Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Ý thức hệ trong Nhật kí chiến tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

*****************

NGUYỄN THỊ LÂM

Ý THỨC HỆ TRONG NHẬT KÍ
CHIẾN TRANH
(KHẢO SÁT QUA CÁC TÁC PHẨM:
NHẬT KÍ ĐẶNG THÙY TRÂM , MÃI MÃI TUỔI
HAI MƯƠI, NHẬT KÍ NGUYỄN HUY TƯỞNG, NHẬT
KÍ CHIẾN TRƯỜNG, NHẬT KÍ NGUYỄN NGỌC TẤN)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Người hướng dẫn khoa học

ThS. HOÀNG THỊ DUYÊN

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2, các thầy cô trong khoa Ngữ Văn đã giúp đỡ em trong quá trình học
tập tại trường và tạo điều kiện cho em hoàn thành khóa luận này.
Đặc biệt em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô Hoàng Thị Duyên đã tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo em trong quá trình nghiên cứu hoàn thành khóa luận này.
Tuy nhiên, do thời gian có hạn và lần đầu làm quen với công tác nghiên
cứu khoa học nên không tránh khỏi những sai sót. Vì vậy em mong nhận được


sự góp ý của thầy cô và các bạn để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày......., tháng 5 năm 2017
Người thực hiện

Nguyễn Thị Lâm


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi đã trình bày trong khóa luận tốt
nghiệp này là kết quả quá trình nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng
dẫn của các thầy cô giáo. Khóa luận này chưa từng được công bố trong bất cứ
công trình nào. Nếu những lời cam đoan trên là sai, tôi xin chịu hoàn toàn
trách nhiệm.
Hà Nội, ngày......, tháng 5 năm 2017
Người thực hiện
Nguyễn Thị Lâm


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ..................................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 5
6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................. 6
7. Bố cục của khóa luận .................................................................................. 6
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ Ý THỨC HỆ TRONG VĂN
HỌC VÀ Ý THỨC HỆ TRONG NHẬT KÍ ................................................ 7
1.1 Khái quát chung về ý thức hệ ................................................................... 7

1.1.1 Khái niệm ý thức ................................................................................... 7
1.1.2 Khái niệm ý thức hệ .............................................................................. 7
1.1.3 Mối quan hệ giữa ý thức hệ và văn học ................................................. 9
1.2 Vài nét về ý thức hệ trong Nhật kí văn học ............................................. 10
1.2.1 Thể loại Nhật kí văn học ...................................................................... 10
1.2.2 Ý thức hệ trong Nhật kí văn học .......................................................... 14
CHƯƠNG 2: NHỮNG DẤU HIỆU CỦA Ý THỨC HỆ TRONG NHẬT
KÍ CHIẾN TRANH .................................................................................... 17
2.1 Những dấu ấn của lí tưởng thời đại trong Nhật kí chiến tranh ................. 17
2.1.1 Tinh thần yêu nước .............................................................................. 17
2.1.2 Sự hi sinh, xả thân vì nghĩa lớn............................................................ 25
2.2 Nhật kí chiến tranh - nơi phản chiếu hiện thực xã hội ............................. 30
2.2.1 Bức tranh quê hương đất nước và con người trong Nhật kí chiến tranh 31
2.2.2 Con người với hiện thực khắc nghiệt nơi chiến trường ........................ 43
2.3 Sự đấu tranh trong tâm hồn mỗi cá nhân................................................. 46
2.3.1 Con người trở về với bản ngã riêng của mình trong Nhật kí ................ 47
2.3.2 Sự trăn trở trong ý thức cá nhân ........................................................... 53


2.3.3 Tâm hồn lạc quan, tha thiết yêu cuộc sống .......................................... 57
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào nếu muốn tồn tại dài lâu cần phải
xuất phát từ đời sống thực cho dù hiện thực ấy là những đau thương. “Nghệ
thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật là tiếng đau khổ kia thoát
ra từ những kiếp lầm than”. Bất kỳ loại hình nghệ thuật nào cũng bước ra từ

cuộc sống nhân sinh và văn chương cũng vậy. Mỗi thể loại văn chương với
những đặc điểm riêng phản ánh cuộc sống theo những cách khác nhau nhưng
trong số những thể loại văn học, không có bất kỳ thể loại nào chân thực hơn
nhật kí. Thể loại Nhật kí phát triển và thực sự đạt thành công lớn trong đề tài
viết về chiến tranh. Ngày nay, những cuốn Nhật kí chiến tranh thực sự trở
thành nguồn tư liệu sống vô cùng đáng quý, đó là những bức tranh sống động
của các chiến sĩ viết lên bằng máu xương của mình về cuộc đời thực trong
chiến tranh. Mặc dù chiến tranh đã lùi xa nhưng ta không thể không cảm thấy
những mất mát, hi sinh của dân tộc là quá lớn. Trong hoàn cảnh chiến tranh
khắc nghiệt với tình hình đất nước rối ren, ngay trong những trang Nhật kí
người chiến sĩ cũng thể hiện rất rõ tinh thần dân tộc, thể hiện ý thức hệ của
một đất nước với ý chí quật cường, vững mạnh. Chính những tư tưởng chung
của xã hội đã trở thành cảm xúc chủ đạo của tất thảy những người chiến sĩ để
họ thấm lên từng trang đời của mình những suy tư, chiêm nghiệm về hiện
thực mà đất nước đang trải qua.
Thể loại Nhật kí vẫn còn là một thể loại rất mới mẻ với bạn đọc. Nhật kí
viết về chiến tranh thực sự được quan tâm khi có sự xuất hiện của hai cuốn
nhật kí: Nhật kí Đặng Thùy Trâm (của tác giả Đặng Thùy Trâm) và Mãi mãi
tuổi hai mươi (của tác giả Nguyễn Văn Thạc) vào năm 2005 đã tạo bước
ngoặt mới như sự đột phá về thể loại, thu hút sự chú ý của độc giả và giới
nghệ sĩ, đòi hỏi phải có những công trình nghiên cứu để lí giải và làm sáng rõ
những tác phẩm này.

1


1.2 Mỗi một thời kỳ, một giai đoạn lịch sử với những đặc điểm xã hội
khác nhau đều mang những tinh thần riêng, tuy không nhìn thấy hay cầm nắm
được nhưng tinh thần ấy luôn ẩn chứa trong tâm hồn mỗi chúng ta và nó có
thể bùng phát bất cứ lúc nào khi gặp phải chất xúc tác trong những điều kiện

nhất định. Xã hội Việt Nam thời Thị tộc Văn Lang có cơ sở từ trên xuống
dưới là tinh thần đoàn thể mà kiểu mẫu là gia đình, lấy tinh thần yêu gia đình
làm động cơ; Khi tổ chức Quốc gia chỉnh tề: thời nhà Lý, nhà Lê, nhà Trần,
nhà Nguyễn,… chế độ quân chủ nghiêm túc, cần bảo vệ cho dân tộc thoát
khỏi họa diệt vong, nhờ tinh thần gia tộc cố hữu nồng nàn đã tạo ra một tinh
thần quân dân nhất trí, trăm người như một, nhất quyết bảo vệ tự do, độc lập.
Xã hội Việt Nam thời kỳ chiến tranh bảo vệ độc lập dân tộc trải qua biết bao
gian nan, đất nước ta “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, tinh thần dân tộc được đưa
lên đứng đầu, ưu tiên cho tinh thần dân tộc mà gạt bỏ cái tôi, mọi cá thể riêng
rẽ hòa quyện trở thành một đất nước hùng mạnh. Những ý thức hệ ấy đã ăn
sâu vào tâm hồn con dân người Việt, họ sống và bảo vệ đất nước như chính
máu thịt của mình để cùng gắn bó keo sơn và sẵn sàng chia sẻ, cùng nâng đỡ
nhau. Từ những trang Nhật kí ghi chép rất tỉ mỉ của những người chiến sĩ, ta
có thể thấm nhuần tư tưởng của cả dân tộc trong thời kỳ chiến tranh khắc
nghiệt, sống chết cận kề. Vì là những người trong cuộc nên những trang Nhật
kí ấy mới chân thực và đáng tin cậy, phản ánh tinh thần của cả dân tộc một
thời và còn có sức ảnh hưởng đến cả ngày nay. Vì vậy, nghiên cứu ý thức hệ
trong thể loại Nhật kí chiến tranh vừa mang ý nghĩa lí luận, vừa mang ý nghĩa
thực tiễn sâu sắc.
Nhật kí là một thể loại mới, Nhật kí viết về chiến tranh đã góp phần thúc
đẩy sự phát triển của văn chương Việt Nam, những bức tranh vừa mang giá trị
hiện thực lại vừa thấm nhuần tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Nhưng, cho tới ngày
nay những công trình nghiên cứu về Nhật kí chiến tranh còn rất hiếm hoi. Vì

2


vậy, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài: Ý thức hệ trong Nhật kí chiến
tranh với mong muốn khóa luận sẽ góp phần trình bày kết quả nghiên cứu
của mình vào việc khẳng định giá trị của thể loại Nhật kí nói riêng và văn

chương Việt Nam nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu
Ý thức hệ là một vấn đề được giới nghiên cứu văn học quan tâm bởi
đây là một trong những yếu tố chi phối đến các sáng tác của các nhà văn và sự
phát triển của văn học. Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về ý thức hệ và
mối quan hệ giữa ý thức hệ với văn học nhưng chưa có công trình cụ thể nào
nghiên cứu ý thức hệ trong Nhật kí, đặc biệt là Nhật kí chiến tranh.
Trước những năm 1986, Nhật kí xuất hiện không nhiều bởi tính chất
riêng tư của Nhật kí và chưa thu hút được sự chú ý của độc giả và sự quan
tâm của giới nghiên cứu. Từ sau năm 1986, cụ thể là năm 2005 với sự xuất
hiện của cuốn Nhật kí Đặng Thùy Trâm - một nữ bác sĩ, liệt sĩ đã cống hiến
hết mình cho sự nghiệp giải phóng đã gây bao xúc động trong trái tim bạn
đọc; cuốn Nhật kí Mãi mãi tuổi hai mươi của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc cũng
đã tạo ấn tượng sâu sắc; bên cạnh đó còn có Nhật kí chiến trường của Dương
Thị Xuân Quý, Nhật kí Nguyễn Ngọc Tấn, Nhật kí Nguyễn Huy Tưởng… Các
tác phẩm Nhật kí đã thu hút sự chú ý của toàn xã hội khiến giới nghiên cứu
văn học phải hướng đến Nhật kí như một thể loại đặc biệt.
Đã có hàng loạt những bài báo, phê bình, giới thiệu… xuất hiện làm sáng
rõ hơn các tác phẩm khiến ta có những cảm nhận hết sức chân thực về những
cuộc chiến tranh xương máu, làm sống lại cái không khí hào hùng, tái hiện đất
nước trong hoàn cảnh gian khó nhất… Các bài viết với những nội dung phong
phú khai thác nhiều khía cạnh như: Những rung chuyển từ cách sống Thùy
Trâm [9], Đọc Nhật kí chiến tranh: một tác phẩm văn học kỳ lạ [20], Có thêm
một cuốn Nhật kí chiến tranh chân thật [10],… Những bài viết đã góp phần

3


mang tác phẩm lại gần hơn với bạn đọc khiến ta hiểu được những khó khăn
gian khổ và sự hi sinh vì lý tưởng của thời đại anh hùng.

Nguồn tư liệu đáng quý qua Nhật kí chiến tranh [8] của Tôn Phương Lan
là một trong số ít những bài nghiên cứu chuyên sâu về Nhật kí chiến tranh.
Bài viết mang lại cái nhìn chân thực cho độc giả về cuộc chiến tranh ác liệt.
Hầu hết những bài nghiên cứu về Nhật kí chiến tranh mới chỉ khai thác thông
tin bên lề tác phẩm chứ chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu khai
thác Nhật kí chiến tranh dưới cái nhìn xã hội học, cụ thể là về mặt ý thức hệ.
Tính đến nay, có một số bài viết nghiên cứu về ý thức hệ và mối quan hệ giữa
ý thức hệ và văn học như Trần Đình Sử, “Văn học và ý thức hệ xã hội”;
Nguyễn Hữu Lê, “Giữa văn học và chính trị”, Tạp chí Việt;… Ở đề tài khóa
luận này của chúng tôi mong muốn mang lại một góc nhìn mới về thể loại
Nhật kí chiến tranh cùng những giá trị nhân văn. Đặc biệt nghiên cứu ý thức
hệ trong Nhật kí văn học nói chung và ý thức hệ trong Nhật kí chiến tranh nói
riêng. Khóa luận không tránh khỏi thiếu sót, kính mong hội đồng và thầy cô
cho ý kiến đóng góp để khóa luận được hoàn thiện hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thể loại Nhật kí nói chung đã góp phần vào việc hoàn thiện kho tàng văn
chương Việt Nam. Nhật kí chiến tranh phản ánh cuộc sống thời chiến một
cách rõ rệt với những khắc nghiệt của chiến trường mưa bom bão đạn, giúp
cho độc giả ở những thế hệ sau này có được những cảm nhận và thấu hiểu
được cuộc sống của những thế hệ đi trước. Nhật kí chiến tranh còn cho thấy
được những suy tư, trăn trở của những người chiến sĩ, những người nghệ sĩ
trong thời kỳ kháng chiến qua những dòng tâm tư thầm kín của họ.
Qua đề tài Ý thức hệ trong Nhật kí chiến tranh, chúng tôi mong muốn
những ý thức hệ về tinh thần dân tộc phản ánh trong Nhật kí chiến tranh sẽ
tiếp tục được nuôi dưỡng và nâng cao ở những thế hệ sau này, khiến thế hệ

4


thanh niên trẻ biết trân trọng những thành quả được đánh đổi bằng xương máu

của những người chiến sĩ, từ đó giáo dục nhân cách con người, hướng thế hệ
thanh niên có thái độ sống tích cực khi nhìn vào tinh thần dân tộc những năm
tháng lịch sử khó khăn mà dân tộc đã đi qua. Thông qua đề tài này, chúng tôi
hi vọng mang lại những cái nhìn đúng đắn, chân thực nhất về hoàn cảnh xã
hội Việt Nam thời chiến và ý thức tinh thần dân tộc sâu đậm của nhân dân
Việt Nam qua những trang Nhật kí đầy ý nghĩa.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu ý thức hệ chung của thời Đất nước có
chiến tranh được thể hiện trong những cuốn Nhật ký điển hình trong kháng
chiến chống Mĩ, chống Pháp cứu nước nhằm thấy rõ được ý nghĩa của Nhật kí
chiến tranh và ý thức hệ của xã hội Việt Nam thời chiến tranh loạn lạc.
b. Phạm vi nghiên cứu
Trong khóa luận này, chúng tôi sẽ đi sâu vào tìm hiểu 5 cuốn Nhật kí nổi
bật nhất của 5 tác giả mà theo chúng tôi thấy các tác phẩm này hội tụ đầy đủ
những yếu tố nằm trong nội dung đề tài.
♦ Nhật kí Đặng Thùy Trâm (của tác giả Đặng Thùy Trâm)
♦ Mãi mãi tuổi hai mươi (Nhật kí của tác giả Nguyễn Văn Thạc)
♦ Nhật kí Nguyễn Huy Tưởng (Nhật kí của Nguyễn Huy Tưởng)
♦ Nhật kí chiến trường (của Dương Thị Xuân Quý)
♦ Nhật kí Nguyễn Ngọc Tấn (của tác giả Nguyễn Ngọc Tấn)
Ngoài ra, trong khóa luận chúng tôi còn nghiên cứu, tham khảo một số
tác phẩm của các tác giả khác để làm rõ vấn đề mà khóa luận trình bày.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong khóa luận, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp so sánh, đối chiếu.

5



Khóa luận cũng được thực hiện từ điểm nhìn xã hội học tức là tìm hiểu,
nghiên cứu những ảnh hưởng xã hội, ý thức hệ tác động vào tâm tư con
người, từ đó chi phối nội dung của Nhật kí chiến tranh.
6. Đóng góp của khóa luận
Qua những tác phẩm về Nhật kí chiến tranh cũng cho thấy chúng ta chưa
quan tâm đúng mức đến vấn đề bảo tồn ký ức. Nhật kí chiến tranh là thể loại
mới nên chưa có được nhiều sự quan tâm từ độc giả. Với đề tài Ý thức hệ
trong Nhật kí chiến tranh, chúng tôi mong muốn khóa luận sẽ mang lại cái
nhìn toàn diện về ý thức dân tộc, tinh thần đấu tranh của những thế hệ đã qua,
góp phần hoàn thiện giá trị của thể loại Nhật kí nói riêng và văn học Việt
Nam nói chung.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận bao gồm 2 chương:
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ Ý THỨC HỆ TRONG VĂN HỌC
VÀ Ý THỨC HỆ TRONG NHẬT KÍ
CHƯƠNG 2. NHỮNG DẤU HIỆU CỦA Ý THỨC HỆ TRONG NHẬT KÍ
CHIẾN TRANH

6


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ Ý THỨC HỆ
TRONG VĂN HỌC VÀ Ý THỨC HỆ TRONG NHẬT KÍ
1.1 Khái quát chung về ý thức hệ

1.1.1 Khái niệm ý thức
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin thì ý thức là toàn bộ những
quan điểm, quan niệm của con người về thế giới và mối quan hệ của con
người trong thế giới. “Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Tâm lý học coi ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan

của bộ não người. Hay nói cách khác, hoạt động phản ánh sự vật, hiện tượng
của bộ não người hình thành nên ý thức. E. Renan - Pháp nói rằng: “Sống mà
không có một hệ thống ý thức về sự vật thì không phải là sống một cuộc đời
nhân loại.” - Cuối thế kỉ 19.

1.1.2 Khái niệm ý thức hệ
Có rất nhiều các quan niệm về ý thức hệ khác nhau. “Giovani Sartori
cho rằng ý thức hệ giống như một cái hộp đen, mỗi người hiểu một cách,
thiếu một sự nhận thức chung. Có người khái quát thành 10 định nghĩa như
Colin Summer, có người khái quát thành 5 định nghĩa như John Storey. Theo
T. Eagleton thì đến nay có không ít hơn 16 định nghĩa.” [13].
Ý thức hệ hay hệ tư tưởng (Idealogy) là hệ thống những quan điểm triết
học hay chính trị. Ý thức hệ là hệ thống các mục đích và quan niệm giúp điều
chỉnh mục tiêu, dự tính và hành động của con người. Một ý thức hệ có thể
hiểu như một tầm nhìn bao quát, như cách thức để xem xét sự vật. Ví dụ như
“ý thức hệ Marxist” là hệ thống tư tưởng triết học, kinh tế - chính trị của chủ
nghĩa Marx.
Trong cuốn Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lenin có đưa ra khái niệm về hệ tư tưởng xã hội “là toàn bộ các hệ thống

7


quan niệm, quan điểm xã hội như: chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật,
tôn giáo…” [23; tr.144], còn khái niệm ý thức xã hội “dùng để chỉ phương
diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn
tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định” [23; tr.143].
Nhà Marxist phương Tây, Louis Althusser cho rằng ý thức hệ là một cấu
trúc sản xuất xã hội của con người. Sự tái sản xuất sức lao động không chỉ sản
xuất con người mà còn sản xuất cả tư tưởng, quan hệ, quan niệm, tình cảm
của con người lao động, do đó ý thức hệ đóng vai trò hết sức quan trọng trong

hoạt động đó và không có ý nghĩa xấu.
Thực tế, cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm khoa học về ý thức hệ
xã hội được mọi người nhất trí.
Khi ta nói đến ý thức hệ hay hệ tư tưởng là ta nói đến một chủ nghĩa nhất
định: Ví dụ ý thức hệ Nho giáo (Confucianism), Ý thức hệ tư sản (Capitalism).
Ở trong một cá nhân luôn có một tâm lí xã hội, một ý thức quần chúng, có
những tính cách riêng biệt khác hẳn với tâm lí cá nhân, mà cũng không có gì
khác với một tổng cộng những tâm lí cá nhân. Ấy là lòng dũng cảm của một
đám đông, của một bộ đội trước trận tiền, của ba quân chỉ ngọn cờ đào. Đấy
là ý thức xã hội. Cái ý thức ấy linh hoạt bao trùm cá nhân, nhưng tất nhiên
không hoàn toàn phải đoạn tuyệt với cá nhân. Ý thức cá nhân với ý thức xã
hội chỉ xung đột đối lập chừng nào chúng ta quan niệm cá nhân ở cái ý thức
nhỏ hẹp mà xã hội ở cái đoàn thể không chút linh động, không có một ý thức
bao trùm và tồn tại độc lập. Ý thức cá nhân và ý thức hệ không phải hai thế
lực xung đột, ta không nhìn ở một phương diện mà nhìn ở phương diện nhân
sinh, hành vi, hành động thực tế,… thì cá nhân với xã hội giống như cá với
nước. Vì vậy, con người phải hi sinh cái ngã nhỏ hẹp vị kỷ cho cái ngã xã
hội rộng lớn. Xã hội phát triển là biểu hiện lòng hi sinh của người này cho
người kia.

8


1.1.3 Mối quan hệ giữa ý thức hệ và văn học
Vấn đề mối quan hệ giữa văn học với ý thức hệ là vấn đề không mấy xa
lạ nhưng lại rất khó giải quyết với nhiều nhà nghiên cứu. Tính chất ý thức hệ
của văn học thể hiện ở chỗ nó có nội dung ý thức hệ của riêng mình, đó là sự
quan tâm đặc biệt đến thế giới tình cảm, tư tưởng, cảm xúc, số phận, sự sống,
lí tưởng, khát vọng của con người; quan tâm đến thiên nhiên, cái đẹp, sự nghỉ
ngơi, vui chơi, thưởng ngoạn của con người. Và từ chỗ đứng, cách nhìn riêng

đó mà văn học thường xuyên đối diện với các hình thái ý thức xã hội khác,
phán xét chúng theo nhãn quan của mình. Tính chất ý thức hệ riêng đó làm
nên sức hấp dẫn không thể thay thế của văn học, bởi không một hình thái ý
thức hệ nào khác quan tâm đến con người như văn học. Và do quan tâm con
người mà nó đề cập tới nhiều vấn đề mà xã hội quan tâm. Các tác phẩm văn
học nào xa lánh, né tránh vấn đề nhạy cảm của xã hội thì nói chung ít được
công chúng để ý. Và do quan tâm con người mà văn học không ngại đụng
chạm các vấn đề nhạy cảm của xã hội, vượt qua quy phạm, cấm kị, đạo đức,
tôn giáo. Không phải ngẫu nhiên mà vào thời khắc xã hội có biến động lớn
nhỏ, văn học thường tỏ rõ tính chất ý thức hệ mạnh mẽ hơn, có ý thức can dự
vào các vấn đề nhạy cảm của xã hội hơn nhằm góp phần thay đổi tiến trình
đời sống. Nói một cách khác, văn học bao giờ cũng vị nhân sinh với nội dung
ý thức hệ của nó. Trong những lúc xã hội có biến động (cách mạng, chống
ngoại xâm…) văn học thường có quan hệ mật thiết với ý thức hệ chính đảng,
trở thành công cụ hoạt động chính trị của chính đảng đảm đương công cuộc
cách mạng hay chống ngoại xâm. Trong điều kiện bình thường văn học có
quan hệ nhiều mặt với ý thức hệ. Nó có thể có bộ phận gắn bó với ý thức hệ
chính đảng, chủ lưu, có thể có bộ phận phê phán, chống đối hay quay lưng đối
với một số mặt nhất định của ý thức hệ đó. Tinh thần phê phán thực tại của
văn học có thể xung đột với các ý thức hệ khác, thúc đẩy xã hội tiến bộ.

9


Thời kỳ chiến tranh là thời kỳ mà trong ý thức xã hội nước ta xoay
quanh bình diện xã hội - chính trị, từ cuộc chiến tranh bom đạn, những năm
dân quốc, những chiến dịch khởi nghĩa giành độc lập đến những cuộc cải cách
kinh tế, giáo dục, xã hội,… Một lực lượng các nhà văn Việt Nam đã hình
thành và ra đời trong không khí xã hội đó. Có thể nói rằng ý thức xã hội đã
ảnh hưởng đáng kể đến văn học. Sáng tác của các nhà văn đều xoay quanh hai

hiện thực lớn là cổ vũ tinh thần trong chiến tranh và xây dựng đời sống hiện
tại. Các tác phẩm viết về kháng chiến mang cốt cách của văn học tư liệu
nhưng có sức hút rất lớn kể cả khi chiến tranh đã đi qua. Có các sáng tác phục
vụ chính sách, từ thơ văn phát động giảm tô thuế đến thơ văn hợp tác hóa.
Những nhân vật trong văn học được miêu tả giai đoạn này hầu hết đều đứng
trong hàng ngũ công - nông - binh, cái tôi trong thơ văn lúc này là cái tôi trữ
tình nhập vai, cái tôi nhân danh Tổ quốc, cái tôi nhân danh dân tộc, các nhân
vật có khi thác lời vào anh bộ đội để trải lòng cùng nỗi nhớ thương da diết:
“Bầm ơi có rét không bầm! Heo heo gió núi lâm thâm mưa phùn. Bầm ra
ruộng cấy bầm run…” (Bầm ơi - Tố Hữu). Ngay cả trong những trang Nhật
kí cá nhân thì hiện thực xã hội vẫn luôn hiện diện, qua đó thể hiện những
mong muốn, hi vọng của mỗi cá nhân về một thế giới không bom đạn.
1.2 Vài nét về ý thức hệ trong Nhật kí văn học

1.2.1 Thể loại Nhật kí văn học
a. Khái niệm Nhật kí
Theo Từ điển văn học [4]: “Nhật kí là loại văn ghi chép sinh hoạt
thường ngày. Trong văn học, Nhật kí là hình thức trần thuật từ ngôi thứ nhất
số ít, dưới dạng những ghi chép hàng ngày có đánh số ngày tháng (…) bao
giờ cũng chỉ ghi lại những gì đã xảy ra, những gì đã nếm trải, thể nghiệm; nó
ít hồi cố; được viết ra chỉ cho bản thân người ghi chép chứ không tính đến
việc được công chúng tiếp nhận” [4; tr.1257]. Thể kí xuất hiện muộn hơn so

10


với các thể loại khác, xuất hiện thế kỷ XVIII và phát triển vào thế kỷ XX. Ở
Việt Nam, thể Kí được đánh dấu qua tác phẩm Vũ trung tùy bút và Thượng
kinh kí sự.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì Nhật kí “là một thể loại thuộc loại

hình kí”. Trong Giáo trình Lí luận văn học tập 2: Tác phẩm và thể loại do
Giáo sư Trần Đình Sử chủ biên [14] thì Nhật kí được định nghĩa: “Nhật kí là
thể loại ghi chép sự việc, suy nghĩ, cảm xúc hàng ngày của chính người viết,
là những tư liệu có giá trị về tiểu sử và thời đại của người viết” [14; tr.261].
Tóm lại, có thể kết luận rằng Nhật kí là những ghi chép, những cảm nhận của
cá nhân, thể hiện cảm xúc, sự đánh giá của bản thân về những sự kiện xảy ra
hàng ngày.
b. Đặc trưng của thể loại Nhật kí văn học
Nhật kí văn học luôn mang đặc trưng quan trọng và nổi trội nhất đó
chính là tính xác thực trong ghi chép. Nhật kí là những ghi chép của cá nhân
mang tính chất riêng tư, bản thân người viết Nhật kí không hề có ý định công
bố bài viết của mình mà họ viết chỉ để cho riêng mình với tư cách là những
ghi chép cá nhân. “Nếu như người viết nhật kí là viết cho mình, cho riêng
mình thì đọc cuốn nhật kí đó sẽ chân thực nhất, sẽ bề bộn và sầm uất nhất.
Người ta sẽ mạnh dạn ghi cả vào đấy những suy nghĩ tồi tệ nhất mà thực sự
họ có. Nhưng nếu nhật kí mà có người xem nữa thì nó sẽ khác và khác nhiều Họ không dám nói thật, nói đúng bản chất sự kiện xảy ra trong ngày, không
dám nói hết và đúng những suy nghĩ đã nảy nở và thai nghén trong lòng họ.
Mà đó chính là điều tối kỵ khi viết nhật kí. Nó sẽ dạy cho người viết tự lừa dối
ngòi bút của mình, tự lừa dối lương tâm của mình” [21; tr.225]. Bởi xác định
viết cho riêng bản thân mình để chiêm nghiệm cuộc đời nên Nhật kí văn học
luôn mang tính xác thực cao, không ai lại tự lừa dối chính bản thân của mình.
Tìm tới Nhật kí là con người trở về với bản ngã riêng của mình với những

11


cảm xúc đa dạng: yêu, ghét, giận dữ, ích kỷ… đều được thể hiện trên những
trang giấy, đó là những tâm sự “sống để bụng, chết mang theo” tuyệt đối
riêng tư. Chỉ có những gì thuộc về riêng tư, của cá nhân mới là chính xác
nhất, nơi con người có thể tự do bày tỏ suy nghĩ, quan điểm của mình trước

những sự việc xảy ra hàng ngày. Nếu không mang tính chất riêng tư, Nhật kí
sẽ không còn tồn tại theo đúng nghĩa của thể loại. Nếu vậy, thể loại Nhật kí sẽ
không hấp dẫn được người đọc nữa.
Ngoài ra, thể loại Nhật kí văn học còn mang trong mình những đặc
điểm khác đó là tính chất biên niên, đặc điểm về ngôi trần thuật,… Tính chất
biên niên được thể hiện rất rõ trong việc ghi chép sự việc theo ngày tháng rất
rõ ràng. Bất kỳ sự kiện nào đều được ghi lại ngày tháng, đó cũng chính là cơ
sở khiến cho Nhật kí mang tính chân thực rõ nét.
Lời văn trong Nhật kí phần lớn rất ngắn gọn, súc tích, nói thẳng vào
vấn đề chính chứ không vòng vo, ít sử dụng ngôn từ hoa mĩ bay bổng mà rất
giản dị, gần gũi. Đó là những tâm sự viết vội vàng lúc nghỉ ngơi, do điều kiện
thời gian ngắn ngủi nên đôi khi chỉ là vài dòng chữ…
Người trần thuật trong Nhật kí luôn ở ngôi thứ nhất, xưng tôi bởi đây là
thể loại độc thoại, tác giả tự nói với mình. Cũng vì vậy mà người viết không
ngần ngại nói bất cứ chuyện gì dù là nhỏ bé nhất, cái tôi trần thuật đóng vai
trò to lớn trong Nhật kí văn học nhờ đó những tâm sự được biểu lộ rất tự
nhiên, mang lại cảm giác đáng tin cậy cho người đọc, khiến ta như được trực
tiếp chứng kiến những sự việc vừa xảy ra.
Nhật kí chiến tranh mang những đặc điểm của thể loại Nhật kí. Viết về
đề tài chiến tranh, các tác giả viết một cách chân thực nhất những sự kiện,
biến cố của lịch sử, hoàn cảnh khắc nghiệt nơi chiến trường đạn lửa, nơi cái
chết cận kề luôn rình rập cướp đi sự sống bất cứ lúc nào. Qua đó, những
người chiến sĩ cũng thể hiện được nghị lực sống mãnh liệt, ý chí quật cường

12


của một thế hệ dám hi sinh quên mình với tinh thần lạc quan yêu đời. Tất cả
đều được thể hiện rõ nét qua những tác phẩm mà chúng tôi chọn lựa để
nghiên cứu. Những trang Nhật kí chứa đựng những tâm sự cá nhân của nữ bác

sĩ, liệt sĩ, anh hùng Đặng Thùy Trâm hay những ghi chép về cuộc đời của
Nguyễn Văn Thạc, Nguyễn Huy Tưởng,… Họ đều là những anh hùng dám
gạt đi cái tôi cá nhân nhỏ bé để sống toàn tâm, toàn hồn cho Tổ quốc. Nhật kí
càng chứa đựng những trăn trở, suy tư bao nhiêu thì ta lại càng thấm thía
được sự hi sinh cao cả, sự đấu tranh trong tâm hồn người chiến sĩ. Đặng Thùy
Trâm, Nguyễn Văn Thạc,… là những đại diện tiêu biểu cho cả một thế hệ anh
hùng bởi đâu phải người chiến sĩ nào cũng viết Nhật kí? Dưới hoàn cảnh thời
gian có hạn, môi trường sống liên tục bị thay đổi, với những người chiến sĩ thì
thời gian nghỉ ngơi rất cần thiết, nhiều người không có thói quen viết Nhật kí
hoặc không kịp ghi. Vậy mới thấy được Nhật kí chiến tranh đáng quý như thế
nào? Dù bận rộn với chiến trường nhưng họ vẫn dành thời gian ghi lại những
cảm xúc, tâm trạng của mình, ấy là những tâm hồn nhạy cảm biết chừng nào?
Họ cần được sẻ chia nên đã viết ra những trang giấy như sự tự độc thoại với
chính bản thân mình những điều thầm kín nhất.
Những cuốn Nhật kí nằm dưới ba lô người chiến sĩ vô hình chung đã
trở thành tài sản đáng giá nhất của họ, được trân trọng, nâng niu và gìn giữ
bên mình như người bạn để chuốc bầu tâm sự. Đôi khi chỉ là vài chữ trong cả
một ngày, thậm chí thời gian viết Nhật kí còn bị ngắt quãng bởi yếu tố khách
quan do bị tác động từ hoàn cảnh sống khiến tính liên tục của Nhật kí bị phá
vỡ nhưng bất cứ lúc nào rảnh rỗi, người chiến sĩ lại tìm đến Nhật kí như một
người bạn để chia sẻ, kể lại những sự kiện đã và đang xảy ra bằng những hình
ảnh sống động khiến cho ta khi đọc Nhật kí như cảm nhận được hiện thực
đang hiện hữu trước mắt, như đang được trực tiếp trải qua những năm tháng
hành quân vất vả của anh lính tân binh Nguyễn Văn Thạc hay thấu hiểu được

13


sự đau đớn vì bệnh tật và những thiếu thốn vật chất của những người chiến sĩ
qua những trang Nhật kí rực lửa của bác sĩ Đặng Thùy Trâm.

Trong Nhật kí chiến tranh, tác giả tự độc thoại với chính bản thân mình,
những lời tâm sự ấy có thể là nỗi nhớ gia đình, nỗi nhớ dành cho người yêu
hay những người bạn thân… Mỗi câu chuyện của mỗi người đều mang những
dấu ấn cá nhân riêng, họ kể lại theo cách riêng của họ. Đến với Nguyễn Văn
Thạc ta có thể thấy được những trang viết bay bổng, mộng mơ của anh chàng
sinh viên mới nhập ngũ cùng những cảm xúc đầu đời của những ngày đầu làm
chiến sĩ hay nỗi xúc động, chân thành qua những dòng Nhật kí của Đặng
Thùy Trâm, sự day dứt nhớ thương của người mẹ yêu con Dương Thị Xuân
Quý,… Bản thân tác giả cũng không thể đoán biết được trang kết thúc cuốn
Nhật kí của mình bởi vì cuộc sống của họ luôn phải đương đầu cận kề với cái
chết. Có lẽ vì thế mà trong từng trang văn của họ, ta có thể cảm nhận rõ rệt
những lời nhắn nhủ đầy xúc động tới những người thân yêu. Đối với những
người chiến sĩ, họ luôn sống như thể hôm nay là ngày cuối cùng được sống.

1.2.2 Ý thức hệ trong Nhật kí văn học
Văn học là một hình thái ý thức đặc biệt, có ý nghĩa như văn hóa nói
chung bởi nó tác động đến tất cả các mặt của đời sống, đặc biệt là đời sống cá
nhân, nhân cách, cá tính, tình cảm con người. Nhưng văn học cũng là hình
thái ý thức xã hội ít tính chất ý thức hệ nhất bởi nó không mang tính chất thực
tiễn, thực dụng, tính chất quyền lực, tính chất giản lược, giáo điều. Bởi các
tính chất này mâu thuẫn với tính thẩm mĩ.
Ý thức chính trị là một hình thái ý thức hệ xã hội, phản ánh mọi mặt của
đời sống xã hội. Ý thức chính trị thể hiện ở nhu cầu và lợi ích chính trị, thể
hiện trong các quan điểm giải quyết các mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng
lớp, các dân tộc, nhà nước,… Vì là một hình thái ý thức xã hội nên ý thức
chính trị có mối quan hệ qua lại và chịu chi phối của các hình thái ý thức xã

14



hội khác như ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo,… Xét trong
tổng thể thì ý thức chính trị có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định xu hướng và
bản chất của các hình thái ý thức xã hội. Ý thức chính trị xuất hiện trong các xã
hội có giai cấp, nhà nước, nó phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội
giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia cũng như thái độ của các giai cấp,
tầng lớp đối với quyền lực nhà nước. Vì vậy, giai cấp nào cũng có ý thức chính
trị, xã hội có nhiều giai cấp thì sẽ có nhiều loại ý thức chính trị nhưng chỉ giai
cấp có khả năng đại diện cho phương thức sản xuất mới, hình thái kinh tế - xã
hội mới, mới có điều kiện hình thành hệ tư tưởng chính trị. Ý thức chính trị
thông thường là các dạng tâm lý, cảm xúc, tình cảm, ước mơ mong muốn tự
phát sinh ra trong hoạt động thực tiễn, ý thức chính trị lí luận được biểu hiện là
những tư tưởng, quan điểm chính trị đã được hệ thống hóa thành một chỉnh thể
mang tính khoa học, hợp lý phản ánh được các mối liên hệ bản chất, tất yếu,
phổ biến trong đời sống chính trị. Căn cứ vào chủ thể mang ý thức chính trị thì
ý thức chính trị gồm ý thức chính trị cộng đồng và ý thức chính trị cá nhân. Ý
thức chính trị cá nhân là nhận thức, thái độ của từng cá nhân về những vấn đề
hiện thực của đời sống chính trị. Ý thức chính trị cộng đồng là ý thức chính trị
sinh ra từ nhu cầu, lợi ích chính trị của cả cộng đồng xã hội hoặc của cả một
nhóm xã hội, một giai cấp nào đó trong cộng đồng.
Tính chất ý thức hệ của Nhật kí văn học thể hiện ở nội dung ý thức hệ,
đó là thế giới tình cảm, tư tưởng, cảm xúc, lí tưởng, khát vọng, số phận, sự
sống của con người, phần lớn biểu hiện ý thức chính trị thông thường. Nếu
văn học nói chung đề cập đến những vấn đề mà xã hội quan tâm thì Nhật kí
văn học dường như quan tâm nhiều hơn đến những sự việc xảy ra xung quanh
tác giả, tác động trực tiếp vào cuộc sống của tác giả. Trong Nhật kí chiến
tranh, nổi bật lên sự biểu hiện của ý thức hệ đó chính là tinh thần dân tộc, là lí
tưởng sống cao đẹp hướng về Tổ quốc với tương lai rạng rỡ mà những người

15



chiến sĩ dám hi sinh bản thân mình để cống hiến cho đất nước. Ngay khi trở
về với bản ngã riêng của mình mà ta vẫn thấy được tinh thần dám xả thân cho
cuộc chiến trường kỳ của dân tộc, đó là sự hi sinh cao cả dựa trên tinh thần tự
nguyện cống hiến. Trong chiến tranh, mỗi người dân Việt đều có một ngọn
lửa, một tình yêu dân tộc le lói trong tim và có thể bùng phát bất cứ lúc nào,
họ sống và giữ gìn Tổ quốc, bất kỳ ai cũng đều là chiến sĩ, “giặc đến nhà, đàn
bà cũng đánh”, ngay cả những em bé như Lượm cũng trở thành chiến sĩ liên
lạc, trở thành tấm gương bất tử trong thơ ca huống chi những người thanh
niên trai tráng khỏe mạnh lại không hừng hực trong lòng sự căm thù và tinh
thần quả cảm chống giặc, bảo vệ Tổ quốc? Chính tinh thần dân tộc ấy là ý
thức hệ của một thời đại thể hiện rõ trong Nhật kí chiến tranh. Họ không thể
hiện tinh thần ấy, không mang ra kể cho ai nghe hay viết cho ai đọc bởi bọ chỉ
viết cho chính bản thân mình nên ta thấy được những tinh thần ấy là chân
thực và vô cùng đáng tin. Đó chính là biểu hiện của ý thức hệ trong Nhật kí
văn học.
Nội dung trong Nhật kí văn học phần lớn trần thuật về những sự kiện,
biến cố lịch sử. Trong Nhật kí văn học có cái tôi cá nhân, có những cảm xúc
riêng tư thương nhớ nhưng đều gắn liền với những sự kiện lịch sử chung của
xã hội, một tập Nhật kí có phẩm chất văn học khi thể hiện được một thế giới
tâm hồn, khi qua những sự việc và tâm tình của cá nhân, tác giả giúp người
đọc nhìn thấy được những vấn đề xã hội trọng đại.

16


CHƯƠNG 2: NHỮNG DẤU HIỆU CỦA Ý THỨC HỆ
TRONG NHẬT KÍ CHIẾN TRANH
2.1 Những dấu ấn của lí tưởng thời đại trong Nhật kí chiến tranh
Mỗi một giai đoạn lịch sử, con người ta lại có những cách sống riêng,

có những cách ứng xử khác nhau đối với cuộc đời, với con người. Nếu trong
cuộc sống hòa bình khi súng đạn đã lùi xa, con người ta chăm chút hơn cho
bản thân của mình thì trong thời chiến cái được đặt lên trên hết chính là độc
lập dân tộc, là cơm no áo ấm. Cho đến ngày nay, dù chiến tranh đã đi qua hơn
1/3 thế kỉ nhưng mỗi lần nhìn lại những chiến công vang dội, ta vẫn không
ngừng thắc mắc nhờ đâu mà một dân tộc nhỏ bé như Việt Nam lại có thể anh
dũng chống trả những âm mưu xâm lược và chiến thắng Pháp, thắng Mĩ, để
giành lại Độc lập - Tự do cho Tổ quốc? Có được những chiến công ấy, phần
lớn nhờ vào truyền thống yêu nước, sự anh dũng quật cường, tinh thần đoàn
kết “lá lành đùm lá rách”,… Những điều ấy quy tụ lại và trở thành ngọn lửa
le lói mang dấu ấn của thời đại, đó là thời đại sống cho lí tưởng cao đẹp vì
Độc lập - Tự do. Lí tưởng ấy được thể hiện vô cùng chân thực qua từng trang
Nhật kí của những anh hùng đã sống và chiến đấu trong cuộc chiến trường kỳ.
Những trang Nhật kí ấy như trở thành chứng nhân lịch sử trong cuộc hành
trình giữ nước, mở ra kỉ nguyên mới, kỉ nguyên xây dựng đất nước, tiến lên
Chủ nghĩa Xã hội.

2.1.1 Tinh thần yêu nước
Tinh thần yêu nước là hiện thân của lí tưởng thời đại, ý thức hệ của thời
đất nước có chiến tranh tác động trực tiếp đến tư tưởng của con người khiến
cho mỗi cá nhân đều hiểu và tự giác trong công cuộc gìn giữ đất nước. Cuộc
kháng chiến chống Pháp và Mĩ cứu nước đối với dân tộc ta là cuộc kháng
chiến trường kỳ, là chiến tranh chính nghĩa bảo vệ dân tộc và giành độc lập tự

17


do. Dân tộc ta trong cuộc chiến này đã huy động sức mạnh của thời đại. Sự
thức tỉnh một cách tự phát là cội nguồn dẫn đến sự giác ngộ lí tưởng cách
mạng mang tính tự giác. Sự giác ngộ tự giác thông qua những tác động bên

ngoài, đó chính là những chuyển biến của thời đại. Điều này thể hiện rõ trong
từng trang Nhật kí, những cuốn Nhật kí phản ánh cuộc chiến đấu anh hùng
của nhân dân ta, phản ánh một thế hệ thanh niên giác ngộ lí tưởng cách mạng
của Đảng. Hầu hết tất cả người dân Việt Nam mọi lứa tuổi đều ảnh hưởng bởi
ý thức chính trị, ý thức đạo đức của thời đại, trong đó có những chiến sĩ, nhà
văn - chiến sĩ như Nguyễn Ngọc Tấn, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc,…
Ý thức chính trị “là sự phản ánh các quan hệ xã hội trước hết là quan hệ kinh
tế và thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước” [25], ý thức đạo
đức được biểu hiện bằng các quan niệm, tri thức, các trạng thái tâm lý chung
của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh
phúc, công bằng,… Dân ta hiểu rằng cứ chiến tranh bom đạn khiến người dân
ta không còn người thân, đói nghèo cơ cực, bọn cướp nước, giết người ấy là
kẻ thù độc ác; còn một cuộc sống hạnh phúc dĩ nhiên là cuộc sống không có
những kẻ độc ác kia thống trị, là cơm no áo ấm, là khi con người được tự do,
biết khát khao và hi vọng. Thế hệ những người ra trận giác ngộ lí tưởng của
Đảng bởi thấy được sự đúng đắn và biết ơn Đảng bởi nhờ Đảng lãnh đạo mà
cuộc sống bình yên, hạnh phúc dân tộc mong mỏi đang dần thành hiện thực.
Nguyễn Ngọc Tấn là một tấm gương sáng trong ý thức giác ngộ cách mạng,
luôn coi Đảng là ngọn đuốc dẫn đường cho nhân dân trong cuộc chiến, lí
tưởng của Đảng thấm đẫm trong từng trang Nhật kí chân thật: “Hôm nay
thành lập Đảng, ngày tết của giai cấp, của mình, của nhân dân Việt Nam.
Nhớ Đảng, không có Đảng, không có đến ngày nay, không có Đảng không có
hạnh phúc tốt đẹp. Ơn Đảng ngàn năm, cố gắng công tác phục vụ Đảng tiến
tới thành người Đảng viên gương mẫu phục vụ nhân dân.” [22; tr.102]. Hai
chữ “Nhân dân” được xem là tập hợp đông đảo quần chúng, dân tộc ta lấy
18


sức mạnh của quần chúng để chiến thắng sức mạnh vật chất của giai cấp
thống trị, nhân dân ta biết ơn cách mạng bởi cách mạng biết coi trọng, trọng

dụng nhân tài, công nông được trí thức hóa, mang trí thức gắn bó với công
nông, cách mạng nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho dân, đem tài của
dân, sức của dân, của của dân để làm lợi cho dân. Chàng sinh viên Nguyễn
Văn Thạc ý thức được hoàn cảnh và sứ mệnh của mình “Mẹ ta nghèo, rau
cháo nuôi ta, đau khổ bốn nghìn năm, chắt chiu từng hạt gạo nuôi ta. Để bây
giờ ta lớn. Phải lớn lên, phải to ra cho kịp tầm cao của lịch sử. Cánh tay này,
sẽ bóp nghẹt cổ quân thù” [21; tr.36], từng là học sinh giỏi Văn và sinh viên
xuất sắc khoa Toán của trường Đại học Tổng Hợp, giờ đây anh là anh lính
tân binh mới nhập ngũ và háo hức khi bước vào cuộc đời người lính. Không
chỉ mang trong mình ý thức đạo đức mà chàng thanh niên ấy còn chịu ảnh
hưởng về mặt pháp quyền, ảnh hưởng bởi pháp luật về quyền và nghĩa vụ
của nhà nước. Khi Tổ quốc lâm nguy, mỗi người dân đều có trách nhiệm
xung phong ra trận tiền bảo vệ đất nước, đó vừa là quyền vừa là nghĩa vụ bắt
buộc phải thực hiện của mỗi người dân nhất là đối với một công dân đang ở
lứa tuổi thanh niên thì càng nên hoàn thành. Nói là quyền có phần tác động
vào ý thức tự giác của con người nhằm thức tỉnh ý thức cá nhân gắn bó cộng
đồng, nói là nghĩa vụ có phần chạm tới sức mạnh cưỡng chế của pháp luật.
Việc đầu quân đi lính vốn là hành động đúng đắn, phù hợp với tâm lý pháp
luật của xã hội, nếu cá nhân nào đi ngược lại lập tức bị loại bỏ, trốn đi lính
không những là hèn yếu mà còn là chống đối pháp luật và sẽ phải chịu phạt.
Đối với Nguyễn Văn Thạc, trước khi việc ra trận được coi là nghĩa vụ bắt
buộc thì anh coi đó là “quyền” và cảm thấy tự hào vì được là người chiến sĩ
bảo vệ Tổ quốc. Anh ý thức rõ về ý thức trách nhiệm và quyền làm chủ đất
nước của con người:
“Đất nước của những người con gái con trai
Đẹp như hoa hồng, cứng hơn sắt thép
19


Lúc chia tay không hề rơi nước mắt

Nước mắt chỉ dành cho ngày gặp mặt…” [21; tr.67]
Mãi mãi tuổi hai mươi là cuốn Nhật kí ghi lại cuộc đời bi tráng của
Nguyễn Văn Thạc khi chưa đầy mười tháng tuổi quân và hai mươi tuổi đời.
Chàng thanh niên ấy luôn mang trong mình khao khát làm người chiến sĩ, lí
tưởng của thời đại anh hùng luôn hiện diện trong con người trẻ tuổi: “Xe ơi,
lao nhanh hơn, cho ta chóng tới giai đoạn lớn. Nơi ta gửi gắm cả thời thanh
xuân của mình.” [21; tr.34]. Niềm ao ước trở thành sự thật đã mang lại niềm
vui sướng, tự hào đến tột độ “Hơn cả khi trên tay phập phồng tờ quyết định.
Vui sướng, tự hào, cảm động làm sao khi trên người ta là bộ quân phục xanh
màu lá. Anh sinh viên quen màu trắng áo của cánh cò, quen màu xanh da trời
tháng nắng (…) Mình trút bỏ không thương tiếc, và trìu mến khoác lên mình
màu xanh lá ấy. Màu xanh của núi đồi và thảo nguyên, của ước mơ và hi
vọng. Màu xanh bất diệt của sự sống.” [21; tr.34]. Anh luôn có một ao ước là
được Đảng tin và giao cho nhiệm vụ nặng nề, luôn giữ một lòng tin bất diệt vào
sự lãnh đạo của Đảng “Không ở đâu sự đấu tranh giai cấp lại diễn ra quyết liệt
như ở trong quân đội cả. Không khoan nhượng, không xuê xoa - Và Đảng thực
sự nắm trọn vẹn và vĩnh viễn ngọn cờ lãnh đạo quân đội.” [21; tr.251]. Đặng
Thùy Trâm - nữ bác sĩ trẻ xung phong ra trận tuyến với tinh thần yêu nước
mãnh liệt luôn tự nhủ rằng: “Hãy giữ vững tinh thần của người cộng sản, tinh
thần trong suốt như pha lê, cứng rắn như kim cương và chói lọi muôn nghìn
hào quang của lòng tin tưởng” [24; tr.78], Thùy Trâm hiểu rõ và luôn nhắc
nhở mình sống sao cho đúng với phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản sống
thanh liêm trong sạch, mạnh mẽ và cứng cáp, luôn lạc quan và tràn đầy hi
vọng. Nữ bác sĩ trẻ tuổi với tinh thần giác ngộ cách mạng nhạy bén và sâu sắc
hạ quyết tâm gắn bó với sự nghiệp giải phóng của đất nước đến cùng “Vậy đó
Thùy ơi! Khi giác ngộ quyền lợi của giai cấp của Đảng thì suốt đời Thùy sẽ

20



×