hội hoặc có những biến cố về
thiên tai mà làm thay đổi kế hoạch sản xuất kinh doanh cũng như làm giảm
khả năng tài chính của người được bảo lãnh dẫn tới việc thanh tốn cho ngân
hàng gặp nhiều khó khăn hơn.
Ngun nhân chủ quan
+ Từ phía ngân hàng
Ngân hàng thực hiện bảo lãnh khơng theo đúng quy trình chặt chẽ, khơng
đánh giá đúng năng lực tài chính và khả năng hoạt động của bên được bảo
lãnh dẫn đến việc quyết định sai lầm khi bảo lãnh.
+ Từ phía người được bảo lãnh
Người được bảo lãnh có thể cung cấp sai thơng tin về doanh nghiệp của
mình với mong muốn có được hợp đồng bảo lãnh từ phía ngân hàng theo yêu
cầu của bên thụ hưởng mà khơng tính đến khả năng của doanh nghiệp gây ra
sự sai lệch trong đánh giá của ngân hàng. Rủi ro từ phía người được bảo lãnh
thường là các rủi ro đạo đức do các doanh nghiệp cố ý lừa đảo ngân hàng


hoặc tạo ra sự thua lỗ khiến cho việc thu nợ của ngân hàng gặp nhiều khó
khăn. Có những doanh nghiệp do tính tốn khơng chính xác nên đầu tư vào
những dự án khơng hiệu quả cũng dẫn đến tình trạng giảm khả năng thanh
tốn của doanh nghiệp đó.
+ Từ phía người thụ hưởng

Người thụ hưởng có thể cố tình lừa dối ngân hàng, hoặc cản trở việc thực
hiện nghĩa vụ của bên đối tác để bên đối tác không thể hoàn thành đúng nghĩa
vụ theo hợp đồng được.
1.2.Chất lượng hoạt động bảo lãnh của NHTM
1.2.1. Các quan điểm về chất lượng bảo lãnh
Hoạt động bảo lãnh là hoạt động mang trong nó nhiều mối quan hệ với
nhiều bên do đó việc đánh giá chất lượng bảo lãnh đối với các chủ thể khác
nhau cũng có những điểm khác nhau.
Đứng trên góc độ ngân hàng
Chất lượng bảo lãnh được thể hiện ở mức độ an toàn của khoản bảo lãnh
trong hoạt động chung của ngân hàng, những rủi ro mà các khoản bảo lãnh
này đưa đến nằm trong dự phòng và nó khơng làm ảnh hưởng đến hoạt động
chung cũng như uy tín của ngân hàng. Khơng chỉ thế, chất lượng bảo lãnh còn
được thể hiện ở lợi nhuận mà khoản bảo lãnh mang lại, đó là khoản thu nhập
từ việc thu phí bảo lãnh và việc khai thác tiền kỹ quỹ của khách hàng. Một
khoản bảo lãnh có chất lượng tốt là khoản bảo lãnh vừa có tính an toàn lại cho
hiệu quả hoạt động kinh doanh đạt được ở mức cao nhất. Hơn thế nữa, chất
lượng bảo lãnh cịn được ngân hàng đánh giá cao khi nó mang lại lợi thế cạnh
tranh và vị thế, uy tín của ngân hàng.
Đứng trên giác độ của người được bảo lãnh
Với những người được bảo lãnh thì khoản bảo lãnh như là khoản tài trợ
của ngân hàng do vậy họ nhìn nhận bảo lãnh có chất lượng tốt mà nó đáp ứng


kịp thời nhu cầu của họ trong thời gian nhanh nhất có thể với thủ tục gọn nhẹ
và mức phí hợp lý. Bên được bảo lãnh cũng mong muốn rằng không phải sử
dụng nhiều tài sản đảm bảo hoặc mức ký quỹ lớn để có được khoản bảo lãnh
này của ngân hàng. Nếu thoả mãn được những yêu cầu đó thì khoản bảo lãnh
đã mang lại cho bên được bảo lãnh những điều kiện thuận lợi để ký kết và
tham gia vào những dự án hợp đồng kinh tế quan trọng.

Trên giác độ là người thụ hưởng
Mục đích của người thụ hưởng bảo lãnh khi yêu cầu người được bảo lãnh
phải có sự bảo lãnh của một ngân hàng có uy tín là để đảm bảo chắc chắn cho
quyền lợi của mình, do vậy mà chất lượng bảo lãnh đối với những người thụ
hưởng là sự đáp ứng đầy đủ mục đích này của họ. Mức độ tin tưởng của
người thụ hưởng thể hiện ở độ tín nhiệm đối với ngân hàng phát hành và uy
tín của chính ngân hàng đó trên thị trường. Chất lượng bảo lãnh được thể hiện
ở khả năng chi trả những khoản bồi thường khi xảy ra sự cố vi phạm hợp
đồng một cách kịp thời.
Trên giác độ nền kinh tế
Chất lượng bảo lãnh có được khi khoản bảo lãnh đó mang lại những hiệu
quả cao cho nền kinh tế, thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế và góp phần vào sự
phát triển chung của các ngành nghề, đặc biệt là những ngành mũi nhọn của
đất nước.
Mỗi bên có một quyền lợi riêng và ai cũng mong muốn nó được đáp ứng
khi hoạt động bảo lãnh được thực hiện vì thế để nói đến chất lượng bảo lãnh
thì phải tổng hồ các quyền lợi này, phải thoả mãn được các yêu cầu của các
bên tham gia.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng bảo lãnh
Việc đánh giá chất lượng bảo lãnh là một việc rất cần thiết và giữ một vị
trí quan trọng, nó không chỉ giúp cho ngân hàng biết được khả năng hoạt


động của mình mà cịn có thể đưa đến cho ngân hàng những điều chỉnh hợp lý
để nâng cao chất lượng bảo lãnh, tăng tính cạnh tranh cho ngân hàng. Ta có
thể thấy rằng chất lượng bảo lãnh đối với mỗi người được nhìn nhận theo
những hướng khác nhau vì thế mà để đánh giá được chất lượng của hoạt động
này thì cần phải có sự kết hợp nhiều chỉ tiêu khác nhau. Nhóm các chỉ tiêu
này có thể phân thành nhóm chỉ tiêu định tính và nhóm chỉ tiêu định lượng.
1.2.2.1. Nhóm chỉ tiêu định tính

- Thời gian cung ứng dịch vụ bảo lãnh, một dịch vụ bảo lãnh có chất
lượng tốt phải đáp ứng được nhu cầu về tính kịp thời nhanh nhạy trong việc ra
quyết định của ngân hàng để đảm bảo cho hoạt động của khách hàng. Thủ tục
đưa ra càng đơn giản càng linh hoạt càng tạo điều kiện thuận lợi cho khách
hàng.
- Thái độ phục vụ của cán bộ công nhân viên ngân hàng đối với khách
hàng, đây là một yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng và tăng tính cạnh
tranh cho ngân hàng. Nếu như thái độ và trình độ nghiệp vụ chun mơn của
cán bộ khơng đúng mực có thể sẽ ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữa khách
hàng và ngân hàng từ đó làm mất đi những mối quan hệ tiềm năng và giảm uy
tín, giảm tính cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
- Sự phong phú các loại hình bảo lãnh: Chẩt lượng dịch vụ tốt có thể
đánh giá dựa vào việc nơi cung ứng co thể đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng đến đâu. Một ngân hàng khơng thể được coi là có chất lượng bảo lãnh
tốt nếu như ngân hàng đó khơng đáp ứng được nhu cầu về bảo lãnh của khách
hàng trong những trường hợp khác nhau được. Bởi vì trong các hoạt động
kinh tế thì có các mối quan hệ liên quan đến nhau và để giải quyết được mối
quan hệ này đôi khi cần đến nhiều mối quan hệ khác và các quan hệ này cũng
địi hỏi cần có được một biện pháp bảo đảm an tồn cho nó và khi đó khách
hàng cần có một sự cung ứng trọn gói cho các sự bảo đảm này. Điều đó có


nghĩa là họ sẽ tìm đến những nơi mà được đáp ứng đầy đủ các nhu cầu này để
đơn giản hố một số khâu trong q trình giải quyết vấn đề, đồng thời việc
này cũng sẽ làm giảm bớt chi phí về tìm kiếm, thẩm định khách hàng.
1.2.2.2. Nhóm chỉ tiêu định tính
- Doanh số bảo lãnh
Chỉ tiêu này phản ánh tổng giá trị bảo lãnh của ngân hàng trong một thời
kỳ nhất định. Khi được đưa ra làm chỉ tiêu đánh giá người ta sẽ so sánh tương
đối và tuyệt đối chỉ tiêu này trong năm nay so với trong năm trước đó để xem

xét quy mơ tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng của bảo lãnh. Doanh số bảo
lãnh càng tăng theo thời gian thì chứng tỏ rằng quy mô của hoạt động bảo
lãnh ngày càng được mở rộng và sự tăng trưởng của hoạt động này có tính
bền vững. Và như vậy cũng có nghĩa là chất lượng bảo lãnh của ngân hàng
cũng được đánh giá cao. Doanh số bảo lãnh cao là dấu hiệu tốt thể hiện uy tín
ngân hàng cũng được nâng lên và càng ngày càng có người tìm đến với ngân
hàng hơn trong các hoạt động của họ. Tuy nhiên nếu chỉ căn cứ vào chỉ tiêu
này để đánh giá chất lượng thì cũng chưa thực sự chuẩn xác vì nó cịn phụ
thuộc vào mức độ rủi ro của các khoản bảo lãnh đó, nếu quy mơ bảo lãnh lớn
nhưng khơng an tồn thì rủi ro là rất lớn và một khi ngân hàng phải thực hiện
thanh toán thay những khoản bảo lãnh này cho khách hàng thì nó sẽ chuyển
thành khoản nợ xấu, khi đó nó sẽ tác động đến hoạt động của ngân hàng.
- Tỷ lệ bảo lãnh mà ngân hàng phải thực hiện thay, tỷ lệ này phụ
thuộc vào số tiền mà ngân hàng phải trả thay cho khách hàng khi xảy ra sự vi
phạm đối với người thụ hưởng mà đã được xác nhận.
Số tiền ngân hàng phải thực hiện nghĩa
Tỷ lệ bảo lãnh NH phải
thực hiện nghĩa vụ thay
cho khách hàng

vụ thay cho khách hàng
=

Doanh số bảo lãnh phát sinh
trong năm


Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng bảo lãnh của một
ngân hàng, chỉ tiêu này càng thấp càng tốt bởi vì chỉ tiêu này thấp chứng tỏ
các khoản bảo lãnh mà ngân hàng thực hiện đạt được một hiệu quả tốt, ngân

hàng sẽ thu được lợi nhuận cao mà không phải chịu rủi ro thanh toán. Khi tỷ
lệ bảo lãnh ngân hàng trả thay cho khách hàng ở mức cao nghĩa là khi đó
ngân hàng sẽ phải thực hiện việc tài trợ bắt buộc với một lượng lớn và điều
này sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng và thu nhập cũng sẽ
bị giảm sút.
- Tỷ lệ bảo lãnh có tài sản đảm bảo hay phải ký quỹ.
Tỷ lệ bảo lãnh có
TSĐB hoặc ký quỹ

=

Số dư bảo lãnh có TSĐB hoặc ký quỹ
Tổng số dư bảo lãnh

Đối với người được bảo lãnh thì mức độ ký quỹ hay giá trị TSĐB càng
thấp càng tốt vì nó có thể tạo điều kiện thuận lợi hơn khi không phải chịu mức
vốn không sinh lãi, tuy nhiên đối với ngân hàng thì tỷ lệ này càng cao càng tốt
vì như thế sẽ tránh được rủi ro có thể xảy ra.. Tuy nhiên khơng phải cứ có tỷ
lệ ký quỹ cao hay có TSĐB có giá trị thì chất lượng bảo lãnh là tốt mà nhiều
khi nếu ngân hàng áp đặt mức này quá cao thì rất có thể ngân hàng đã bỏ qua
những khách hàng tiềm năng có thể mang lại lợi nhuận lớn. Điều này cũng có
nghĩa là ngân hàng chưa thực sự phân tích và dự đốn đúng về tình hình tài
chính cũng như khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì thế mà khi xem xét chỉ
tiêu này cần dựa trên mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng và nhu cầu
của khách hàng để có thể nhìn nhận một cách tổng quát hơn.
-

Nợ bảo lãnh quá hạn
Là cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với khách hàng khơng được


thanh tốn. Khoản nợ bảo lãnh q hạn lớn là một điều bất lợi cho ngân hàng
và chứng tỏ là khoản bảo lãnh có rủi ro lớn vì chỉ tiêu này cho biết sự vi phạm



×