Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Luận văn thạc sĩ giới ngữ tiếng anh (với các giới từ chứa in, on, at) và các biểu đạt tương đương trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ MINH NGỌC

GIỚI NGỮ TIẾNG ANH (VỚI CÁC GIỚI NGỮ CHỨA IN, ON,
AT) VÀ CÁC BIỂU ĐẠT TƢƠNG ĐƢƠNG TRONG TIẾNG
VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ HỌC

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS ĐINH VĂN ĐỨC

HÀ NỘI – 2010


MỤC LỤC
Số trang
LỜI MỞ ĐẦU

4

1. Lý do chọn đề tài

4

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

6



3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

6

4. Tƣ liệu nghiên cứu

6

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

6

6. Bố cục luận văn

7

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

8

1.1. Khái quát chung về từ loại

8

1.1.1. Khái quát về từ loại trong tiếng Anh

9

1.1.1.1 Phân chia từ loại theo chức năng


1
1

1.1.1.2 Phân chia từ loại theo hình thức

1
1

1.1.2. Khái quát về từ loại trong tiếng Việt

1
2

1.2. Khái quát chung về hƣ từ

1
5

1.3. Khái quát chung về giới từ

1
7

1.3.1. Giới từ trong tiếng Anh

1
7

1.3.2. Giới từ trong tiếng Việt


2


3
1.3.3. Nghiên cứu giới từ trong ngôn ngữ học tri nhận

2
5

1.4. Khái quát chung về giới ngữ

2
7

Chƣơng 2: GIỚI NGỮ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CẤU TRÚC
NGỮ PHÁP

3
3

2.1. Về phƣơng diện cấu tạo

3
3

2.1.1. Cấu tạo của giới ngữ tiếng Anh

3
3


2.1.2.Cấu tạo của giới ngữ tiếng Việt

4
6

2.2. Về phƣơng diện vị trí của giới ngữ

5
4

2.3. Giới ngữ trong mối liên hệ với phó từ

5
8

Chƣơng 3: GIỚI NGỮ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CHỨC NĂNG
NGỮ PHÁP

6
1

3.1. Chức năng của giới ngữ

6
1

3.1.1. Giới ngữ thực hiện chức năng định ngữ (attribute) bổ
nghĩa cho danh từ


6
1

3.1.2. Giới ngữ thực hiện chức năng trạng ngữ (adverbial,
adjunct) bổ nghĩa cho câu

6
2


3.1.3.

Giới ngữ thực hiện chức năng vị ngữ trong câu (

nominal)

6
6

3.1.4. Giới ngữ thực hiện chức năng là modifiers bổ nghĩa
cho cụm từ (Phrases)

6
8

3.1.5. Giới ngữ thực hiện chức năng là complements bổ nghĩa
cho cụm từ (Phrase)

6
9


3.2. Giới ngữ từ phƣơng diện chức năng ngữ nghĩa (với
những giới ngữ chứa In, On, At)

7
1

3.2.1. Ngữ nghĩa ngữ pháp của những giới ngữ chứa In, On, At

7
1

3.2.1.1. Giới ngữ chứa In, On, At chỉ thời gian

7
1

3.2.1.2. Giới ngữ chứa In, On, At chỉ vị trí

7
5

3.2.1.3. Giới ngữ chứa In, On, At và những cách dùng
khác

7
7

3.2.2. Giới ngữ chứa In, On, At và những cách biểu đạt tƣơng
ứng trong tiếng Việt


8
2

3.2.2.1. Giới ngữ chứa In, On, At với ngữ nghĩa tƣơng
ứng trong tiếng Việt

8
2

3.2.2.2. Giới ngữ chứa In, On, At với ngữ nghĩa không
tƣơng ứng một đối một thuần túy với tiếng Việt

8
4

3.2.2.3. Giới ngữ chứa In, On, At với cách biểu đạt bằng
các yếu tố chỉ hƣớng hoặc không gian trong tiếng Việt
3.2.2.4. Giới ngữ chứa In, On, At với ngữ nghĩa không

8
6
8


đƣợc biểu đạt một cách cụ thể trong tiếng Việt

7

3.3. Giới ngữ và khả năng đánh dấu ngữ pháp của chúng


8
9
9

KẾT LUẬN
5
TÀI LIỆU THAM KHẢO

9
8
1

PHỤ LỤC
03


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo Lênin “ Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của loài
ngƣời”, song sự giao tiếp ấy chỉ có thể xảy ra khi có sự hiểu biết chung ( còn gọi
là tri thức nền) nhƣ nhau cả ở ngƣời phát lẫn ngƣời nhận. Do đó, để sử dụng
đƣợc một ngôn ngữ cần phải có những tri thức về lịch sử và văn hoá của ngƣời
bản ngữ. “ Điều có ý nghĩ lớn đối với việc hiểu ngôn ngữ là những ngƣời nói
phải có nếp sống xã hội thống nhất, có những phong tục, đạo đức, thói quen
chung đã đƣợc tạo ra do cùng chung sống trên một lãnh thổ hạn chế nhất
định…” ( B.A. Serebrennicov). Trong những năm gần đây, khi xu hƣớng toàn
cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ và các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau, cùng
hội nhập vào nền kinh tế thế giới, quan hệ giao lƣu Việt Nam với các nƣớc trong
khu vực và các nƣớc trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự

phát triển về kinh tế chính trị, sự giao lƣu về văn hóa xã hội cũng đƣợc quan tâm
đặc biệt. Một trong những phƣơng tiện thiết yếu, là cầu nối quan trọng cho sự
giao lƣu, hợp tác văn hoá giữa Việt Nam với các nƣớc trong khu vực và trên thế
giới là ngôn ngữ.
Hiện nay, tiếng Anh đƣợc coi là một ngôn ngữ quốc tế và đƣợc sử dụng
rộng rãi trên toàn thế giới. Chính vì vậy rất nhiều ngƣời Việt Nam cũng tích cực
học tiếng Anh nhƣ là ngôn ngữ bản địa của mình. Mặt khác, thời kỳ mở cửa của


Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty, tổ chức nƣớc ngoài hay cá
nhân đến sinh sống, làm việc, học tập và tìm hiểu về đất nƣớc, con ngƣời Việt
Nam. Trong quá trình tham gia giảng dạy tiếng Anh cũng nhƣ tiếng Việt ngƣời
ta đã phát hiện ra những nét tƣơng đồng và dị biệt giữa hai ngôn ngữ, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu ngôn ngữ một cách sâu rộng hơn, đồng thời
khắc phục những lỗi cơ bản dễ mắc phải của ngƣời học ngoại ngữ (cụ thể là
ngƣời Việt Nam khi học tiếng Anh và ngƣời nƣớc ngoài khi học tiếng Việt).
So sánh đối chiếu giữa các ngôn ngữ vốn là một đề tài hấp dẫn và là một
nhiệm vụ thƣờng xuyên của giới ngôn ngữ học. Xƣa nay đã có rất nhiều các
công trình nghiên cứu, so sánh, đối chiếu giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ khác
(cùng loại hình hoặc khác loại hình) và đã thu đƣợc rất nhiều kết quả to lớn. Kết
quả của các công trình nghiên cứu nghiên cứu đó đã đóng góp rất nhiều cho
ngôn ngữ trên phƣơng diện lý thuyết và ứng dụng, giúp các nhà nghiên cứu và
những ngƣời học ngoại ngữ hiểu sâu hơn về bức tranh ngôn ngữ của ngƣời bản
ngữ . Tiếp tục đi sâu nghiên cứu nội dung này, luân văn này tập trung khai thác
vấn đề “ Giới ngữ tiếng Anh (với các giới ngữ có IN, ON, AT) và các biểu
đạt tƣơng đƣơng trong tiếng Việt”. Đây là một đề tài thuộc địa hạt ngôn ngữ
học đối chiếu, cụ thể là nghiên cứu giới ngữ tiếng Anh và thông qua đó đối chiếu
với tiếng Việt. Đây là một đề tài phù hợp với khuôn khổ luận văn thạc sỹ. Thêm
nữa, chúng tôi muốn tập làm quen với các thao tác phân tích đối chiếu so sánh
thông qua một nhóm nhỏ trong “gia tộc” hƣ từ- nhóm giới từ để tiếp nối công

việc của ngƣời đi trƣớc.
Giới từ trong “đại gia đình” hƣ từ là một loại đƣợc đề cập đến rất nhiều
trong các sách giáo khoa bậc phổ thông và cả bậc đại học và đƣợc nghiên cứu
bởi nhiều tác giả nhƣ Đinh Văn Đức, Diệp Quang Ban, Nguyễn Thiện Giáp,


Nguyễn Chí Hòa, Lý Toàn Thắng… Tuy nhiên, phần lớn các tác giả này chỉ tập
trung nghiên cứu vào mảng giới từ với tƣ cách là một đối tƣợng độc lập trong
chức năng và mối quan hệ với các thành phần khác trong câu cũng nhƣ trong các
cụm từ mà chƣa có sự đề cập hay nếu có cũng chỉ nói đến rất ít mảng giới ngữ có
liên quan. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi xin đƣợc phép nghiên cứu
giới ngữ tiếng Anh và các biểu đạt tƣơng đƣơng của nó trong tiếng Việt nhằm
tìm hiểu sâu hơn vai trò, cấu trúc, chức năng của giới ngữ cũng nhƣ giới từ.
Đồng thời, chúng tôi cũng muốn áp dụng những kiến thức ngôn ngữ học mà
mình tiếp thu đƣợc trong quá trình học tập và nghiên cứu vào xử lý một vấn đề
cụ thể để trau dồi thêm những kỹ năng nghiên cứu nhằm phục vụ cho những
công trình nghiên cứu khoa học sau này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là tìm ra những nét tƣơng đồng và
dị biệt giữa giới ngữ tiếng Anh và các biểu đạt tƣơng đƣơng trong tiếng Việt
trong sự so sánh, đối chiếu giữa hai ngôn ngữ, khả năng kết hợp của các giới từ
IN, ON, AT và những cấu trúc tƣơng đƣơng đƣợc dùng trong những ngữ cảnh
nhất định của tiếng Việt. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng giúp ích nhiều cho
việc dạy tiếng Anh cho ngƣời Việt và dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu giới ngữ tiếng Anh ( tập trung vào ba giới từ IN, ON, AT)
trong sự đối chiếu với các biểu đạt tƣơng đƣơng trong tiếng Việt.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn sẽ tìm hiểu những vấn đề xoay quanh các
giới ngữ trong hai ngôn ngữ Anh và Việt. Nhƣng để làm bật một số đặc trƣng
nào đó của giới ngữ, luận văn có thể mở rộng phạm vi xem xét các địa hạt khác

khi cần thiết.


4. Tƣ liệu nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng tƣ liệu từ các tác phẩm văn học hoặc
các giáo trình tiếng Anh và tiếng Việt… Ngoài ra còn tham khảo và sử dụng một
số tƣ liệu của các nhà nghiên cứu đi trƣớc, ngữ pháp của các dạng câu trong
tiếng Anh. Tất cả các tƣ liệu này đã đƣợc tập hợp trong các giáo trình và các tài
liệu này đều có nguồn gốc xuất xứ. Chúng tôi cũng sẽ sử dụng một số ví dụ
trong ngôn ngữ hàng ngày- điểm cụ thể thể hiện rõ nét nhất sự khác biệt trong
bức tranh ngôn ngữ về thế giới của mỗi dân tộc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp cơ bản và đƣợc sử dụng xuyên suốt công trình nghiên cứu này
là phƣơng pháp so sánh đối chiếu. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sẽ sử dụng
phƣơng pháp thống kê, phân loại trong xử lý nguồn tƣ liệu. Đồng thời, để tìm
hiểu và phát hiện các đặc trƣng ngữ nghĩa, chức năng của các giới ngữ trong
tiếng Anh và tiếng Việt chúng tôi sẽ áp dụng các thủ pháp phân tích khi cần
thiết.
Chúng tôi sẽ khảo sát, phân tích giới ngữ dựa trên cả bình diện cấu trúc
chức năng ngữ pháp cũng nhƣ bình diện ngữ nghĩa, ngữ dụng. Trong các câu
dịch, chúng tôi sẽ cố gắng truyền tải ý nghĩa chính xác của các đoạn văn trong
những ngữ cảnh nhất định.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn chia làm 3 chƣơng sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết liên quan đến đề tài
Chƣơng 2: Giới ngữ nhìn từ góc độ cấu trúc ngữ pháp
Chƣơng 3: Giới ngữ nhìn từ góc độ chức năng ngữ pháp



Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái quát chung về từ loại
Từ loại là một nội dung quan trọng của ngữ pháp học trong nghiên cứu
ngôn ngữ. Mỗi ngôn ngữ đều sở hữu trong bản thân nó những vốn từ vựng đa
dạng và phong phú khác nhau. Do khối lƣợng đồ sộ và chức năng ngữ pháp đƣợc
sử dụng khác nhau nên từ loại đƣợc phân chia theo những mục đích khác nhau.
Về mặt từ vựng, có thể phân loại từ dựa trên cơ cấu ngữ nghĩa của từ vựng. [19]
Cũng có thể chỉ dùng nguyên tắc hình thái học ( nhƣ ở thời kỳ Alexandria và La


Mã) hoặc sử dụng cách pha trộn cả hai nguyên tắc hình thái học và ngữ nghĩa (
nhƣ ở Aristote và những ngƣời khắc kỷ). Đối với các từ có biến hình, việc phân
định theo hình thái học có vẻ hiển nhiên. Còn các hƣ từ không biến hình thì đƣợc
nhận diện trên cơ sở khả năng kết hợp với các thực từ. [5, tr. 467] Tuy nhiên
những nhà ngữ pháp học không dựa vào đó để phân loại từ mà dựa vào bản chất
ngữ pháp của từ, kết quả là ta có các từ loại. Nhƣ vậy, từ loại đƣợc hiểu một cách
nôm na là các lớp từ trong một ngôn ngữ cụ thể đƣợc phân chia dựa trên chức
năng ngữ pháp của chúng.
Cho đến nay tồn tại một cách phổ biến hai cách phân định từ loại: phân chia
vốn từ của một ngôn ngữ ra thành hai lớp khái quát là thực từ và hƣ từ, và phân
chia vốn từ của một ngôn ngữ ra thành nhiều lớp cụ thể hơn với những đặc trƣng
xác định hơn. Trong cách phân chia thứ nhất của ngữ pháp truyền thống châu
Âu, ứng với thực từ là tên gọi dịch ra tiếng Việt có nghĩa là “ các bộ phận của
lời”, ứng với hƣ từ là tên gọi thƣờng dịch ra tiếng Việt là “tiểu từ”; ngữ pháp
châu Âu hiện đại còn gọi là lớp từ từ vựng tính (thực từ) và lớp từ ngữ pháp tính
(hƣ từ). [5, tr. 468] Theo Đinh Văn Đức, các lớp từ, xét về mặt ngữ pháp có thể
chia ra, trƣớc hết, thành thực từ, hƣ từ và tình thái từ. Hai lớp sau khác với lớp
thứ nhất về mặt ý nghĩa và các đặc trƣng ngữ pháp, đồng thời cũng phân biệt với
nhau. Vì vậy có nhiều nhà ngôn ngữ học cho là có cơ sở để tiến hành việc phân
định từ loại chỉ trong phạm vi các thực từ. Nhƣng, mặt khác, nếu xem xét các lớp

từ từ quan hệ của chúng với các phạm trù của logic thì cần phải khảo sát các lớp
một cách bình đẳng. [dẫn theo 17, tr. 23]
1.1.1. Khái niệm về từ loại trong tiếng Anh
Các khái niệm về từ loại và cấu trúc câu trong tiếng Anh có những điểm
tƣơng đồng với tiếng Việt, song do mỗi ngôn ngữ lại có những đặc trƣng riêng


của nó nên luôn luôn tồn tại những điểm dị biệt. Thí dụ những khái niệm chung
về động từ, tính từ, trạng từ, chủ ngữ, vị ngữ…thì giống nhau nhƣng nếu ta đi
sâu vào nghiên cứu chi tiết về các mặt nhƣ cấu tạo, vị trí, vai trò chức năng của
chúng trong câu thì có thể tìm thấy vô số những điểm khác biệt. Có những khái
niệm mà chỉ trong tiếng Anh mới có còn trong tiếng Việt lại không có nhƣ sở
hữu cách, danh động từ, tính động từ…
Ngữ pháp tiếng Anh truyền thống – nghiên cứu từng bộ phận của ngôn ngữ
một cách riêng rẽ - chia vốn từ loại (part of speech, word classes, kinds of
words) thành hai nhóm lớn chính: nhóm hữu sinh (productive) và nhóm vô sinh
(non- productive).
Nhóm hữu sinh bao gồm:
- Danh từ (noun)
- Động từ (verb)
- Đại từ (pronoun)
- Tính từ (adjective)
- Phó từ (adverb)
Nhóm vô sinh bao gồm:
- Tính động từ (participle)
- Giới từ (preposition)
- Liên từ (conjunction)
- Thán từ (interjection)
- Mạo từ (article)
Theo Lê Dũng, Bùi Ý, Vũ Thanh Phƣơng, tiếng Anh lại có 8 từ loại hay

loại từ gồm: danh từ, đại từ, tính từ, động từ, phó từ, giới từ, liên từ và thán từ.
Theo đó mỗi từ loại có những chức năng riêng:


Tên từ loại

Chức năng

Ví dụ

Danh từ (Noun)

Chỉ ngƣời, vật, sự việc hay

Girl, baby, history,

khái

freedom…

niệm
Đại từ (pronoun)

Dùng để thay thế cho danh

I, he, them, who,
which…

từ
Tính từ

(adjective)

Bổ nghĩa cho danh từ. Gồm

A good teacher, my

nhiều loại, kể cả mạo từ (article) first lesson, new books…
và số từ (numeral)

Động từ (verb)

Chỉ hành động hoặc trạng
thái

Phó từ (adverb)

Giới từ
(preposition)

To run, to say, to
feel…

Bổ nghĩa cho động từ, tính

They work very

từ hoặc phó từ khác

hard, I was too tired


Đứng trƣớc danh từ hoặc

I spoke to him

đại từ
để chỉ quan hệ của chúng
với
các từ khác

Liên từ
(conjunction)
Thán từ

Nối các từ, cụm từ hoặc câu
với nhau
Diễn tả cảm xúc

You and I. He will
come if you ask…
Well! Ah! Yeah!

(interjection)

[46,tr. 12]


1.1.1.1. Phân chia từ loại theo chức năng
Phân chia từ loại theo chức năng là dựa vào chức năng cú pháp mà từ đảm
nhận trong câu. Vì một từ có thể đảm nhận nhiều công việc khác nhau nên nó có
thể thuộc một từ loại trong câu này nhƣng lại thuộc về một từ loại khác trong câu

khác.
Ví dụ:

I have two hands ( Tôi có hai tay – hands là danh từ)
He hands me the paper ( Anh ấy đƣa cho tôi tờ giấy – hand ở đây

là động từ
A round table ( Cái bàn tròn - round là tính từ)
A round of beer ( Một chầu bia – round là danh từ)
The Earth moves round the Sun ( Trái đất quay xung quanh mặt
trời – round là giới từ)
The police rounded them up ( Cảnh sát quây họ lại – round là
động từ)
This is his hat ( Đây là mũ của anh ấy – This là đại từ, his là tính
từ sở hữu)
This hat is his ( Cái mũ này là của anh ấy – This là tính từ, his là
đại từ sở hữu)
[46, tr.13]
1.1.1.2. Phân chia từ loại theo hình thức
Phân chia từ loại theo hình thức là dựa vào các tiếp tố (affixes) gắn với từ,
nếu có. Nhờ đó, chúng ta có thể ít nhiều đoán đƣợc một từ thuộc loại từ nào, ví
dụ:
- Danh từ với –ist, -dom, -ness, -ship, -red:
Artist

Freedom

Darkness

Hardship



(hoạ sỹ)

(tự do)

(bóng tối)

(nỗi gian truân)

Dramatist

Wisdom

Sweetness

Friendship

(nhà soạn kịch)

(sự thông thái)

(sự ngọt ngào)

(tình bạn)

- Động từ với –ed, -ing, -en, -ize, -fy, -ate:
Changed
(đã thay đổi)
Walked

(đã đi bộ)

Weaken
(làm cho yếu)
Sweeten

Modernize

(hiện đại
hóa)

(làm cho ngọt)

Purify
(làm cho tinh khiết)
Simplify
(làm cho đơn giản)

Minimize
(giảm thiểu)
- Tính từ với –ous, -ed, -en, -less, -ly, -ful.
Famous

Talented

Wooden

Fearless

(nổi tiếng)


(có tài)

(bằng gỗ)

(không sợ hãi)

Continous

Learned

Woollen

Hopeless

(tiếp diễn)

(có học)

(bằng len)

(không hy vọng)

Người ta thường phân chia tám từ loại nêu trên thành hai nhóm lớn:

- Open word classes: (từ loại có thể nhận thêm từ mới) gồm có: danh từ,
động từ, tính từ và phó từ. Số lƣợng mỗi từ loại thuộc nhóm này có thể từ một
vài nghìn đến cả trăm nghìn từ. Nhóm này bao gồm các content word, là những
từ mang nghĩa nội dung hay nghĩa từ điển (lexical meaning) nhƣ home (nhà ở,
quê hƣơng), bridge (cây cầu), slowly (chậm chạp).

- Close word classes: (từ loại có số lƣợng từ giới hạn) gồm đại từ, giới từ,
liên từ và thán từ. Số lƣợng mỗi từ loại thuộc nhóm này chỉ từ vài từ đến vài


mƣời từ và rất it khi nhận thêm từ mới. Nhóm này bao gồm các function word, là
những từ ít mang nghĩa nội dung nhƣng lại đóng vai trò quan trọng trong quan
hệ cú pháp của câu, nhƣ on (ở trên), beside (bên cạnh), he (ông ấy), and (và).
[12, tr.6]
1.1.2. Khái niệm về từ loại trong tiếng Việt
Khái niệm từ loại xuất phát từ cứ liệu ngôn ngữ châu Âu, nó gắn với các
phạm trù hình thái học khác nhƣ giống, số, cách...Vấn đề đƣợc đặt ra là, khi gắn
từ loại với phạm trù hình thái thì, đối với tiếng Việt, có cần thiết duy trì sự tồn tại
hay khẳng định sự có mặt của phạm trù từ loại hay không? Tuy nhiên, từ trƣớc
đến nay luôn tồn tại hai thái cực đối nghịch nhau về sự tồn tại của từ loại trong
tiếng Việt. Nhóm các tác giả phủ nhận việc tồn tại của từ loại nhƣ Lê Quang
Trinh, Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tùng cho rằng: từ (trong ngôn ngữ đơn lập)
không biến đổi hình thái do đó không thể phân chia từ loại một cách chính xác.
Tác giả Hồ Hữu Tùng cho rằng: tiếng Việt cơ cấu theo một lối khác hẳn so với
các ngôn ngữ phƣơng Tây (không có sự biến đổi hình thái) do đó không có từ
loại, mà, tuỳ thuộc vào vị trí trong câu mà có tính chất (thuộc tính) nhất định,
một từ có thể có nhiều thuộc tính khác nhau. Ở vào thế đối lập là các tác giả thừa
nhận sự tồn tại của từ loại, tuy nhiên, trong nhóm này có những khác biệt trong
việc nhận định, phân loại. Họ thừa nhận sự có mặt của phạm trù từ loại trong
tiếng Hán, tiếng Việt... nhƣng tiêu chí phân định không dựa vào đặc điểm hình
thái mà là ý nghĩa ngữ pháp và/hoặc thái độ ngữ pháp (khả năng kết hợp và chức
vụ ngữ pháp). Có những tác giả phân định từ loại chỉ thuần túy dựa vào ý nghĩa
khái quát nhƣ Trần Trọng Kim, Bùi Đức Tịnh. Theo đó từ loại là một phạm trù
ngữ pháp-logic. Có những tác giả lại dựa vào chức vụ cú pháp (một từ có thể



thuộc nhiều từ loại khác nhau) mà từ đảm nhận trong câu nhƣ Phan Khôi… hay
lại dựa vào khả năng kết hợp của từ trong câu nhƣ Lê Văn Lí, Nguyễn Tài Cẩn,
Lưu Vân Lăng, trong đó tập trung vào khả năng làm trung tâm của cụm từ, ngữ
hoặc khả năng làm thành tố phụ của ngữ.
Từ loại đƣợc Đinh Văn Đức định nghĩa nhƣ sau: “ Từ loại là những lớp từ
có cùng bản chất ngữ pháp, đƣợc phân chia theo ý nghĩa, theo khả năng kết hợp
với các từ ngữ khác trong ngữ lƣu và thực hiện những chức năng ngữ pháp nhất
định”. [17, tr23] Định nghĩa này cho ta thấy rõ đƣợc cách phân định từ loại trong
trong tiếng Việt. Nghiên cứu về từ loại là nghiên cứu các lớp từ của ngôn ngữ
xét theo các đặc trƣng ngữ pháp của chúng. Tiêu chí phân định từ loại đƣợc
nhiều tác giả nhƣ Đinh Văn Đức, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung… tán
thành nhất là dựa vào tập hợp ba tiêu chuẩn: (1) ý nghĩa - từ vựng ngữ pháp khái
quát có tính chất phạm trù của từ, (2) khả năng kết hợp của từ, và (3) chức năng
cú pháp chủ yếu của từ. Và hệ thống từ loại tiếng Việt có thể sắp xếp thành hai
nhóm bao gồm những từ loại sau:
Nhóm 1: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ
Nhóm 2: phụ từ (định từ, phó từ); kết từ; tiểu từ (trợ từ và tình thái từ)
Danh từ, động từ, tính từ, là ba từ loại cơ bản, chiếm số lƣợng lớn nhất và
thể hiện tƣơng đối đầy đủ và rõ rệt nhất các tiêu chuẩn phân loại. Về mặt ý
nghĩa, chúng có bản chất từ vựng - ngữ pháp, trực tiếp phản ánh các nội dung ý
nghĩa từ vựng khái quát có tính vật thể, hành động, trạng thái hoặc phẩm chất
thành các đặc trƣng phân loại. Về khả năng kết hợp, chúng có thể làm thành tố
chính - trung tâm ngữ nghĩa - ngữ pháp - trong một kết hơp từ, với các từ làm
thành tố phụ đứng xung quanh. Về chức năng cú pháp, danh từ, động từ, tính từ
có khả năng tạo câu và đảm nhiệm hầu hết các thành phần ở mọi vị trí trong cấu


tạo câu. Số từ phản ánh nội dung ý nghĩa số lƣợng có tính chất thực, gần gũi với
danh từ, động từ, tính từ. Số từ không có đƣợc khả năng kết hợp rộng rãi nhƣng
vẫn đảm nhiệm đƣợc đầy đủ các chức năng cú pháp nhƣ các từ loại nói trên. Vì

vậy, chúng có tƣ cách là thực từ, và có tác giả đã xếp cùng nhóm với danh từ.
Đại từ không trực tiếp phản ánh các nhân tố ý nghĩa từ vựng nhƣ thực từ. Nhƣng
do chúng có chức năng thay thế các thực từ, biểu hiện nội dung ý nghĩa của thực
từ mà chúng thay thế và đảm nhiệm các chức năng cú pháp của thực từ đƣợc
thay thế, nên có thể xem là một từ loại có vị trí trung gian trong hệ thống từ loại.
Do có quan hệ chặt chẽ với danh từ, động từ, tính từ, nên đại từ cũng đƣợc xếp
vào nhóm hai. [6, tr.77]. Từ ba tiêu chí phân định từ loại Đinh Văn Đức lại có
cách phân định từ loại thành ba tập hợp cơ bản:
- Các thực từ gồm: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ.
- Các hƣ từ gồm: từ phụ, từ nối.
- Các tình thái từ gồm: tiểu từ, trợ từ.
Nguyễn Hồng Cổn cũng có cách phân chia từ loại thành ba tập hợp cơ
bản theo sơ đồ sau:
Kết quả phân loại:

( Ngôn ngữ. Số 02/2003)


Tóm lại, việc hiểu về từ loại rất quan trọng. Mục đích chính của việc hiểu
biết từ loại là nhằm phát hiện bản chất ngữ pháp, tính quy tắc trong hoạt động
ngữ pháp và sự hành chức của các lớp từ trong quá trình thực hiện những chức
năng cơ bản của ngôn ngữ: làm công cụ để giao tiếp, để tƣ duy trừu tƣợng. Từ đó
có thể sử dụng các lớp từ cho đúng quy tắc, hợp với phong cách và chuẩn của
ngôn ngữ.

1.2.

Khái quát chung về hƣ từ

Khái niệm “hƣ từ”/ “từ trống” xuất hiện nhiều trong các ngôn ngữ Ấn – Âu,

ví nhƣ cách gọi “mots vides” (Pháp), “empty words” (Anh), “pustoe slovo”
(Nga), “leerwort” (Đức)… Ở các ngôn ngữ này, nhìn chung hƣ từ đƣợc đặt ở vị
thế đối lập với thực từ.
Trong tiếng Việt, hƣ từ đƣợc đặt trong thế đối lập với thực từ và tính thái
từ. Hƣ từ có thể hình thành hai tập hợp tạm gọi là các hƣ từ từ pháp và các hƣ từ
cú pháp. Các hƣ từ từ pháp có chức năng diễn đạt các ý nghĩa ngữ pháp của thực
từ (danh từ, động từ, tính từ, số từ). Trong quan hệ cấu trúc, chúng chuyên dùng
làm thành tố phụ trong các đoản ngữ. Các hƣ từ cú pháp, trái lại, không đƣợc
dùng để diễn đạt ý nghĩa ngữ pháp của thực từ này hay khác mà dùng để diễn đạt
mối quan hệ giữa thực từ với thực từ trong các phát ngôn – nghĩa là diễn đạt mối
quan hệ giữa các khái niệm trong tƣ duy trừu tƣợng. Hƣ từ cú pháp, theo đó,
cũng là công cụ diễn đạt các mối quan hệ logic, các quan hệ trong cách thức
phản ánh của ngƣời bản ngữ. Các hƣ từ cú pháp không làm trung tâm và cũng
không làm thành tố phụ đoản ngữ, chúng là một thứ phƣơng tiện liên kết “xúc
tác” thành tố phụ với trung tâm đoản ngữ, các đoản ngữ, các mệnh đề với nhau


trong cấu trúc phát ngôn. [17,tr.207] Theo tác giả Hoàng Trọng Phiến [32], hƣ từ
tiếng Việt có đặc điểm:
- Làm phƣơng tiện biểu hiện của các quan hệ ngữ pháp – ngữ nghĩa khác
nhau giữa các thực từ. Nghĩa của hƣ từ gắn với cách thức tƣ duy, hành vi tƣ duy.
Do đó chọn lựa hƣ từ nào để cấu tạo câu nói mang thông tin là xuất phát từ nhu
cầu diễn đạt của tƣ duy.
- Hƣ từ tham gia kiến tạo lập luận.
- Hƣ từ không làm trung tâm của cụm từ, của ngữ đoạn và không độc lập
làm thành phần câu cũng nhƣ không độc lập tạo ra câu. Hƣ từ và các kết cấu hƣ
từ đứng ngoài nòng cốt câu và có liên đới đến toàn câu nhằm diễn đạt ý nghĩa
ngữ dụng nào đó tùy theo chiến lƣợc của ngƣời sử dụng chúng.
- Hƣ từ tự nó không có khả năng biểu hiện sắc thái nghĩa. Nó có sắc thái
nghĩa khi tham gia vào một kết cấu cú pháp nào đó, trong một ngôn cảnh nào đó.

Trong phần “Trắc nghiệm về giới ngữ” tại công trình “Tiếng Việt – mấy
vấn đề ngữ âm – ngữ pháp – ngữ nghĩa” của mình, tác giả Cao Xuân Hạo đã trực
tiếp trình bày quan điểm về hƣ từ nhƣ sau: “Giới từ là một hƣ từ. Hình nhƣ chƣa
ai phủ nhận hay nghi ngờ điều đó. Tuy nhiên, ranh giới giữa thực từ và hƣ từ
nhiều khi có phần mơ hồ hay ít nhất không phải là hiển nhiên. Ngƣời ta hay nói
rằng, trong khi thực từ chỉ sự vật, thì hƣ từ chỉ mối quan hệ giữa các sự vật.
Nhƣng nếu thế thì cũng nên thừa nhận rằng hƣ từ không phải là rỗng nghĩa, vì nó
chỉ không có ý nghĩa sự vật mà thôi (hiểu theo một nghĩa rất hẹp và rất ƣớc định
nào đó). Nếu nó rỗng nghĩa thật thì chính nó không có lý do tồn tại trong ngôn
ngữ vốn là cái công cụ truyền đạt nghĩa. Nhƣng đơn vị ngôn ngữ nhƣ giới từ,
liên từ và các thứ chỉ tố này nọ không phải là rỗng nghĩa”. [tr.394]


Ngữ pháp truyền thống gọi các hƣ từ cú pháp là liên từ và giới từ. Trong
tiếng Việt cũng có những thuật ngữ khác gọi chúng nhƣ các từ nối hoặc quan hệ
từ.
1.3. Khái quát chung về giới từ
1.3.1. Giới từ trong tiếng Anh
Trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Anh” ( A grammar of the Eng lish language)
[44] có định nghĩa về giới từ nhƣ sau: The preposition is a form word which is
used with a noun ( or pronoun) to show its relation to other words in the
sentence. As its name – preposition – shows, preposition usually occupy a
position before a noun or a noun phrase. Even in languages with a developed
case system prepositions play an important role, serving to differentiate the
relations which are often indicated only vaguely by case inflextions. In modern
English, which has lost almost all case forms, prepositions have become a most
important means of indicating the various relations of nouns to the other words
in the sentence” [tr.158]
( Giới từ là từ hình thái đƣợc sử dụng với một danh từ (hoặc đại từ) để biểu
thị mối quan hệ của nó với những từ khác trong câu. Tên gọi “giới từ” cho thấy

rằng giới từ luôn luôn chiếm vị trí trƣớc danh từ hay cụm danh từ. Thậm chí
trong một ngôn ngữ có hệ thống cách hoàn thiện thì giới từ đóng vai trò quan
trọng có nhiệm vụ phân biệt những mối quan hệ thƣờng đƣợc thể hiện rất mờ
nhạt bằng sự biến đổi hình thái cách. Trong tiếng Anh hiện đại mà mất đi hầu hết
những dạng cách thì giới từ trở thành phƣơng tiện quan trọng nhất chỉ ra những
mối quan hệ khác nhau với những từ khác trong câu)


Lê Dũng có định nghĩa giới từ nhƣ sau: “Giới từ là từ dùng để chỉ mối quan
hệ giữa danh từ hoặc đại danh từ với một từ khác trong câu”. [12, tr.176]
Nhƣ vậy, ở hầu hết các sách ngữ pháp đều có chung định nghĩa về giới từ
với tƣ cách là từ nối danh từ hay đại từ với từ đứng trƣớc.
Giới từ không nhiều lắm nhƣng không nhất thiết phải biết hết tất cả. Chúng
tôi đã bỏ bớt một số giới từ ít gặp hơn trong tiếng Anh cơ bản. Các giới từ đơn
cơ bản bao gồm:
about =

về,

above =

bên trên,

across =

ngang qua, băng qua,

after =

sau,


against =

chống lại, vào,

along =

dọc theo,

among =

giữa (3 trở lên),

around =

quanh, vòng quanh,

at =

tại, lúc,

abroad =

ngoài

ahead =

phía trƣớc

amid =


ở giữa, trong số

as =

nhƣ là

before =

trƣớc

behind =

đằng sau

below =

bên dƣới, dƣới

beside =

bên cạnh

between =

giữa (2 trở lên)


beyond =


quá, lên trên, ra ngoài

beneath =

dƣới

beyond =

xa hơn

but =

nhƣng

by =

bằng, bởi

despite=

bất chấp

down =

dƣới

during =

trong suốt (khoảng thời gian nào đó)


except =

ngoại trừ

excluding =

chƣa kể

for =

cho, trong (khoảng thời gian)

from =

từ

following =

theo sau

forward =

phía trƣớc

in =

trong, ở trong

inside=


bên trong

into =

vào

including =

bao gồm

like =

nhƣ

minus =

không tính đến

near =

gần

of =

của

off =

xa, theo sau động từ, tạo nghĩa riêng


on =

trên

onto =

lên trên


out =

ngoài

outside =

bên ngoài

over =

ở trên đầu, trên

opposite =

đối diện

past =

qua, quá

per =


mỗi

plus =

kể cả

since =

từ khi

regarding =

liên quan tới

round =

xung quanh

through =

xuyên qua, thông qua

throughout=

suốt, từ đầu đến cuối

till =

đến khi


to =

đến

toward =

phía trƣớc

together =

cùng

under =

dƣới

until =

cho đến khi

up =

trên, lên

upon =

theo sau động từ

via =


thông qua

with =

với

within =

trong phạm vi, trong vòng

without =

mà không có


Giới từ cũng có thể là một cụm từ: instead of, in front of, for the sake
of, with regard to, at the back of, in spite of, on account of…
Ví dụ : He will come instead of me
( Anh ấy sẽ đến thay cho tôi)
The teacher stood in front of the class
(Thầy giáo đứng trƣớc lớp)
What did he say with regard to my proposals?
(Ông ấy nói sao về những đề nghị của tôi?)
[46, tr.134]
Giới từ có thể biểu thị mối quan hệ:
1.3.1.1. của một danh từ với một danh từ ( hoặc đại từ); danh từ đứng sau
giới từ là một định ngữ (attribute) bổ sung ý nghĩa cho danh từ trƣớc đó:
Ví dụ: The key to the golden box is lost
( Chiếc chìa khóa của cái hộp vàng đã bị mất)

He is a man of honour
(Ông ấy là một ngƣời danh giá)
1.3.1.2. của một danh từ (hoặc đại từ) với một tính từ; giới từ đứng trƣớc
danh từ đóng vai trò làm bổ ngữ hoặc là trạng ngữ:
Ví dụ: Our country is rich in minerals
(Nƣớc chúng ta giàu khoáng sản)
She is free from care
(Cô ấy chả phải lo lắng gì)
This knife is good for nothing
(Con dao này không sử dụng đƣợc nữa )


×