Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Từ vay mượn Anh - Mỹ trên một số báo mạng điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

NGUYỄN THU TRANG

TỪ VAY MƯỢN ANH - MỸ
TRÊN MỘT SỐ BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

HÀ NỘI - 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

NGUYỄN THU TRANG

TỪ VAY MƯỢN ANH - MỸ
TRÊN MỘT SỐ BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Người hướng dẫn khoa học:

TS. LÊ THỊ THÙY VINH

HÀ NỘI - 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1


1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
6. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 4
7. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 5
NỘI DUNG....................................................................................................... 6
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN .......................................................................... 6
1.1. Từ vay mượn .............................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm ................................................................................................ 6
1.1.2. Nguồn gốc ............................................................................................... 8
1.1.2.1. Những từ có nguồn gốc Hán Việt (từ mượn Hán) ............................... 8
1.1.2.2. Những từ có nguồn gốc từ Ấn - Âu ................................................... 10
1.1.3. Dạng thức vay mượn ............................................................................. 15
1.2. Báo mạng điện tử ..................................................................................... 16
1.2.1. Khái quát về báo mạng điện tử ............................................................. 16
1.2.2. Báo mạng điện tử ở Việt Nam .............................................................. 17
Chương 2. TỪ VAY MƯỢN ANH - MỸ VÀ MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG
CHUẨN HOÁ TRÊN MỘT SỐ BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ ......................... 23
2.1. Từ vay mượn Anh - Mỹ trên một số báo mạng điện tử ........................... 23
2.1.1. Vay mượn nguyên dạng của nguyên ngữ ............................................. 24
2.1.2. Xu hướng vay mượn bằng con đường phiên chuyển ............................ 36
2.1.3. Vay mượn theo hình thức dịch nghĩa .................................................... 39


2.1.4. Hiện tượng trộn mã, chuyển mã ............................................................ 41
2.2. Một số nhận xét về từ vay mượn Anh - Mỹ trên một số báo mạng điện tử
......................................................................................................................... 48
2.2.1. Nguyên nhân ra đời của từ vay mượn trên báo mạng điện tử............... 48

2.2.2. Ưu điểm và nhược điểm của từ vay mượn trên báo mạng điện tử ....... 49
2.3. Một số định hướng chuẩn hóa từ vay mượn Anh - Mỹ trên một số báo
mạng điện tử .................................................................................................... 51
2.3.1. Khái niệm về chuẩn và phi chuẩn ......................................................... 51
2.3.2. Khái niệm về chuẩn hóa ........................................................................ 54
2.3.3. Một số định hướng về chuẩn hóa từ vay mượn Anh - Mỹ trên báo mạng
điện tử .............................................................................................................. 55
KẾT LUẬN .................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Các ngôn ngữ của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc thường không tồn tại và
hoạt động tuyệt đối độc lập trong một cộng đồng, một dân tộc mà trong quá
trình tồn tại luôn có sự tiếp xúc lẫn nhau. Một trong các kết quả của sự tiếp
xúc này là sự giao thoa, vay mượn và đồng hóa các yếu tố giữa các ngôn ngữ.
Sự giao thoa ngôn ngữ xảy ra trên các mặt: ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp
trong đó từ vựng là bình diện thể hiện rõ nhất qua hiện tượng vay mượn từ.
Có thể nói, chưa bao giờ từ vay mượn Anh - Mỹ lại xuất hiện với mật độ dày
đặc trên các báo mạng điện tử của Việt Nam như hiện nay. Sự xuất hiện với
tần suất lớn của tiếng Anh - Mỹ phản ánh phần nào sự ảnh hưởng về văn hóa
Anh - Mỹ trong cộng đồng người Việt. Ở một mặt nào đó, điều này giúp
người Việt có thể rèn luyện được một ngoại ngữ thông dụng là tiếng Anh
nhưng mặt khác cũng có sự ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng một cách trong
sáng tiếng nói dân tộc.
Với ý nghĩa đó, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “Từ vay mượn
Anh - Mỹ trên một số báo mạng điện tử” nhằm đưa ra những hiện tượng vay
mượn từ vựng trên một số báo mạng điện tử, phân tích và lí giải trên bình
diện ngôn ngữ cũng như có những đánh giá và kiến giải cụ thể về việc sử

dụng từ vay mượn Anh - Mỹ. Đặc biệt chúng tôi cũng đề xuất một số định
hướng về sự chuẩn hóa từ vay mượn Anh - Mỹ trên một số báo mạng điện tử
nói riêng và đời sống giao tiếp hiện nay nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Trong các công trình về từ vựng tiếng Việt, từ vay mượn nói chung, từ
vay mượn gốc Ấn - Âu nói riêng đã được các nhà Việt ngữ học đề cập.
Đỗ Hữu Châu trong “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt” đã đưa ra các cách
thức vay mượn cụ thể và chỉ ra các nguồn vay mượn, từ đó khẳng định “vay

1


mượn vừa là một hiện tượng không tránh khỏi vừa là một biện pháp tích cực
làm phong phú thêm tiếng nói dân tộc.”
Nguyễn Thiện Giáp trong “Từ vựng học tiếng Việt” đã lí giải sự tiếp
xúc của tiếng Việt với các ngôn ngữ Ấn - Âu là do yếu tố lịch sử (vay mượn
tiếng Pháp) cũng như quan hệ ngoại giao (vay mượn tiếng Nga). Tác giả cũng
đã đưa ra một nhận xét quan trọng là tiếng Việt thường không tiếp nhận trực
tiếp các ngôn ngữ Ấn - Âu mà tiếp nhận gián tiếp qua tiếng Hán cũng như
nhấn mạnh dạng vay mượn sao phỏng là một công việc có tính chất sáng tạo
và dấu ấn bản ngữ rất rõ. Đồng thời Nguyễn Thiện Giáp đã đưa ra các mức độ
Việt hóa các từ ngoại lai gốc Ấn - Âu.
Đặc biệt trong công trình “Từ ngoại lai tiếng Việt”, Nguyễn Văn Khang
đã đề cập một cách có tính hệ thống về từ ngoại lai: khái niệm, các nguồn vay
mượn, các dạng thức vay mượn cũng như những đánh giá của tác giả về vấn
đề từ ngoại lai trong công cuộc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Gần đây, Nguyễn Văn Hiệp trong đề tài khoa học cấp Bộ “Một số vấn
đề mới trong phát triển và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” (2014) cũng
đề cập đến việc sử dụng tiếng Anh xen lẫn với tiếng Việt trên một số phương
tiện thông tin đại chúng và đưa ra kết luận “vẫn phải chấp nhận một số từ của

nước ngoài nhưng phải dựa trên cơ sở tiếp thu một cách có chọn lọc” “cần có
chính sách cụ thể cho giáo dục ngôn ngữ nói chung và ngoại ngữ nói riêng.
Theo đó, việc giải quyết mối quan hệ giữa giáo dục tiếng Việt với tiếng Anh
sẽ giúp người sử dụng vừa hiểu sâu, nắm chắc và sử dụng tốt tiếng Việt đồng
thời có được một ngôn ngữ công cụ là tiếng Anh để vươn ra thế giới”.
Cùng nói về thực trạng sử dụng từ vay mượn tiếng nước ngoài cụ thể là
tiếng Anh, hội nghị Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên các phương tiện
truyền thông do Đài tiếng nói Việt Nam, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Hội
nhà báo Việt Nam đồng tổ chức ngày 5/11/2016 vừa qua cũng đã đề cập một

2


cách cụ thể. Có thể kể đến một số báo cáo “Tiếng Anh và vấn đề phiên
chuyển tên riêng tiếng Anh sang tiếng Việt” (Mai Xuân Huy), “Hiện tượng
chuyển mã tiếng Anh vào tiếng Việt trong giao tiếp” (Lưu Quý Khương),
“Hiện tượng chuyển mã tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Việt” (Vũ Anh Thư),
“Đặc điểm của các từ tiếng Anh xuất hiện trên các trang quảng cáo của báo
điện tử” (Lê Thị Thùy Vinh),…
Các đề tài luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp cũng đã đề cập đến
vấn đề vay mượn từ vựng. Luận án của Nguyễn Thúy Nga “Language Contact
and English Borrowing in a Vietnamese Magazine for Teenager” bảo vệ ở
Đại học Queensland, Úc đã khảo sát các từ tiếng Anh được sử dụng chen với
tiếng Việt trên báo Hoa Học trò, một tờ báo được giới trẻ ưa thích hiện nay.
Trên cơ sở đó, chúng tôi nhận thấy vấn đề từ vay mượn tiếng Anh - Mỹ
trên một số báo mạng điện tử chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Vì
thế lựa chọn đề tài này, chúng tôi mong muốn đưa ra những nghiên cứu cụ thể
về các dạng thức vay mượn trên một số báo mạng điện tử, từ đó có những
đánh giá cần thiết về hiện tượng này cũng như đặt vấn đề xem xét để chuẩn
hóa từ vay mượn Anh - Mỹ nói riêng và từ vay mượn nói chung.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài thống kê và tìm hiểu việc sử dụng từ vay mượn Anh - Mỹ trên
một số báo mạng điện tử hiện nay. Từ đó có những đánh giá cần thiết và sự
chuẩn hóa từ vay mượn Anh - Mỹ trên một số báo mạng điện tử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận về khái niệm, nguồn gốc, các dạng thức và chuẩn
hóa của từ vay mượn Anh - Mỹ trên một số báo mạng điện tử.
- Tiến hành thống kê, phân loại các từ vay mượn Anh - Mỹ trên một số
báo mạng điện tử.

3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài xem xét việc sử dụng từ vay mượn Anh - Mỹ trên một số báo
mạng điện tử thông dụng ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ xem xét vấn đề sử dụng từ vay mượn Anh - Mỹ trên một số
trang báo mạng điện tử như: Dân trí (), Hoa học trò
(), Vietnamnet (), Guu (),
Zing.vn (), Báomới.com (), 2sao
(),... bởi đây là những trang báo mạng điện tử thu hút số lượng
lớn cư dân mạng với vai trò là các độc giả.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại để tập hợp những từ vay mượn Anh
- Mỹ trên một số báo mạng điện tử.

- Phương pháp hệ thống, khái quát hóa để khái quát các hiện tượng vay
mượn từ vựng Anh - Mỹ; khái quát các từ vay mượn Anh - Mỹ trên một số
báo mạng điện tử hiện nay.
- Thủ pháp phân tích để phân tích cách dùng từ vay mượn trên bình
diện ngôn ngữ.
6. Đóng góp của khóa luận
6.1. Về mặt lí luận
Khóa luận góp phần làm rõ bản chất từ vay mượn nói chung và từ vay
mượn Anh - Mỹ nói riêng trên một số báo mạng điện tử.

4


6.2. Về mặt thực tiễn
Khóa luận có giá trị thực tiễn trong quá trình xem xét thực trạng sử
dụng từ vay mượn Anh - Mỹ trên một số báo mạng điện tử hiện nay ở Việt
Nam từ đó có những đánh giá và định hướng cần thiết.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận được cấu trúc làm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Từ vay mượn Anh - Mỹ và một số định hướng chuẩn hoá
trên một số báo mạng điện tử

5


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1. Từ vay mượn
1.1.1. Khái niệm
Xung quanh việc sử dụng thuật ngữ “từ vay mượn” còn có nhiều ý kiến
khác nhau. Trong tiếng Anh người ta sử dụng một số thuật ngữ để chỉ từ vay
mượn như sau:
Loan: chỉ đơn vị từ vựng đến từ ngôn ngữ hay phương ngữ khác, được
ngôn ngữ đi vay sử dụng. Tiếng Việt tương đương: từ mượn, từ ngoại lai.
Loan word: chỉ các đơn vị từ vựng đến từ phương ngữ hay ngôn ngữ
khác, được ngôn ngữ đi vay sử dụng thông qua thủ pháp dịch âm, phỏng dịch.
Tiếng Việt tương đương: từ ngoại lai.
Loan translation / calque: chỉ các đơn vị từ vựng đến từ ngôn ngữ hay
phương ngữ khác, được ngôn ngữ đi vay sử dụng thông qua thủ pháp dịch,
phỏng dịch. Tiếng Việt tương đương: phỏng dịch, dịch, can-ke ngữ nghĩa.
Loan brends: chỉ các đơn vị từ vựng được mượn từ ngôn ngữ hay
phương ngữ khác bằng phương thức pha tạp giữa một phần ngữ âm mượn và
một phần ngữ âm của ngôn ngữ đi vay. Tiếng Việt tương đương: từ hỗn hợp
ngoại lai.
Borrowed/ borrowing word: chỉ các đơn vị từ vựng được mượn từ ngôn
ngữ khác, bất kể là đã đồng hóa hay chưa đồng hóa về hình thức hay nội dung
(tức là còn nguyên dạng hay đã thay đổi ít nhiều). Tiếng Việt tương đương: từ
mượn, từ vay mượn.
Hybrid word: chỉ các đơn vị từ vựng phức hợp được cấu tạo từ các
thành phần có nguồn gốc từ ngôn ngữ cho vay và ngôn ngữ đi vay. Tiếng Việt
tương đương: từ hỗn chủng, từ hỗn huyết.

6


Foreign word: chỉ các đơn vị từ vựng đến từ ngôn ngữ khác. Tiếng
Việt tương đương: từ ngoại quốc, từ nước ngoài.

Tuy nhiên, cách dùng phổ biến, thông dụng hiện nay vẫn là borrowed
word, loan word. Trong tiếng Việt hiện nay đang sử dụng ba cách gọi tương
ứng là từ vay mượn, từ mượn và từ ngoại lai. Trong đó, cách gọi từ vay mượn
vẫn được dùng nhiều hơn cả.
Ở cách hiểu rộng, các nhà nghiên cứu cho rằng tất cả các đơn vị từ vay
mượn được cấu tạo trong quá trình vay mượn đều là các từ ngữ vay mượn.
Nguyễn Thiện Giáp quan niệm: “Từ ngoại lai là những từ mà tiếng Việt
tiếp nhận của các ngôn ngữ khác cả về nội dung và hình thức”.
Đỗ Hữu Châu cũng chỉ ra các cách thức vay mượn như giữ nguyên
hình thức vay mượn của từ nước ngoài, dịch ý và sao phỏng. Nguyễn Văn
Khang cũng tổng hợp khá kỹ càng cách xử lý các từ ngoại lai xuất hiện trong
tiếng Việt với một số kiểu sử dụng Hán Việt, dịch ra tiếng Việt, phiên và viết
theo nguyên dạng.
Theo chúng tôi, đây là một quan điểm rộng khá mềm dẻo của các nhà
nghiên cứu. Từ cách nhìn này, có thể coi những từ ngữ mượn cả âm lẫn nghĩa
là những từ vay mượn tiêu biểu còn những từ được tạo ra nhờ cách thức phiên
âm hay ghép lại là những từ nằm ở vùng ngoại vi. Trái lại, có quan niệm rất
hẹp khi cho rằng chỉ có những từ ngữ mượn cả âm và nghĩa mới là những từ
ngữ vay mượn của tiếng Việt. Điều này có nghĩa là chỉ có những từ ngữ nằm
ở vùng trung tâm mới là những từ vay mượn.
Trên cơ sở một số ý kiến của các nhà nghiên cứu, chúng tôi quan niệm
từ vay mượn trong tiếng Việt là những từ có nguồn gốc từ nước ngoài (Hán,
Pháp, Anh, Đức,…) được sử dụng trong tiếng Việt, tồn tại ở ba dạng: nguyên
dạng, phiên chuyển và dịch nghĩa.

7


1.1.2. Nguồn gốc
Xét về nguồn gốc, các từ vay mượn trong tiếng Việt về cơ bản có thể ra

hai nguồn chính: những từ có nguồn gốc Hán Việt (từ mượn Hán) và những
từ có nguồn gốc từ Ấn - Âu.
1.1.2.1. Những từ có nguồn gốc Hán (từ mượn Hán)
Từ Hán Việt là những từ tiếng Việt vay mượn của tiếng Hán. Những từ
này đã được Việt hóa trong cách phát âm cho phù hợp với hệ thống ngữ âm
của tiếng Việt. Từ góc độ cội nguồn có thể thấy, các từ mượn Hán trong tiếng
Việt có thể là những từ gốc Hán đích thực và một loại là các từ vay mượn từ
tiếng Hán nhưng chúng có nguồn gốc từ ngôn ngữ khác. Trong cuốn “Từ
ngoại lai trong tiếng Việt”, Nguyễn Văn Khang cho rằng:
- Những từ Hán có nguồn gốc đích thực là Hán, đó là những từ thuần Hán.
Ví dụ: chế độ, chính thống, triều đình, tiến sĩ, xung đột, cảnh giới, ân xá,…
- Những từ mượn Hán vốn không phải là những từ thuần Hán mà có
nguồn gốc từ ngôn ngữ khác. Hay nói cách khác, đó là những từ tiếng Hán du
nhập từ ngôn ngữ khác. Chẳng hạn:
Những từ mượn từ gốc Phạn qua tiếng Hán: ni cô, thích ca, di lặc,…
Những từ mượn từ tiếng Nhật qua tiếng Hán: tư tưởng, trường hợp,
điều chế, đại bản doanh, phục tòng, phục vụ, thủ tục, kinh tế, biện chứng
pháp, mĩ thuật, cộng hòa, cá biệt, khái quát, nghĩa vụ,…
Những từ có nguồn gốc từ các ngôn ngữ Ấn - Âu. Ví dụ: dưỡng khí,
thán khí, lưu huỳnh, sa hoàng,…
Những từ mà một số tác giả không ngờ rằng chỉ có vỏ ngữ âm Hán Việt
còn nội dung thì không mang đặc trưng Hán. Ví dụ: tượng, ác, trúc, mộng,…
Do đó, ta có thể đối chiếu cách đọc một số từ theo âm Hán (đời Đường)
và âm Hán Việt (đã được Việt Hóa) như sau (đối chiếu theo chiều dọc):
Âm Hán: tung, xung, cung, xúng, phâng,…

8


Âm Hán Việt: đông, tống, cung, hùng, phong,…

Từ Hán Việt chiếm tỉ lệ khá cao trong từ vựng tiếng Việt và có tần số
xuất hiện rất lớn trong thực tiễn ngôn ngữ, nhất là trong các văn bản viết. Vì
vậy, từ Hán Việt có vị trí, vai trò rất quan trọng trong tiếng Việt.
Trong tiếng Việt, từ Hán Việt được sử dụng khá rộng rãi, phổ biến
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Một số ví dụ:
Lĩnh vực chính trị: chế độ, pháp luật, quốc hội, chính phủ, cương lĩnh,
chính sách,…
Lĩnh vực quân sự: chiến trường, trận địa, cảnh giới, án ngữ, chỉ huy,
tiểu đội, đại đội,…
Lĩnh vực tư pháp: nguyên cáo, bị cáo, tố cáo, tố tụng, xử lí, thẩm phán,
công tố viên, áp giải, ân xá,…
Lĩnh vực văn hóa, giáo dục: học tập, thí sinh, giám khảo, giám thị,
phúc khảo, lưu ban, đạo diễn, diễn viên, nhạc công,…
Về nghĩa, từ Hán Việt (đa số là từ ghép) và các thành ngữ Hán Việt
thường được hình thành theo phương thức hợp kết, hợp nghĩa và có thể “chiết
tự” (tách nghĩa của từng tiếng trong từ ghép, thành ngữ) để hiểu rõ nghĩa của
từng từ ghép, thành ngữ này. Một số ví dụ:
giang sơn: giang là sông, sơn là núi.
phi cơ: phi là bay, cơ là máy.
hải phận: hải là biển, phận là vùng, khu vực.
thí sinh: thí là thi, sinh là học trò.
lưu ban: lưu là ở lại, ban là lớp.
thập tử nhất sinh: thập là mười, tử là chết, nhất là một, sinh là sống.
Tuy nhiên, chỉ có thể dùng biện pháp “chiết tự” khi nghĩa gốc của từng
hình vị Hán Việt trong từ ghép đó còn rõ ràng. Còn đối với trường hợp các từ
ghép Hán Việt mà nghĩa gốc của các hình vị Hán Việt trong từ ghép bị mờ đi,

9



không rõ ràng, không dễ nhận biết (ví dụ: tần tảo, náo nhiệt, cường điệu, giai
thoại,…) hoặc đối với những từ mà nghĩa gốc của các hình vị không giúp ta
hiểu đúng, hiểu chính xác nghĩa chung của cả từ ghép thì không nên dùng
biện pháp “chiết tự” để tìm hiểu nghĩa của từ ghép Hán Việt.
Ví dụ:
gia nhân: người làm, người giúp việc trong nhà, chứ không phải là
“người nhà” (gia: nhà; nhân: người)
du kích: một lối đánh dùng lực lượng nhỏ và có chiến thuật linh hoạt
chứ không phải “đánh chơi” (du: chơi; kích: đánh)
Các từ mượn Hán mang vào trong tiếng Việt các nét đặc trưng của nền
văn hóa, văn minh Trung Hoa như: triết học phương Đông, Nho học, các
thành tựu của khoa học về toán học, thời tiết, khí tượng thủy văn, các hệ
thống tổ chức hành chính từ Nhà nước đến cơ sở, các chiến thuật quân sự
(binh pháp), các khái niệm văn chương (thi pháp)… Cùng với đó, các từ
mượn Hán còn là chiếc cầu nối chuyển tải các tri thức, văn minh Tây phương
vào tiếng Việt.
1.1.2.2. Những từ có nguồn gốc từ Ấn - Âu
a. Từ vay mượn Pháp
Các từ mượn Pháp trong tiếng Việt tuy có ít hơn về số lượng và du
nhập ở giai đoạn sau (so với tiếng Hán) nhưng cũng đã và đang góp một vai
trò đáng kể trong vốn từ vựng tiếng Việt. Tác giả Nguyễn Thiện Giáp coi đây
là hiện tượng “tiếp nhận cả về hình thức lẫn ý nghĩa của từ của các ngôn ngữ
Ấn - Âu trong tiếng Việt”, khác với từ ngữ có tính chất sao phỏng.
Theo Nguyễn Văn Khang, hiện nay, tồn tại hai khái niệm “từ gốc
Pháp” và “từ mượn Pháp” để chỉ các từ mượn tiếng Pháp. Tuy nhiên, nhìn
một cách tổng quan thì các khái niệm này đều bao chứa các nội dung sau:
1/ Mượn bằng con đường phiên chuyển.

10



Ví dụ: xắc-cốt / xà-cột (sacoche), xốt-vang (sauce au vin), áp-phe
(affaire), xiếc (cirque),…
2/ Mượn bằng con đường dịch sang tiếng Việt.
Ví dụ: đường sắt (chemin de fer), phớt ăng-lê / phớt tỉnh ăng-lê (Le
flegme d’anglais), giết thì giờ (tuer le temps), từ A đến Z (de A à Z),…
3/ Mượn trực tiếp từ tiếng Pháp nhưng nguồn gốc chưa chắc đã phải là
tiếng Pháp.
Ví dụ: từ bốc, tiu không phải là mượn trực tiếp từ tiếng Pháp mà bắt
đầu từ tiếng Anh sau đó qua tiếng Pháp rồi mới đến tiếng Việt (box
nguồn gốc từ tiếng Anh như: stater, chefque, ballast, wagon, rail, cow-boy,
meeting,… và các từ mượn tiếng Pháp có nguồn gốc từ tiếng Đức: cric, biè,
blockhaus, bock,…
4/ Mượn bằng cách thông qua cách đọc Hán Việt để mượn lại theo cách
mượn của tiếng Hán.
Ví dụ: franc < Phật-la / Phật-lăng
yên sĩ phi lí thuần < inspiration.
5/ Mượn nguyên dạng cách viết, còn đọc thì “để ngỏ”. Cách mượn này
thường xuất hiện trong một số tác phẩm văn học, thường là lời trích một phát
ngôn của một nhân vật nào đó.
Ví dụ:
“Nhưng mà anh có “rendez vous” thì phải?” (Khái Hưng, Băn Khoăn,
tr.181)
“Giải nhé? Toàn thể quẻ này thì tốt, và quẻ đã hiện ngay ra từ đầu, vì
có lần thứ nhất ông đã bắt ngay được neuf de coeur. Màu coeur là màu tốt mà
neuf de coeur là hòa mục, là concord, một là hòa mục trong gia đình hai là…
hòa mục trong tình ái.” (Khái Hưng, Băn khoăn, tr. 252).

11



6/ Các từ mượn Pháp trong tiếng Việt có thể coi là kết quả của quá
trình Việt hóa không chỉ các từ mà còn cả các cụm từ của tiếng Pháp. Hay nói
cách khác, bên cạnh số lượng lớn các từ của tiếng Pháp được nhập vào tiếng
Việt và trở thành từ của tiếng Việt thì có một số ít các từ mượn Pháp được
hình thành bằng cách “cấu tạo lại” từ các ngữ của tiếng Pháp.
Ví dụ:
Ca-la-đi-nơ (grenadine), ghi-đông (guidon), ghi-ta (guitar), ăng-ga
(hangar), ríp-phê (grippé), gơn-đờ-lu (gueule de loup),…
Các từ mượn Pháp chủ yếu thuộc các lĩnh vực:
- Các từ mượn Pháp liên quan đến trang phục, trang điểm: ba-đơ-suy
(pardessus), bành-tô (paletot), bê-rê (béret), bi-ki-ni (bikini), may-ô (maillot),
mùi xoa (muochoir), phớt (flegme), pi-ja-ma (pyjama), sa-tanh / xa-tanh
(satin), sơ-mi (chemise), vét-tông (veston), vét / véc (veste), voan (voile),…
- Các từ mượn Pháp liên quan đến đơn vị đo: gam / gram (gramme),
héc-ta (hectare), jun (joule), ki-lô-mét (kilometer), ki-lô-gam (kilograme), lít
(littre), mét (mètre), oát (watt), vôn (volt),…
- Các từ mượn Pháp liên quan đến xây dựng, nhà cửa: ban-công
(balcon), bê-tông (beton), cốp-pha (coffrange), đi-văng (divan), ki-ốt
(kiosque), tắc-te (stater), toa-lét (toilette), véc-ni (vernis),…
- Các từ mượn Pháp liên quan đến đời sống văn hóa, tinh thần như nghệ
thuật, âm nhạc, giải trí: đăng-xinh (dancing), ghi-ta (guitar), gia (jazz), oócgan (organe), ô-pê-ra (opéra), tăng-gô (tango), van (valse), xiếc (cirque),…
- Các từ mượn Pháp liên quan đến đời sống ẩm thực: bít-tết (bifteck),
ca-cao (cacao), cà-rốt (carotte), sô-đa (soda),…
- Các từ mượn Pháp liên quan đến phương tiện giao thông, thiết bị:
poóc-ba-ga (porte-bagages), bu-gi (bougie), bu-lông (boulon), ca (autocar),
ca-bin (cabine), cam-nhông (camion), gác-đờ-bu (garde-boue), gác-đơ-sen

12



(garde-chaine), ghi-đông (guidon), goòng (wagonnet), líp (roue libre), mô-tơ
(moteur),…
- Các từ mượn Pháp liên quan đến in ấn - thông tin: am-pli / am-li
(amplificateur), áp-phích (affiche), ca-nông (canon), ốp-xét (offset),…
- Các từ mượn Pháp liên quan đến chiến tranh: ba-lô (ballot), bom
(bombe), bốt / bót (poste), cát-tút (cartouche), lô-cốt (blockhaus), [xe] tăng
(tank), [giày] xăng-đá (soldat),…
- Các từ mượn pháp liên quan đến chức vụ hành chính thời Pháp: ách
(adjudant), cò (commissaire de police), cu-lít (coolie), lê-dương (légion),
long-toong (planton), sếp (chef),…
- Các từ mượn Pháp liên quan đến giáo dục: bờ-rô-phét-sơ (professeur), com-pa
(compass), cóp / cóp-pi (copier), đúp (redoubler), ê-ke (équerre), phốt (faute),…
- Các từ mượn Pháp liên quan đến y học: a-xê-tôn (acétone), a-mi-đan
(amydal), a-xít (acide), băng (bande), bờ-lu / blu (blouse), đốc-tờ (docteur),…
- Các từ mượn Pháp liên quan đến hóa học: các-bon (carbone), các-bôníc (carbonique), sun-phát (sulfate), hy-drô (hydrogel),…
Cũng theo Nguyễn Văn Khang, các từ mượn Pháp đều là những từ
mang những khái niệm mới được xuất hiện lần đầu trong tiếng Việt. Vì là
những khái niệm mới cho nên trong nhiều trường hợp các từ xuất hiện theo
kiểu “kéo theo”. Ví dụ, khi chiếc xe đạp xuất hiện thì sẽ kéo theo các phụ
tùng xe đạp xuất hiện, khi các món ăn Âu xuất hiện thì cũng sẽ kéo theo cả
dụng cụ, thực phẩm cho món ăn đó. Tất nhiên, theo đó là tất cả các từ chỉ các
khái niệm này được du nhập vào tiếng Việt. Hiện nay, qua thời gian sử dụng
một số từ đã có từ Việt tương đương, tạo thành cặp song tồn giữa từ Việt và
từ mượn phỏng âm (ví dụ: đăng-xinh: nhảy / khiêu vũ, poóc-ba-ga: cái đèo
hàng, xăng-đá: lính, xi-nhan: tín hiệu,…). Một số từ khác vẫn giữ giá trị “độc
tôn”, tức là chưa có từ Việt thay thế hoặc tương đương (ví dụ: cùi-dìa, dăm-

13



bông, đi-ốt, sốt-vang, tem,… Đáng chú ý là, nếu như trước những năm 90 của
thế kỉ XX, các từ mượn Pháp có vị trí khá ổn định về cả cách dùng và cách
viết trong tiếng Việt thì sau đó, nhất là những năm cuối của thập kỉ 90 tới
ngày nay đã có sự chuyển biến mạnh bằng sự thay thế một số từ mượn Pháp
bằng các từ tiếng Anh tương đương (ví dụ: scandal, acid mà không phải là
scandale, acide,…).
b. Từ vay mượn Anh - Mỹ
Tác giả Nguyễn Văn Khang trong cuốn “Từ ngoại lai trong tiếng Việt”
cho rằng các từ vay mượn Anh - Mỹ trong tiếng Việt tuy còn ở số lượng
khiêm tốn nhưng đang có xu hướng tăng lên. Ở Việt Nam, trước giai đoạn
1954 - 1975 rất có thể đã có sự tiếp xúc song ngữ giữa tiếng Anh và tiếng
Việt nhưng lẻ tẻ. Chẳng hạn, thời kì thực dân pháp ở Việt Nam đã có sự xuất
hiện của người Mỹ và nhất là ở giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp đã có sự xuất hiện của binh lính Mỹ tham gia chiến tranh giúp
Pháp. Ở một số tỉnh Nam Bộ thời đó đã xuất hiện các ấn phẩm từ sách báo,
phim ảnh đến hàng hóa bằng tiếng Anh. Cùng với đó là việc đưa tiếng Anh
vào giảng dạy trong trường học. Việc một số người làm thông ngôn tiếng
Pháp chuyển sang học tiếng Anh để làm việc cho Mỹ cho thấy vai trò của
tiếng Anh ở Việt Nam đã được bắt đầu.
Đến giai đoạn từ sau 1954 đến 1975 sự tiếp xúc Anh - Việt đã trở nên
chính thức, rộng rãi tại miền Nam Việt Nam - thời kì Mỹ Ngụy. Đây cũng
chính là thời kì hình thành và tồn tại Vietnam pidgin. Tuy nhiên, số lượng từ
Anh được Việt hóa không nhiều, chủ yếu là các thuộc từ thể thao và nếu có
thì chủ yếu xuất hiện dưới dạng khẩu ngữ. Chẳng hạn, ngoại trừ từ cao - bồi
(cowboy) được Việt hóa “trọn vẹn” cả ở nói lẫn viết, còn lại các từ khác hầu
như đều xuất hiện ở dạng nói. Ví dụ:
one, two, three: oẳn tù tì / oản tù tì
ball: banh, golf: gôn (chơi gôn, đánh gôn)


14


boxing: bốc (đánh bốc, đấm bốc)
penanlty: pê-nan-ti
Đáng kể nhất là sự xuất hiện của các từ Anh - Mỹ trong tiếng Việt dưới
tác động của công cuộc đổi mới của xã hội Việt Nam. Có thể nói, đổi mới như
một luồng gió mạnh thổi vào xã hội Việt Nam trước hết là kinh tế và theo đó
là hàng loạt các lĩnh vực của đời sống, trong đó có ngôn ngữ. Bối cảnh mở
cửa ra thế giới, giao lưu, hội nhập với thế giới và sự phát triển như vũ bão của
khoa học công nghệ trong đó có tin học đã tạo nên một lớp từ chung là lớp từ
vựng quốc tế. Trong bối cảnh đó, người sử dụng ngôn ngữ ở từng quốc gia,
dân tộc buộc phải tìm đến một sự lựa chọn: dịch sang ngôn ngữ của mình hay
để nguyên dạng hay sao phỏng âm thanh (phiên âm)? Các từ Anh - Mỹ xuất
hiện trong tiếng Việt hiện nay cũng đang đứng trước những sự lựa chọn như
vậy của người sử dụng. Đó cũng là cái lẽ để giải thích vì sao có sự thiếu nhất
quán nghiêm trọng trong việc xử lí các từ nước ngoài hiện nay ở Việt Nam
(mà chủ yếu là tiếng Anh) trong các sách báo, tác phẩm, trên các phương tiện
thông tin đại chúng (như phát thanh, truyền hình,…)
Như vậy, có thể khẳng định rằng tiếp xúc ngôn ngữ chính là nguồn gốc
sâu xa của vay mượn từ vựng và các từ mượn trong tiếng Việt là các từ có
nguồn gốc trực tiếp từ các từ Hán, Pháp, Anh - Mỹ.
1.1.3. Dạng thức vay mượn
Theo tác giả Nguyễn Văn Khang, có bốn dạng thức vay mượn từ vựng:
- Dịch nghĩa (canke ngữ nghĩa): là phương thức dịch từ ngữ. Cách làm
này cho thấy chỉ có nội dung (ngữ nghĩa) là được vay mượn, còn toàn bộ hình
thức bao gồm ngữ âm, chữ viết, hình thái cấu trúc là của ngôn ngữ đi vay.
- Phiên âm: là phương thức vay mượn từ vựng bằng cách dựa trên
(phỏng theo) âm đọc của từ ngữ cho vay để ghi lại từ ngữ đó bằng cách đọc,

cách viết của ngôn ngữ đi vay.

15


- Chuyển tự: là phương thức được thực hiện giữa các ngôn ngữ không
cùng hệ văn tự.
- Mượn nguyên dạng của nguyên ngữ: (được thể hiện ở hình thức chữ
viết) sử dụng nguyên cách viết chính tả đơn vị từ vựng của ngôn ngữ đi vay.
Còn cách đọc thì cố gắng đọc sát với cách đọc của nguyên ngữ.
Tuy nhiên, với đề tài “Từ vay mượn Anh - Mỹ trên một số báo mạng
điện tử”, chúng tôi chỉ xét trên ba dạng thức vay mượn đó là: vay mượn
nguyên dạng, vay mượn theo hình thức phiên chuyển, vay mượn theo hình
thức dịch nghĩa.
1.2. Báo mạng điện tử
1.2.1. Khái quát về báo mạng điện tử
Hiện nay việc sử dụng thuật ngữ định danh loại hình báo chí mà thông
tin được truyền tải và tiếp nhận qua mạng internet vẫn chưa thống nhất và là
vấn đề đang được tranh cãi.
Trên thế giới, loại hình này có nhiều tên gọi khác nhau như: online
newpaper (báo chí trực tuyến), e-journal (electronic journal - báo chí điện tử),
e-zine (electronic magazine - tạp chí điện tử)… Ở Việt Nam, thuật ngữ báo
mạng điện tử được sử dụng khá phổ biến, chẳng hạn như báo nhân dân điện
tử, lao động điện tử… Ngoài ra còn có nhiều người gọi chúng bằng cái tên
khác như: báo mạng, báo chí internet, báo trực tuyến…
Điều 3, luật báo chí (luật báo chí năm 1989 được sửa đổi, bổ sung tại
kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa X) quy định: “Báo điện tử là loại hình báo chí
được thực hiện trên mạng thông tin máy tính”. Cách hiểu này đã dẫn đến sự
xuất hiện các “báo điện tử” đối với các tờ báo đưa tin lên mạng internet như
Nhân Dân, Lao động, thời báo kinh tế Sài Gòn,… hay các trang thông tin của

các nhà cung cấp thông tin trên mạng internet như tin nhanh Việt Nam
(VnExpress) của FPT, VASC ORIENT của công ty phát triển phần mềm
VASC - hiện nay là VietNamNet, VDC Media của công ty điện toán và

16


truyền số liệu VDC… Và cũng từ cách gọi này mà văn bản pháp lý của Bộ
Văn hóa - Thông tin cấp cho các báo trực tuyến đầu tiên ở Việt Nam gọi là
“giấy phép hoạt động báo điện tử”.
Mạng thông tin toàn cầu (Internet) là một trong những phát minh lớn
nhất trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã và đang phát triển mạnh mẽ, rộng
khắp, tác động nhiều mặt đến đời sống xã hội của nhân loại. Khái niệm trực
tuyến được nhắc đến trong những năm 70 của thế kỉ XX để chỉ các dịch vụ
cung cấp thông tin qua đường điện thoại hoặc tín hiệu vô tuyến điện là
teletext và video text. Teletext ra đời trước và tiếp theo đó là sự ra đời của
video text - đây là một bước phát triển của công nghệ teletext. Nó cho phép
xem văn bản, hình ảnh trên màn hình ti vi hoặc vi tính. Thông tin được truyền
tải và thu nhận qua đường điện thoại, cáp, qua mạng vi tính. Video text là tiền
thân của công nghệ world wide web (www) là linh hồn của báo chí trực tuyến
(báo mạng điện tử) sau này.
Năm 1995, nhà cung cấp dịch vụ mạng ở Mỹ là Prodigy đã thực hiện
bước đột phá vào lĩnh vực này khi tung ra thị trường dịch vụ www. Lập tức,
một loạt các tờ báo lớn của Mỹ đã xây dựng website của riêng mình trên
mạng như Los Angeles Times, USA ToDay, New York Newsday, San Joes,
Chicago Tribune… Cũng trong năm này, 11 tờ báo khác của châu Á cũng
xuất hiện trên mạng internet như China daily (Trung Quốc), Utusan
(Malaisia), Asahi Simbun (Nhật Bản)…
Đến nay, với sự phát triển như vũ bão về công nghệ cũng như sự lớn
mạnh của các tờ báo, nhu cầu vô cùng của công chúng thì thật khó để có thể

thống kê hết các tờ báo mạng điện tử trên thế giới người ta ước tính rằng mỗi
tháng có hàng triệu thành viên mới trên mạng toàn cầu và nhất là khi blog xuất
hiện. Có thể nói thế giới truyền thông đang sôi động, phong phú hơn bao giờ hết.
1.2.2. Báo mạng điện tử ở Việt Nam

17


1.2.2.1. Khái niệm
“Báo mạng điện tử là một loại hình báo chí được xây dựng dưới hình
thức của một trang web và phát hành trên mạng internet với các đặc trưng
riêng biệt, đó là tính đa phương tiện, tính tương tác cao, tính tức thời, phi định
kỳ, khả năng truyền tải thông tin không hạn chế, với các lưu trữ thông tin
dưới dạng siêu văn bản, khả năng liên kết. Báo mạng điện tử có hình thức của
một trang thông tin điện tử, được thiết lập và hoạt động theo quy định của
pháp luật về báo chí.
Báo mạng điện tử là một loại hình báo chí mới, có khả năng cung cấp
thông tin sống động bằng chữ viết và âm thanh chỉ trong vài phút đến vài
giây, với số trang không hạn chế. Báo mạng điện tử là hình thức báo chí được
sinh ra từ sự kết hợp những ưu thế của báo in, báo nói, báo hình, sử dụng yếu
tố công nghệ cao như một nhân tố quyết định, quy trình sản xuất và truyền tải
thông tin dựa trên nền tảng mạng Internet toàn cầu.” (Hoạt động tương tác
trên báo mạng điện tử - Nguyễn Quang Huy)
1.2.2.2. Đặc điểm của báo mạng điện tử
a. Ưu điểm của báo mạng điện tử
Tính không giới hạn: Báo mạng điện tử có ưu điểm nổi bật là khả năng
truyền tải thông tin vô biên giới. Với mạng Internet World Wide Web, thông
tin có thể truyền tải đi khắp toàn cầu. Đồng thời, với một biểu thông tin trên
Internet, người dùng có thể tự do khám phá nó nhờ các siêu liện kết. Nó đã
kích thích trí tò mò, sự ham hiểu biết cái mới của con người.

Tính thời sự: Thông tin trên mạng Internet nói chung và trên báo mạng
điện tử nói riêng có tính thời sự rất cao. Thông tin được truyền tải tức thời,
gần như ngay lập tức và biết tin sớm nhất từ những khoảng cách xa nhất. Mọi
thông tin từ khi thu thập đến khi phát hành được diễn ra trong khoảng thời
gian ngắn hơn nhiều so với báo in. Chính khả năng này làm cho thông tin trên

18


báo mạng điện tử luôn sống từng ngày, từng giờ, thậm chí có khi từng phút.
Hơn nữa, báo mạng điện tử có ưu điểm là khả năng xã hội hóa các sản phẩm
đơn lẻ. Việc cập nhật theo từng trang tin, chuyên mục có thể được thực hiện
bất cứ lúc nào chứ không như các loại hình báo chí khác phải chờ đầy đủ các
tin, bài mới lên khuôn in hay lên chương trình phát sóng.
Tính tích hợp: vì là một dịch vụ trên Internet nên báo chí xuất bản trên
mạng Internet hội tụ đầy đủ các ưu thế của một mạng máy tính. Tờ báo có thể
cung cấp một ngôn ngữ truyền tải mới lạ hấp dẫn dưới dạng thông tin đa
phương tiện. Đó là khả năng kết hợp giữa ngôn ngữ chữ viết, hình ảnh và âm
thanh sống động vào trang báo. Nói cách khác, đây là sự tổng hợp của báo in,
báo hình và báo nói.
Tính hệ thống: Báo mạng điện tử có thế mạnh hơn báo in ở chỗ lưu giữ
thông tin một cách có hệ thống. Báo mạng điện tử cho phép độc giả tìm kiếm
thông tin theo chủ đề, theo thời gian rất tiện lợi so với việc phải vào thư viện
tìm số báo đã ra cách đây nhiều năm về một chủ đề nào đó. Báo mạng điện tử
khai thác gần như miễn phí mọi nguồn tin từ báo chí, từ Internet và chọn lọc
những thông tin hấp dẫn nhất tung lên mạng trong một thời gian rất nhanh,
chỉ sau khi báo in phát hành.
Tính tương tác: Khả năng giao lưu, tương tác giữa độc giả và tòa soạn
cũng như tác giả của chính bài báo đó cũng là ưu điểm nổi bật của báo mạng
điện tử. Báo mạng điện tử cho phép người sử dụng phản hồi thông tin đến tòa

soạn báo một cách nhanh chóng, thuận tiện và bằng các phương tiện dễ dàng
như email hay chatting. Khi làm báo truyền thống, muốn biết phản hồi từ độc
giả, khán giả để cải tiến nội dung, phương thức đưa tin thì chỉ có cách duy
nhất là phải tổ chức các cuộc điều tra dư luận. Các cuộc điều tra này phải cần
thời gian dài trong khi đó độ chính xác lại không cao. Tuy nhiên, với báo
mạng điện tử thì độ chính xác lên tới 100%. Do vậy, báo mạng điện tử với

19


công nghệ hiện đại, cung cấp các công cụ điều tra bạn đọc một cách khách
quan, nhanh chóng và chính xác.
Tính kinh tế: Việc xuất bản báo chí trên mạng Internet mang tính kinh
tế. Báo mạng điện tử không có trọng lượng, không bị phụ thuộc vào khoảng
cách địa lí, và không hạn chế số trang. Mặc dù với khối lượng thông tin hết
sức đồ sộ nhưng báo mạng điện tử lại không tốn chi phí cho việc in ấn, phát
hành và chỉ cần một bản duy nhất cho hàng trăm triệu độc giả.
* Ưu thế của báo mạng điện tử so với các loại hình báo chí khác
Xét về nội dung, báo mạng điện tử có những lợi thế vượt trội so với báo
in, thậm chí cả phát thanh - truyền hình là dung lượng thông tin không giới
hạn, là sự cập nhật liên tục.
Về công nghệ, báo mạng điện tử có thể đồng thời tích hợp nhiều hình thức
thông tin từ chữ viết, âm thanh cho đến hình ảnh tĩnh và động. Vì thế, báo mạng
điện tử còn được gọi là loại hình báo chí truyền thông đa phương tiện.
Nếu nói đến tốc độ của thông tin thì báo mạng điện tử có ưu thế hơn
hẳn so với các loại hình báo chí khác.
Nếu như phương thức truyền tải, các sản phẩm của báo in được in trên
giấy, độc giả của báo in sử dụng phương pháp “đọc - nhìn” để tiếp cận với sản
phẩm thì các sản phẩm của báo mạng điện tử đến với độc giả thông qua
những trang web được đưa lên mạng Internet, mỗi bài báo là một trang web

khác nhau, có địa chỉ khác nhau. Ngoài khả năng “ đọc - nhìn”, các sản phẩm
đa phương tiện của báo mạng điện tử còn cho phép công chúng có thể “nghe”,
“xem” và “tham gia”. Tuy có khá nhiều nhược điểm so với báo in như việc
đòi hỏi thiết bị, đòi hỏi khả năng sử dụng cho người đọc, dễ gây mỏi mắt, hệ
thống kĩ thuật còn chưa ổn định… nhưng có thể tin rằng, với những tính năng
hấp dẫn vượt trội, công nghệ ngày càng phát triển đi vào đời sống, báo mạng
điện tử sẽ trở thành báo chí ưu việt lớn nhất trong tương lai.

20


So với phát thanh - truyền hình, phát thanh - truyền hình sử dụng hai
phương tiện chính là âm thanh (với báo phát thanh) và video (với báo truyền
hình) nhưng báo phát thanh và truyền hình cũng không có tính đa phương tiện
như báo mạng điện tử. Không thể phủ nhận sự hấp dẫn của phát thanh và
truyền hình trong xã hội ngày nay, đặc biệt là truyền hình. Tuy nhiên so với
báo mạng điện tử, hai loại hình báo chí trên vẫn còn có nhược điểm trong khi
báo mạng điện tử có khả năng tích hợp những thế mạnh của phát thanh và
truyền hình.
Những lợi thế của báo mạng điện tử so với những sản phẩm trên báo
phát thanh - truyền hình có thể kể ra như: giới hạn dung lượng, thời lượng của
chương trình. Trong khi đó với phát thanh, truyền hình, mỗi chương trình chỉ
có một khoảng thời gian nhất định cho phép và luôn phải khống chế chương
trình trong khoảng đó, không được xê dịch một phút, thậm chí một giây.
Ngoài ra, báo mạng điện tử còn cho phép người xem lựa chọn những
chương trình mình mong muốn, khi mà các chương trình phát thanh, truyền
hình được phát theo một trật tự tuyến tính đã được cài đặt sẵn. Với những
công chúng bận rộn, không có điều kiện để theo dõi những chương trình mình
yêu thích vào những khoảng thời gian nhất định, thì những sản phẩm được
đăng tải trên báo mạng điện tử trở thành sự lựa chọn hoàn hảo.

b. Nhược điểm của báo điện tử
Bên cạnh một số thế mạnh chính, báo mạng điện tử vẫn còn tồn tại một
số hạn chế nhất định. Hạn chế đầu tiên là do báo mạng cập nhật nhanh, bị áp
lực thời gian nên các bài viết trên báo mạng có chất lượng không cao, thông
tin lại dễ chỉnh sửa nên không có độ chính xác và tính tin cậy, chính thống
cao bằng báo in, phát thanh - truyền hình. Hơn nữa báo in có thế mạnh phân
tích sâu, bài viết sâu sắc, còn báo mạng đọc lâu, dài dòng thường gây mỏi
mắt, hiệu quả tiếp nhận không cao, dễ quên, khó nhớ.

21


×