Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Liên văn bản trong tác phẩm của F.Kafka

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

HOÀNG KIM YẾN

LIÊN VĂN BẢN
TRONG TÁC PHẨM CỦA F.KAFKA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

HÀ NỘI - 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

HOÀNG KIM YẾN

LIÊN VĂN BẢN
TRONG TÁC PHẨM CỦA F.KAFKA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

Người hướng dẫn khoa học

TS. MAI THỊ HỒNG TUYẾT



HÀ NỘI - 2017

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Mai Thị Hồng Tuyết. Các kết quả nêu trong
khóa luận là trung thực. Các tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tôi hoàn
toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Xuân Hòa, tháng 5 năm 2017
Tác giả

Hoàng Kim Yến


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, xin chân thành cảm ơn những người thân yêu trong gia đình đã tạo
mọi điều kiện cần thiết để tôi tập trung hoàn thành khóa luận.
Đặc biệt, xin cảm ơn TS.Mai Thị Hồng Tuyết, người đã tận tình chỉ dạy, hướng
dẫn, đóng góp những ý kiến quý báu giúp tôi sớm hoàn thành khóa luận trong điều
kiện tốt nhất có thể.
Xin cảm ơn lãnh đạo Khoa Ngữ văn, lãnh đạo trường Đại học sư phạm Hà Nội
2 đã tạo điều kiện cho tôi thực hiện khóa luận.
Xin cảm ơn tất cả quý thầy cô, bạn bè – những người đã luôn động viên, khuyến
khích và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Xuân Hòa, tháng 5 năm 2017
Tác giả


Hoàng Kim Yến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu ..................................................................................................1
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................3
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..............................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................3
6. Dự kiến đóng góp ....................................................................................................4
7. Bố cục ......................................................................................................................4
NỘI DUNG ................................................................................................................5
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LÍ THUYẾT LIÊN VĂN BẢN ..........5
1.1. Sự ra đời của lí thuyết liên văn bản ..................................................................5
1.1.1. Sự thoái trào của chủ nghĩa cấu trúc .................................................................5
1.1.2. Những gợi ý từ lí thuyết của M.Bakhtin ...........................................................8
1.2. Một số vấn đề cơ bản của lí thuyết liên văn bản .............................................9
1.2.1. Khái niệm văn bản ............................................................................................9
1.2.2. Văn bản và tác phẩm .........................................................................................9
1.2.3. Từ vấn đề liên chủ thể đến liên văn bản..........................................................11
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình liên văn bản ...........................................18
1.2.4.1. Quan điểm thẩm mĩ của thời đại ..................................................................18
1.2.4.2. Vốn sống, vốn văn hóa và ngôn ngữ của nhà văn .................................... 19
1.2.4.3. Sự chi phối của thể loại nói chung.......................................................... 20
1.3. Ảnh hưởng của lí thuyết liên văn bản đến văn học Việt Nam hiện nay ......22
Tiểu kết .....................................................................................................................24
CHƯƠNG 2: LIÊN VĂN BẢN TRONG SÁNG TẠO VÀ TIẾP NHẬN TÁC
PHẨM CỦA F.KAFKA ..........................................................................................25
2.1. Các hình thức liên văn bản trong sáng tạo của F.Kafka ..............................25

2.1.1. Về môtíp ..........................................................................................................25
2.1.1.1. Môtíp hóa thân/ biến dạng ...........................................................................25


2.1.1.2. Môtíp mê cung ..............................................................................................26
2.1.1.3. Môtíp con người bị đeo bám .......................................................................30
2.1.2. Sự huyền thoại hóa không gian và thời gian nghệ thuật .................................31
2.1.2.1. Không gian huyền thoại ...............................................................................32
2.1.2.2. Thời gian huyền thoại ..................................................................................35
2.1.3. Trích dẫn và giễu nhại .....................................................................................41
2.1.3.1. Trích dẫn ......................................................................................................41
2.1.3.2. Giễu nhại ......................................................................................................42
2.2. Liên văn bản trong tiếp nhận tác phẩm của F.Kafka ...................................45
2.2.1. Sự tiếp nhận môtíp “mê lộ” từ sáng tác của F.Kafka ......................................46
2.2.1.1. Hiện tượng kể chuyện theo lối “mê lộ” trong tiểu thuyết của Paul Auster .46
2.2.1.2 Sự tiếp nhận môtíp “mê lộ” trong tác phẩm của J.Borges ...........................49
2.2.2. Liên văn bản trong các tác phẩm chuyển thể ..................................................50
Tiểu kết .....................................................................................................................55
KẾT LUẬN ..............................................................................................................56
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Khái niệm “liên văn bản” (intertextuality) xuất hiện vào nửa sau thế kỉ XX
đã gây tác động mạnh đến nhận thức văn học và trở thành mối quan tâm chủ yếu của
nhà nghiên cứu ngữ văn hàng đầu thế giới. J.Kristeva, M.Bakhtin, R.Barthes, Genette,
Refaterre, Bloom… được xem là những nhà lập thuyết và thực hành quan trọng. Cho
đến nay, có một nhận thức chung rằng bất kì văn bản nào cũng có mối quan hệ với
các văn bản khác ra đời trước đó. Quan hệ này dựa trên những sự kết nối giữa các

văn bản với nhau bằng những phương thức khác nhau như: ám chỉ, trích dẫn, giễu
nhại, chuyển thể, chuyển dịch, đạo văn, mô phỏng, pha trộn… Những quan hệ này
được tác giả tạo lập bằng ý thức hoặc vô thức, được tri nhận trong tực tiễn giao tiếp
nghệ thuật và chúng tương tác với tri thức và trải nghiệm văn bản của người đọc, gây
ra hứng thú diễn giải, qua đó, các giá trị văn hóa không ngừng được sản sinh và đón
nhận. Liên văn bản là thuật ngữ được dùng để miêu tả thuộc tính hay phương thức
quan hệ trên đây, nơi mà mỗi văn bản đều chứa đựng sự tham chiếu đối với các văn
bản khác, qua đó chúng sinh sản và nảy nở ý nghĩa. Mặc dù có vị thế rất quan trọng
trong từ vựng nghiên cứu phê bình văn học trên thế giới, song nó vẫn chưa được khảo
sát, nghiên cứu, giới thiệu một cách có hệ thống.
1.2. F.Kafka là một trong những nhà văn lớn nhất thế kỉ XX. Sinh thời, ông viết
không nhiều nhưng những tác phẩm của ông đều trở thành kinh điển. Tác phẩm của
ông mang tính ẩn dụ và sự đa nghĩa trong các hình tượng nghệ thuật, đồng thời chúng
còn thể hiện sự đổi mới kĩ thuật viết ở nhiều phương diện. Các tác phẩm của Kafka
thể hiện tính liên văn bản rất rõ. Một mặt, người ta thấy ông là một nhà cách tân song
đồng thời ông cũng là người kế thừa truyền thống. Mặt khác, đã có rất nhiều tác giả
khác chịu sự ảnh hưởng sâu đậm từ các tác phẩm của Kafka.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Liên văn bản trong tác
phẩm của F.Kafka” để nghiên cứu với mục đích tìm hiểu thêm về sáng tác của Kafka
ở phương diện liên văn bản.
2. Lịch sử nghiên cứu

1


Sau hơn 45 năm kể từ khi Kristeva đặt ra thuật ngữ liên văn bản (1967), đã có
rất nhiều công trình nghiên cứu luận bàn, phát triển và vận dụng lý thuyết, trong đó
đáng chú ý là các công trình: Intertextuality (Liên văn bản - 2000) của Graham Allen,
Intertextuality: Debates and Contexts (Liên văn bản: Tranh luận và ngữ cảnh - 2003)
của Mary Orr… Nhìn chung, nghiên cứu lí thuyết này trên thế giới thống nhất ở nhiều

điểm: về sự xuất hiện của khái niệm, về nội hàm của khái niệm, về danh sách những
nhà lập thuyết và thực hành tiêu biểu, về sự phát triển và tiềm năng ứng dụng của lí
thuyết. Về cơ bản, có hai xu hướng khác nhau trong luận giải và thực hành phân tích
liên văn bản: hướng cấu trúc - trần thuật (Genette và Riffaterre là đại diện) và hướng
giải cấu trúc - hậu hiện đại (với các đại biểu như Barthes, Derrida, Eco, Kristeva,
Bloom). Mỗi xu hướng trên đây đều đã có những đóng góp nhất định trong việc lí
giải, phát triển và vận dụng lí thuyết liên văn bản, có ảnh hưởng trên phạm vi thế giới.
F.Kafka đến với bạn đọc Việt Nam khoảng giữa những năm 50 của thế kỉ XX.
Từ đó đến nay đã là một khoảng cách khá xa và số công trình viết về ông đã dày lên
rất nhiều. Độc giả Việt Nam biết đến Kafka chủ yếu thông qua các công trình lí luận
về tiểu thuyết hiện đại. Tuy chưa có những công trình tầm cỡ, song do được thừa
hưởng những thành quả nghiên cứu của thế giới mà việc nghiên cứu sáng tác của
Kafka ở Việt Nam cũng đạt được một số thành quả nhất định, có thể kể đến các công
trình nghiên cứu như: “Franz Kafka và vấn đề huyền thoại trong văn học phương Tây
hiện đại” của Hoàng Trinh; “Chủ nghĩa hiện sinh và vấn đề huyền thoại” của Phạm
Văn Sĩ; “Thế giới nghệ thuật của Franz Kafka” của Trương Đăng Dung; bài nghiên
cứu về Kafka và các tác phẩm của ông trong giáo trình Văn học phương Tây của Đặng
Anh Đào…
Từ chỗ xác định vị trí, vai trò của F.Kafka đối với văn học hiện đại thế giới, các
nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu những đổi mới về nghệ thuật tiểu thuyết mà Kafka là
người mở đường. Đó là những sáng tạo độc đáo của Kafka về cốt truyện, nhân vật,
bối cảnh, không gian và thời gian trong tiểu thyết. Điều này được các nhà nghiên cứu
thể hiện trong các công trình của mình như: Hi vọng và phi lí trong tác phẩm của
Franz Kafka của A. Camus, Viết về nghệ thuật của Becton Brecht, Trên hành trình

2


chân lí Franz Kafka của Lê Huy Bắc…
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu: Đề xuất một hướng tiếp cận mới trong tác phẩm của F.Kafka – Liên văn
bản trong tác phẩm của Kafka.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lí thuyết liên văn bản.
- Nghiên cứu liên văn bản trong sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm của F.Kafka ở các
phương diện: Các hình thức liên văn bản trong sáng tạo của F.Kafka (về môtíp, không
gian và thời gian nghệ thuật, trích dẫn và giễu nhại); Liên văn bản trong tiếp nhận của
F.Kafka (liên văn bản trong các công trình nghiên cứu, liên văn bản trong các tác
phẩm chuyển thể).
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề liên văn bản trong các tác phẩm của F.Kafka.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về phạm vi tư liệu: Chúng tôi khảo sát hiện tượng liên văn bản trong những tác
phẩm chính của Kafka đã được dịch sang tiếng Việt như: Vụ án, Lâu đài, Hóa thân
cùng một số truyện ngắn như Hang ổ, Một thầy thuốc nông thôn, Người cưỡi xô,
Mười một người con trai …
- Về vấn đề nghiên cứu: Trong khi khảo sát hiện tượng liên văn bản trong tác phẩm
F.Kafka, chúng tôi nhận thấy không chỉ trong tác phẩm của Kafka có sự chồng xếp
các dạng văn bản trước đó và đương thời mà trong các tác phẩm sau này, các nhà văn
hay các nghệ sĩ thuộc các lĩnh vực khác nhau cũng chịu ảnh hưởng lớn từ Kafka. Nói
cách khác, liên văn bản không chỉ có trong quá trình Kafka sáng tạo tác phẩm mà còn
có ở quá trình tiếp nhận tác phẩm của ông. Vì thế, bên cạnh vấn đề liên văn bản trong
sáng tạo, chúng tôi còn nghiên cứu cả hiện tượng liên văn bản trong tiếp nhận tác
phẩm Kafka.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng phối hợp nhiều phương pháp, trong đó phương pháp lịch sử - loại

3



hình và phương pháp cấu trúc - hệ thống được sử dụng chủ yếu.
- Phương pháp lịch sử - loại hình: Chúng tôi khảo sát lịch sử hình thành và sự vận
động của lí thuyết liên văn bản, đặc trưng và nội hàm của khái niệm qua từng nhà lập
thuyết - thực hành và từng thời điểm. Những công trình của các nhà lí luận như
Bakhtin, Kristeva, Barthes sẽ được đánh giá theo phương pháp trên.
- Phương pháp cấu trúc - hệ thống: Trước hết chúng tôi dùng để nghiên cứu một cách
hệ thống tư tưởng của các nhà lập thuyết về liên văn bản. Sau đó được dùng để nghiên
cứu thực tiễn liên văn bản trong sáng tác của F.Kafka.
Ngoài ra chúng tôi sử dụng kết hợp các thao tác và phương pháp phân tích, thống kê,
so sánh, đối chiếu...
6. Dự kiến đóng góp
- Về mặt lí thuyết: Khóa luận trình bày một cách tương đối đầy đủ về một số vấn đề
cơ bản của lí thuyết liên văn bản (khái niệm văn bản, văn bản và tác phẩm, từ vấn đề
liên chủ thể tới liên văn bản...).
- Về mặt thực tiễn: Tiếp cận liên văn bản trong sáng tác của F.Kafka nhằm làm rõ lí
thuyết, qua đó đánh giá được sự kế thừa và sáng tạo trong bút pháp nghệ thuật của
Kafka - một hiện tượng lớn của văn học hậu hiện đại.
7. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục phần nội dung được
triển khai làm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về lí thuyết liên văn bản
Chương 2: Liên văn bản trong sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm của F.Kafka

4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LÍ THUYẾT LIÊN VĂN BẢN
1.1. Sự ra đời của lí thuyết liên văn bản
1.1.1. Sự thoái trào của chủ nghĩa cấu trúc

Theo Đại từ điển tiếng Việt, khái niệm “cấu trúc” có nghĩa là “Tổng hòa các
mối qua hệ bên trong của một chỉnh thể” [18, tr.285]. Trong tiếng Pháp cũng định
nghĩa từ “structure” là cách sắp xếp giữa các bộ phận của một tập hợp cụ thể hay
trừu tượng, hay là việc tổ chức các bộ phận của một hệ thống làm cho nó có một tính
cố kết mạch lạc và mang tính đặc trưng thường xuyên. Từ “structure” trong tiếng
Pháp có xuất xứ từ từ Latin “structura” nghĩa là xây dựng, kiến tạo. Trong số các
định nghĩa trên đây, có định nghĩa tỏ ra giống với định nghĩa về hình thức. Nhưng
nói chung, phạm trù trung tâm của khái niệm cấu trúc là các mối quan hệ nội tại.
Thuyết cấu trúc là một học thuyết xuất hiện ở châu Âu vào khoảng giữa những
năm 1950. Nguồn gốc của nó là ở các công trình ngôn ngữ học của Ferdinand de
Saussure. Quan điểm chủ chốt của Saussure là: ngôn ngữ là hình thức chứ không phải
chất liệu; nó là một hệ thống ký hiệu, mà ký hiệu lại là một thực thể kết hợp giữa cái
biểu đạt với cái được biểu đạt.
Nhưng sự xuất hiện thực sự của chủ nghĩa cấu trúc phải được tính từ năm 1955,
khi nhà nhân chủng người Pháp Claude Gustave Lévi-Strauss (1908) cho đăng trên
tờ tạp chí Journal of American Folklore một bài báo nhan đề Nghiên cứu cấu trúc
thần thoại. Ông khẳng định, giống như các thành phần khác của ngôn ngữ, một câu
chuyện thần thoại được tạo thành bởi các đơn vị hợp thành mà chúng cần phải được
xác định, được tách ra và được liên hệ với một mạng lưới ý nghĩa rộng lớn. Như vậy,
mọi hiện tượng văn hoá cần phải được nhìn nhận như là các sản phẩm của một hệ
thống các ý nghĩa mà chúng chỉ được xác định trong mối quan hệ giữa chúng với
nhau ở trong hệ thống, như thể chính bản thân hệ thống đang đặt ra các ý nghĩa. Mọi
mã ý nghĩa đều mang tính tuỳ tiện, nhưng không thể hiểu được hiện thực mà không
dựa vào một mã nào đó. Và chủ nghĩa cấu trúc tìm cách xác định các quy tắc và những
điều bó buộc mà trong đó và nhờ đó ý nghĩa được tạo thành và được thông báo. Chủ

5


nghĩa cấu trúc với tư cách là một phương pháp đã được áp dụng cho ngành xã hội

học, lý luận - phê bình văn học và triết học. Nó đặc biệt tỏ ra có hiệu quả trong lĩnh
vực nghiên cứu cấu trúc tự sự.
Chủ nghĩa cấu trúc coi trọng cấu trúc đồng đại hơn diễn biến lịch đại của các sự
vật, tức là nó không coi trọng tính lịch sử của sự vật, và nó coi trọng tổng thể hơn cá
thể. Nó cho rằng sự vật chỉ có ý nghĩa khi được xem xét trong một cấu trúc của tổng
thể. Theo nó, cấu trúc của một sự vật là một chỉnh thể thống nhất và toàn vẹn, bao
gồm cả nội dung lẫn hình thức, và nó có một ý nghĩa chính xác của nó, độc lập với
bất cứ yếu tố bên ngoài nào.
Ở Hoa Kỳ, chủ nghĩa cấu trúc được coi như là một loại của trường phái Phê
bình mới. Nửa cuối thế kỷ XX, ở Hoa Kỳ đang có hai xu hướng trong nghiên cứu văn
học. Một là, xu hướng nghiên cứu hướng vào tác giả, với đại diện tiêu hiểu là
E.D.Hirsch; xu hướng này đặt cho mình nhiệm vụ đi tìm dụng ý của tác giả để giải
nghĩa văn bản. Hai là, xu hướng nghiên cứu hướng vào độc giả, với đại diện là trường
phái hậu cấu trúc ở Đại học Yale, nơi có nhà hậu cấu trúc luận người Pháp Jacques
Derrida thường xuyên đến thỉnh giảng; xu hướng này dành đặc quyền cho người đọc
trong việc đáp lại văn bản. Nhưng trường phái Phê bình mới lại bác bỏ cả hai xu
hướng trên. Nó không để ý đến tác giả và cũng không để ý đến độc giả. Nó chỉ công
nhận những gì có trong văn bản tác phẩm và chỉ tập trung phân tích cái cấu trúc khép
kín của văn bản tác phẩm mà thôi; tác phẩm được coi là một đơn vị cấu trúc tách biệt
khỏi thế giới xung quanh, không có bất cứ một mối liên hệ nào với thế giới, thậm chí
với cả tác giả sản sinh ra nó. Những điều trên đây cho thấy, đối với các nhà cấu trúc
luận, tác phẩm nghệ thuật là một cấu trúc tự thân, chặt chẽ và chính xác, không cần
đến bất cứ một yếu tố nào khác ngoài chính nó.
Khái niệm “cấu trúc” chỉ mô tả tác phẩm như là một bộ khung, chỉ bao gồm
những mối quan hệ chủ yếu chứ không bao gồm tất cả mọi mối quan hệ tương tác nội
tại của tác phẩm. Và việc phân tích cấu trúc chính là để làm sáng rõ cái bộ khung chi
phối giá trị của một tác phẩm. Đây là hạn chế của phương pháp phân tích cấu trúc.
Do đó phải nói rằng phương pháp cấu trúc chỉ có giá trị là một phương pháp cận cảnh

6



cụ thể nhằm đạt tới những kết quả chính xác về kết cấu của tác phẩm, chứ nó không
cho ta những giải pháp xác đáng về giá trị của tác phẩm. Tức là nó chỉ có ý nghĩa là
một phương pháp cục bộ. Chính cái quan niệm cực đoan về tính độc lập chặt chẽ cấu
trúc của chủ nghĩa cấu trúc “cổ điển” đã dẫn đến sự phản kháng chống lại nó và làm
xuất hiện chủ nghĩa cấu trúc phân giải hay “hậu cấu trúc”.
Chủ nghĩa cấu trúc phân giải hay hậu cấu trúc được hình thành từ phản ứng của
chính những nhà cấu trúc luận có chủ trương đổi mới chủ nghĩa cấu trúc bằng cách
cải cách cái tư tưởng giáo điều cứng nhắc của nó về trật tự ổn định của các sự vật.
Nếu như chủ nghĩa cấu trúc sử dụng ngôn ngữ học để tìm ra mối quan hệ trật tự ở bất
cứ lĩnh vực nào, thì chủ nghĩa hậu cấu trúc sử dụng ngôn ngữ học để lập luận rằng tất
cả mọi trật tự trên thế giới đều được dựa trên một sự mất trật tự đặc trưng chủ yếu
trong ngôn ngữ và trên thế giới, mà sự mất trật tự này không bao giờ có thể bị chế
ngự bằng một cấu trúc hoặc một mã ngữ nghĩa nào đó. Ngay từ đầu những năm 1960,
khi chủ nghĩa cấu trúc đang còn thịnh hành ở phương Tây, thì đã xuất hiện một phong
trào phản kháng chống lại nó. Phong trào này ít quan tâm đến việc tìm hiểu xem các
hệ thống vận hành như thế nào, mà nó quan tâm đến việc chúng ta có thể bị dỡ bỏ
như thế nào để cho các nguồn năng lượng và tiềm năng của chúng có thể được giải
thoát và được sử dụng cho việc xây dựng một kiểu xã hội hoàn toàn khác. Nếu như
chủ nghĩa cấu trúc, bất chấp những tư tưởng chính trị thiên tả của những người đại
diện xuất xắc nhất của nó, về mặt phương pháp luận vẫn mang tính bảo thủ - đó là
một chủ nghĩa ủng hộ các cấu trúc ổn định vĩnh hằng, một thứ cấu trúc “cô đặc như
một tinh thể” nói theo cách nói của Lévi-Strauss, thì chủ nghĩa hậu cấu trúc có thể
coi là mang tính cấp tiến một cách hoàn toàn tự giác, nó đòi xét lại các phương pháp
mà tư duy duy lý truyền thống thường sử dụng để mô tả thế giới. Nếu chủ nghĩa cấu
trúc coi ký hiệu là cửa sổ nhìn ra cái thế giới siêu nghiệm của một trật tự “tinh thể”,
của những bản sắc hình thức có khả năng tự duy trì vượt ra ngoài thời gian và ngoài
lịch sử, của những mã ý nghĩa mà dường như nằm ngoài mọi khác biệt do những hiện
tượng bất ngờ của cuộc sống hàng ngày sinh ra, thì chủ nghĩa hậu cấu trúc cho rằng

mọi cấu trúc như vậy chỉ là những chiến lược cai trị và kiểm soát xã hội, là những

7


cách phớt lờ hiện thực chứ không phải là tìm hiểu hiện thực. Chủ nghĩa hậu cấu trúc
cho rằng đã đến lúc cần phải tiêu huỷ các ký hiệu, và cùng với chúng là tiêu huỷ luôn
cả mọi trật tự ý nghĩa và trật tự hiện thực mà nhờ có ký hiệu mà chúng có thể tồn tại.
Chủ nghĩa hậu cấu trúc đã phê phán cái tính chất độc đoán áp đặt của chủ nghĩa
cấu trúc. Nó cho rằng chủ nghĩa cấu trúc dường như lấy phương tiện kỹ thuật để quyết
định kết quả nghiên cứu, rằng đối với chủ nghĩa cấu trúc sẽ không còn cơ hội cho tính
sáng tạo và cho những điều bất ngờ. Ở chủ nghĩa hậu cấu trúc, người đọc được lên
ngôi thay chỗ cho tác giả. Người đọc được quyền tự do tạo nghĩa cho tác phẩm, bất
chấp khả năng có thể xảy ra việc hiểu và lý giải sai văn bản tác phẩm. Đây là một xu
hướng cực đoan, vô nguyên tắc.
Như vậy, với quan niệm mở rộng nghĩa đến vô cùng để chống lại quan niệm bó
hẹp ngữ nghĩa của chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hậu cấu trúc đã chuyển từ cực đoan
này sang cực đoan khác, vượt cả giới hạn của lý thuyết hiện tượng học
1.1.2. Những gợi ý từ lí thuyết của M.Bakhtin
M.Bakhtin (1895-1975) là nhà triết học, mỹ học và nghiên cứu văn học lớn của
Liên Xô và thế giới thế kỉ XX. Trong công trình nghiên cứu đầu tiên vào năm 1924
về vấn đề nội dung, chất liệu, và hình thức trong sáng tạo nghệ thuật ngôn từ ông
khẳng định mỗi lời phát biểu cụ thể bao giờ cũng hiện diện trong một ngữ cảnh văn
hóa đầy ý nghĩa và chỉ trong ngữ cảnh lời phát biểu mới sống và mới được nhận biết
đúng hay sai, đẹp hay xấu, chân thành hay xảo trá, cởi mở trơ trẽn hay đầy quyền uy,
những lời trung tính không có và không thể có.
Trong tiểu luận Ngôn ngữ tiểu thuyết Bakhtin cho rằng bất cứ lời nói nào cũng
nhằm để đáp lại và không thể tránh khỏi ảnh hưởng sâu xa của lời đáp dự kiến sẽ có.
Mỗi phát ngôn không thể trung tính, nó sẽ bị vây bọc bởi quan điểm, lập trường,
giọng điệu khác và buộc phải gia nhập các mối quan hệ tương tác, tán đồng, li khai.

Và ông khẳng định thuộc tính của lời nói là tính đối thoại. Nếu F.de.Saussure cho
rằng lời nói là hành vi mang tính cá nhân thì ngược lại, Bakhtin đặt ngôn ngữ trong
quan hệ với tình huống xã hội cụ thể, ý nghĩa. Của các từ và các phát ngôn tùy thuộc
vào chủ thể. Theo Bakhtin khi không có ý thức chủ động, người nói không nhận ra

8


mình bị bao bọc bởi muôn ngàn tiếng nói khác nhau. Quan điểm này trở thành nhân
tố quan trọng nó quy định chủ thể trong vòng biến động, trong cuộc đụng độ ý thức.
Nguyên tắc đối thoại của Bakhtin trở thành tiêu chuẩn sự tiến hóa xã hội. Hdquist xác
định rằng, với Bakhtin tồn tại là đối thoại, ngôn ngữ là đối thoại, và tính tiểu thuyết
là đối thoại, bởi theo Bakhtin ý thức bắt đầu ở đâu thì ở đó có đối thoại. Từ nguyên
lí đối thoại Bakhtin tiếp cận thể loại tiểu thuyết, ông xem lí luận về thể loại tiểu thuyết
là tính đối thoại sự phát triển của tiểu thuyết là khơi sâu tính đối thoạị, mở rộng nó
và làm cho nó ngày càng trở nên tinh tế. Tiểu thuyết mang tính đa thanh, phức điệu,
tính nhiều giọng nói. Lời nói của tiểu thuyết tồn tại như một sự lặp lại, có tính giễu
nhại, nó đối thoại với lực lượng quan phương, nghiêm trang, những chân lí bất biến
giáo điều đầy sức ì bằng một ý thức hệ bình đẳng, dân chủ khỏe khoắn lành mạnh,
mang tính chất tái sinh giàu sức sống. Theo Bakhtin, biểu hiện của tính đối thoại là
tính dị ngôn, tức là ngôn ngữ luôn thẩm thấu những vết tích khác, những cách dùng
khác, những ý thức khác. Lời nói vừa có quan hệ nội bản, vừa có quan hệ liên văn
bản. Bản chất lời nói luôn có mối quan hệ với lời nói… do đó tự nhiên đã thực hiện
sự kết nối liên văn bản, liên ý thức, liên chủ thể đối thoại. Với quan niệm ngôn ngữ
tiểu thuyết mang tính đối thoại, Bakhtin được xem là nhà khai sáng lí thuyết liên văn
bản.
1.2. Một số vấn đề cơ bản của lí thuyết liên văn bản
1.2.1. Khái niệm văn bản
Theo Mĩ học tiếp nhận: Văn bản là một chuỗi kí hiệu được in trên giấy, là một
cấu trúc có tính lược đồ, có nhiều tầng bậc chưa xã định. Nó không tự sản sinh ý

nghĩa. Nếu không được đọc thì nó cũng chẳng khác gi các từ trong từ điển. Tác phẩm
là sản phẩm tiếp nhận văn bản, tồn tại trong ý thức người đọc [12, tr.21].
1.2.2. Văn bản và tác phẩm
Văn bản và tác phẩm là hai khái niệm thống nhất nhưng không đồng nhất, cần
được phân biệt ở phương thức tồn tại.
Văn bản là một hệ thống ngôn ngữ do nhà văn sáng tạo, chờ người đọc đến đọc,
nó chưa tham gia vào sự hành chức xã hội thẩm mĩ, là đối tượng của sự phân tích

9


khép kín về mặt giải thích học. Tác phẩm văn học là hệ thống ngôn ngữ đã được
người đọc đọc và phủ cho một ý nghĩa nhất định. Với sự xuất hiện của lí thuyết cấu
trúc, kí hiệu và lí thuyết tiếp nhận, sự phân biệt văn bản và tác phẩm ngày càng được
chấp nhận rộng rãi. Người đầu tiên chủ chương phân biệt văn bản và tác phẩm là nhà
lí luận văn học Ba Lan Roman Ingarden. Có thể nói ông là người đầu tiên đề cập đến
phương thức tồn tại của tác phẩm, đưa ra một cách nhìn khác về tác phẩm bên ngoài
sự thống nhất nội dung và hình thức. Theo ông, tác phẩm thông thường chỉ là một
văn bản vốn là một khách thể có tính chủ ý thuần túy, trong đó có nhiều tính không
xác định và yếu tố chưa hoàn thành. Chỉ thông qua sự cụ thể hóa các yếu tố đó thì tác
phẩm mới trở thành tác phẩm văn học trong thực tế. Như thế văn bản không đồng
nhất với tác phẩm. Nhưng chính văn bản mới là phương thức tồn tại đầu tiên của tác
phẩm.
M.Bakhtin cũng đã phân biệt văn bản với tác phẩm như một sự thật chất liệu và
khách thể thẩm mĩ. Năm 1973, trong bài Lí thuyết văn bản, R.Barthes thử trả lời câu
hỏi “Văn bản là gì?”. Theo ông, văn bản không phải là tác phẩm, cũng không phải
là khách thể, thậm chí không phải là một khái niệm. Văn bản nảy sinh trong không
gian giữa người đọc và con chữ, nó là một nơi sản sinh. Văn bản lại là một thực tiên
ý chí mà hạt nhân là một tính đa nguyên xuất hiện dưới hình thức mâu thuẫn. Văn
bản với tư cách là hoạt động sinh sản, nó sản sinh ra không phải là sản phẩm, mà là

nơi gặp gỡ giữa tác giả và người đọc, người diễn xuất, người tiến hành các trò chơi
chữ. Do đó, văn bản không phải là sự kết thúc của sinh sản mà là quá trình sinh sản.
Tư liệu sinh sản của nó là ngôn ngữ, là thứ ngôn nữ người ta dùng để giao tiếp, tái
hiện, biểu đạt. Văn bản giải cấu trúc ngôn ngữa ấy và tạo thành một thứ ngôn ngữ
khác, cú thế tuần hoàn không dứt. Điều này cũng được ông thể hiện rất rõ trong cuốn
S/Z, trong tác phẩm này khái niệm văn bản được Barthes mô tả như là tính đa bội đắc
thắng.
Như vậy, tác phẩm văn học là sản phẩm sinh nghĩa và tạo nghĩa của văn bản,
là sự thống nhất có tính quá trình giữa văn bản nghệ thuật với khách thể thẩm mĩ hình
thành trong hoạt động tiếp nhận của người đọc.

10


1.2.3. Từ vấn đề liên chủ thể đến liên văn bản
Trong cuốn Những vấn đề thi pháp Dostoievski M.Bakhtin cho rằng: từ trong
bản chất, lời nói mang tính đối thoại và giao tiếp đối thoại chính là môi trường đích
thực của đời sống ngôn ngữ. Điều này có nghĩa mọi phát ngôn bằng lời, không có
ngoại lệ, đều là những quan điểm của chủ thể khác nhau được biểu hiện trong lời nói,
vì những quan điểm ấy đều thuộc về những ngữ cảnh và nhãn quan giá trị - xã hội
trái ngược, rất khác nhau và đôi khi thù nghịch nhau, nên bất kì phát ngôn nào của
chủ thể về một đối tượng cũng xuất hiện như là kết quả tiếp nhận tích cực và phản
ứng cũng tích cực như thế đối với các phát ngôn về chính đối tượng ấy. Lời nói nào
cũng xuất hiện trong quá trình định hướng qua lại đầy căng thẳng với những quan
điểm của người khác, những phát ngôn của người khác, và sự định hướng qua lại ấy
được phân bố trên một khoảng âm vực rộng lớn giữa tán thành tuyệt đối và cương
quyết phản đối trước lời nói của người khác, khoảng âm vực bao gồm cả hoài nghi,
giễu nhại, dằn vặt, cười cợt…
Có thể tạm chia ước lệ quan hệ đối thoại trong Những vẫn đề thi pháp
Dostoievski thành 2 hình thức cơ bản: đối thoại sinh tồn và đa thanh phức điệu. Khi

xác định đặc điểm đối thoại, M.Bakhtin đặc biệt coi trọng và đưa lên bình diện thứ
nhất các khái niệm tâm hồn, tự nhận thức, ý thức của cá nhân, tức là của con người
nội tâm. Đặc điểm cơ bản của con người nội tâm là sự tự do của của nó, nó không
phải là một đại lượng hữu hạn, xác định để từ đó có thể kiến tạo những toan tính chặt
chẽ nào đó; con người hoàn toàn tự do và vì thế nó có thể phá hủy mọi quy luật trói
buộc nó. Con người không bao giờ đồng nhất với bản thân, vì thế cuộc sống đích thực
của cá nhân luôn luôn diễn ra ở cái điểm không đồng nhất ấy của con người với bản
thân mình, ở cái điểm vượt ra ngoài giới hạn của tất cả những gì mà nó chỉ tựa như
một tồn tại bên ngoài, thứ tồn tại có thể xem xét, xác định, tiên đoán vắng mặt nó,
ngoài ý chí của nó. Bởi thế, cá nhân con người là bất định - phi xác quyết, thể hiện
tính không hoàn kết, một thuộc tính khiến không thể khách thể hoá, đồ vật hoá theo
bất kì cách thức nào. Đồng thời, vì cá nhân bao giờ cũng tồn tại trong môi trường của
những tập hợp người bao bọc xung quanh, nên hy vọng sâu thẳm của nó là làm thế

11


nào để trực tiếp tự bộc lộ trước những người khác, được người khác thừa nhận và
khẳng định tự do của mình trong hành vi đối thoại đích thực như một bản thể: Phải
thâm nhập bằng đối thoại thì mới hiểu được đời sống cá nhân, đó là kiểu thâm nhập
mà tự bản thân cá nhân sẽ bộc lộ một cách tự do và có trách nhiệm.
Nhưng mâu thuẫn là ở chỗ, ở cấp độ sinh tồn (trong thực tiễn đời sống), ý thức
của người khác bao giờ cũng có sức mạnh và quyền lực được vật chất hoá mà sự tự
do tự nhận thức của cá nhân luôn luôn chống lại. Hơn nữa, ngược lại, người khác lại
muốn ngoại hình hoá, hoàn tất nó để khẳng định và thừa nhận sự tự do vô hạn của
con người nội tâm; về phía mình, con người nội tâm, tìm mọi cách nổi loạn để cưỡng
lại việc ngoại hình hoá như thế, bởi vì nó cảm nhận một cách sống động sự không
hoàn kết nội tâm của mình: Chừng nào con người còn sống, nó sẽ sống bằng con
người vẫn chưa hoàn kết và vẫn chưa nói lời cuối cùng của mình.
Ta hiểu vì sao, ở cấp độ sinh tồn, theo tinh thần của Bakhtin, đối thoại là cuộc

đấu tranh nảy lửa giữa tôi và người khác. Do không một ai có thể sống thiếu sự thừa
nhận và khẳng định của người khác, nên cá nhân phải tự nguyện kéo cái nhìn của
người khác về phía mình. Nhưng tuỳ vào mức độ ý chí của người khác, sự phán xét
của người khác mà cái nhìn ấy chứa đựng trong bản thân, chính cá nhân kia phải nới
lỏng và thực hiện những ý đồ đầy tuyệt vọng nhằm tránh khỏi sự khách quan hoá: lời
của nó bắt đầu quằn quại và vỡ vụn dưới ảnh hưởng của lời người khác, bắt đầu cãi
lại, phỏng đoán, chống đỡ lại nó, biến thành muôn vàn sự cân nhắc và những kẽ nứt
bất tận… miễn sao bảo vệ được sự độc lập của mình, duy trì được cho bản thân lời
nói cuối cùng về mình, lời tự ý thức của mình để nó trở thành không phải là cái như
nó vốn có.
Sơ đồ đối thoại của Dostoievski khá đơn giản: đối lập giữa con người và con
người như là sự đối lập giữa tôi và người khác (theo công thức: tôi thì chỉ có một
mình, còn họ là tất cả). Kết quả của sự đối lập như thế là thế giới bị chẻ ra thành
lưỡng diện: ở bên này là tôi, bên kia là họ, có nghĩa, tất cả những người khác, bất kể
họ là ai, không có ngoại lệ. Con người theo quan niệm của Bakhtin không có khả
năng thâm nhập vào người khác, nếu người khác không có khả năng đồ vật hoá con

12


người nội tâm, thì bản thân con người nội tâm cũng không đủ sức nắm bắt sự đóng
kín và phi xác quyết của mình với sự trợ giúp của cái người khác ấy.
Sự định hướng qua lại mang tính đối thoại của các cá nhân không dẫn tới sự
thay đổi hay đột biến trong nội tâm của họ; ngược lại, nhiệm vụ của con người nội
tâm là làm thế nào để nhất quyết bảo vệ bằng được lời nói cuối cùng cho mình. Lời
nói cuối cùng ấy phải thể hiện sự độc lập tuyệt đối của nhân vật trước cái nhìn và lời
nói của người khác, thể hiện sự dửng dưng hoàn toàn của nó với ý kiến của người
khác và sự đánh giá của người khác. Điều đó có nghĩa là: việc tiếp xúc căng thẳng
giữa sự tự ý thức không hoàn kết của tôi và ý thức hoàn kết của người khác tất yếu
biến thành cuộc xung đột đối thoại vô vọng, không lối thoát. Bởi thế, nếu vấn đề đối

thoại được Bakhtin giải quyết bằng chìa khoá triết học sinh tồn, thì vấn đề phức điệu
được ông giải quyết bằng chìa khoá của triết học đa bội.
Thứ nhất, ở đây cá nhân không phải là một nhân cách chưa hoàn kết, mà, ngược
lại, là một nhân cách toàn vẹn, như một đại diện cho một lập trường nhất quán của cá
nhân, một quan điểm nhất quán, hoặc chân lí về thế giới, được phản ánh trong giọng
nói sống động của một con người nhất quán.
Thứ hai, tất cả các giọng nói - điểm nhìn đều thuộc những ngữ cảnh xã hội, hoặc
các nhãn quan giá trị khác nhau về chất. Một mặt, tất cả các nhãn quan giá trị ấy đều
không có bất kì một nguồn gốc chung nào (do thuộc về những hệ tính khác nhau,
chúng hoàn toàn xa lạ với nhau), mặt khác, ngay từ đầu, chúng đã có khuynh hướng
khác nhau, nên giữa chúng không có một mục đích chung nào cả: chúng hoàn toàn
độc lập, xung đột với nhau và, đương nhiên, không tương hợp với nhau– chúng không
đồng nhất và hoàn toàn không hoà hợp. Theo Bakhtin, phức điệu không đơn giản là
tính đa bội của những giọng nói và ý thức độc lập, không hoà hợp, mà là tính đa bội
của những trung tâm - ý thức không thể quy về một mẫu số tư tưởng hệ.
Thiếu mẫu số chung, tức là thiếu một trung tâm chung để những trung tâm - ý
thức cá nhân và rời rạc hướng về, đó là đặc điểm tối quan trọng thứ ba của thế giới
phức điệu của Bakhtin. Ở đây, những quan điểm khác nhau không nằm trong quá
trình cùng tìm kiếm chân lí, chúng không có nhu cầu đời đời cùng - hân hoan, cùng -

13


chiêm nghiệm, cùng - đồng thuận và chúng cũng chẳng bị giày vò bởi hoà âm của
những giọng nói không hoà hợp.
Ngược lại, các quan hệ định hướng qua lại một cách căng thẳng mà những cơ
chế ngữ nghĩa khác nhau tham gia vào đó tuyệt nhiên không phải là phức điệu của
những giọng nói dung hoà với nhau, mà là phức điệu của những giọng nói tranh đấu
và phân rẽ tự bên trong. Xung đột và đấu tranh - đó là những gì thắt buộc và nối kết
các cơ chế ngữ nghĩa, dẫn tới sự thống nhất của cái xung khắc, không cho phép thế

giới phức điệu phân rã. Bakhtin phân biệt hai dạng đấu tranh ngôn từ - tư tưởng hệ
diễn ra giữa ngữ cảnh xã hội và nhãn quan giá trị: năng động và tĩnh tại.
Nếu trong công trình Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ, cái được đưa lên
bình diện thứ nhất là thực tiễn giao tiếp xã hội sinh động, nơi mỗi lời của người nói
tự nó chỉ có sự đồng nhất với bản thân và tính ổn định nhất thời, lúc nào cũng vấp
phải lời đối lập, vì thế nó bị cuốn vào dòng tương tác ngôn từ bất tận bị chia vụn bởi
những mâu thuẫn sinh động, dòng tương tác ngôn từ này kéo dài giống như một quá
trình hình thành liên tục, không có hồi kết, không có sự hoà giải, hay sự yên lòng, thì
trong cuốn sách về Dostoievski, trọng tâm lại được dồn vào đối lập tĩnh tại ở các cơ
chế ngữ nghĩa của lời nói đa dạng, những cơ chế mà về cơ bản, không một cơ chế nào
trong số đó có khả năng thay đổi hoặc làm phong phú thêm dẫu chỉ là cho nhãn quan
giá trị của người khác, nhờ đó làm biến dạng chuỗi ngữ nghĩa liên tục của thế giới
phức điệu. Vì trong thế giới ấy, chất liệu ngữ nghĩa bao giờ cũng được cung cấp tất
thảy, tức thời cho ý thức nhân vật, hơn nữa, nó được cung cấp dưới dạng các thiết chế
ngữ nghĩa nhân bản, dưới dạng những giọng nói, và mọi sự chỉ tập trung vào sự lựa
chọn giữa chúng với nhau, sau nữa, vì cuộc đấu tranh tư tưởng hệ trong nội tâm mà
nhân vật tiến hành là cuộc đấu tranh để lựa chọn những khả năng ngữ nghĩa hiện hữu
mà số lượng của chúng vẫn giữ nguyên, gần như không thay đổi, cho nên ở đây không
có sự hình thành tư tưởng, không có sự hình thành mang tính biện chứng một tinh
thần thống nhất, nói chung, không có sự hình thành, không có sự lớn lên, mà chỉ có
sự cộng tồn không gian của những mâu thuẫn và những đối lập mà về nguyên tắc,
không thể xoá bỏ trong một hợp đề biện chứng, cũng không thể thoả hiệp, không thể

14


giải quyết, kết quả là, phức điệu hoá ra hoàn toàn không đơn giản là đa thanh, mà là
sự đa thanh, sự đa bội của những ý thức không thể dung hoà dẫn tới cuộc tranh luận
bất tận và vô vọng.
Ở những nét cơ bản, quan điểm đối thoại - phức điệu của Bakhtin là như vậy.

Lí thuyết liên văn bản của J.Kristeva xuất phát từ đó. Từ, Đối thoại và Tiểu thuyết là
công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên của Kristeva với tư cách là lí thuyết gia người
Paris. Đây cũng là một trong những công trình đầu tiên giới thiệu tư tưởng Bakhtin
đến với độc giả phương Tây. Nhiều tư tưởng của Bakhtin như tính đối thoại, sự đối
lập giữa đối thoại và độc thoại, đa thanh/phức điệu, siêu ngôn ngữ, carnival, trào
phúng Menippean, giễu nhại, lưỡng trị, sự khác biệt giữa sử thi và tiểu thuyết đã được
Kristeva chuyển dịch, tóm lược, bình luận, diễn giải, tinh chế, làm khác, bổ sung và
vận dụng. Có cơ sở để đồng ý rằng tiểu luận này là cuộc đối thoại xuyên ngôn ngữ
giữa hai tình thế liên văn hóa: đó là đối thoại giữa Kristeva với Bakhtin trên cơ sở di
sản Hình thức luận Nga (mà Kristeva đã thu nhận trực tiếp ở quê hương Đông Âu)
và Lí thuyết Pháp đương đại mà Kristeva tiếp thu và phát triển cùng những bậc thầy
và đồng nghiệp khác như L.Goldman, R.Barthes, E.Benveniste, J.Lacan, M.Foucault,
J.Derrida… Trên đại thể, việc Kristeva sáng tạo ra thuật ngữ liên văn bản để thay thế
cho quan niệm về tính đối thoại/tính liên chủ thể của Bakhtin không phải là sự chuyển
dịch không trung thành sang tiếng Pháp, cũng không phải là sự bóp méo đơn thuần
mà là một chiến lược cố ý, một sự đọc sai (misreading)/tái diễn giải mới theo lối hậu
cấu trúc luận. Và ở đây, chí ít là có 3 điểm, bà đã bóp méo quan điểm của M.Bakhtin.
Thứ nhất, Kristeva đã làm thay đổi hoàn toàn - theo tinh thần phân tâm học
Freud - khái niệm người khác của Bakhtin. Bà giải thích rằng thoạt đầu, người khác
của Bakhtin cũng chính là người khác của ý thức theo triết học Hegel, chứ không phải
là người khác lưỡng phân của phân tâm học. Về phía mình, chính tôi muốn nghe thấy
điều đó như một chiều kích mở ra một hiện thực khác bên trong hiện thực của ý thức,
chứ không phải như một người khác giữa các cá thể. Tức là Kristeva muốn xoay
chuyển Bakhtin của chủ nghĩa Hegel để biến ông thành Bakhtin của chủ nghĩa Freud.
Quả thực, chính ý thức (chứ không phải cái vô thức) luôn nằm ở trung tâm suy ngẫm

15


của Bakhtin, người xuất phát từ quan niệm về sự thống nhất giữa ý thức và sự tự nhận

thức của chủ thể tự do và mang trách nhiệm đạo đức giống như là đại diện của một
quan điểm nhất quán và giọng nói không thể chia cắt của tư tưởng. Trong khi đó,
Kristeva lại đặc biệt hứng thú với những tư tưởng của chủ nghĩa Marx - Freud luận,
với bà điều tối quan trọng là phải đặt vấn đề hoài nghi trước tính hợp pháp của những
khái niệm “duy tâm”, kiểu như ý thức. Bà tập trung chú ý vào các tiến trình vô thức
điều khiển thế giới ngôn từ - tư tưởng hệ. Với Kristeva, “cái khác” có chức năng
khám phá một “sàn diễn khác”, một “kiểu khác của lôgic” - khám phá cái vô thức,
chứ không phải là cá nhân khác.
Thứ hai, từ đây, sự xuất hiện của bản thân tư tưởng liên văn bản là điều dễ hiểu.
Nếu với Bakhtin, đối thoại phức điệu bao giờ cũng diễn ra đích thị ở giữa những chủ
thể tự chủ, những chủ thể có “hạt nhân” cá nhân không thể vắt kiệt, không thể phân
rã, thì với Kristeva, giữa các cấp độ lời nói - tư tưởng hệ (các văn bản, các diễn ngôn)
đặt bên ngoài cá nhân, phi cá nhân - trên cá nhân và tiền cá nhân, những cấp độ chỉ
gặp gỡ, bện kết với nhau trong những cá nhân riêng lẻ, mà đến lượt mình, chúng té
ra chẳng phải là gì khác ngoài những văn bản di động nằm trong quá trình trao đổi
lẫn nhau, phân bổ qua lại: trục hoành (chủ thể - người nhận) và trục tung (văn bản ngữ cảnh) cuối cùng trùng khớp với nhau khi tìm thấy điều cơ bản: mỗi lời (văn bản)
đều là sự giao cắt của hai lời (hai văn bản), nơi còn có thể đọc thêm ít nhất một lời
nữa (văn bản). Nếu đối thoại phức điệu của Bakhtin là tính “liên chủ thể” theo ý nghĩa
chính xác của từ ấy, thì lôgic về liên văn bản của Kristeva từ trong bản chất của nó
lại cần tới “cái chết của chủ thể”, nếu cá nhân với tư cách là “chủ thể của lối viết” tự
tan rã do đánh mất “hạt nhân” quen thuộc và cùng với nó, mọi sự tự trị. Ta hiểu vì
sao, thuật ngữ liên văn bản của Kristeva không bổ sung, mà có nhiệm vụ lấn át, thay
thế tính liên chủ thể. Mọi văn bản đều được tổ chức như một bức khảm bằng những
trích dẫn, mọi văn bản đều là sự hấp thụ và biến đổi một văn bản khác nào đó. Bởi
thế, khái niệm liên văn bản đã thế chỗ cho khái niệm liên chủ thể, và hoá ra, ngôn
ngữ thơ là ngôn ngữ bị đọc theo kiểu nước đôi ít nhất. Bởi vậy, ranh giới phân biệt
đối thoại liên cá nhân của Bakhtin và đối thoại liên văn bản của Kristeva là ranh giới

16



giữa những nguyên tắc của “nhân cách luận” (personnalisme), nguồn cảm hứng của
tác giả Những vấn đề thi pháp Dostoievski, và những tư tưởng của chủ nghĩa Marx Freud luận được Kristeva lấy làm nền móng cho những công trình như: Bakhtin, ngôn
từ, đối thoại và tiểu thuyết, Một nền thi pháp học sụp đổ…
Thứ ba, cảm hứng nổi loạn thấm đẫm chương IV (“Những đặc điểm thể loại và
kết cấu – truyện kể trong những tác phẩm của Dostoievski”) cuốn sách của Bakhtin
bị Kristeva trộn lẫn một cách cố ý với phương diện tư tưởng làm nền móng cho
chuyên luận về “văn hoá carnival” của ông. Như được mô tả trong chương IV của
cuốn sách, bằng cách thể hiện “tính tất yếu cùng với tính sáng tạo của sự thay đổi làm mới, thể hiện tính vui nhộn tương đối của mọi chế độ và trật tự, mọi quyền lực
và vị thế (đẳng cấp), carnival xoá bỏ triệt để mọi “luật lệ, kị huý và chế tài”, nhưng
xoá bỏ chủ yếu là để giải phóng ý thức con người - giải phóng nó thoát khỏi quyền
lực của truyền thống và quyền uy, không cho phép tư tưởng dừng lại và đông cứng
trong sự nghiêm túc đơn điệu, trong “tính xác định và đơn nghĩa bỉ ổi”, “không cho
phép tuyệt đối hoá bất kì một điểm nhìn nào, một cực nào của đời sống và bằng cách
ấy nó tìm thấy bản chất hai mặt và không hoàn kết của con người và tư tưởng con
người”. Vì thế, tiếng cười “lưỡng diện” trong chương IV cuốn Những vấn đề thi pháp
Dostoievski có ý nghĩa thanh tẩy, nó nhắm tới sự tháo bỏ gông xiềng cho trí tuệ con
người, và ở đây, Bakhtin cần “carnival hoá đối thoại” là để chống lại chủ nghĩa độc
thoại, để đối lập chủ nghĩa độc thoại với phương pháp khám phá chân lí bằng đối
thoại của Socrates, thứ chân lí không sinh ra và không cư trú trong đầu của con người
riêng lẻ, mà sinh ra giữa những con người cùng nhau tìm kiếm chân lí trong quá trình
giao tiếp đối thoại của họ. Ngược lại, carnival hoá liên văn bản mà Kristeva khởi
xướng lại chủ yếu nhắm vào mục đích giải thoát khỏi chân lí.
Nếu với M.Bakhtin, hiện thân của cuộc tranh luận triền miên và vô vọng chính
là tiểu thuyết phức điệu, nơi tác giả không chỉ hành động như người tổ chức, mà chủ
yếu còn xuất hiện như người tham gia đối thoại bình đẳng, người không chừa lại phía
sau cả sự thừa dư ngữ nghĩa thiết yếu, lẫn lời phán quyết cuối cùng có khả năng đặt
dấu chấm hết, thì với Kristeva, hình ảnh và kiểu mẫu của tiểu thuyết liên văn bản là

17



tác phẩm mà ở đó tác giả cố ý đóng vai trò đặc biệt của người viết kịch bản có nhiệm
vụ tổ chức mối xung đột giữa vô số các hệ tư tưởng (“các điểm nhìn”, “các giọng
nói”, “các văn bản”) mâu thuẫn với nhau, không thể phân chia thành cấp độ, nhưng
bản thân anh ta không tham gia vào xung đột ấy, bởi vì anh ta đứng ngoài mọi hệ tư
tưởng, vô luận đó là tư tưởng như thế nào. Người viết kịch bản chỉ là người cáo giác
các hệ tư tưởng ấy theo kiểu carnival: Văn bản (phức điệu) không có hệ tư tưởng
riêng, vì nó không có chủ thể (tư tưởng hệ). Đó là một kiến tạo đặc biệt - là khu vực
mà các hệ tư tưởng khác nhau xông ra để vắt kiệt sức nhau trong một cuộc đối đầu.
Dù có những điểm khác nhau như đã chỉ ra ở trên, rõ ràng, cả tổ hợp tư tưởng
trong Những vấn đề thi pháp Dostoievski (thực chất là tác phẩm của M.Bakhtin nói
chung), lẫn tư tưởng hệ ở những công trình của Kristeva, như Bakhtin, Ngôn từ, Đối
thoại và tiểu thuyết, Một nền thi pháp học sụp đổ, đã vượt ra ngoài phạm vi của song
đề nền tảng - ra ngoài xung đột giữa nguyên tắc bản thể luận về sự thống nhất của
tồn tại và ý thức, ở phía này, và nhu cầu về tính đa trị thực thể luận, ở phía kia.
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình liên văn bản
1.2.4.1. Quan điểm thẩm mĩ của thời đại
Quan điểm thẩm mĩ của thời đại là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quá
trình sinh thành của tác phẩm, mà người ảnh hưởng trực tiếp là tác giả. Quan điểm
thẩm mĩ của thời đại được xem như là một định hướng cho người sáng tác, nó ảnh
hưởng đến số phận của tác phẩm sau khi sinh thành. Khi sáng tác, người nghệ sĩ cần
phải lấy đó làm căn cứ để sáng tác, bởi nếu tác phẩm không phù hợp với quan điểm
thẩm mĩ thì nó sẽ mang một số phận ngắn ngủi.
Mặt khác, để tạo ra tác phẩm tác giả tất yếu phải vận dụng vốn văn bản vô tận
của mình và kiến tạo cấu trúc ngữ nghĩa cùng với sự bổ trợ của chất liệu ngôn ngữ
được cất giữ trong văn bản, đó có thể là lời nói, câu văn, đoạn văn được vay mượn từ
tác phẩm của người khác, được nghe, đọc từ các kênh thông tin khác nhau… và mọi
văn bản đều là liên văn bản, mà văn bản là kí ức vô thức của văn hóa, theo đó văn
bản cũng chịu sự chi phối của quan điểm thẩm mĩ thời đại. Như vậy quan điểm thẩm

mĩ có vai trò quan trọng trong quá trình liên văn bản, hình thành tác phẩm. Trong văn

18


học dân gian, với tư duy đơn giản của nười xưa cùng với thuộc tính của nó (tính
truyền miệng, tính thực hành, tính dị bản…) mà quá trình đồng sáng tạo có thể được
coi như một dạng thức của quá trình liên văn bản. Trong Văn học trung đại, một trong
những đặc trưng của thi pháp Văn học trung đại là lệ cổ, ưa dùng điển cố, điển tích.
Chính bởi vậy khi sáng tác, họ có xu hướng trích dẫn, đưa vào tác phẩm của mình
những điển cố, điển tích hay câu văn câu thơ của các tác giả đi trước. Ví dụ trong
Truyện Kiều có viết “Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét
nhau” hay câu “Giữa đường đứt gánh tương tư/ Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
(điển tích keo loan). Trong văn học hiện đại ta cũng thấy quan điểm thẩm mĩ của thời
đại chi phối mạnh mẽ đến hoạt động sáng tác, quá trình liên văn bản (Ví dụ: Huy Cận
đã mượn câu thơ của Thôi Hiệu để diễn tả tâm trạng cô đơn, nhớ nhà và niềm hoài cổ
trước thực tại đất nước lúc bấy giờ trong bài Tràng Giang)…
Như vậy, có thể thấy, quan điểm thẩm mĩ của thời đại đã tác động trực tiếp đến
quá trình liên văn bản ở mọi cập độ ngữ nghĩa, mọi giai đoạn văn học.
1.2.4.2. Vốn sống, vốn văn hóa và ngôn ngữ của nhà văn
Bên cạnh quan điểm thẩm mĩ của thời đại, thì vốn sống, vốn văn hóa và ngôn
ngữ của nhà văn cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình liên văn
bản, đây là yếu tố nội tại bên trong nhà văn.
Nhà văn là người có vai trò tổ chức, nhào nặn văn bản thành tác phẩm, mà như
ta đã biết mọi văn bản đều là liên văn bản và văn bản là kí ức vô thức của văn hóa,
kinh nghiệm đọc và vốn văn hóa của nhà văn là có hạn nó chỉ cho phép nhà văn một
lãnh địa nào đó để thực hiện quá trình liên văn bản (trích dẫn, giễu nhại, pha trộn…).
Chính bởi vậy mà vốn sống, vốn văn hóa và vốn ngôn ngữ có ảnh hưởng trực tiếp
đến quá trình này. Một tác phẩm hay và có giá trị ít nhiều phụ thuộc vào vốn văn hóa
và vốn sống cũng như khả năng kiến tạo ngữ nghĩa của tác giả. Vốn văn hóa sâu, vốn

sống rộng, sự am hiểu ngôn ngữ sẽ làm nên một tác phẩm phong phú về mọi mặt.
Chẳng hạn, những tác giả người Hoa, chịu ảnh hưởng phương Tây, thường có một
thao tác chung là tìm cách khế hợp quan điểm dụng điển của Trung Hoa truyền thống
với quan điểm nghiên cứu liên văn bản hiện đại. Họ đưa ra các so sánh đối chiếu giữa

19


×