Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Sáng kiến giúp học sinh lớp 4 phân biệt từ đơn, từ ghép và từ láy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.57 KB, 41 trang )

TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Ở tiểu học, Tiếng Việt có vai trò hết sức quan trọng. Là bộ môn giúp học sinh
hình thành những kĩ năng cần thiết để học tập và giao tiếp, đồng thời cung cấp cho
học sinh những kiến thức ban đầu về tự nhiên, xã hội, văn hóa, con người. Qua đó,
hình thành và phát triển nhân cách cho các em.
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp 4
nói riêng, tôi nhận thấy đa số các em nhận diện các kiểu từ theo cấu tạo còn chưa
tốt, kĩ năng xác định từ của học sinh con nhiều hạn chế dẫn đến việc sử dụng từ
thiếu chính xác trong nhiều trường hợp diễn đạt kể cả nói và viết và ứng dụng làm
bài tập, ảnh hưởng đến kết quả học tập môn Tiếng Việt. Có nhiều nguyên nhân,
trong đó chủ yếu vẫn là những nguyên nhân tập trung từ phía người học (học sinh)
và người dạy( giáo viên).
Trong khuôn khổ bài viết có hạn, tôi chỉ đề cập đến một vấn đề, đó là " Sáng
kiến phân biệt từ đơn, từ ghép và từ láy học sinh lớp 4”.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:
- Các điều kiện cần thiết để áp dụng Sáng kiến:
+ Đối với học sinh:Có hiểu biết về từ, có kiến thức thực tế về vốn từ. Cần
có ý thức tự giác học tập cao, thường xuyên trau dồi để mở rộng vốn từ cho mình,
đọc nhiều văn bản
+ Đối với giáo viên: Có trình độ đạt chuẩn trở lên, thường xuyên cập nhật
các phương pháp, hình thức dạy học mới. Tự học, tự nghiên cứu, tham khảo ý kiến
đồng nghiệp, các chuyên gia về lĩnh vực ngôn ngữ để nâng cao kiến thức chuyên
môn nghiệp vụ cho mình.
+ Nhà trường: Có sự chỉ đạo thường xuyên, bài bản, sát sao của cán bộ quản
lý, tổ trưởng chuyên môn; có hệ thống thư viện đủ sách từ điển.
- Thời gian áp dụng sáng kiến: Năm học 2015 - 2016
- Đối tượng áp dụng sáng kiến: Học sinh lớp 4
1



3. Nội dung sáng kiến
Để có được các biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 4 nhận diện và sử dụng
từ đơn, từ ghép, từ láy có hiệu quả, trước hết, tôi tìm hiểu về thực trạng dạy của
giáo viên và việc học tập kiến thức phần cấu tạo từ của học sinh lớp 4 trong
trường, sau đó tiến hành nghiên cứu và đưa ra các giải pháp thực hiện (Chủ yếu áp
dụng vào các tiết học Tiếng Việt tăng và các tiết Luyện từ và câu về mở rộng vốn
từ). Các giải pháp chính đó là:
- Tổ chức dạy hình thành, khắc sâu khái niệm về từ đơn, từ ghép và từ láy
cho học sinh.
- Hướng dẫn học sinh làm các bài tập dưới các dạng bài tập từ dễ đến khó,
từ bài tập nhận biết đến bài tập sáng tạo nhằm giúp học sinh khắc sâu kiến thức,
củng cố kĩ năng.
- Đưa ra những dấu hiệu giúp học sinh phân loại từ đơn với từ ghép, từ ghép
với từ láy, từ ghép tổng hợp với từ ghép phân loại.
- Sử dụng 2 phương pháp thảo luận (theo cặp, nhóm) và trò chơi học tập
vào hoạt động tổ chức cho học sinh luyện tập thực hành.
- Bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho giáo viên
- Bồi dưỡng kiến thức Tiếng Việt chuyên sâu cho giáo viên.
- Khai thác kiến thức bài dạy linh hoạt, sáng tạo
Các giải pháp đưa ra cùng với hệ thống bài tập để phân tích giúp học sinh
từng bước nhận diện, phân biệt đúng các bài tập phân tích giá trị của việc sử dụng
từ đơn, từ ghép, từ láy để từ đó giúp các em học tập là biết sử dụng từ ngữ nhằm
diễn đạt ý sinh động, có hình ảnh, giàu cảm xúc.
Mặt khác, với mỗi dạng bài tập đều nêu những khó khăn học sinh thường
mắc phải và đề xuất giải pháp khắc phục, những mẹo để phân biệt từ đơn, từ ghép
từ láy mà trong sách giáo khoa chưa đề cập đến. Qua đó giúp giáo viên có thể vận
dụng một cách linh hoạt với đối tượng học sinh lớp mình nhằm khắc phục những
hạn chế trong phần học về cấu tạo từ. Đây chính là tính khả thi của các giải pháp.
2



4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Với việc thực hiện các giải pháp nêu trên, học sinh tích cực, chủ động hơn
khi học về cấu tạo từ, kết quả học tập về nội dung này có tiến bộ rõ rệt. Học sinh
biết phân biệt từ đơn, từ ghép, từ láy và sử dụng chúng có hiệu quả.
Sáng kiến có lợi ích thiết thực về xã hội, tạo điều kiện để giáo viên đổi mới
phương pháp dạy học một cách hiệu quả, sát thực tế giảng dạy của giáo viên, thực
tế học tập của học sinh hiện nay.
5. Đề xuất khuyến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến:
- Đối với học sinh: Học sinh có đầy đủ SGK, phải tích cực học tập, chuẩn
bị bài trước khi lên lớp.
- Đối với giáo viên:
+ Nắm được mục đích, nội dung, nhiệm vụ phân môn Luyện từ và câu nói
chung và của phần từ đơn, từ ghép, từ láy nói riêng.
+ Giáo viên có vốn hiểu biết về từ đơn, từ ghép, từ láy.
Sáng kiến sẽ có hiệu quả tốt hơn nếu được triển khai và tiếp cận trong nhiều
nhà trường, thường xuyên được kiểm tra, rút kinh nghiệm; nhận được nhiều ý kiến
phản hồi từ giáo viên thực hiện.

3


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Cùng với Toán, môn Tiếng Việt được xem là môn học đóng vai trò "công cụ
" trong trường tiểu học. Hơn thế nữa, với nội dung kiến thức và 4 kĩ năng: nghe,
nói, đọc, viết mà môn học mang lại, Tiếng Việt trở thành công cụ số Một, quan
trọng nhất ở bậc tiểu học, là chìa khóa mở cánh cửa tới các môn học khác.
Môn Tiếng Việt ở lớp 4 bao gồm 5 phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả,
Luyện từ và câu và Tập làm văn. Trong đó, chiếm thời lượng khá nhiều và đóng

vai trò quan trọng, cung cấp kiến thức sơ giản về từ, rèn luyện kĩ năng: nói, viết và
giao tiếp cho học sinh tiểu học là phân môn Luyện từ và câu.
Việc dạy Luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hóa làm phong phú vốn
từ của học sinh, cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về từ và câu, rèn
cho học sinh kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các kiểu câu trong hoàn cảnh giao
tiếp nhất định. Luyện từ và câu có vai trò hướng dẫn học sinh trong việc nghe, nói,
đọc, viết phát triển ngôn ngữ và trí tuệ.
Vấn đề cấu tạo từ đã được dạy ở các lớp 1, 2, 3 song mới chỉ dưới hình
thức sơ giản thông qua các bài tập tìm từ. Đến lớp 4, lý thuyết về từ mới thực sự
được dạy trong 3 trên tổng số 62 tiết:
Tuần 3: Từ đơn và từ phức ( 1 tiết )
Tuần 4: Từ ghép và từ láy ( 2 tiết )
Lên đến lớp 5, học sinh chỉ được ôn tập lại cấu tạo từ trong 1 tiết ở tuần 17
( Bài: Ôn tập về từ và cấu tạo từ)
Do thời lượng dạy về Cấu tạo từ còn ít ỏi, chỉ trong một vài tiết nên nhiều
giáo viên chưa đi sâu, mới chỉ chuyển tải đến học sinh những kiến thức trong
phạm vi khái niệm mà SGK đưa ra. Chính vì thế, việc nắm khái niệm của nhiều
em còn rất mơ hồ. Nhiều khi các em chỉ mới dừng lại ở dấu hiệu hình thức của từ
mà chưa hiểu bản chất dẫn đến nhận diện sai. Mà đã nhận diện sai thì sử dụng
cũng không thể chính xác.
4


Mặt khác, khái niệm từ đơn, từ ghép, từ láy mà SGK Tiếng Việt lớp 4 đưa ra
mới chỉ nhấn mạnh cách thức tạo từ mà chưa đề cập đến mối quan hệ của các
tiếng trong từ. Nếu chỉ dựa vào khái niệm đó, không có kiến thức sâu sắc về từ.
Khái niệm về từ đơn, từ ghép, từ láy SGK Tiếng Việt lớp 4 đưa ra như sau:
- Tiếng cấu tạo nên từ. Từ chỉ gồm một tiếng gọi là từ đơn. Từ gồm hai hay
nhiều tiếng gọi là từ phức. Từ nào cũng có nghĩa và dùng để tạo câu.
( Tiếng Việt 4/ tập 1 - trang 28)

- Có hai cách chính để tạo từ phức là:
1. Ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau. Đó là các từ ghép.
2. Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần ( hoặc cả âm đầu và vần) giống
nhau. Đó là các từ láy.
( Tiếng Việt 4/ tập 1 - trang 39)
Khái niệm trên có thuận lợi cho học sinh tiểu học trong việc phân biệt từ đơn
và từ phức nhưng lại gây khó khăn cho các em trong việc phân biệt từ ghép và từ
láy. Bởi vì khái niệm này mới chỉ đề cập đến phương thức tạo từ phức mà chưa đả
động đến mối quan hệ của các tiếng trong từ. Điều này dễ khiến cho nhiều học
sinh nhầm lẫn giữa kết hợp 2 từ đơn và từ ghép, nhầm lẫn giữa từ ghép và từ láy.
( Chẳng hạn các em cho rằng ngủ ngon là một từ ghép vì đối chiếu với khái niệm
" ghép các tiếng có nghĩa lại với nhau" là được từ ghép. Nhiều em cho rằng học
hành, đi đứng, tươi cười, mềm mỏng... là từ láy vì các tiếng có âm đầu hoặc vần
giống nhau). Từ việc hiểu sai dẫn đến các em không thấy hết được giá trị gợi tả
của từ ghép, từ láy và khả năng sử dụng từ còn rất hạn chế.
2. Cơ sở lí luận
Khi phân loại từ tiếng Việt về mặt cấu tạo người ta căn cứ vào số lượng hình
vị để chia từ tiếng Việt thành từ đơn và từ phức. Dựa vào phương thức tạo từ
người ta chia từ phức thành: từ láy (sản phẩm của phương thức láy) và từ ghép
(sản phẩm của phương thức ghép).
Khi phân loại từ Tiếng Việt theo cấu tạo hiện nay còn có nhiều quan điểm:
5


- Đa số các nhà nghiên cứu đều căn cứ vào số lượng hình vị để chia từ tiếng
Việt thành Từ đơn (từ 1 hình vị) và từ phức (từ do 2 hình vị trở lên tạo thành).
Trong từ đơn lại căn cứ vào số lượng âm tiết mà chia thành từ đơn đơn âm và từ
đơn đa âm.
- Ở tiểu học hiện nay lại căn cứ vào số lượng tiếng để chia từ tiếng Việt thành
Từ đơn ( từ có 1 tiếng) và Từ phức ( từ do 2 tiếng trở lên tạo thành).

Như vậy trong việc phân loại từ theo cấu tạo thì quan điểm của các nhà
nghiên cứu và của các nhà biên soạn sách ở tiểu học có nhiều điểm khác nhau. Do
đó có một số từ theo quan điểm của các nhà nghiên cứu từ đơn thì ở tiểu học lại
xếp các từ láy hoặc từ ghép ( VD: bồ kết, tắc kè, chèo bẻo... hay mì chính, cà phê,
xà phòng... ). Do có những quan điểm khác nhau trong việc phân loại từ nên đã có
nhiều cách hiểu khác nhau trong giáo viên dẫn đến nhiều khi vấn đề phân loại từ
còn có mâu thuẫn.
Trong quá trình dạy học cũng như việc phát hiện học sinh năng khiếu, tôi
cũng như một số giáo viên khác khi dạy đến tiết Luyện từ và câu, đặc biệt các khái
niệm về từ đơn, từ ghép, từ láy,... bộc lộ không ít hạn chế. Về nội dung chương
trình dạy phần đó như đã nêu ở trên trong sách giáo khoa rất ít. Chính vì vậy học
sinh rất khó xác định, dẫn đến tiết học trở nên nhàm chán không thu hút học sinh
vào hoạt động này. Để tháo gỡ khó khăn đó rất cần có những biện pháp rèn kĩ
năng tốt nhất, có hiệu quả nhất để giúp học sinh có khả năng nhận diện và sử dụng
về từ đơn, từ ghép, từ láy.
Từ những lí do khách quan và chủ quan đã nêu trên, trên cơ sở việc học tập,
giảng dạy trong nhiều năm qua, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu sâu hơn về
việc nhận diện và sử dụng từ đơn, từ ghép, từ láy cho học sinh lớp 4 nhằm tìm ra
được biện pháp phù hợp nhất, vận dụng tốt nhất trong quá trình giảng dạy của
mình. Vì điều kiện, khả năng nghiên cứu có hạn tôi xin mạnh dạn trình bày kết
quả nghiên cứu của mình thông qua sáng kiến “ Sáng kiến phân biệt từ đơn, từ
ghép và từ láy học sinh lớp 4.”
6


3 . Thực trạng việc dạy và học về từ đơn, từ ghép, từ láy trong phân môn
Luyện từ và câu lớp 4.
3.1. Thực trạng việc dạy của giáo viên
3.1.1. Sự thiếu hụt kiến thức phổ thông về Tiếng Việt
Phải khẳng định rằng nhiều giáo viên trong các trường tiểu học hiện nay

thiếu hụt kiến thức phổ thông về Tiếng Việt. Với mảng kiến thức về từ đơn, từ
ghép, từ láy, thể hiện là:
- Vốn từ hạn chế, hiểu các kiến thức về từ và câu còn hời hợt, thiếu chắc
chắn, kĩ năng phân tích ngôn ngữ, phân tích ngữ liệu chỉ đạt mức bình thường.
- Kĩ năng xác định từ đơn với từ phức, từ ghép với từ láy trong các đoạn
văn, đoạn thơ.
Những hạn chế này của giáo viên tác động trực tiếp lên học sinh. Thực tiễn,
đây cũng là vấn đề học sinh hay mắc trong khi học tập, thực hành phân môn
Luyện từ và câu.
3.1.2. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thiếu chủ động, thiếu linh hoạt,
chưa hiệu quả.
Vấn đề trở thành lối mòn khó sửa của một số giáo viên bấy nay là:
- Phương pháp giảng dạy đơn điệu, chủ yếu dựa vào sách giáo viên, sách
thiết kế bài dạy, chỉ hướng dẫn học sinh giải quyết lần lượt các nhận xét, bài tập
theo đáp án mà sách giáo viên hoặc sách thiết kế nêu ra; sợ sai, không tự tin đưa ra
các ví dụ, các trường hợp khác để mở rộng, khắc sâu cho học sinh.
- Hướng dẫn học sinh luyện tập, khai thác nội dung bài chưa tốt, sửa sai cho
học sinh chưa hiệu quả, không giúp học sinh thấy được cái sai và cách sửa chữa
mà chỉ nêu ngay đáp án đúng.
3.1.3. Nhận thức chưa đầy đủ của giáo viên
- Qua dự giờ, thăm lớp, qua phỏng vấn tôi nhận thấy, một bộ phận không
nhỏ giáo viên chưa xác định đầy đủ tầm quan trọng của việc giảng dạy phân môn
Luyện từ và câu nói riêng, của môn Tiếng Việt nói chung.
7


- Xuất phát từ nhận thức trên mà việc giảng dạy nội dung kiến thức phân
môn Luyện từ và câu còn nhiều hạn chế, giáo viên chưa mạnh dạn đổi mới
phương pháp để có những tiết dạy hiệu quả, phát huy tính tích cực của học sinh.
3.2. Thực trạng việc học của học sinh

Trong thực tế giảng dạy, tôi thấy học sinh sau khi học riêng khái niệm từng
bài, vận dụng giải quyết bài tập thì phần lớn là làm được ( những bài ở sách giáo
khoa đưa ra ở mức độ đơn giản) nhưng khi được luyện sang bài khác (như các bài
Tập đọc, các bài tập nâng cao theo bộ đề ) thì còn lúng túng, nhầm lẫn giữa 1 từ
ghép thành 2 từ đơn hoặc 2 từ đơn thành 1 từ ghép, nhầm lẫn từ láy thành từ ghép
và từ ghép thành từ láy. Ví dụ khi tôi khảo sát việc nắm kiến thức và kĩ năng nhận
diện và phân loại từ theo cấu tạo học sinh thường có một số nhầm lẫn sau:
+ Trường hợp kiểu láy như chuồn chuồn, chôm chôm…có những em không
cho đây là từ láy và giải thích không có từ láy là danh từ.
+ Trường hợp các từ có các tiếng vừa có quan hệ về âm, vừa có quan hệ về
nghĩa như tươi tốt, thúng mủng, đi đứng…nhiều em cho đây là từ láy; các từ có
một yếu tố mất nghĩa như đất đai, chim chóc, khách khứa… cũng được các em
xếp vào từ ghép.
+ Các từ Hán Việt như chuyên chính , cần mẫn…được các em cho là từ láy
trong khi các từ láy vắng khuyết phụ âm đầu như ồn ào, ầm ĩ hoặc các từ láy có
phụ âm đầu được viết bằng những con chữ khác nhau như cong queo, kính coong
lại không được xem là từ láy.
- Học sinh nắm khái niệm còn chưa vững, chưa sâu hoặc nắm được khái niệm
nhưng việc vận dụng vào làm bài tập nâng cao còn nhiều hạn chế.
- Học sinh chưa nhận dạng được các từ láy đặc biệt khuyết phụ âm đầu
thường là các từ tượng thanh, tượng hình.
- Học sinh không phân biệt được từ ghép phân loại và từ ghép tổng hợp trong
các trường hợp từ đó có tiếng gốc là một động từ hay một tính từ.
- Học sinh có vốn từ ghép và từ láy có 3 hay 4 tiếng rất hạn chế.
8


- Thời gian giảng dạy về Từ đơn, từ ghép, từ láy trên lớp không nhiều (Từ
đơn từ phức: học 2 tiết; 2 tiết tìm hiểu từ ghép phân loại) nên giáo viên chỉ tập
trung dạy kiến thức cơ bản, ít có điều kiện mở rộng nâng cao kiến thức cho học

sinh nên khi gặp một số từ có hình thức ngữ âm “đánh lừa” học sinh dễ bị nhầm
lẫn.
4. Một số giải pháp thực hiện
Để giúp học sinh từng bước làm chủ được từ ngữ, đi từ nhận diện đến sử
dụng từ đơn, từ ghép có hiệu quả, trong quá trình hướng dẫn HS nhận diện cũng
như sử dụng, tôi đều kết hợp giữa ôn tập lý thuyết gắn liền với thực hành để các
em tự rút ra kết luận.
* Lý thuyết:
- Khắc sâu khái niệm về từ đơn, từ ghép, từ láy.
- Hướng dẫn học sinh lập bảng hệ thống kiến thức về cấu tạo từ tiếng Việt.
- Lập bảng phân loại, chỉ ra sự giống, khác nhau giữa từ ghép và từ láy, từ
ghép với kết hợp hai từ đơn.
* Thực hành:
- Tôi xây dựng hệ thống bài tập giúp học sinh từng bước nhận diện, phân
biệt đúng đến các bài tập phân tích giá trị của việc sử dụng từ ghép, từ láy để từ đó
giúp các em học tập và biết sử dụng từ ngữ nhằm diễn đạt ý sinh động, có hình
ảnh, giàu cảm xúc.
4.1 . Giải pháp thứ nhất: Tổ chức dạy hình thành, khắc sâu khái niệm về từ
đơn, từ ghép, từ láy cho học sinh.
Các khái niệm từ đơn, từ phức, từ ghép, từ láy bắt đầu được hình thành từ
lớp 4, đây là khái niệm tưởng chừng như đơn giản, song để hiểu khái niệm đó, vận
dụng vào làm bài tập nhận diện, phân loại từ đơn, từ phức, từ ghép, từ láy đối với
học sinh lớp 4 là một vấn đề khó khăn, lúng túng. Bởi vậy, tôi luôn coi trọng các
giải pháp này là hàng đầu. Để thực hiện tốt các giải pháp, tôi giúp học sinh nắm
chắc các khái niệm đó qua các bước sau:
9


+ Bước 1: Phân tích ngữ liệu với mục đích làm rõ những dấu hiệu bản chất
của khái niệm từ đơn, từ phức, từ ghép, từ láy.

* Ở bước này tôi đã lưu ý cho học sinh tiếp xúc với ngữ liệu (câu văn, câu
thơ...) tiêu biểu và dễ, trong ngữ liệu có chứa hiện tượng ngôn ngữ cần dạy.
+ Bước 2: Khái quát hoá các dấu hiệu, thiết lập quan hệ giữa các dấu hiệu
của khái niệm, đưa thuật ngữ. Học sinh nắm thao tác so sánh và tổng hợp.
+ Bước 3: Trình bày định nghĩa, khái niệm, lấy ví dụ để minh hoạ
* Để chuẩn bị dạy khái niệm về từ đơn, từ ghép, từ láy, tôi đã đặt khái niệm
trong hệ thống chương trình Luyện từ và câu để học sinh thấy rõ vị trí của nó,
đồng thời phải nắm chắc nội dung khái niệm, nghĩa là những dấu hiệu bản chất
của nó. Tôi đã lưu ý học sinh hiểu rõ ý đồ của người soạn sách để chọn các thao
tác hướng dẫn học sinh phân tích cho phù hợp.
Ví dụ 1: Dạy khái niệm từ đơn, từ phức.
+ Tôi đưa ra ngữ liệu (câu văn)
Nhờ/bạn/ giúp đỡ/, lại/ có/ chí/ học hành/, nhiều/ năm/ liền/, Hanh/ là học/
sinh/ tiên tiến.
+ Gọi 2 học sinh đọc lại ngữ liệu.
+ Tôi hỏi: Mỗi từ được phân cách bằng một dấu gạch chéo. Câu văn trên có
bao nhiêu từ (14 từ)
+ Tôi yêu cầu học sinh chia các từ trong ngữ liệu thành 2 loại:
- Từ chỉ gồm 1 tiếng (từ đơn)

Mẫu: nhờ

- Từ gồm nhiều tiếng (từ phức)

Mẫu: giúp đỡ.

+ Qua phân tích, nhận biết dấu hiệu từ đơn, từ phức, giáo viên cho học sinh
rút ra:
Thế nào là từ đơn? (từ đơn là từ gồm có một tiếng)
Thế nào là từ phức? (từ phức là từ gồm hai hay nhiều tiếng)

+ Tôi yêu cầu học sinh đọc thuộc nối tiếp ghi nhớ và lấy ví dụ minh hoạ cho
từng khái niệm từ đơn, từ phức.
10


+ Tôi yêu cầu cả lớp nhận xét việc lấy ví dụ của bạn (đã chính xác hay chưa
chính xác? Vì sao?)
 Tôi chốt lại khái niệm đưa ra bảng tổng kết
Từ đơn
Từ phức
- Là từ do một tiếng - Là từ do 2 hoặc nhiều tiếng gộp lại tạo thành nghĩa chung
có nghĩa tạo thành

gọi là từ phức. Mỗi tiếng trong từ phức có thể có nghĩa rõ

ràng hoặc không rõ ràng.
Ví dụ 2: Dạy khái niệm từ ghép, từ láy.
+ Giáo viên đưa ra ngữ liệu (câu văn)
Giữa/vườn/ lá /xum xuê/, xanh mướt/còn /ướt/ đẫm/ sương đêm,/ có/ một/
bông hoa /rập rờn/ trước/ gió./
+ Gọi 2 học sinh đọc lại ngữ liệu.
+ Giáo viên hỏi: Nêu các từ phức trong câu trên?
- Từ phức nào do những tiếng có nghĩa tạo thành? ( xanh mướt, sương đêm,
bông hoa.) -> GV chốt: Các từ đó là từ ghép.
- Từ phức nào do những tiếng có âm đầu hoặc vần lặp lại tạo thành? ( xum
xuê, rập rờn) -> GV chốt: Các từ: xum xuê, rập rờn là từ láy.
Thế nào là từ ghép? ( là ghép những tiếng có nghĩa ghép lại với nhau.)
Thế nào là từ láy? ( Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần giống nhau)
+ Tôi yêu cầu học sinh đọc thuộc nối tiếp ghi nhớ và lấy ví dụ minh hoạ cho
từng khái niệm từ ghép, từ láy.

=> Tôi đã chốt lại khái niệm đưa ra bảng so sánh:
- Giống nhau: đều là từ nhiều tiếng ( 2; 3 hay 4 tiếng)
- Khác nhau:

Từ ghép

Từ láy
11


- Các tiếng trong từ

- Các tiếng trong từ láy có quan hệ với nhau về âm (các bộ

ghép có quan hệ với

phận của tiếng láy giống nhau hay hài hoà về âm thanh). Sự

nhau về nghĩa.

giống nhau về âm thanh có tác dụng tạo nghĩa cho từ láy
(tăng giá trị gợi hình gợi cảm).
- Từ láy thường có 1 tiếng gốc có nghĩa còn 1 tiếng láy bị mờ
hoặc mất nghĩa (trừ trường hợp láy hoàn toàn: VD: xanh

xanh) .
4.2 Giải pháp thứ hai: Hướng dẫn học sinh làm bài tập theo dạng từ dễ đến
khó giúp học sinh khắc sâu kiến thức, củng cố kĩ năng.
Từ thực tiễn dạy học cho tôi thấy: Nhiều học sinh khi trả lời về lí thuyết rất
trôi chảy, rất đúng, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lại lúng túng và làm bài

không đạt yêu cầu. Điều này có nghĩa là khi chủ động vận dụng những kiến thức
đã học, học sinh tỏ ra yếu kém, thiếu chắc chắn. Học sinh không có thói quen vận
dụng các kiến thức đã học vào làm bài tập. Vì vậy giáo viên thực hiện phương
châm: “Coi trọng việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh”.
Các dạng bài tập thử thách khả năng vận dụng vào luyện tập thực hành của
học sinh, giáo viên cần sắp xếp thứ tự từ dễ đến khó.
* Dạng 1: Cho sẵn các từ rồi yêu cầu học sinh phân loại từ theo cấu tạo.
VD 1: Trong các từ dưới đây, từ nào là từ đơn, từ nào là từ phức
Quần áo, sách vở, cờ, cây, nói, thầy giáo, bút, thước, chổi. (dạy bài từ đơn
và từ phức)
VD 2: Trong các từ dưới đây từ nào là từ ghép, từ nào là từ láy.
Hiu hiu, bạn bè, mênh mông, cuồn cuộn, Tổ quốc, ông cha, (dạy bài từ ghép
và từ láy)
Như vậy: Với dạng 1, học sinh dễ dàng phát hiện tìm ra lời giải đúng giúp
học sinh củng cố thêm về khái niệm từ đơn, từ phức để phân biệt từ đơn với từ
phức.

12


* Dạng 2: Cho sẵn một đoạn, một câu, yêu cầu học sinh tìm một số kiểu từ theo
cấu tạo trong đoạn, trong câu đó.
VD 1: Chép vào vở đoạn thơ và dùng dấu gạch chéo để phân cách các từ
trong hai câu thơ cuối đoạn. Ghi lại các từ đơn, từ phức trong đoạn thơ:
Chỉ /còn / truyện cổ / thiết tha /
Cho / tôi / nhận mặt / ông cha / của / mình /
Rất / công bằng /, rất / thông minh /
Vừa / độ lượng / lại/ đa tình / đa mang./
(dạy bài từ đơn và từ phức)
VD2: Hãy xếp các từ phức được in nghiêng trong các câu dưới đây thành 2

loại: Từ ghép và từ láy, biết rằng những tiếng in đậm là tiếng có nghĩa. (Bài 1
Tiếng Việt 4- tập 1 Trang 39)
a) Nhân dân ghi nhớ công ơn Chử Đồng Tử lập đền thờ ở nhiều nơi bên
sông Hồng. Cũng từ đó hàng năm, suốt mấy tháng mùa xuân, cả một vùng bờ bãi
sông Hồng lại nô nức làm lễ mở hội để tưởng nhớ ông.
b) Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn, rồi tre lớn lên cứng
cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người.
(Dạy bài từ ghép và từ láy)
Như vậy: Dạng bài tập này nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức về từ đơn, từ
phức, từ ghép, từ láy để tìm cho đúng. Riêng phần b (VD2) từ “Cứng cáp” nếu có
học sinh cho rằng là từ ghép, giáo viên cần giải thích cho các em: Nghĩa của từng
tiếng trong từ ghép phải hợp với nghĩa của cả từ. Trong từ “cứng cáp”: Tiếng
cứng có nghĩa - nghĩa này hợp với nghĩa của từ; tiếng cáp nếu coi là có nghĩa (chỉ
loại dây điện to, dây điện cao thế) thì nghĩa này không hợp với nghĩa của từ
“cứng cáp” (chỉ trạng thái đã khoẻ, không còn yếu ớt). Vì vậy, trong từ “cứng
cáp” tiếng cứng có nghĩa, tiếng cáp không có nghĩa. Hai tiếng này lặp lại âm đầu
“c” nên là từ láy.

13


* Dạng 3: Bài tập yêu cầu học sinh tìm kiểu cấu tạo nào đó trong vốn từ ngữ của
mình.
VD1: Tìm 3 từ đơn, 3 từ phức (Dạy bài từ đơn và từ phức)
VD2: Tìm 3 từ ghép, 3 từ láy
* Với dạng bài này khó hơn 2 dạng bài trên, đòi hỏi học sinh phải có vốn từ
ngữ và biết chọn trong vốn từ ngữ của mình những từ ngữ theo đúng yêu cầu của
bài( dựa vào khái niệm từ đơn, từ phức, từ ghép, từ láy).
* Nếu em nào giàu vốn từ sẽ tìm được nhiều từ đúng và hay. Và ngược lại,
nếu em nào nghèo vốn từ thì sẽ tìm được ít từ. Qua bài tập này, giáo viên không

những giúp học sinh củng cố kiến thức mà còn giúp học sinh mở rộng thêm vốn từ
ngữ của mình.
* Dạng 4: Cho sẵn các yếu tố cấu tạo từ, yêu cầu học sinh kết hợp chúng theo
từng cặp để tạo thành một kiểu từ theo cấu tạo nào đó.
VD: Tìm từ ghép, từ láy chứa từng tiếng sau đây: a) Ngay
b) Thẳng
c) Thật
* Vậy: Qua dạng bài tập này giúp học sinh khắc sâu khái niệm từ ghép, từ láy, biết
phân biệt từ ghép và từ láy bởi mối quan hệ giữa các tiếng trong từ, tìm được từ
ghép và từ láy đơn giản.
* Dạng 5: Yêu cầu học sinh đặt câu, viết đoạn với những từ đơn, từ ghép, từ láy.
VD1: Tìm 3 từ ghép chứa tiếng “Trực” có nghĩa là thẳng thắn( ví dụ: Trực
tính). Đặt câu với mỗi từ tìm được.
VD2: Hãy tìm 3 từ đơn, 3 từ ghép rồi đặt câu với mỗi từ đơn hoặc với một
từ ghép vừa tìm được.
* Dạng bài tập này đòi hỏi học sinh ở mức độ cao hơn các dạng bài tập nêu
trên nhằm nâng cao kĩ năng làm bài cho học sinh. Học sinh không những tìm từ
chính xác theo yêu cầu của bài mà còn viết câu đúng (câu hay). Đây cũng là dạng

14


bài tập để giúp giáo viên phát hiện và bồi dưỡng những em có năng khiếu về Tiếng
Việt.
Với mỗi dạng bài nêu trên, tôi đã sắp xếp linh hoạt và sáng tạo trong tiết
dạy. Với từng đối tượng học sinh, tôi yêu cầu các em hoàn thành bài tập ở dạng
nào cho phù hợp nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của các em trong học tập.
4. 3. Giải pháp thứ ba: Đưa ra những cách giúp học sinh phân biệt từ đơn với
từ ghép, từ ghép với từ láy, từ ghép tổng hợp với từ ghép phân loại.
4. 3. 1. Cách phân biệt từ đơn, từ ghép

Tôi giới thiệu 5 cách giúp học sinh phân biệt từ đơn và từ ghép như sau:
4.3.1.1 Dựa vào đặc điểm ngữ pháp.
Từ ghép là những đơn vị có tính vững chắc về cấu tạo và tính hoàn chỉnh về
ngữ nghĩa biểu thị một khái niệm duy nhất và hoạt động trong câu với chức năng
cú pháp của một từ. Còn cụm từ ( các từ đơn) thì kết hợp với nhau một cách lỏng
lẻo và không có tính hoàn chỉnh về ngữ nghĩa, tức là các thành tố của cụm từ có
thể tách ra một cách dễ dàng và nghĩa của cụm từ là nghĩa tổng hợp của các thành
tố tạo ra nó.
VD: đất nước, tươi tốt, tuy nhiên, rán/ bánh,...
4.3.1.2 .Dựa vào ngữ cảnh
( dựa vào các đơn vị được sử dụng trong lời nói, trong câu văn):
VD: - Áo dài quá, mặc không đẹp.
- Áo dài là trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
Áo dài trong câu thứ nhất là 2 từ đơn ( áo chỉ sự vật, dài chỉ tính chất. Có
thể chêm xen: Áo này dài quá, mặc không đẹp.)
Áo dài trong câu thứ hai là từ ghép( chỉ tên một loại áo)
Trên thực tế, để phân biệt từ ghép và kết hợp hai từ đơn còn nhiều cách
khác nhau nhưng với học sinh tiểu học, mẹo chêm xen là dễ hiểu nhất. Vì thế
chúng ta không nên đưa ra nhiều cách làm rối học sinh.

15


Ngoài ra còn có một số tổ hợp như con gà, cái kẹo, quyển sách học sinh
cũng rất lúng túng không biết đó là một hay hai từ( vì những trường hợp này
không dùng mẹo chêm xen được). Tôi giúp HS nắm được các danh từ chỉ đơn vị
(cái, con, chiếc, ...) để học sinh nhận ra đó là 2 từ đơn và yêu cầu các em ghi nhớ.
Vấn đề phân biệt nhận diện từ cứ làm nhiều học sinh sẽ quen và nhận diện
đúng. Nhưng quan trọng hơn cả là dạy cho các em biết cách dùng từ như thế nào
cho hay, cho hiệu quả để thực hiện mục tiêu của việc dạy Tiếng Việt.

4.3.1.3 Dựa vào khả năng kết hợp với các từ khác.
VD: - quần áo là từ ghép thì không thể kết hợp với và hoặc hay; quần áo là 2 từ
đơn thì có thể kết hợp được với và hoặc hay: quần và áo, quần hay áo.
-Bàn đá, tượng đá có thể biến đổi thành bàn bằng đá, tượng bằng đá => là 2
từ đơn.
- Nhà máy, nhà trẻ không thể kết hợp với bằng hay của => đó là từ ghép.
- Cà chua, bánh ngọt : + nếu kết hợp được bánh ngọt này, cà chua này=> từ ghép
+ Nếu kết hợp cà này chua, cà rất chua…=> 2 từ đơn.
- rán bánh có thể thêm

rán cái bánh => 2 từ đơn.

- bánh rán không thêm được từ vào giữa 2 kết hợp =>từ ghép.
4.3.1.4. Dựa vào khả năng thay thế từ bằng một từ đơn khác cùng chức năng
ngữ pháp.
VD: Cà chua/ ngon. Có thể thay Cà ( chua) / ngon. => cà chua là từ ghép.
Cà ( pháo) / ngon
Cà ( tím ) / ngon
Cà / chua. Không thay thế được => là 2 từ đơn.
4.3.1.5 Dựa vào trật tự cấu tạo của các tiếng trong từ.
Một số kết hợp từ được xét là từ ghép hoặc từ đơn dựa vào trật tự cấu tạo của
các tiếng trong từ, đặt trong những văn cảnh phù hợp.
VD: hay nói, hay hát, khéo tay, mát tay, tốt bụng…. là các từ ghép.
Nói hay, hát hay, tay khéo….. là những cụm từ ( kết hợp 2 từ đơn).
16


* Khi xác định từ đơn với từ ghép học sinh ít bị nhầm lẫn vì học sinh chỉ cần
căn cứ vào số tiếng để phân biệt từ đơn hay từ ghép. Bài tập ở dạng này, người ta
đưa ra một câu hoặc một đoạn văn yêu cầu học sinh tìm từ đơn, từ ghép nhưng cái

khó với học sinh khi giải quyết bài tập này phải vạch được danh giới từ một cách
chính xác thì mới xác định đúng nếu xác định sai học sinh phân loại nhầm một từ
ghép thành hai từ đơn và ngược lại. Muốn vạch được danh giới giữa các từ trong
văn bản ta phải dựa vào định nghĩa về từ: “Từ có nghĩa và dùng để tạo câu” .Từ đó
đối chiếu với các chuỗi lời nói xem tiếng ( hoặc tập hợp tiếng) nào mang những
đặc trưng cơ bản của từ ( có nghĩa chung và có chức năng tạo câu) thì khẳng định
đó là từ.
VD: Tìm từ đơn, từ ghép trong câu nói dưới đây của Bác Hồ :
Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn đến tột bậc là làm sao cho nước ta
được độc lập tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành.
Để làm bài tập này tôi hướng dẫn học sinh như sau :
Bước 1 :Đọc ngữ liệu ( câu văn đã cho)
Bước 2 :Vạch danh giới từ.
Tôi/ chỉ /có/ một/ ham muốn/, ham muốn/ tột bậc/ là /làm sao/ cho/ nước/
ta /được /độc lập/ tự do/, đồng bào /ta/ ai/ cũng /có /cơm ăn/, áo mặc/, ai /cũng/
được/ học hành/.
Bước 3 :Xác định và phân loại từ.
-Từ đơn : tôi, chỉ, có, một, là, cho, nước, ta, được, ai, cũng, có, cơm, ăn, áo, mặc..
- Từ ghép :ham muốn, độc lập, tự do, học hành...
Khi vạch ranh giới từ ta thường gặp một số tổ hợp từ có hai cách hiểu : là một
từ ghép hay hai từ đơn.
Ví dụ :Chú chuồn chuồn nước tung cánh bay vọt lên. Cái bóng chú nhỏ xíu
lướt nhanh trên mặt hồ. Mặt hồ trải rộng mênh mông và lặng sóng...

17


Các tổ hợp từ :chuồn chuồn nước, tung cánh, lướt nhanh, mặt hồ, trải
rộng , lặng sóng...muốn biết tổ hợp nào là từ ghép hay hai từ đơn ta xét chúng ở

hai phương diện: kết cấu và nghĩa.
+ Về kết cấu : nếu quan hệ giữa các yếu tố trong tổ hợp mà lỏng lẻo, dễ tách
rời hoặc có thể chêm, xen một yếu tố bên ngoài vào mà nghĩa không thay đổi thì
đó là hai từ đơn và ngược lại. Như vậy tổ hợp từ chuồn chuồn nước, mặt hồ,
lặng sóng có quan hệ chặt chẽ nên chúng là một từ ghép. Còn các tổ hợp từ còn lại
có quan hệ giữa các yếu tố cấu thành lỏng lẻo, dễ tách rời hoặc chêm xen yếu tố
ngoài như chêm từ rất vào ta được lướt rất nhanh,trải rất rộng, tung đôi cánh
nên mỗi tổ hợp trên gồm hai từ đơn.
+ Về mặt nghĩa : Nếu tổ hợp đó gọi tên, định danh một sự vật, hiện tượng,
biểu đạt một khái niện về sự vật, hiện tượng đó...thì tổ hợp ấy là một từ ghép.
Ngược lại, nếu tổ hợp ấy gọi tên hoặc định danh nhiều sự vật, hiện tượng, biểu đạt
nhiều khái niệm về sự vật hiện tượng đó thì tổ hợp ấy là sự kết hợp của hai hay
nhiều từ đơn. Như vậy ở ví dụ 2 tổ hợp từ chuồn chuồn nước, mặt hồ, lặng sóng
mang nhiều đặc trưng của từ ghép con tổ hợp từ tung cánh, lướt nhanh, trải rộng
mang đặc trưng của kết hợp hai từ đơn.
* Một số bài tập tự luyện
Bài 1: Tìm từ đơn, từ ghép trong câu sau :
a. Mùa xuân mong ước đã đến. Đầu tiên từ trong vườn, mùi hoa hồng, hoa
huệ sực nức bốc lên.
b. Nước Việt Nam xanh muôn ngàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng đẹp cây
nào cũng quý. Nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa. Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc,
tre ngút ngàn Điện Biên Phủ.
Bài 2 : Trong các từ của câu thơ :
Dân dâng một quả xôi đầy
Bánh chưng mấy căp bánh giầy mấy đôi.
Có những từ nào là từ ghép ?
18


Gợi ý :Bài 1

- Bước 1 :yêu cầu học sinh đọc ngữ liệu.
- Bước 2 : Vạch danh giới từ
a. Mùa xuân/ mong ước /đã/ đến/. Đầu tiên /từ /trong/ vườn/, mùi/ hoa hồng/,
hoa huệ/ sực nức/ bốc lên.
b. Nước/ Việt Nam/ xanh/ muôn ngàn/ cây lá/ khác nhau/. Cây/ nào/ cũng/
đẹp/ cây/ nào /cũng/ quý. Nhưng/ thân/ thuộc /nhất/ vẫn/ là/ tre nứa/. Tre/ Đồng
Nai/, nứa/ Việt Bắc/, tre /ngút ngàn/ Điện Biên Phủ.
- Bước 3 : Tìm từ đơn, từ ghép theo sự phân cắt trên nhưng lưu ý giáo viên
không yêu cầu học sinh tiểu học xác định các danh từ riêng trong bài là từ đơn hay
từ ghép.
Bài 2 : Giáo viên hướng dẫn tương tự
Dân /dâng /một/ quả xôi/ đầy
Bánh chưng/ mấy/ căp/ bánh giầy/ mấy/ đôi.
Từ ghép : quả xôi, bánh chưng, bánh giầy.
4. 3. 2. Cách phân biệt từ ghép và từ láy
Tôi giới thiệu 4 cách giúp học sinh phân biệt từ ghép và từ láy như sau:
4.3.2.1 Đảo trật tự các thành tố.
Tiếng gốc của từ láy luôn đứng ở một vị trí cố định.
Các từ láy có tiếng gốc đứng trước như đẹp đẽ, đỏ đắn, xinh xắn…
Các từ láy có tiếng gốc đứng sau như phập phồng, bối rối, nghi ngút…
Nên khi xác định học sinh cần xem xét những từ phức đã cho có quan hệ
ngữ âm mà không thay đổi được trật tự các thành tố thì đó là từ láy. Những từ
phức có quan hệ ngữ âm mà thay đổi được trật tự các thành tố thì đó là từ ghép.
Ví dụ : - Các từ phức : đẹp đẽ, xinh xắn, phập phồng …khi đảo trật tự các
thành tố sẽ thành đẽ đẹp, xắn xinh, phồng phập thì nó không có nghĩa nên đây là
những từ láy.

19



- Các từ phức: đớn đau, thì thầm, khát khao… khi đảo trật tự các thành tố sẽ
thành đau đớn, thầm thì, khao khát thì nó không thay đổi nghĩa nên đây là những
từ ghép.
4.3.2.2. Căn cứ vào nghĩa.
- Những từ phức có quan hệ ngữ âm mà cả hai tiếng đều có nghĩa thì đó là từ
ghép mặc dù nhìn về hình thức các từ đó có đặc điểm của từ láy là: lặp lại âm đầu,
vần hoặc thanh.
VD: Các từ phức: cung cấp, xẹp lép, đu đưa, tân tiến, tươi tỉnh….cả hai tiếng
trong mỗi từ đều có nghĩa nên đây là những từ ghép.
4.3.2.3. Căn cứ vào thanh điệu.
Các từ láy bao giờ thanh điệu cũng cùng âm vực.
- Những từ phức có thanh điệu cùng âm vực: sắc – hỏi – ngang;
huyền – ngã – nặng thì đó là từ láy.
Ví dụ :Các từ phức: đo đỏ, khang khác (thanh điệu cùng âm vực nhóm 1),
bì bõm, lành lặn (thanh điệu cùng âm vực nhóm 2) nên chúng là những từ láy.
- Những từ phức có thanh điệu không cùng âm vực: sắc –hỏi – ngang;
huyền – ngã – nặng thì đó là từ ghép.
VD: chói lọi ( hỏi- nặng), tí tẹo (sắc- nặng), dúi dụi (sắc- nặng), …
4.3.2.4. Dựa vào từ Hán Việt
Nếu một từ phức đã xác định được là từ Hán Việt thì chắc chắn từ đó là từ
ghép không phải là từ láy. Bởi từ láy là từ Thuần Việt, là phương thức tạo từ chỉ
riêng Tiếng Việt mới có.
VD: Các từ phức: lưu luyến, lục đục, liên thiên.. là các từ Hán Việt nên chúng là
những từ ghép.
* Một số bài tập tự luyện:
Bài 1:Các từ sau đây là từ láy hay từ ghép?
Tươi tốt, đi đứng, buôn bán, mặt mũi, hốt hoảng, nhỏ nhẹ.

20



Bài 2: Những từ sau là từ ghép hay từ láy: bạn bè, cây cối, máy móc, đất đai, chùa
chiền, tuổi tác, mùa màng, chim chóc, thịt thà?
Bài 3: Cho các từ sau: cong queo, cuống quýt, công kênh, cập kênh, cập kèm, cặn
kẽ, cò kè.
Em hãy cho biết các từ trên là từ ghép hay từ láy? Vì sao?
Bài 4: Các từ : bình minh, cần mẫn, chí khí, tham lam; bao biện, bảo bối, ban bố,
căn cơ, hoan hỉ, hào hiệp, hào hoa, hào hùng, hữu hạn, hữu hình là từ ghép hay từ
láy ? Vì sao?
Bài 5: Từ mỗi tiếng dưới đây, hãy tìm tiếng thích hợp thêm vào để tạo thành:
a) Các từ ghép:

b) Các từ láy:

- mong ......

- mong ......

- xấu........

- xấu........

- cong......

- cong......

- lạnh.......

- lạnh.......


Gợi ý:.
Bài 1: Các từ : Tươi tốt, đi đứng, buôn bán, mặt mũi, hốt hoảng, nhỏ nhẹ là từ
ghép . Vì các tiếng trong từ đều có nghĩa từ vựng, quan hệ giữa các tiềng trong
từng từ là quan hệ về nghĩa. Các từ ghép này có hình thức ngẫu nhiên giống từ láy.
Bài 2: Những từ : bạn bè, cây cối, máy móc, đất đai, chùa chiền, tuổi tác, mùa
màng, chim chóc, thịt thà là từ láy vì giữa hai tiếng trong từng từ có quan hệ ngữ
âm với nhau và một tiếng có nghĩa còn một tiếng không có nghĩa.
Bài 3: Các từ: cong queo, cuống quýt, công kênh, cập kênh, cập kèm, cặn kẽ, cò
kè thoạt nhìn ta có thể cho rằng các từ trên không phải là từ láy vì trong hình thức
ngữ âm- chữ viết của từ không có bộ phận nào được láy lại. Sự thực, chúng lại là
những từ láy âm vì trong tiếng Việt ta biết phụ âm đầu “cờ” được ghi bằng ba chữ
cái khác nhau” c- k- q.”
Bài 4: Các từ : bình minh, cần mẫn, chí khí, tham lam; bao biện, bảo bối, ban bố,
căn cơ, hoan hỉ, hào hiệp, hào hoa, hào hùng, hữu hạn, hữu hình là từ ghép. Các từ
21


trên học sinh dễ nhầm là từ láy vì có hình thức ngữ âm giông từ láy: Từ láy âm
( ví dụ: bảo bối, bao biện, hoan hỉ, hào hiệp…) và láy vần( ví dụ: bình minh, cần
mẫn, chí khí, tham lam..). nhưng đây là những từ Hán Việt có hình thức ngữ âm
giống từ láy. Các tiếng trong từng từ đều có nghĩa.
VD: ban bố

ban nghĩa là” ban hành”,bố nghĩa là “công bố”

hoan hỉ

hoan nghĩa là” vui”, hỉ nghĩa là “mừng”

Bài 5: HS lựa chọn từ ghép với các tiếng cho trước để tạo lập từ ghép khi các tiếng

có nghĩa ghép lại, tạo từ láy khi các âm ( vần, cả âm vần được lặp lại.)
a) Các từ ghép:

b) Các từ láy:

- mong chờ

- mong mỏi

- xấu hổ

- xấu xí

- cong lưng

- cong queo

- lạnh giá

- lành lạnh

4.3.3. Cách phân biệt từ ghép đẳng lập( từ ghép có nghĩa tổng hợp) và từ
ghép chính phụ ( từ ghép có nghĩa phân loại)
Tôi giới thiệu 3 cách giúp học sinh phân biệt từ ghép có nghĩa tổng hợp và từ
ghép có nghĩa phân loại như sau:
4.3.3.1. Căn cứ vào trật tự giữa các thành tố:
- Từ ghép mà có thể thay đổi vị trí giữa các thành tố cho nhau thì đó là từ ghép
có nghĩa tổng hợp.
VD: vợ chồng / chồng vợ; nhà cửa / cửa nhà; nước non / non nước…
- Ngược lại, từ ghép mà không thể đảo vị trí giữa các thành tố cho nhau thì đó là

từ ghép có nghĩa phân loại.
VD: cỏ gà, cà chua, hạt kê…
4.3.3.2. Căn cứ về nghĩa:
* Từ ghép đẳng lập ( từ ghép có nghĩa tổng hợp):
+ Có nghĩa như nhau. Ví dụ: to lớn, bé nhỏ…
+ Có nghĩa trái ngược nhau. Ví dụ: vui buồn, đỏ đen, lên xuống..
22


+ Chỉ những sự vật hiện tượng thường đi cặp đôi với nhau. Ví dụ: vợ chồng,
bàn ghế, sách vở, núi sông…
*Từ ghép chính phụ ( từ ghép có nghĩa phân loại): Có 2 trường hợp:
+ Trường hợp 1: Mỗi tiếng trong từ ghép phân loại đều có nghĩa, đều có thể
dùng độc lập.
VD: xe đạp, máy cày, bàn nhựa…Tuy nhiên có một số từ tiếng đứng sau không có
nghĩa và không dùng độc lập được. Ví dụ: trắng phau, xanh lè, dưa hấu…
+ Trường hợp 2: Trong 2 tiếng của từ ghép phân loại, chỉ có 1 tiếng có nghĩa, 1
tiếng không có nghĩa rõ ràng nhưng khi ghép lại thì 2 tiếng lại có một nghĩa
chung. Trường hợp này thường rơi vào từ ghép phân loại là tính từ và chiếm số ít.
VD: mát rượi, sáng choang, ngọt lừ, dài ngoằng, thấp tẹt,...
Nghĩa của từ ghép phân loại thường cụ thể hơn nghĩa của đơn vị tạo thành. Ví
dụ: xe đạp, xe ô tô,… cụ thể hơn xe.
4.3.3.3. Căn cứ về mặt cấu tạo: hai tiếng trong từ ghép phân loại theo quan hệ
chính phụ.
+ Nếu là từ Thuần Việt thì tiếng chính bao giờ cũng đứng trước, tiếng phụ đứng
sau. Ví dụ: áo dài, vui mắt, nhà ăn…
+ Nếu là từ Hán Việt: Từ Hán Việt là danh từ thì tiếng phụ đứng trước còn
tiếng chính đứng sau. Ví dụ: lâm sản, bệnh viện, tử sĩ… Từ Hán Việt là động từ thì
tiếng phụ đứng sau còn tiếng chính đứng trước. Ví dụ : bãi công, biểu tình, duyệt
binh…

* Một số bài tập tự luyện
Bài 1: Hãy phân loại các từ ghép sau đây : sợ hãi, quen thuộc, sâu sa, hương vị,
cực khổ, bắc bộ, nông dân, máy cày, kẹo lạc thành nhóm :Từ ghép có nghĩa phân
loại và từ ghép có nghĩa tổng hợp.
Bài 2: Cho đoạn văn sau:
Núi đồi, làng bản chìm trong biển mây mù.Trước bản rặng đào đã trút hết
lá. Trên những cành khẳng khiu đã lấm tấm những lộc non và lơ thơ những cánh
23


hoa đỏ thắm. Lá thông vi vu một điệu đàn bất tuyệt. Xen vào giữa những đám đá
tai mèo là những nương đỗ, nương mạch xanh um.
Hãy tìm trong các từ gạch chân từ nào là từ ghép, rồi xếp thành hai loại từ
ghép có nghĩ tổng hợp và từ ghép có nghĩa phân loại.
Gợi ý:
Bài 1
- Từ ghép có nghĩa phân loại : cực khổ, bắc bộ, nông dân, máy cày, kẹo lạc.
- Từ ghép có nghĩa tổng hợp: sợ hãi, quen thuộc, sâu sa, hương vị.
Bài 2
- Các từ ghép : núi đồi, làng bản, cánh hoa, đá tai mèo, xanh um
- Từ ghép có nghĩa tổng hợp: núi đồi, làng bản
- Từ ghép có nghĩa phân loại: cánh hoa, đá tai mèo, xanh um
4. 4. Giải pháp thứ tư : Sử dụng 2 phương pháp thảo luận (theo cặp, nhóm)
và trò chơi học tập vào hoạt động tổ chức cho học sinh luyện tập thực hành.
Theo tôi, muốn dạy phần từ đơn, từ ghép, từ láy trong phân môn Luyện từ
và câu cho học sinh lớp 4 đạt kết quả, tôi đã sử dụng 2 phương pháp thảo luận và
trò chơi học tập trong hoạt động tổ chức cho học sinh luyện tập thực hành.
Bởi vì: Thảo luận nhóm tạo điều kiện cho học sinh có cơ hội được sử dụng
các kiến thức và kĩ năng mà các em được lĩnh hội và rèn luyện, tạo điều kiện cho
học sinh học hỏi lẫn nhau và trò chơi học tập không chỉ nhằm vui chơi, giải trí mà

còn góp phần củng cố tri thức, kĩ năng học tập cho học sinh, tăng thêm phần hấp
dẫn của giờ học.
Kết quả cuối cùng là các em hiểu được khái niệm, có một vốn về từ đơn, từ
ghép, từ láy.
VD: Thảo luận nhóm khi:
- Tìm từ đơn, từ ghép, từ láy trong câu, đoạn.
- Trò chơi học tập: “Thi tìm đúng, tìm nhanh”
+ Tìm từ đơn, từ ghép, từ láy trong câu, đoạn.
24


+ Tự tìm từ đơn, từ ghép, từ láy ngoài ngữ liệu rồi đặt câu.
Tôi đã áp dụng ở lớp 4E (lớp thực nghiệm) thiết kế bài dạy: Từ ghép và từ láy
(tuần 4) - Phần Phụ lục
4.5. Giải pháp thứ năm: Bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho giáo viên
Muốn chỉ đạo đổi mới hiệu quả việc đầu tiên cần làm phải làm thay đổi
nhận thức chưa đầy đủ của bộ phận giáo viên. Tôi đã tham mưu tổ chuyên môn
cùng nhà trường thực hiện những việc làm sau:
- Xác định rõ và nhấn mạnh tầm quan trọng khi giảng dạy phân môn Luyện
từ và câu lớp 4 nói riêng, môn Tiếng Việt lớp 4 nói chung.
- Chỉ ra những điểm còn thiếu, còn yếu của giáo viên về việc nắm bắt kiến
thức chuyên sâu Tiếng Việt cũng như việc thiếu hụt các kĩ năng giảng dạy cần
thiết khi dạy về các mảng kiến thức của phân môn Luyện từ và câu lớp 4 và hậu
quả của nó. Việc chỉ ra những điểm thiếu, điểm yếu này thông qua những lỗi mà
giáo viên mắc phải khi giảng dạy, cán bộ quản lý nắm được qua quá trình dự giờ
thăm lớp, qua phỏng vấn, trao đổi hay qua chính kết quả học tập của học sinh, qua
những lỗi mà học sinh mắc phải khi làm bài trên lớp cũng như qua các bài kiểm
tra định kì.
4.6. Giải pháp thứ sáu: Bồi dưỡng kiến thức Tiếng Việt chuyên sâu cho giáo
viên.

Đây là vấn đề cơ bản đầu tiên cần quan tâm trong mỗi nhà trường vì chỉ khi
giáo viên làm chủ kiến thức thì mới có thể chủ động đứng trên bục giảng hướng
dẫn học sinh khám phá tri thức và tổ chức các hoạt động học tập. Để đạt hiệu quả:
- Ngay từ đầu năm học, nhà trường sử dụng phiếu thăm dò để nắm bắt vấn
đề giáo viên còn thiếu, còn hổng, mong muốn được bồi dưỡng về các nội dung
kiến thức của môn Tiếng Việt cũng như các bộ môn khác.
- Tổ chức các hội thảo, chuyên đề bồi dưỡng giáo viên. Người trực tiếp bồi
dưỡng là Cán bộ quản lý hoặc giáo viên giỏi, có kiến thức chuyên sâu Tiếng Việt,

25


×