Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Thảo luận môn đường lối cách mạng đường lối, kết quả, quan hệ quốc tế của việt nam từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.51 KB, 25 trang )

Họ và tên: Đinh Thiện Hiếu
Lớp: TCNH2A2

Bài thảo luận
Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
Câu 1: Quan hệ quốc tế, quan hệ song phương, quan hệ đa phương là gì?
Đa phương hóa, đa dạng hóa là như thế nào?
Quan hệ đối tác là gì?
Tìm hiểu ASEAN và quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN?
Tìm hiểu WTO và quá trình gia nhập WTO?
Tìm hiểu về APEC ?
Câu 2: An sinh xã hội là gì?
Chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội ở Việt Nam? Kết quả và hạn chế?
Câu 3: Đường lối, kết quả, quan hệ quốc tế của Việt Nam từ năm 1986 đến
nay?

Bài làm
Câu 1:
Quan hệ quốc tế là:
Quan hệ song phương là:
Quan hệ đa phương là:
Đa phương hóa là:
Đa dạng hóa là:
Tìm hiểu về ASEAN
ASEAN hiện có 11 nước (Brunei, Campuchia, Đông Timo, Indonesia, Lào, Malaysia,
Myanmar, Philippines, Thái Lan, Việt Nam, Singapore). Diện tích toàn khối là 4.492.443
km2, chiếm 14,1% lãnh thổ châu Á và chiếm 3,3% diện tích toàn thế giới.


Quốc gia rộng nhất là Indonesia, tiếp đến là Myanmar, Thái Lan, Malaysia, Việt Nam,
Philippines, Lào, Campuchia, Đông Timo, Brunei, Singapore. Dân số giữa năm 2004 là


548,2 triệu người, chiếm dân số 14,1% châu Á và gần 8,6% toàn thế giới; đông nhất là
Indonesia, tiếp đến là Philippines, Việt Nam, Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào,
Singapore, Đông Timo, Brunei.
Mật độ dân số đạt 122 người/ km2, tương đương với châu Á và gấp 2,6 lần thế giới. Tỷ lệ
dân số thành thị đạt 38,4%, xấp xỉ tỷ lệ của châu Á và thấp hơn tỷ lệ 48% của toàn thế
giới; cao nhất là Singapore, tiếp đến là Brunei, Malaysia, Philippines, Indonesia, Thái
Lan, Myanmar, Việt Nam, Lào, Campuchia, Đông Timo.
Tỷ lệ sinh đạt 2,2%, tỷ lệ chết 0,7%, tỷ lệ tăng tự nhiên 1,5%, cao hơn tỷ lệ 1,3% của
châu Á và tỷ lệ 1,2% của toàn thế giới; thấp nhất là Singapore, tiếp đến là Thái Lan,
Đông Timo, Myanmar, Việt Nam, Indonesia, Brunei, Philippines, Malaysia, Campuchia,
Lào.
Tuổi thọ bình quân đạt 68, cao hơn mức 67 của châu Á và thấp hơn mức 69 của toàn thế
giới; cao nhất là Singapore, tiếp đến là Brunei, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam,
Philippines, Indonesia, Myanmar, Campuchia, Lào, Đông Timo.
GDP tính bằng USD theo tỷ giá thực tế của ASEAN năm 2003 đạt khoảng 687 tỷ USD,
chiếm 1,9% toàn thế giới; bình quân đầu người đạt khoảng 1.253,2USD, thấp xa so với
mức 5.684,2 USD của toàn thế giới.
Nếu tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương, thì GDP bình quân đầu người năm
2001 cuả các nước trong khu vực như sau: Singapore 22.680 USD, (năm 2002 là 24.040),
tiếp đến là Brunei 19.210, Malaysia 8.750 (năm 2002 đạt 9.120), Thái Lan 6.400,
Philippines 3.840, Indonesia 2.940, Việt Nam khoảng 2.100, Campuchia 1.860, Lào
1.620 (năm 2002 đạt 1.720), Myanmar 1.027.
Khu vực ASEAN cũng là khu vực có tốc độ tăng GDP cao của thế giới. Tổng dự trữ quốc
tế của một số nước đạt khá và đang tăng lên. Khu vực ASEAN cũng là khu vực có kim
ngạch xuất khẩu, tỷ lệ xuất khẩu so với GDP, xuất khẩu bình quân đầu người khá.

Quá trình gia nhập ASEAN của Việt Nam
Việt Nam gia nhập Hiệp hội các nước ASEAN từ tháng 7/1995 và bắt đầu thực hiện
Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) từ 1/1/1996, chương trình
này kết thúc vào 1/1/2006. Do trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn thấp so

với một số nước trong khu vực, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, của
nhiều ngành sản xuất và dịch vụ còn yếu… và thuế nhập khẩu vẫn còn là một trong
những nguồn thu cho ngân sách, nên chương trình cắt giảm thuế quan của Việt Nam
được xây dựng dựa trên những nguyên tắc chính sau:
1. Không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách.
2. Bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất trong nước.


3. Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho nền
sản xuất trong nước.
4. Hợp tác với các nước ASEAN trên cơ sở các quy định của Hiệp định CEPT để
tranh thủ ưu đãi, mở rộng thị trường cho xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
Có thể kể ra đây một số công việc mà Việt Nam đã thực hiện, đó là:
(a) Xây dựng chương trình cắt giảm thuế quan
Dựa theo 4 nguyên tắc nêu trên, tại thời điểm gia nhập, Việt Nam đã đệ trình 4 danh
mục hàng hoá theo quy định của Hiệp định CEPT như sau:
a) Danh mục loại trừ hoàn toàn: bao gồm 139 dòng thuế không tham gia AFTA,
đây là những mặt hàng có ảnh hưởng đến: an ninh quốc gia, sức khỏe con người, giá trị
đạo đức, lịch sử, nghệ thuật, khảo cổ… theo như quy định của Hội đồng AFTA. Ngoài ra
Việt Nam còn đưa vào danh mục loại trừ hoàn toàn một số mặt hàng mà hiện Việt Nam
đang phải nhập từ các nước ASEAN song lại không có khả năng xuất khẩu, hoặc một
số mặt hàng hiện đang có thuế suất cao trong biểu thuế nhập khẩu như: ô tô dưới 16
chỗ ngồi, ô tô tay lái nghịch, chất phế thải, các loại xăng dầu (trừ dầu thô Việt Nam đang
xuất khẩu), đồ dùng đã qua sử dụng…
b) Danh mục loại trừ tạm thời: Danh mục này bao gồm 755 dòng thuế, được xây
dựng theo quy định của CEPT và quy hoạch phát triển đến năm 2010 của các ngành
kinh tế trong nước, nhằm bảo hộ một số ngành đang có tiềm năng phát triển, đồng thời
không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách. Danh mục này chủ yếu gồm các
mặt hàng có thuế suất trên 20% và một số mặt hàng có thuế suất thấp hơn 20% song
được bảo hộ bằng các biện pháp phi thuế quan như: các loại xe máy, ô tô (trừ loại ô tô

dưới 16 chỗ ngồi đã nằm trong danh mục loại trừ hoàn toàn), các loại sắt thép, sản
phẩm cơ khí thông dụng, các loại mỹ phẩm và đồ dùng không thiết yếu…
Theo quy định của Hội đồng AFTA thì những mặt hàng nào đưa vào chương trình cắt
giảm thuế và được hưởng thuế suất ưu đãi từ các nước thành viên khác thì đồng
thời phải loại bỏ hàng rào phi thuế quan trong vòng 5 năm sau đó. Do vậy, nếu mặt
hàng nào được đưa vào danh mục loại trừ tạm thời thì sẽ có thêm thời gian để bảo
hộ thông qua việc kéo dài thời hạn thực hiện các biện pháp phi thuế quan.
Cũng theo quy định của CEPT thì các mặt hàng thuộc danh mục TEL này cần phải
được chuyển sang danh mục cắt giảm thuế (IL) trong vòng 5 năm, sao cho đến thời
hạn năm 2006 chúng cũng phải đạt mức thuế quan ưu đãi chung từ 0-5%.
c) Danh mục cắt giảm thuế: Danh mục này chủ yếu bao gồm các mặt hàng hiện
đang có thuế suất dưới 20%, tức là các mặt hàng thuộc diện có thể áp dụng ưu đãi
ngay theo Hiệp định CEPT. Ngoài ra trong danh mục này còn bao gồm một số mặt hàng
hiện có thuế suất cao nhưng Việt Nam đang có thế mạnh xuất khẩu, do vậy việc đưa
các mặt hàng này vào danh mục giảm thuế sẽ không gây ảnh hưởng nhiều đến nguồn
thu ngân sách, ngược lại nó sẽ kích thích đẩy mạnh xuất khẩu thông qua việc được
hưởng thuế ưu đãi theo CEPT, khi hàng Việt Nam xuất qua các nước thành viên.
d) Danh mục nông sản nhạy cảm: bao gồm 51 dòng thuế, là các mặt hàng nông
sản chưa chế biến có yêu cầu bảo hộ cao như: các loại thịt, trứng, gia cầm, động vật


sống, thóc, gạo lức, đường mía… các mặt hàng này hiện đang được áp dụng các biện
pháp phi thuế quan như quản lý theo hạn ngạch, quản lý của Bộ chuyên ngành….
Để làm căn cứ điều chỉnh cơ cấu trong nước và định hướng cho các doanh nghiệp
xây dựng kế hoạch kinh doanh phù hợp, năm 1997, Chính phủ Việt Nam phê duyệt
Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể thực hiện AFTA/CEPT 1996-2006. Tiếp đó,
theo công văn số 5408/VPCP-TCQT ngày 11/12/2000, Chính phủ thông qua Lịch
trình cắt giảm thuế quan tổng thể giai đoạn 2001-2006. Dựa trên các Lộ trình này,
hàng năm Chính phủ đưa ra Danh mục hàng hóa và thuế suất của VN thực hiện
CEPT (gọi tắt là Danh mục CEPT hoặc Nghị định CEPT).

(b) Thực hiện giảm thuế
Dựa theo sự phân loại danh mục hàng hoá như trên, tiến trình cắt giảm thuế của Việt
Nam đã được tiến hành như sau: Trong hai năm đầu 1996, 1997 Việt Nam chưa
thực hiện việc cắt giảm thuế mà chỉ đưa 875 danh mục các mặt hàng đã có thuế
nhập khẩu từ 0-5% vào danh sách giảm thuế, đáp ứng một cách tự nhiên yêu cầu
giảm thuế nhanh của Hiệp định CEPT, còn chương trình giảm thuế bình thường chỉ
được bắt đầu thực hiện kể từ 1/1/1998. Các bước đi thận trọng này giúp cho Việt
Nam có thêm thời gian cải tiến hệ thống thuế nội địa nhằm đảm bảo nguồn thu ngân
sách và góp phần bảo hộ các nền kinh tế còn non trẻ của chúng ta.
Như vậy, từ năm 1998 Việt Nam mới thực hiện những bước cắt giảm thuế đầu tiên
theo Nghị định 15/1998/NĐ-CP ngày 12/3/1998. Theo Nghị định này trong năm 1998
chúng ta đã đưa thêm 1.161 mặt hàng vào danh mục giảm thuế. Sang năm 1999
theo Nghị định 14/1999/NĐ-CP ngày 23/3/1999 Việt Nam đã nâng danh mục các mặt
hàng giảm thuế lên đến 3.590 mặt hàng. Và trong năm 2000, Chính phủ đã ban hành
Nghị định 09/2000/NĐ-CP ngày 21/03/2000 về danh mục các mặt hàng giảm thuế
theo chương trình CEPT.
Theo nghị định này, trong năm 2000, Nhà nước Việt Nam đưa thêm 640 dòng thuế
từ danh mục các mặt hàng loại trừ tạm thời sang danh mục giảm thuế, như vậy sẽ
có 4.230/6.200 dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu được đưa vào danh mục cắt
giảm thuế. Trong tổng 4.230 dòng thuế thực hiện theo chương trình CEPT của năm
2000 này, có khoảng 2.960 dòng thuế có mức thuế suất từ 0-5% (trong đó có khoảng
1.690 dòng thuế có thuế suất 0%), còn lại 1.270 dòng thuế có mức thuế suất 5-50%.
Như vậy, đa số các mặt hàng trong danh mục giảm thuế năm 2000 là các mặt hàng
có thuế suất dưới 20%, chỉ có một số ít là có thuế suất trên 20%. Những mặt hàng
có thuế suất dưới 20% là những mặt hàng hoặc không có nhiều trong quan hệ ngoại
thương của Việt Nam hoặc là các mặt hàng mà Việt Nam đang có thế mạnh xuất
khẩu. Các mặt hàng cần bảo hộ như sắt thép, phân bón, giấy, kính xây dựng, ô tô,
xe gắn máy, đường… vẫn còn được để trong danh mục TEL, GEL.
Đến năm 2002, Việt Nam đã chuyển 5.550 dòng thuế vào IL (ban hành theo Nghị
định số 21/2002/NĐ-CP ngày 28/2/2002 và Nghị định số 53/2002/NĐ-CP ngày

13/5/2002) (gọi tắt là Danh mục CEPT 2002), chiếm 85% trên tổng số 6.523 dòng
thuế của biểu thuế nhập khẩu (Danh mục Thuế quan Hài hòa Chung ASEAN –
(AHTN) là 8.770 dòng). Toàn bộ các mặt hàng này đã ở thuế suất dưới 20% và có lộ
trình cắt giảm trong thời kỳ 2002-2006; trong số đó, 65% đã ở mức thuế 0-5%. với
mức thuế suất từ 0 đến 20%, trong đó có khoảng 2/3 có mức thuế suất từ 0 đến 5%.
Nhóm này đến năm 2006 sẽ giảm mức thuế xuống 0 - 5%. Nhóm thứ hai, là danh


mục loại trừ tạm thời gồm 755 dòng thuế (theo AHTN là 1.415 dòng thuế) sẽ chuyển
sang danh mục cắt giảm IL từ 01/7/2003, các dòng thuế có mức thuế cao sẽ đưa
xuống 20% và giảm dần xuống 0 - 5% vào năm 2006. Danh mục này bao gồm các
nhóm hàng dầu thực vật, bánh kẹo, rau quả chế biến, clinker, xi măng, thiết bị vệ
sinh, giấy báo, giấy in, giấy vệ sinh, hóa chất, mỹ phẩm, kính xây dựng, điện tử, điện
lạnh, quần áo, giày dép,... Nhóm thứ ba, là danh mục nhạy cảm gồm hàng nông sản
chưa chế biến, chủ yếu cần bảo hộ cao, như thịt, trứng gia cầm, động vật sống, thóc
gạo lức, đường mía.... Nhóm này có 53 dòng thuế (theo AHTN là 89 dòng thuế) bắt
đầu giảm thuế từ 01/01/2004 và kết thúc vào 01/01/2013 với mức thuế cuối cùng là 0
- 5%. Riêng mặt hàng đường sẽ kết thúc vào 01/01/2010. Nhóm thứ tư, là danh mục
loại trừ hoàn toàn (GEL) gồm các sản phẩm không cam kết trong AFTA vì lý do an
ninh quốc gia, đạo đức xã hội, bảo vệ cuộc sống con người và động thực vật, bảo vệ
các tác phẩm có giá trị nghệ thuật, lịch sử, khảo cổ học. Việt Nam cũng đưa vào một
số mặt hàng cần bảo hộ cao hơn như ô-tô, xe máy nguyên chiếc có dung tích dưới
250cc. Nhóm này có 158 dòng thuế (AHTN là 415 dòng). Như vậy, lộ trình cắt giảm
theo danh mục phải cắt giảm ngay IL và danh mục loại trừ tạm thời, lộ trình của Việt
Nam chậm hơn sáu nước thành viên cũ là ba năm. Hai nhóm nhạy cảm và loại trừ
hoàn toàn thời gian dài hơn, đến năm 2010 hoặc 2015.
Theo những khuyến nghị của ASEAN về đẩy nhanh việc thực hiện AFTA, Bộ Tài
chính đã xây dựng Lịch trình đẩy nhanh CEPT giai đoạn 2003-2006 (CV 7955
TC/QHQT ngày 19/7/2002). Tại Hội nghị Hội đồng AFTA (16/9/2002 tại Brunei) cho
phép các nước khó khăn được áp dụng cơ chế linh hoạt trong việc thực hiện đẩy

nhanh AFTA/CEPT (đã được HNCC ASEAN 8 tháng 11/2002 thông qua). Do vậy, lịch
trình cắt giảm thuế CEPT/AFTA giai đoạn 2003-2006 sẽ là 76% đạt thuế suất 0-5%
vào 2003, 87% đạt thuế suất 0-5% vào 2005 và 100% đạt thuế suất 0-5% vào 2006
trong đó 56% đạt 0%. Việt Nam cũng nhất trí nguyên tắc giảm toàn bộ thuế quan
xuống 0% vào năm 2015 với một số linh hoạt đến 2018.
Ngoài ra, từ tháng 7/2003, Việt Nam cam kết áp dụng Danh mục Thuế quan Hài hòa
Chung ASEAN (AHTN), do đó Danh mục CEPT 2003 sẽ được chuyển đổi theo biểu
thuế nhập khẩu mới. Việc chuyển sang Danh mục Thuế quan Hài hòa Chung ASEAN
sẽ giúp các doanh nghiệp dễ tra cứu các mã số và tên hàng hóa khi thực hiện các
hoạt động xuất nhập khẩu với các nước ASEAN.
(c) Áp dụng các biện pháp phi thuế quan
Bên cạnh việc cắt giảm hàng rào thuế quan Việt Nam cũng đã chuẩn bị tiến tới việc
cắt giảm hàng rào phi thuế quan theo quy định của CEPT, vì việc mở cửa thị trường
sẽ không có ý nghĩa nếu như hàng rào thuế quan được cắt giảm song hệ thống phi
thuế quan vẫn được duy trì. Cụ thể một mặt hàng dù được cam kết giảm thuế từ
100% xuống 0% vẫn không thể kinh doanh được nếu như nó bị áp đặt cấm nhập
khẩu.
Hiện Việt Nam đang áp dụng các biện pháp phi thuế như: hạn ngạch, giấy phép, phụ
thu... đến bảo hộ thị trường nội địa. Các biện pháp này không đạt hiệu quả cao như
một số các biện pháp khác mà các nước thường sử dụng như: sử dụng các quy định
về tiêu chuẩn vệ sinh, bao bì, về mức độ gây ô nhiễn môi trường cho phép… Do
vậy, việc dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan là rất phức tạp và chỉ có thể thực hiện thông
qua việc hài hoà hoá hoặc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế chung hay công nhận các
tiêu chuẩn của nhau. Hiện Việt Nam đang cùng các nước thành viên ASEAN khác


tiến hành hài hòa hóa các biện pháp phi thuế quan nhất là các biện pháp mang tính
kỹ thuật và quản lý chất lượng.
(d) Cải tiến hệ thống hải quan
Để thực hiện tốt yêu cầu của CEPT đẩy mạnh quá trình tự do hoá thương mại giữa

các nước thành viên thuộc ASEAN, việc cải tiến hệ thống hải quan có ý nghĩa quan
trọng. Chế độ hải quan của Việt Nam có nhiều điểm còn cách biệt so với các nước
thành viên ASEAN, vì vậy từ năm 1996 đến nay Hải quan Việt Nam đã và đang phối
hợp với các nước thuộc ASEAN để giải quyết những vấn đề có liên quan tới Hải
quan như:
1. Thống nhất danh mục biểu thuế quan của các nước ASEAN.
2. Thống nhất phương pháp xác định trị giá để tính thuế.
3. Thống nhất về thủ tục hải quan giữa các nước thành viên ASEAN.
4. Triển khai Hệ thống luồng xanh để nhanh chóng hoàn thành các thủ tục hải
quan cho các sản phẩm của chương trình CEPT.
5. Lập tờ khai hải quan chung.
Tóm lại, từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã thực hiện được những bước đi quan
trọng vừa đảm bảo tính thận trọng, tránh được sự xáo trộn lớn trong hoạt động và
điều hành nền kinh tế, vừa nhanh chóng kịp thời thực hiện lịch trình tham gia AFTA
theo Hiệp định CEPT nhằm đảm bảo tham gia hội nhập một cách có hiệu quả

Tìm hiểu về WTO
WTO – Hiệp hội thương mại thế giới là sân chơi chung cho thị trường toàn cầu. Là Tổ
chức thương mại lớn nhất hành tinh điều chỉnh những hoạt động buôn bán đa phương
mang tính chất tương đối tự do, công bằng và tuân thủ những luật lệ rõ ràng.
Là Tổ chức Quốc tế duy nhất quản lý luật lệ giữa các quốc gia trong thương mại quốc tế,
đó là những hiệp định đã và đang tiếp tục được đàm phán và ký kết giữa các quốc gia
hoặc lãnh thổ quan thuế thành viên.
WTO hiện chiếm 97% giao dịch thương mại thế giới.
HỆ THỐNG
Được thành lập ngày 01 tháng 01 năm 1995 theo vòng đàm phán Urguay ( 1896- 1994).
Trụ sở chính: Geneva, Thụy Sĩ


Thành viên: 149 quốc gia ( 11/2005_

Quỹ ngân sách: 175 triệu Franc Thụy Sĩ vào năm 2006
Hội đồng thư ký: 635 thành viên
Người đứng đầu: Pascal Lamy (Director-General)
Hội phí của mỗi thành viên được tính theo mức % thương mại của nước đó trong tổng
kim ngạch thương mại thế giới.
CHỨC NĂNG CƠ BẢN
Chức năng cơ bản:
-Quản lý, điều hành các hiệp định thương mai WTO
-Diễn đàn cho các cuộc đàm phán thương mại
-Giải quyết các tranh chấp thương mại
-Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia thành viên.
-Trở giúp về mặt kỷ thuật và đào tạo cho các nước đang phát triển
-Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
- WTO kế tục và mở rộng phạm vi của tổ chức tiền thân của nó là Hiệp định chung về
thuế quan và Thương mại ( GATT)
- GATT ra đời sau đại thế chiến thứ 2, trong trào lưu hình thành hàng loạt các hoạt động
hợp tác kinh tế quốc tế, điển hình là Ngân hàng thế giới (World Bank) và Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF)..
- Từ đó đến nay, GATT đã trãi qua 8 vòng đàm phán chủ yếu. Tuy nhiên, do thương mại
không ngừng phát triển, các vấn đề trong các cuộc đàm phán ngày càng mở rộng. Với tư
cách là một sự thỏa thuận. GATT có những hạn chế về quyền hạn.
- Để chấm dứt tình trạng nan giải đó, các bên tham gia GATT quyết tâm thành lập WTO
với đầy đủ tư cách là một tổ chức Quốc tế toàn cầu, đặt nền móng cho một hệ thống
thương mại đa phương bền vững trong tương lai.


- Ngày 15 tháng 04 năm 1994 tại Marốc, các nước thành viên đã ký hiệp định thành lập
tổ chức thương mại thế giới. Theo đó, WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ
thống Liên hiệp quốc và đi vào hoạt động từ 01 tháng 01 năm 1995.

1) Các cơ quan lãnh đạo chính trị và có quyền ra quyết định bao gồm :
- Hội nghị Bộ trưởng ( Ministerial Conference) là cơ quan quyền lực cao nhất, nhóm họp
ít nhất hai năm một lần. Là đại diện cấp Bộ trưởng thương mại của các quốc gia thành
viên. Có thẩm quyền quyết định mọi vấn đề, mọi quyết định phải thông qua 3/4 số phiếu
của các thành viên.
2) Cơ quan thường trực:
-Đại Hội đồng, có chức năng giải quyết và điều phối mọi hoạt động của WTO.
Đồng thời đóng vai trò là "Cơ quan giải quyết tranh chấp" ( Dispute Settlement Body) và
"Cơ quan rà soát chính sách" (Trade Policy Review Body)
-Là các quan chức tương đương cấp thứ trưởng của các quốc gia thành viên. Nhóm họp
khi có yêu cầu (trung bình 9 lần/năm)
-Dưới Đại hội đồng là các Hội đồng trực thuộc và các Ủy ban tương ứng như:
Hội đồng Thương mại hàng hóa ( Council for Trade in Goods )
Hội đồng Thương mại dịch vụ. ( Trade in Sevices)
Hồi đồng về quyền sở hữu trí tuệ (Council for Trade-Related Aspects of Intellectual
Property Rights)
và các Ủy ban trược thuộc tương ứng...(hình trên)
Các hội đồng trên chịu trách nhiệm việc thực thi Hiệp định WTO về từng lĩnh vực thương
mại tương ứng. Tham gia các Hội đồng là đại diện của các thành viên.
Các cơ quan thừa hành và giám sát việc thực hiện các hiệp định thương mại đa phương,
bao gồm Hội đồng GATT, Hội đồng GATS và Hội đồng TRIPS;
3) Cuối cùng là các cơ quan thực hiện chức năng hành chính:
- Ban Thư ký WTO gồm 1 Tổng giám đốc và 4 phó tổng giám đốc. Được lập bởi Hội
nghị bộ trưởng.
-Tổng Giám đốc là đại diện hợp pháp của WTO, chức danh và nhiệm kỳ của TGĐ được
quyết định bở Hội nghị Bộ trưởng.


Phần lớn các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ sở đồng thuận. Trong một
số trường hợp, khi không đạt được sự đồng thuận, các thành viên có thể tiến hành bỏ

phiếu.
Khác với các tổ chức khác, mỗi thành viên chỉ có quyền bỏ 1 phiếu và các phiếu có giá trị
ngang nhau
NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG
Toàn bộ hoạt động của WTO dựa trên một loạt các văn bản pháp lý đề cập tới rất nhiều
lĩnh vực thương mại.
Tuy nhiên các văn bản pháp lý này chỉ dựa trên một số nguyến tắc sau:
- Không phân biệt đối xử
- Thương mại ngày càng tự do thông qua đàm phán
-Xây dựng môi trường kinh doanh dễ dự đoán
- Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng
- Dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi

Quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của Việt Nam (WTO)
Các mốc đánh dấu chặng đường gia nhập WTO của Việt Nam
- 4-1-1995: Đơn xin gia nhập WTO của Việt Nam được Đại hội đồng tiếp nhận.
- 31-1-1995: Ban xem xét công tác gia nhập (WP) của Việt Nam được thành lập với chủ
tịch là ông Eirik Glenne, đại sứ Na Uy tại WTO.
- 24-8-1995: Việt Nam nộp bị vong lục về chế độ ngoại thương VN và gửi tới Ban thư ký
WTO để luân chuyển đến các thành viên của ban công tác.
Năm 1998-1999: Các phiên hỏi và trả lời với ban xem xét công tác xét duyệt.
Đầu năm 2002: Việt Nam gửi bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ tới WTO và bắt
đầu tiến hành đàm phán song phương với một số thành viên trên cơ sở bản chào ban đầu
về thuế quan và dịch vụ.
- 9-10-2004: Việt Nam và EU đạt thỏa thuận về việc Việt Nam gia nhập WTO.
- 9-6-2005: Việt Nam và Nhật Bản đạt được thỏa thuận cơ bản về vấn đề mở đường cho
Việt Nam sớm gia nhập WTO.
- 12-6-2005: Việt Nam cử một phái đoàn đàm phán hùng hậu sang Washington trước
thềm chuyến thăm Mỹ chính thức của Thủ tướng Phan Văn Khải với quyết tâm đi đến kết
thúc đàm phán song phương.

- 18-7-2005: Việt Nam và Trung Quốc đạt thỏa thuận về việc mở cửa thị trường để Việt
Nam gia nhập WTO.
-31-5-2006: Ký thỏa thuận kết thúc đàm phán song phương với Mỹ - nước cuối cùng


trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương.
- 26-10-2006: Việt Nam hoàn tất đàm phán đa phương tốt đẹp với các nước. Cuộc đàm
phán trước đó diễn ra căng thẳng và tưởng chừng không thể kết thúc được cho đến phút
chót.
- Ngày 07 tháng 11/2006, nước ta đã chính thức được kết nạp vào tổ chức này.

Thủ tục gia nhập WTO bao gồm các bước (hoặc các giai đoạn):
- Nộp đơn xin gia nhập;
- Ðàm phán gia nhập;
- Kết nạp.
a. Nộp đơn xin gia nhập:
Nộp đơn là bước đầu tiên và bắt buộc đối với một nước xin gia nhập WTO.
Ðồng thời với việc tham gia Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) vào tháng 71995; là thành viên đồng sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) vào tháng 3-1996;
tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 111998; Việt Nam đã sớm nhận thức tầm quan trọng của việc tham gia vào Tổ chức thương
mại thế giới (WTO).
1-1-1995, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO. WTO tiếp nhận đơn xin gia nhập của
WTO của Việt Nam và Việt Nam trở thành quan sát viên của tổ chức này.
31-1-1995, Nhóm công tác (của WTO) về việc Việt Nam gia nhập WTO được thành lập.
b. Ðàm phán gia nhập:
Ðể gia nhập WTO, tất cả các thành viên xin gia nhập đều phải tiến hành các cuộc đàm
phán. Nói cách khác, để gia nhập WTO, các nước xin gia nhập phải cam kết đưa ra những
nghĩa vụ (cam kết mở cửa thị trường, cam kết tuân thủ các hiệp định của WTO) mà mình
sẽ chấp thuận khi trở thành thành viên của WTO để đổi lấy những quyền (những ưu đãi
do các nước thành viên của WTO dành cho, được hưởng lợi từ hệ thống thương mại đa
biên với các luật chơi của WTO, được sử dụng các quy tắc giải quyết tranh chấp của

WTO...) mà WTO đem lại. Ðể gia nhập WTO, Việt Nam cũng phải thực hiện các cuộc
đàm phán xin gia nhập.
Giai đoạn đàm phán bao gồm các bước sau:


- Minh bạch hoá chính sách:
Minh bạch hoá chính sách là việc chính phủ nước xin gia nhập phải thông báo, mô tả
(phác hoạ) bức tranh chung về các cơ chế, chính sách thương mại, kinh tế của nước mình
có liên quan đến các hiệp định của WTO. Việc minh bạch hoá chính sách được thực hiện
thông qua việc Việt Nam gửi bản Bị vong lục về cơ chế ngoại thương của Việt Nam (trình
bày về hệ thống chính sách thương mại - kinh tế của Việt Nam) tới Nhóm công tác về
việc Việt Nam gia nhập WTO (sau đây gọi là Nhóm công tác) để Nhóm công tác xem xét.
Tất cả các thành viên đều có thể tham gia Nhóm công tác này. Nhóm công tác là tổ chức
chịu trách nhiệm thụ lý đơn xin gia nhập.
Trong quá trình Nhóm công tác xem xét, tất cả các nước thành viên WTO đều có thể yêu
cầu trả lời những câu hỏi mà họ quan tâm.
Việt Nam đã trả lời khoảng 2.600 nhóm câu hỏi do các thành viên WTO đưa ra và đã
thông báo hàng chục ngàn trang văn bản cho các thành viên WTO về hệ thống chính
sách, pháp luật có liên quan đến các lĩnh vực thuế, đầu tư, nông nghiệp, thương mại hàng
hoá, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ...
Theo quy định của WTO, khi việc xem xét của Nhóm công tác đã có những bước tiến
đáng kể, nước xin gia nhập có thể bắt đầu các cuộc đàm phán.
- Ðàm phán mở cửa thị trường:
Việc đàm phán được thể hiện ở 2 phương diện: đàm phán đa phương và đàm phán song
phương.
Ðàm phán đa phương: về mặt hình thức chính là các cuộc họp giữa Việt Nam với Nhóm
công tác. Các cuộc họp này được tiến hành ở Geneva, trụ sở của WTO. Về mặt thực chất,
đây là các cuộc họp nhằm tổng kết hoá các cam kết của Việt Nam. Tính đến 12-2005,
Việt Nam đã tiến hành 10 phiên đàm phán đa phương.
Ðàm phán song phương: là đàm phán giữa Việt Nam (nước xin gia nhập) với từng thành

viên khác nhau của WTO bởi vì mỗi nước thành viên có những lợi ích thương mại và yêu
cầu, toan tính khác nhau. Như đã nói ở trên, về mặt bản chất, khi gia nhập WTO, Việt
Nam có quyền tiếp cận thị trường của tất cả các thành viên WTO, được hưởng quyền
ngang với các thành viên khác của WTO, trong đó bao gồm cả việc được hưởng những
kết quả đàm phán giữa các thành viên khác với nhau, theo nguyên tắc tối huệ quốc của
WTO.
Mặc khác, Việt Nam cũng phải đưa ra mức thuế suất thấp và loại bỏ các hàng rào phi thuế
để các thành viên khác tiếp cận được thị trường Việt Nam. Ðồng thời, Việt Nam phải cam
kết tuân thủ các quy định trong các hiệp định của WTO liên quan đến việc mở cửa thị
trường cho các đối tác thương mại.


Do vậy, nói một cách khác, các cuộc đàm phán song phương nhằm xác định các lợi ích
mà các thành viên của WTO có thể thu được từ việc gia nhập của một thành viên mới.
Khi các cuộc đàm phán song phương này kết thúc và Việt Nam trở thành thành viên
WTO, các cam kết qua các cuộc đàm phán sẽ trở thành cam kết áp dụng cho tất cả các
thành viên WTO. Có khoảng 30 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương với Việt Nam.
Tính đến 30-10-2005, Việt Nam đã kết thúc đàm phán với 21 đối tác.
Khi bước vào giai đoạn đàm phán, nước xin gia nhập cũng bắt đầu đưa ra Bản chào. Bản
chào là danh mục những cam kết về thuế quan, về thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí
tuệ...đáp ứng yêu cầu của các nước thành viên Nhóm công tác. Bản chào là cơ sở để tiến
hành các cuộc đàm phán mở cửa thị trường. Sau một quá trình đàm phán, các cam kết,
các nghĩa vụ trong Bản chào này sẽ được sửa đổi. Cuối cùng, các cam kết, nghĩa vụ đưa
ra trong Bản chào này sẽ trở thành những cam kết chính thức khi kết thúc đàm phán.
Ðến nay, sau các phiên họp với Nhóm công tác từ 1998 đến 2001, Việt Nam đã hoàn
thành giai đoạn minh bạch hoá chính sách. Bản chào đầu tiên đã được Việt Nam gửi tới
Ban thư ký của WTO vào tháng 12-2001. Tính đến 12-2005, Việt Nam đã đưa ra Bản
chào thứ tư.
c. Kết nạp:
Theo thông lệ, khi Nhóm công tác đã kết thúc việc xem xét chế độ ngoại thương của

nước xin gia nhập, đồng thời các cuộc đàm phán đa phương, song phương về mở cửa thị
trường đã kết thúc, Nhóm công tác sẽ dự thảo một Báo cáo gia nhập của nước xin gia
nhập, bao gồm một Nghị định thư gia nhập và các danh mục ghi các cam kết của nước
xin gia nhập (là tổng hợp kết quả của các thoả thuận trong các phiên đàm phán đa phương
và các cam kết trong các phiên đàm phán song phương).
Các văn bản này sẽ được trình lên Ðại hội đồng hoặc Hội nghị bộ trưởng. Tại cuộc họp
của Hội nghị bộ trưởng, nếu 2/ 3 số thành viên của WTO chấp thuận, quyết định về việc
gia nhập sẽ được thông qua. Sau đó, Nghị định thư gia nhập của Việt Nam sẽ được được
Tổng giám đốc WTO và chín phủ Việt Nam ký và Việt Nam trở thành thành viên của
WTO. 30 ngày sau khi chủ tịch nước (hoặc quốc hội) phê chuẩn nghị định thư, Việt Nam
sẽ chính thức trở thành thành viên WTO.
Ðể gia nhập được WTO, Việt Nam cần kết thúc việc đàm phán song phương, đàm phán
đa phương, hoàn thành Báo cáo gia nhập, để bắt đầu bắt tay vào dự thảo Nghị định thư
gia nhập.

Tìm hiểu về APEC
1. Tổng quan về APEC


APEC (Asia – Pacific Economic Cooperation) là Diễn đàn hợp tác Kinh tế vùng Châu Á
– Thái Bình Dương. APEC được thành lập theo sáng kiến của Australia tại Hội nghị Bộ
trưởng Kinh tế Thương mại và Ngoại giao 12 nước khu vực Châu Á và Thái Bình Dương
tổ chức tại Canberra – Australia tháng 11/1989. Hiện nay, APEC có 21 thành viên (gọi là
nền kinh tế thành viên), bao gồm Ôx-trây-lia, Bru-nây Đa-ru-sa-lam, Ca-na-da, Chi-lê,
Trung Quốc, Hồng Kông, In-đô-nê-xia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Mê-hi-cô, Niu
Di-lân, Pa-pua Niu Ghi-nê, Pê-ru, Phi-lip-pin, Singapo, Đài Loan, Thái Lan, Mỹ và Việt
Nam. APEC là một diễn đàn đặc biệt, hoạt động trên nguyên tắc đối thoại mở, không có
cam kết ràng buộc, sự tuân thủ đạt được thông qua thảo luận và hỗ trợ lẫn nhau dưới hình
thức hợp tác kinh tế và kỹ thuật. Các thành viên tuy khác nhau về thể chế chính trị, vị trí
địa lý, mức độ phát triển kinh tế, nhưng đều tham gia vì một mục tiêu chung là tiến tới

một khu vực thị trường mở cửa, tự do hóa và thương mại hoá.APEC đã phát triển thành
một trong những tổ chức khu vực quna trọng nhất trên thế giới. Với 21 nền kinh tế thành
viên, trải rộng trên bốn châu lục, chiếm 46% diện tích; với hơn 2,6 tỉ dân, chiếm hơn 1/3
dân số thế giới; chiếm 57% GDP thế giới (20,7 nghìn tỉ USD) và khoảng 45,8% thương
mại toàn cầu (7 nghìn tỉ USD). APEC là khu vực kinh tế năng động nhất trên thế giới, tạo
ra gần 70% tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong 10 năm đầu tiên thành lập. Trong số 14
nền kinh tế lớn nhất thế giới với GDP lớn hơn 500 tỷ USD, thì có 7 nền kinh tế là thành
viên của APEC, trong đó có 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ và Nhật Bản.
2. Mục tiêu hoạt động của APEC:
- Năm 1898, các thành viên sáng lập APEC xây dựng 3 mục tiêu:
+ Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững
+ Phát triển và củng cố hệ thống thương mại đa phương
+ Tăng cường sự phụ thuộc lẫn nhau và thịnh vượng của các nền kinh tế thành viên
- Trong tuyên bố Seoul 1991, các thành viên APEC đã đưa ra các mục tiêu cụ thể:
+ Duy trì sự tăng trưởng và phát triển vì lợi ích chung của nhân dân các nước trong khu
vực, góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển chung của kinh tế thế giới.
+ Phát huy những thành tựu tích cực mà nền kinh tế của các nước trong khu vực và thế
giới tạo ra, không ngừng hỗ trợ nhau vì lợi ích cả khu vực và cả thế giới, thông qua việc
khuyến khích các hoạt động giao lưu hàng hoá, dịch vụ, vốn và công nghệ.
+ Hình thành và tăng cường một hệ thống thương mại đa biên rộng mở, vì lợi ích của
Châu Á – Thái Bình Dương và các nền kinh tế khác.
+ Giảm bớt những hàng rào cản trở thương mại hàng hoá và dịch vụ giữa các thành viên,
áp dụng các nguyên tắc của GATT/WTO mà không làm tổn hại đến nền kinh tế của các
nước khác.
+ Kêu gọi các thành phần kinh tế tư nhân hãy tham gia tích cực hơn nữa vào công cuộc
phát triển kinh tế chung APEC.
- Tại hội nghị 1994 tổ chức ở Bogor (Indonesia), các nhà lãnh đạo APEC đã cam kết
thực hiện “Mục tiêu Bogor” về thương mại mở và tự do trong khu vực. Trong đó xác
định hai mốc thời gian cụ thể cho tự do hoá thương mại và mở cửa là năm 2010 đối với
các nền kinh tế phát triển và năm 2020 đối với các nền kinh tế đang phát triển.- APEC

còn hướng tới việc xây dựng một môi trường an toàn và hiệu quả cho luân chuyển hàng


hóa, dịch vụ và con người giữa các thành viên thông qua việc thống nhất các chính sách
và thúc đẩy hợp tác kinh tế và kỹ thuật. Sự hợp tác này giúp đảm bảo mọi công dân của
APEC có thể tiếp cận với việc đào tạo và công nghệ để hưởng thụ các lợi ích từ thương
mại và đầu tư mở.
3. Phạm vi hoạt động của APEC:
Các hoạt động của APEC dựa trên 3 trụ cột chính là:
- Tự do hoá thương mại và đầu tư: tập trung vào việc mở cửa thị trường, cắt giảm và tiến
đến xoá bỏ hoàn toàn các rào cản thuế và phi thuế đối với thương mại và đầu tư
- Thuận lợi hoá kinh doanh: tập trung vào giảm chi phí giao dịch, cải thiện việc tiếp cận
với thông tin thương mại, phát huy lợi ích của CNTT và truyền thông.Hợp tác kinh tế và
kỹ thuật: tập trung đào tạo và các hoạt động hợp tác nhằm xây dựng năng lực cho các nền
kinh tế thành viên ở cấp độ thể chế và cá nhân.
4. Cơ cấu tổ chức:
- Hội nghị cấp cao APEC: Gồm các nhà lãnh đạo cao nhất của các thành viên được tổ chức một
năm một lần và luân phiên nhau, nhằm đưa ra quyết định về phương hướng, chiến lược, nội
dung hoạt động chủ yếu của APEC.
- Hội nghị bộ trưởng APEC: Gồm các Bộ trưởng Ngoại giao và Kinh tế của các nền kinh tế thành
viên, họp mỗi năm một lần (thường diễn ra trước hội nghị cấp cao). Hội nghị Bộ trưởng Ngoại
giao và Kinh tế do chủ tịch APEC năm đó chủ trì. Cương vị chủ tịch được luân phiên hằng năm
giữa các thành viên.
- Hội nghị các quan chức cao cấp: Gồm các Thứ trưởng, Vụ trưởng. Hàng năm thường có 3
cuộc họp chính thức và hai cuộc họp không chính thức. Các cuộc họp này nhằm thảo luận khả
năng hợp tác trong APEC và chuẩn bị nội dung cho hội nghị Bộ trưởng và hội nghị Cấp cao; xem
xét, điều phối ngân sách và các chương trình công tác của các diễn đàn khác nhau trong APEC.
- Ban Thư ký APEC: Ban Thư ký APEC được thành lập tháng 2/1993, có trụ sở tại Singapore.
Ban Thư ký có chức năng hỗ trợ và phối hợp các hoạt động của APEC như cung cấp hậu cần, kỹ
thuật và điều hành các vấn đề tài chính. Đứng đầu Ban Thư ký là một giám đốc điều hành do các

thành viên giữ cương vị Chủ tịch APEC cử ra đảm nhiệm với thời hạn một năm. Nhân viên Ban
Thư ký sẽ do các thành viên APEC cử sang làm việc và tuyển chọn tại địa phương.
5. Cơ chế hoạt động:
APEC hoạt động như một diễn đàn hợp tác thương mại và kinh tế đa phương. Các nền kinh tế
thành viên thực hiện các hành động riêng lẻ và tập thể nhằm mở cửa thị trường và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Các hành động này được thảo luận tại Hội nghị các quan chức cao cấp (SOM),
Hội nghị Bộ trưởng và cuối cùng là Hội nghị các nhà lãnh đạo của 21 thành viên. Các nhà lãnh
đạo APEC là người đưa ra định hướng chính sách của APEC. Các Bộ trưởng và Hội đồng tư vấn
doanh nghiệp đệ trình lên các nhà lãnh đạo các vấn đề mang tính chiến lược. Các hoạt động và
dự án của APEC ở cấp chuyên viên do các quan chức cao cấp APEC định hướng và được thực
hiện thông qua Uỷ ban Thương mại và đầu tư, Uỷ ban Kinh tế, Uỷ ban quản lý và Ngân sách và
Ban chỉ đạo SOM về Hợp tác kinh tế và kỹ thuật. Các tiểu ban, nhóm chuyên gia, nhóm công tác
và nhóm đặc trách có trách nhiệm triển khai những hoạt động do 4 uỷ ban này đề ra.


Câu 2:
Khái niệm :
An sinh xã hội là một hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà nước,
các đối tác xã hội thực hiện nhằm bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, sức khỏe
và các phúc lợi xã hội, nâng cao năng lực của cá nhân, hộ gia đình và cộng
đồng trong quản lý và kiểm soát các rủi ro do mất việc làm, tuổi già, ốm đau, rủi
ro thiên tai, chuyển đổi cơ cấu, khủng hoảng kinh tế, dẫn đến giảm hoặc bị mất
thu nhập và giảm khả năng tiếp cận đến các dịch vụ xã hội cơ bản”.

Chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội ở Việt Nam
Các vấn đề xã hội nói chung bao gồm nhiều lĩnh vực như sau: việc làm, thu
nhập, bình đẵng xã hội, khuyến khích làm giàu, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc
sức khỏe, cung ứng dịch vụ công, an sinh xã hội, cứu trợ xã hội, chính sách dân
số và kế hoạch gia đình vv…


1. Thời kỳ trước đổi mới
A, giai đoạn 1945-1954
Trong giai đoạn này chính sách xã hội cấp bách lúc này là làm cho dân
được ăn no,làm cho dân có áo mặc, cho dân có chỗ ở, làm cho dân
được học hành. Tiếp theo đó là làm cho người nghèo thì đủ ăn, người
đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì giàu thêm. Đảng còn có chính sách
gia tăng sản xuất, chủ trương tiết kiệm, đồng cam cộng khổ, khuyến
khích mọi người phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường
B, giai đoạn 1955-1975
Chế độ phân phối về thực chất là theo chủ nghĩa bình quân. Nhà nước
và tập thể đáp ứng các nhu cầu xã hội thiết yếu bằng chế độ bao cấp
tràn lan dựa vào viện trợ
C. giai đoạn 1975-1985
Các vấn đề xã hội được giải quyết theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung
quan lieu, bao cấp trong hoàn cảnh đất nước lâm vào khủng hoảng
kinh tế- xã hội nghiêm trọng, nguồn viện trợ giảm dần, bị bao vây, cô
lập và cấm vận
Kết quả và hạn chế:
Kết quả: tuy thời bao cấp có nhiều nhược điểm và hạn chế nhưng đã
bảo đảm được sự ổn định của xã hội, đồng thời còn đạt được nhiều
thành tựu phát triển đáng tự hào trên một số lĩnh vực như văn hóa,
giáo dục, y tế, lối sống, đạo đức, kỷ cương và an ninh xã hội, hoàn
thành nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn
Hạn chế: trong xã hội hình thành tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước
và tập thể trong cách giải quyết các vấn đề xã hội, chế độ phân phối
trên thực tế là bình quân, không khuyến khích những đơn vị, cá nhân


làm tốt, làm giỏi…Đã hình thành xã hội đóng, ổn định nhưng kém năng
động, chậm phát triển về nhiều mặt. Nguyên nhân cơ bản của các hạn

chế là chúng ta đặt chưa đúng tầm chính sách xã hội trong quan hệ với
chính sách thuộc các lĩnh vực khác, đồng thời lại áp dụng và duy trì
quá lâu cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao
cấp
2. Trong thời kỳ đổi mới
Một là, khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả mục
tiêu xóa đói, giảm nghèo.
Tạo cơ hội, điều kiện cho mọi người tiếp cận bình đẳng các nguồn phát triển
Tạo động lực làm giàu trong đông đảo dân cư bằng tài năng, sang tạo của bản thân, trong
khuôn khổ pháp luật và đạo đức cho phép.
Xây dựng, và thực hiện có hiệu quả cao chương trình xóa đói giảm nghèo, đề phòng tái
đói, tái nghèo, nâng cao dần chuẩn bị đói nghèo khi mức sống chung tăng lên.
Hai là, bảo đảm cung ứng dịch vụ công cần thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân, t ạo
việc làm và thu nhập, chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm
Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo nhiều việc làm ở trong nước và đẩy mạnh
xuất khẩu lao động
Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội ưu đãi
Đổi mới chính sách tiền lương, phân phối thu nhập xã hội công bằng hợp lý
Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả
Hoàn thiện mạng lưới cơ sở, quan tâm chăm sóc y tế tốt hơn đối với các đối tượng chính
sách, phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao, các dịch vụ y tế ngoài công lập
Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe và cải thiện giống nòi
Quan tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản, giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng
Đẩy mạnh công tác bảo vệ giốn nòi, kiên trì phòng chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội
Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình
Giảm tốc độ tăng dân số, bảo đảm quy mô và cơ cấu dân số hợp lý
Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ hạnh phúc, đảm bảo bình đẳng giới, chống
nạn bạo hành trong quan hệ gia đình
Sáu là, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội

Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và Phương thức cung ứng dịch vụ công cộng
Kết quả và hạn chế:
Kêt quả:
Từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào nhà nước và tập thể đã chuyển sang tính năng động, chủ
động và tính tích cực xã hội của tất cả các tầng lớp dân cư
Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích của tập thể một cách chung chung, đã chuyển sang phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp
các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh thông qua phúc lợi xã hội. Nhờ vậy công
bằng xã hội được thể hiện rõ rệt hơn
Từ chỗ không đặt đúng tầm quan trọng của chính sách xã hội trong mối quan hệ tương
tác với chính sách kinh tế đã đi đến thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội


Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ đã chuyển dần sang trọng tâm kinh tế thiết lập cơ chế,
chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm
Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu-nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người
làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo, coi việc có một bộ phận dân
cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển
Từ chỗ nhanh chóng xây dựng một cơ cấu xã hội “thuần nhất” chỉ còn có giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức đã đi đến quan niệm cần thiết xây
dựng một cộng đồng xã hội đa dạng.

Hạn chế:
Giáo dục và đào tạo còn có những hạn chế, yếu kém dài, gây bức xúc trong xã hội
nhưng chưa được tăng cường trong lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết. Trong sự nghiệp
giáo dục toàn diện, dạy làm người, dạy nghề là yếu kém nhất
Áp lực gia tăng dân số vẫn còn lớn. Chất lượng dân số còn thấp đang là cản trở lớn
đối với mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Vấn đề việc
làm rất bức xúc và nan giải
Sự phân hóa giàu nghèo và bất công xã hội tiếp tục gia tăng đáng lo ngại

Mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân còn thấp, chênh lệch lớn giữa các vùng, các
tầng lớp dân cư.
Một số vấn đề xã hội bức xúc cũ và phát sinh mới chậm được giải quyết
Tệ nạn xã hội gia tăng và diễn biến rất phức tạp, gây thiệt hại lớn về kinh tế và an
sinh xã hội
Môi trường sinh thái bị ô nhiễm tiếp tục tăng thêm, tài nguyên bị khai thác bừa bãi
và tàn phá
Hệ thống giáo dục, y tế lạc hậu, xuống cấp, có nhiều bất cập, an sinh xã hội chưa
được đảm bảo
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế nêu trên là:
Tăng trưởng kinh tế vẫn tách rời mục tiêu và chính sách xã hội, chạy theo số
lượng, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững xã hội
Quản lý xã hội còn nhiều bất cập, không theo kịp sự phát triển kinh tế-xã hội

Câu 3:
ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA ĐẢNG
THỜI KÌ ĐỔI MỚI (1986 ĐẾN NAY)
1. Quá trình hình thành và phát triển đường lối đối ngoại
Thời kỳ đổi mới của Đảng ta được đánh dấu bởi các mốc lớn như sau:
- Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI) tháng 5-1988 là mốc khởi
đầu của quá trình đổi mới tư duy, nhận thức và đường lối đối ngoại của Đảng ta.
Nghị quyết nhận định rằng, tình trạng kinh tế yếu kém, tình thế bị bao vây về kinh
tế và cô lập về chính trị sẽ thành nguy cơ lớn đối với an ninh và độc lập dân tộc.
Từ đó, đề ra nhiệm vụ ra sức tranh thủ các nước anh em, bè bạn và dư luận rộng


rãi trên thế giới, phân hóa hàng ngũ đối phương, làm thất bại âm mưu cô lập ta về
kinh tế và chính trị; chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ trạng thái đối đầu sang đấu
tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình; ra sức lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học - kỹ thuật và xu thế quốc tế hóa cao của kinh tế thế giới, đồng thời

tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế.
- Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), Hội nghị Trung ương 7 (tháng 81989) và Hội nghị Trung ương 8 (tháng 3-1990) của khóa VI với "các nguyên tắc
cơ bản cần được quán triệt trong quá trình đổi mới" và các nghị quyết "Một số vấn
đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay",
"Tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và
nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta" đã tập trung đánh giá tình hình thế giới liên quan
đến những biến động xảy ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, đề
ra các quyết sách đối phó với những tác động phức tạp từ diễn biến của tình hình
thế giới đối với nước ta và công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
- Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992) đã ra Nghị quyết chuyên
đề về công tác đối ngoại. Nghị quyết xác định rõ nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư
tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ
quốc tế; đề ra chủ trương mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ
đối ngoại của Việt Nam, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa..., trên cơ sở giữ vững
độc lập tự chủ và các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hợp tác bình đẳng và cùng có
lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp và
bản sắc văn hóa dân tộc... Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII là văn kiện đánh
dấu sự hình thành đường lối đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ đổi mới toàn diện
đất nước.
- Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) và
Đại hội VIII (tháng 6-1996) của Đảng ta đã chính thức khẳng định đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với tinh thần
"Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì
hòa bình, độc lập và phát triển".
- Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) khẳng định Đảng và Nhà nước ta tiếp
tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại đó với một tinh thần mạnh mẽ hơn và
một tâm thế chủ động hơn bằng tuyên bố "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển".

- Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong đó đề cập nhiều nội dung
hết sức quan trọng về đối ngoại, đặc biệt là ba vấn đề: về các mâu thuẫn của thế
giới hiện nay; về lợi ích của Việt Nam; về đối tượng, đối tác. Cần nhấn mạnh vấn
đề cốt lõi trong mọi hoạt động đối ngoại là phải tìm cách thực hiện tối đa lợi ích
của đất nước. Do đó, việc nhận thức thật rõ lợi ích của đất nước ta, dân tộc ta là
điều vô cùng quan trọng. Hội nghị Trung ương 8, khóa IX đã khẳng định một lần
nữa: "độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản của cách mạng và


cũng là lợi ích căn bản của quốc gia", "kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với
chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển
kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của Tổ quốc". Hội nghị cũng đã nhấn mạnh cách nhìn
biện chứng về đối tượng, đối tác: "trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh
thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích
của ta", làm cơ sở mở rộng và phát triển các mối quan hệ vừa hợp tác vừa đấu
tranh với các chủ thể quan hệ quốc tế.
- Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) đã khẳng định: "Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực
khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham
gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực".
2. Đường lối của đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề đối ngoại:
Từ năm 1991 đến nay, hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt
Nam diễn ra cùng một lúc trên 4 mặt :
- Một là, tạo dựng và củng cố môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc củng cố và thúc đẩy các mối quan hệ song
phương, nhất là quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong khu vực có ý

nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Nhận
thức rõ điều đó, hoạt động đối ngoại đã tập trung giải quyết vấn đề Campuchia và
bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Đồng thời triển khai mạnh mẽ các hoạt
động ngoại giao song phương cấp cao với các nước ASEAN, chủ động tham gia
các hoạt động của Hiệp hội và năm 1995, Việt Nam chính thức tham gia ASEAN.
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN là một quyết định đúng đắn và kịp thời. Cùng với
việc giải quyết hòa bình vấn đề Campuchia, bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc, nối lại quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế, ký Hiệp định khung với
với Liên minh châu Âu, bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ, củng cố và
mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc và
các nước đang phát triển ở châu á, Trung Đông, châu Phi, Mỹ La-tinh và các nước
công nghiệp phát triển trên thế giới. Việt Nam gia nhập ASEAN góp phần phá thế
bị bao vây, cô lập, tạo ra môi trường hòa bình, ổn định và thuận lợi hơn cho sự
nghiệp xây dựng đất nước, đưa Việt Nam hội nhập về kinh tế với khu vực và quốc
tế. Mặt khác, để góp phần bảo đảm an ninh và ổn định cho đất nước, hoạt động đối
ngoại của Việt Nam đã góp phần chủ động và tích cực giải quyết những vấn đề tồn
tại với các nước láng giềng và các nước ở khu vực như đàm phán và ký Hiệp định
biên giới với Lào, thỏa thuận về khai thác chung với Ma-lai-xi-a trên vùng chồng
lấn, phân định vùng chồng lấn với Thái Lan, đàm phán và ký Hiệp định về biên
giới trên bộ với Trung Quốc và đang đàm phán để có thể ký Hiệp định về phân
định vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc trong năm 2000, tiếp tục đàm phán với In-đônê-xi-a về phân định thềm lục địa, tiếp tục đàm phán với Campuchia để giải quyết
những vấn đề còn tồn đọng về biên giới lãnh thổ. Hoạt động đối ngoại cũng đã


góp phần kiên quyết đấu tranh chống âm mưu và hành động lợi dụng chiêu bài
"nhân quyền", "dân chủ" và "tự do tín ngưỡng" để can thiệp vào công việc nội bộ
Việt Nam. Toàn bộ các hoạt động trên đã góp phần quan trọng và thiết thực vào
việc tạo dựng môi trường khu vực tương đối ổn định và thuận lợi cho đất nước
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Hai là, ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi góp phần vào

công cuộc phát triển đất nước, mở rộng hợp tác kinh tế. Đây là một nhiệm vụ
trọng tâm của ngoại giao Việt Nam thời kỳ đổi mới. Nhờ những thành tựu quan
trọng của công cuộc đổi mới và chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam đã làm thất bại chính sách bao vây cấm vận
của Mỹ và đồng minh, mở rộng và đa dạng hóa thị trường, thúc đẩy quan hệ kinh
tế thương mại song phương với hơn 130 nước và lãnh thổ, đón nhận nguồn đầu tư
trên 36 tỷ USD của hơn 60 nước và lãnh thổ, tranh thủ hơn 13 tỷ USD từ nguồn
viện trợ ưu đãi chính thức của các chính phủ và các tổ chức quốc tế và hàng tỷ
USD viện trợ không hoàn lại của nhiều chính phủ và các tổ chức quốc tế thuộc hệ
thống Liên hợp quốc và các tổ chức phi chính phủ. Việc tạo dựng môi trường quốc
tế hòa bình, tăng cường hợp tác, mở rộng thị trường, tranh thủ vốn, công nghệ
phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước cũng là sự đóng góp trực tiếp và thiết
thực cho yêu cầu bảo đảm an ninh. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, lực lượng sản xuất phát triển nhanh và quốc tế hóa cao độ, đẩy nhanh
xu thế toàn cầu hóa. Trong bối cảnh đó, các nước đều tìm cách giành cho mình
một vị thế xứng đáng trong phân công lao động quốc tế, tranh thủ vốn, công nghệ,
kỹ năng quản lý để phát triển, đấu tranh để bảo vệ lợi ích của mình. Nhận rõ xu thế
đó, Việt Nam đã đề ra chủ trương hội nhập và kiên trì thực hiện chủ trương đó. Đại
hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định "đẩy nhanh quá trình
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới". Từ đầu những năm 90 Việt Nam đã khai
thông quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế, tiếp đó năm 1995 chính thức gia
nhập ASEAN và tham gia AFTA. Năm 1996 Việt Nam tham gia Diễn đàn hợp tác
á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập và năm 1998 trở thành thành
viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC).
Việt Nam cũng đã đàm phán và ký Hiệp định Thương mại với Mỹ và đang đàm
phán về việc gia nhập WTO, mức hội nhập cao nhất, rộng nhất, có ý nghĩa quan
trọng đối với việc thiết lập môi trường buôn bán và quan hệ hợp tác kinh tế với
toàn bộ thế giới.
- Ba là, nâng cao vị thế nước nhà trên trường quốc tế. Thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, đến nay Việt Nam đã có
quan hệ ngoại giao với 167 nước thuộc tất cả các châu lục và lần đầu tiên trong

lịch sử có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn, các ủy viên thường trực
của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Trong điều kiện quốc tế ngày nay khi quá
trình hội nhập ngày càng được xúc tiến nhanh, ngoại giao đa phương ngày càng
giữ một vị trí quan trọng, góp phần nâng cao vị thế quốc tế của đất nước trên thế
giới. Việt Nam đã hoạt động tích cực với vai trò ngày càng tăng tại Liên hợp quốc
(ủy viên ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP, UNFPA và UPU...), phát


huy vai trò thành viên tích cực của phong trào Không liên kết, Cộng đồng các
nước có sử dụng tiếng Pháp, ASEAN; Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị cấp
cao Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp năm 1997 và đặc biệt là Hội nghị
cấp cao ASEAN lần thứ 6 năm 1998 đã góp phần quan trọng nâng cao uy tín và vị
thế của đất nước. Có thể nói ngoại giao đa phương là một điểm sáng trong hoạt
động ngoại giao thời đổi mới. Những kết quả đạt được trong mối quan hệ đan xen
này đã củng cố và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước, tạo ra thế cơ động linh
hoạt trong quan hệ quốc tế, có lợi cho việc bảo vệ độc lập tự chủ và an ninh cũng
như công cuộc xây dưng đất nước.
- Bốn là, chủ động tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế
giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các hoạt động đối
ngoại phong phú, đa dạng cả theo đường Đảng lẫn Nhà nước và các hoạt động
quốc tế nhân dân đã góp phần duy trì và củng cố quan hệ đoàn kết hữu nghị với
các đảng phái chính trị, trước hết là các Đảng cộng sản và công nhân, các tổ chức
tiến bộ đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, từ đó tranh thủ sự hỗ trợ
về chính trị có lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng đã nêu: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa
dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng
thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác

quốc tế và khu vực. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa
bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát
triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đưa các quan hệ quốc
tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Phát triển quan hệ với tất cả
các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo các nguyên
tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các
bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình
đẳng và cùng có lợi. Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công
nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế
giới. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền. Phát triển công tác đối
ngoại nhân dân theo phương châm "chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả".
Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới. Tăng cường
vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ
nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội. Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung
vì quyền con người. Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu
vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành
động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn
giáo" hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn


vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam. Đẩy mạnh hoạt động kinh
tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu
vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược
phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị tốt
các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa
phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN,

các nước châu Á - Thái Bình Dương... Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song
phương tin cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và
giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO). Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp
quy, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất
quán, ổn định và minh bạch. Cải thiện môi trường đầu tư; thu hút các nguồn vốn
FDI, ODA, đầu tư gián tiếp, tín dụng thương mại và các nguồn vốn khác. Xác định
đúng mục tiêu sử dụng và đẩy nhanh việc giải ngân nguồn vốn ODA, cải tiến
phương thức quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng và có kế hoạch trả nợ đúng hạn;
duy trì tỉ lệ vay nợ nước ngoài hợp lý, an toàn. Phát huy vai trò chủ thể và tính
năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế
quốc tế. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm
mới và thương hiệu mới. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên
doanh với doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài. Đẩy mạnh
công tác văn hoá - thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu
nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước. Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn
luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vững vàng về chính trị, có trình độ
ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt. Tăng cường
công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự tham gia và phát huy
trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học. Bảo đảm sự lãnh đạo
thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối
ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và
đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại; đối ngoại, quốc phòng
và an ninh; thông tin đối ngoại và thông tin trong nước.

3. Kết quả và ý nghĩa
Các hoạt động đối ngoại đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tạo
các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị - xã hội, củng cố an
ninh, quốc phòng, đưa đất nước vượt qua những thách thức và đi vào giai đoạn

phát triển mới; vị thế của nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Từ
chỗ bị bao vây, cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị, đến nay nước ta đã phát
triển quan hệ đa phương, đa dạng với các chủ thể quan hệ quốc tế. Việt Nam hiện
có quan hệ ngoại giao với 169 nước, quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư với


165 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đảng ta có quan hệ ở các mức độ khác
nhau với trên 200 chính đảng ở các nước trên khắp các châu lục. Các đoàn thể và
tổ chức nhân dân ta có quan hệ với hàng trăm tổ chức nhân dân, tổ chức phi chính
phủ quốc gia và quốc tế. Trong hơn 20 năm qua, thông qua đàm phán hòa bình, ta
đã giải quyết được một số vấn đề do lịch sử để lại về biên giới, lãnh thổ, vùng
chồng lấn trên biển với các nước liên quan, phấn đấu xây dựng đường biên giới
trên đất liền và trên biển thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp
tác cùng phát triển. Nước ta đã ký kết Hiệp ước phân định biên giới trên đất liền,
Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định về hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ
với Trung Quốc; đã ký Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985
với Cam-pu-chia; đã ký kết các hiệp định về phân định thềm lục địa, phân định
vùng chồng lấn trên biển với Ma-lai-xi-a, Thái Lan và In-đô-nê-xi-a. Việt Nam
cùng các nước ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Tuyên bố về cách ứng xử của các
bên ở biển Đông (DOC), thúc đẩy việc giải quyết hòa bình các tranh chấp chủ
quyền biển đảo ở biển Đông. Việt Nam đã tăng cường quan hệ đoàn kết, hữu nghị
và hợp tác với các đảng cộng sản và công nhân, các đảng cánh tả, các phong trào
cách mạng và tiến bộ trên thế giới; góp phần tích cực vào sự hồi phục của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, vào việc củng cố phong trào Không liên kết,
vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ, phát triển bền vững, công bằng và tiến bộ xã hội. Đường lối chính trị của
Đảng ta và những thành tựu đổi mới của Việt Nam được bạn bè quốc tế đánh giá
cao. Nhiều đảng cộng sản và công nhân trên thế giới cho rằng, đổi mới của Việt
Nam là sự phát triển sáng tạo và đóng góp về lý luận và thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đồng thời, các hoạt động đối ngoại của Đảng, của các đoàn thể và tổ

chức nhân dân ta đã góp phần làm cho dư luận thế giới hiểu đúng về Việt Nam,
đồng tình và ủng hộ công cuộc đổi mới, tăng cường hậu thuẫn chính trị quốc tế
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Nền kinh tế Việt Nam
ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đang toàn cầu hóa. Chúng ta
tích cực tham gia hình thành các khu vực mậu dịch tự do của ASEAN (AFTA),
giữa ASEAN và Trung Quốc (CAFTA), xây dựng quan hệ đối tác kinh tế toàn diện
ASEAN - Nhật Bản... Ta đã kết thúc đàm phán song phương với 28 nước và đã gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) trong năm 2006. Hàng hóa sản xuất tại
Việt Nam đã có mặt trên 200 thị trường quốc gia, khu vực và quốc tế. Trong vòng
hai thập kỷ qua, từ một nước nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã trở thành một
trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Trong giai đoạn từ năm 1993 2004, Việt Nam đã nhận được cam kết tài trợ hơn 20 tỉ USD từ cộng đồng quốc tế,
trong đó 85% là vốn vay ưu đãi, còn lại là viện trợ không hoàn lại. Riêng năm
2005, cam kết tài trợ vốn ODA cho Việt Nam là 3,4 tỉ USD. Với sự ổn định về
chính trị - xã hội, truyền thống văn hóa, sự phát triển kinh tế năng động và chính
sách đối ngoại rộng mở, môi trường đầu tư thông thoáng, Việt Nam ngày càng trở
thành một điểm đến an toàn và hấp dẫn cho hợp tác và đầu tư quốc tế. Tính đến
hết tháng 7-2005, đã có hơn 5.500 dự án đầu tư nước ngoài từ 64 nước và vùng
lãnh thổ đang hoạt động tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 48,7 tỉ


USD, trong đó số vốn thực hiện đạt gần 29 tỉ USD. Các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam,
đóng góp gần 15% GDP và 4,9% tổng thu ngân sách nhà nước, chiếm trên 30%
tổng kim ngạch xuất khẩu, tạo ra hàng vạn công ăn việc làm. Việt Nam đã được
các nước ủng hộ đăng cai tổ chức và đã tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh
Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp năm 1997, Hội nghị cấp cao ASEAN
năm 1998, Hội thảo quốc tế về hợp tác và phát triển Việt Nam và châu Phi năm
2003, Hội nghị cấp cao ASEM-5 năm 2004. Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 15
tại Thái Lan kết thúc ngày 25/10/2009 với việc công bố Việt Nam sẽ đảm nhiệm
cương vị chủ tịch ASEAN trong năm 2010.Qua các hội nghị cấp cao này, Việt

Nam đã để lại dấu ấn của mình trong đời sống chính trị quốc tế đương đại. Việt
Nam phối hợp chặt chẽ với các nền kinh tế thành viên APEC và tích cực tổ chức
thành công Hội nghị Thượng đỉnh APEC tại Hà Nội vào tháng 11-2006. Các mặt
công tác thông tin đối ngoại, công tác đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài... cũng đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đội ngũ cán bộ làm công tác đối
ngoại đã có bước trưởng thành nhất định, triển khai thực hiện có kết quả đường lối
và các chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng. - Thực tiễn hoạt động đối ngoại
của ta trong hai mươi mấy năm đổi mới đã khẳng định đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển của Đảng ta là đúng đắn. Chúng ta kiên trì
thực hiện nhất quán đường lối đó.Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội X của
Đảng, công tác đối ngoại trong thời gian tới bám sát những định hướng lớn như
sau:
- Tiếp tục mở rộng và phát triển các mối quan hệ đối ngoại của ta đi vào
chiều sâu, ngày càng ổn định và bền vững. Đặc biệt coi trọng và phát triển quan hệ
hữu nghị, hợp tác toàn diện với các nước láng giềng có chung biên giới, các nước
Đông - Nam Á và Hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN). Thúc đẩy quan
hệ hợp tác ổn định lâu dài với các nước lớn, các trung tâm kinh tế, chính trị của thế
giới. Mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước bạn bè truyền
thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi,
Trung Đông và Mỹ La-tinh, các nước trong phong trào Không liên kết... Tích cực
hoạt động tại các tổ chức quốc tế và khu vực. Không ngừng phát triển quan hệ với
các đảng cộng sản và các đảng cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa và các
nước láng giềng có chung biên giới. Mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền,
đảng tham chính ở các nước trong khu vực và các nước có quan hệ đối tác quan
trọng với nước ta. Tăng cường quan hệ với các chính đảng khác có quan hệ với
Đảng ta và hữu nghị với Việt Nam. Phát triển quan hệ với các đoàn thể, các tổ
chức nhân dân ở các nước láng giềng có chung biên giới, các nước xã hội chủ
nghĩa, các nước trong khu vực và các nước lớn. Tích cực hoạt động tại các tổ chức
quốc tế và khu vực quan trọng mà các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta là thành
viên. Chủ động tham gia tích cực các phong trào, diễn đàn quốc tế của nhân dân

thế giới chống chiến tranh và chạy đua vũ trang... Mở rộng quan hệ với các tổ
chức nhân dân các nước, các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế...


- Tiếp tục thúc đẩy giải quyết bằng thương lượng hòa bình những vấn đề
còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan; phấn đấu xây
dựng đường biên giới trên đất liền và trên biển với các nước láng giềng thành
đường biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển.
2.4.2 Hạn chế và nguyên nhân:
Bên cạnh những thành công đã đạt được thì quá trình thực hiện đường lối
mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế cũng bộc lộ những hạn chế:
Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng
bị động. Chưa xây dựng quan hệ lợi ích đan xen, tùy thuộc lẫn nhau với các nước.
Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng
quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh;
không đồng bộ gây khó khăn cho việc thực hiện các cam kết của các tổ chức kinh
tế quốc tế. Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập
kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết. Doanh
nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công nghệ; trong
lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc hậu; kết cấu hạ tầng và
các nghành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém phát triển và có
chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực. Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại
nhìn chung chưa đáp ứng được cả nhu cầu cả về số lượng; cán bộ doanh nghiệp ít
hiểu biết về luật pháp quốc tế, về kỹ thật kinh doanh; công tác tổ chức chỉ đạo
chưa sát và chưa kịp thời.


×