Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tóm tắt luận văn thạc sĩ Giải pháp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt nam sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.73 KB, 26 trang )

Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hoá, khi Việt nam là một thành viên chính thức của các tổ
chức quốc tế như WTO (chính thức gia nhập WTO ngày 07 tháng 11 năm 2006), Việt
Nam có những thuận lợi cơ bản để thâm nhập, mở rộng thị trường, đẩy mạnh công
nghiệp hoá và tăng cường năng lực của nền kinh tế. Những cơ hội mới trong phát triển
kinh tế xã hội chỉ có được khi hệ thống luật pháp phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh để mọi loại hình hoạt động của các
doanh nghiệp được đối xử công bằng trong nền kinh tế thị trường. Muốn đón nhận thời cơ,
tận dụng điêu kiện thoát khỏi tình trạng bị nước lớn gây sức ép, Việt Nam phải sớm hoàn
thiện hệ thống luật pháp, cơ chế thị trường, cải cách hành chính và doanh nghiệp cho tương
đồng với những thể chế toàn cầu. Trong thời gian mới gia nhập WTO thì các kế hoạch hành
động càng phải thiết thực, cụ thể và rất khẩn trương. Đây chính là cơ hội mở cửa thị trường
và cải cách chính sách, thể chế luật pháp. Hệ thống chính sách minh bạch, ổn định và dễ dự
đoán, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thực thi những tiêu chuẩn quốc tế cho thương mại và đầu tư và mở cửa thị trường đối với
hàng hóa và dịch vụ nước ngoài.
Nhận thức rõ về xu thế phát triển tất yếu nói trên của nền kinh tế thế
giới, Việt Nam đã xác định rõ sự cần thiết phải tham gia hội nhập kinh tế
khu vực và quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang tiếp tục được khẳng
định là một nội dung rất quan trọng trong công cuộc đổi mới của Việt Nam
và được thực hiện với quy mô và mức độ ngày càng cao hơn.
Sự hội nhập khu vực và quốc tế của các quốc gia, đặc biệt là đối với
các nước đang phát triển diễn ra quy mô ngày càng lớn và cường độ ngày
càng mạnh mẽ. Điều đó tạo nên những cơ hội mới cho sự phát triển, nhưng
đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới cho tất cả các quốc gia, trước
hết là các nước đang phát triển , trong đó có Việt Nam.
Với mong muốn tìm hiểu và học hỏi những vấn đề nêu trên nên em đã
chọn “Giải pháp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt nam
sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)” làm đề tài nghiên
cứu khoa học, trong bài tiểu luận này bao gồm ba phần:


 Chương I Những vấn đề cơ bản về chính sách thương mại quốc tế
 Chương II Tình hình chính sách thương mại quốc tế của Việt nam
sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)
 Chương III Giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách thương mại
quốc tế của Việt nam sau khi gia nhập WTO
1
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
Mặc dù, đã cố gắng, do bất đồng về ngôn ngữ và thời gian hạn chế
nên bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót mong thầy thông cảm
và giúp đỡ.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy giào!

2
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
I. Khái niệm và vai trò của chính sách thương mại quốc tế
1. Khái niệm chính sách thương mại quốc tế
Chính sách thương mại quốc tế là một hệ thống các quan điểm, mục
tiêu, nguyên tắc và các công cụ, biện pháp thích hợp mà nhà nước sử dụng
để điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia trong một
thời kỳ nhất định phù hợp với định hướng, chiến lược, mục đích đã định
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó.
2. Chức năng của chính sách thương mại quốc tế
Mặc dù thương mại quốc tế đem lại lợi ích to lớn cho các quốc gia
nhưng mỗi quốc gia đều có chính sách thương mại quốc tế riêng thể hiện ý
chí và mục tiêu của quốc gia đó trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt

động thương mại quốc tế có liên quan đến nền kinh tế của quốc gia. Hơn
nữa, do sự phát triển không đồng đều giữa các quốc gia nên khả năng và
điều kiện tham gia vào thương mại quốc tế của mỗi nước là không giống
nhau. Không những thế, môi trường kinh tế thế giới còn chịu sự chi phối và
tác động của nhiều mối quan hệ chính trị và các mục tiêu phi kinh tế khác
nên chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia cũng phải đáp ứng cho
nhiều mục tiêu khác nhau và mục tiêu này có thể thay đổi qua từng thời kỳ
nhất định nhưng đều có chức năng chung là điều chỉnh các hoạt động thương
mại quốc tế theo chiều hướng có lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Cụ thể:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng thị
trường ra nước ngoài, tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động và mậu
dịch quốc tế, khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước.
- Bảo vệ thị trường nội địa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước
có khả năng đứng vững và vươn lên trong hoạt động kinh tế quốc tế, đáp
ứng yêu cầu tăng cường lợi ích quốc gia.
3
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
3. Vai trò của chính sách thương mại quốc tế
Chính sách thương mại quốc tế là một bộ phận trong chính sách kinh tế
đối ngoại của một quốc gia. Do vậy, chính sách thương mại cũng là một bộ
phận của chính sách kinh tế - xã hội của nhà nước, nó có quan hệ chặt chẽ và
phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nó tác động mạnh mẽ
đến quá trình tái sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, đến quy
mô và phương thức tham gia của nền kinh tế của mỗi nước vào phân công
lao động quốc tế và thương mại quốc tế.
Chính sách thương mại quốc tế có vai trò to lớn trong việc khai thác
triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước, phát triển các ngành sản
xuất và dịch vụ đến quy mô tối ưu, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và

nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế.
Chính sách thương mại quốc tế có thể tạo nên các tác động tích cực khi
nó có cơ sở khoa học và thực tiễn, tức là nó xuất phát từ các bối cảnh khách
quan của nền kinh tế thế giới, chú ý đến đặc điểm và trình độ phát triển của
nền kinh tế trong nước, tuân theo các quy luật khách quan trong sự vận động
của các quan hệ kinh tế quốc tế và thường xuyên được bổ sung, hoàn chỉnh
phù hợp với những biến động mau lẹ của thực tiễn.
II. Những xu hướng cơ bản trong chính sách thương mại quốc tế
Trên thực tế, chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia là rất
khác nhau qua các giai đoạn phát triển của họ do các điều kiện kinh tế - xã
hội - chính trị - tự nhiên trong từng thời kỳ lịch sử ấy quy định. Tuy vậy,
chúng đều vận động theo những quy luật chung và chịu sự chi phối của hai
xu hướng: xu hướng tự do hoá thương mại và xu hướng mậu dịch
1. Xu hướng tự do hoá thương mại
Cơ sở khách quan của tự do hoá thương mại bắt nguồn từ quá trình
quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới với những cấp độ là toàn cầu hoá và
khu vực hoá, lực lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài phạm vi biên giới
một quốc gia, sự phân công lao động quốc tế phát triển cả về bề rộng lẫn bề
sâu, vai trò của công ty đa quốc gia được tăng cường, hầu hết các quốc gia
chuyển sang xây dựng mô hình “kinh tế nở” với việc khai thác ngày càng
triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế mỗi nước. Tự do hoá thương mại đưa
4
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
lại lợi ích cho mỗi quốc gia, dù trình độ phát triển có khác nhau và nó phù
hợp với xu thế phát triển chung của nền văn minh nhân loại.
Nội dung của tự do hoá thương mại là nhà nước áp dụng các biện pháp
cần thiết để từng bước giảm thiểu những trở ngại trong hàng rào thuế quan
và hàng rào phi thuế quan trong quan hệ mậu dịch quốc tế, nhằm tạo điều
kiện ngày càng thuận lợi hơn cho việc phát triển các hoạt động thương mại

quốc tế cả bề rộng lẫn bề sâu. Tự do hoá thương mại trước hết nhằm vào
việc thực hiện chủ trương mở rộng quy mô xuất khẩu của mỗi nước cũng
như đạt tới điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu. Kết quả của hoạt
động này là ngày càng mở cửa dễ dàng hơn thị trường nội địa cho hàng hoá,
công nghệ tiên tiến và hoạt động dịch vụ quốc tế dễ dàng xâm nhập vào
trong nước, thuận lợi trong việc xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài.
Các biện pháp để thực hiện tự do hoá thương mại chính là việc điều
chỉnh theo chiều hướng mới lỏng dần với bước đi phù hợp trên cơ sở các
thoả thuận song phương và đa phương giữa các quốc gia đối với các công cụ
bảo hộ mậu dịch đã và đang tồn tại trong quan hệ thương mạo quốc tế. Việc
hình thành các liên kết kinh tế quốc tế với vác tổ chức kinh tế quốc tế cũng
tạo thuận lợi cho tự do hoá thương mại trước hết trong khuôn khổ các tổ
chức đó. Đồng thời quá trình tự do hoá thương mại còn gắn liền với những
biện pháp có đi có lại trong khuôn khổ pháp lý giữa các quốc gia.
2. Xu hướng bảo hộ mậu dịch
Cơ sở khách quan của xu hướng này bắt nguồn từ sự phát triển không
đều và sự khác biệt trong điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia, do sự
chênh lệch về khả năng cạnh tranh giữa các công ty trong nước và công ty
nước ngoài, cũng như do các nguyên nhân lịch sử để lại.
Xu hướng bảo hộ mậu dịch xuất hiện ngay từ khi hình thành và tiếp tục
được củng cố trong quá trình phát triển nền thương mại quốc tế với cung cụ
sử dụng phổ biến nhất là thuế quan. Bên cạnh đó còn có các công cụ hành
chính, các biện pháp kỹ thuật khác nhau. Mục tiêu của bảo hộ mậu dịch là để
bảo vệ thị trường nội địa trước sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các
luồng hàng hoá từ bên ngoài, cũng tức là bào vệ lợi ích quốc gia. Cho đến
nay, có nhiều lý lẽ khác nhau để biện minh cho chế độ bảo hộ mậu dịch:
5
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
Một là, lý lẽ về việc bảo vệ “ngành công nghiệp non trẻ”. Theo lý lẽ

này, những xí nghiệp non trẻ phải chịu chi phí ban đầu cao và không thể
cạnh tranh ngay trong một vài năm đầu tiên với các đấu thủ nước ngoài dày
dạn kinh nghiệm
3. Mối quan hệ giữa xu hướng tự do hoá thương mại và xu hướng bảo hộ mậu
dịch
Về mặt nguyên tắc, hai xu hướng này đối nghịch nhau và chúng gây
nên tác động ngược chiều nhau đến hoạt động thương mại quốc tế. Nhưng
chúng không bài trừ nhau mà thống nhất với nhau, một sự thống nhất giữa
hai mặt đối lập. Trong thực tế, hai xu hướng này song song tồn tại và chúng
được sử dụng kết hợp với nhau. Tuỳ theo trình độ phát triển của mỗi nước,
tuỳ theo các điều kiện và đặc điểm cụ thể mà người ta sử dụng khéo léo kết
hợp giữa hai xu hướng nói trên với những mức độ khác nhau ở từng lĩnh vực
hoạt động của thương mại quốc tế.
Sở dĩ phải sử dụng kết hợp hai xu hướng này là do:
- Về mặt lịch sử, chưa khi nào có tự do hoá thương mại hoàn toàn đầy đủ,
và trái lại cũng không khi nào có bảo hộ mậu dịch quá dày đặc đến mức
làm tê liệt các hoạt động thương mại quốc tế;
- Về mặt logic thì tự do hoá thương mại là một quá trình đi từ thấp đến
cao, từ cục bộ đến toàn thể, thậm chí có trường hợp nó có ý nghĩa trước
hết như một xu hướng. Tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch là hai
mặt nương tựa nhau, chúng làm tiền đề cho nhau và kết hợp với nhau.
- Với những điều kiện thực tiễn, không thể cực đoan khẳng định sự cần thiết
của một trong hai xu hướng nói trên mặc dù lý thuyết có thể chứng minh
những mặt tiêu cực của các công cụ bảo hộ mậu dịch ở những mức độ khác
nhau.
- Một sự vận động phù hợp vớu các công cụ bảo hộ mậu dịch và bảo hộ có
chọn lọc và có điều kiện gắn liền với các điều kiện về thời gian và không
gian nhất định. Công cụ bảo hộ không chỉ mang tính tự vệ, hỗ trợ cho các
ngành sản xuất trong nước trong quá trình cạnh tranh với các hàng hoá từ
bên ngoài mà còn phải tạo điều kiện cho các ngành sản xuất trong nước

vươn lên cạnh tranh thắng lợi không chỉ ở thị trường nội địa mà cả ở thị
6
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
trường nước ngoài. Việc thực hiện bảo hộ phải gắn liền với các bước tiến
của quá trình tự do hoá thương mại đạt được trong các quan hệ quốc tế.
4. Những nguyên tắc cơ bản trong điều chỉnh quan hệ thương mại quốc
tế
4.1. Chế độ ưu đãi nhất
Chế độ ưu đãi nhất là chế độ mà các nước dành cho nhau trong quan hệ kinh
tế và buôn bán về các mặt thuế quan, mặt hàng trao đổi, tàu bè chuyên chở, quyền
lợi của pháp nhân và tự nhiên nhân của nước này trên lãnh thổ của nước kia.
Chế độ tối huệ quốc có thể có điều kiện hoặc vô điều kiện. Trong
trường hợp vô điều kiện thì các nước cam kết dành cho nhau hưởng mặc
nhiên bất cứ một quyền lợi nào mà một trong các bên đã hoặc sẽ dành cho
bất kỳ nước thứ ba nào. Trong trường hợp có điều kiện thì một nước đã cho
một nước thứ ba hưởng ưu đãi với điều kiện như thế nào thì một nước khác
muốn được hưởng tất cả những ưu đãi như đã được dành cho nước thứ ba đó
cũng phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện như thế.
Chế độ tối huệ quốc thường được quy định cụ thể trong một khoản riêng
của một hiệp ước hoặc hiệp định thương mại nên thường được gọi là điều khoản
tối huệ quốc. Tuy nhiên, chế độ tối huệ quốc không được áp dụng trong buôn
bán đường biên, buôn bán truyền thống và trường hợp có những ưu đãi thuế
quan đặc biệt.
4.2. Nguyên tắc ngang bằng dân tộc
Đây là chế độ mà một nước dành cho tự nhiên nhân và pháp nhân nước
ngoài lãnh thổ nước mình một sự đối xử ngang bằng như đối xử với tự nhiên
nhân và pháp nhân của nước mình trong những vấn đề: kinh doanh công
thương nghiệp, thuế khoá, hàng hải, cứ trú, sự bảo vệ của pháp luật, …Chế
độ đãi ngộ quốc gia thường là chế độ có đi có lại được quy định cụ thể trong

các hiệp định thương mại giữa hai nước.
5. Những dạng chính sách thương mại quốc tế điển hình
5.1. Chính sách hướng nội ban đầu
Các nước đang phát triển tăng cường sản xuất lương thực, các nông sản và
khoáng sản mà các nước đó không nhập khẩu. Ngoài ra, họ còn dùng các biểu
7
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
thuế nhập khẩu hoặc quota nhập khẩu lương thực để loại thuế bảo hộ, đánh thuế
vào hàng hoá xuất khẩu để tăng phần thu, giảm sức thu hút tương đối của nền
nông nghiệp định hướng xuất khẩu so với nền nông nghiệp hướng nội. Chính
sách này có tác dụng cục bộ nhưng về lâu dài nó ngược với tư tưởng nền kinh tế
mở cửa.
Kết quả của chính sách hướng nội là dẫn đến tình trạng tỷ giá hối đoái
tăng do kết quả của sự bảo hộ và sẽ khuyến khích nhập khẩu sản phẩm chế
tạo. Khi đó, nếu khu vực nông thôn phát đạt thì sẽ gây tổn thất cho các nhà
sản xuất công nghiệp. Để khắc phục tình trạng trên thì có thể trợ cấp cho các
nhà sản xuất công nghiệp quy mô nhỏ.
5.2. Chính sách hướng ngoại ban đầu
Các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu hướng vào xuất khẩu
những loại hàng nông sản truyền thống và người ta thực hiện chính sách
đánh thuế nhập khẩu tương đối thấp để tăng nguồn thu cho chính phủ vì ở
giai đoạn này không có khả năng lựa chọn các loại thuế khác. Chính sách
thương mại ở đây thiên về ủng hộ cho sự thay thế nhập khẩu và tạo ra một
biểu thuế nhập khẩu đem lại nguồn thu thích hợp mà không cần tời sự bảo
hộ mạnh mẽ.
Kết quả của chính sách này là làm tăng giá cả tiêu dùng và một số
ngành sản xuất thay thế nhập khẩu trở nên phi hiệu quả. Tuy nhiên, nhờ
nguồn thuế tăng lên mà Chính phủ có thể chi tiêu nhiều hơn vào phát triển
cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu.

5.3. Chính sách hướng nội tiếp theo
Chính sách thương mại nông nghiệp hướng nội sẽ dẫn đến sự mở rộng
các ngành công nghiệp nhỏ, dần dần khuyến khích nền công nghiệp hàng
hoá thay thế nhập khẩu. Các công cụ của chính sách thương mại thường
được sử dụng phục vụ cho hướng đó.
Bên cạnh chính sách bảo hộ chung người ta có thể thực hiện sự hỗ trợ
có lựa chọn cho nền công nghiệp hàng hoá thay thế nhập khẩu, đó là một
nền công nghiệp non trẻ.
Yêu cầu được đặt ra với chính sách thương mại ở đây là phải tránh
được lệch lạc kéo theo cho người tiêu dùng, tránh lựa chọn sai các ngành
8
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
non trẻ để hỗ trợ, can thiệp để khắc phục những khiếm khuyết của thị
trường.
5.4. Chính sách hướng ngoại tiếp theo
Các nước đang phát triển sau khi hoàn thành những giai đoạn ban đầu
của việc thay thế nhập khẩu thì chuyển sang chính sách hướng ngoại đối với
các ngành chế tạo máy. Khi nào còn có sự hỗ trợ cho việc thay thế nhập
khẩu thi việc xuất khẩu sẽ còn bị cản trở do sự tăng tỷ giá hối đoái. Để các
chính sách hướng ngoại thành công, điều quan trọng là phải đảm bảo giá
quốc tế cho các nhà xuất khẩu, tức là phải dỡ bỏ các trở ngại đối với xuất
khẩu.
6. Chính sách thương mại quốc tế của những nước đang phát triển
Do đặc điểm của thị trường thế giới và do trình độ kinh tế của các nước
đang phát triển người ta rất quan tâm đến việc xây dựng một chính sách
thương mại quốc tế phù hợp sao cho phục vụ tốt nhất các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Một số quốc gia đã thành công khi thực
hiện chính sách công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, một số quốc gia khác
tỏ ra thận trọng hơn lại sử dụng chính sách thay thế nhập khẩu là giai đoạn

đầu cần thiết của một chính sách hướng mạnh về xuất khẩu. Tuy nhiên, cả
về lý luận và thực tiễn thì nội dung và mục tiêu cũng như phương tiện cần sử
dụng của chính sách hướng mạnh về xuất khảu có nhiều vấn đề khác so với
chính sách thay thế nhập khẩu. Rõ ràng cơ cấu hàng hoá hướng mạnh về
xuất khẩu sẽ khác xa sơ với cơ cấu hàng hoá thay thế nhập khẩu. Điều này
quyết định việc bố trí cơ cấu kinh tế, việc áp dụng khoa học kỹ thuật, việc
phân bố các nguồn lực cũng như việc sử dụng các công cụ của chính sách
thương mại. Từ đó sẽ đưa đến hiệu quả khác nhau của chính sách hướng
mạnh về xuất khẩu đối với chính sách nhập khẩu. Thực tế cho thấy, nếu thực
hiện tốt chính sách hướng mạnh về xuất khẩu thì cũng tạo điều kiện để thực
hiện tốt chính sách thay thế nhập khẩu, trong khi đó điều ngược lại thì ít xảy
ra. Gần đây, do thị trường thế giới ngày càng trở nên khó cạnh tranh, cho
nên đã xuất hiện các ý đồ của một chính sách thương mại quốc tế mang tính
chất hỗn hợp. Tuy nhiên, khả năng thành công của một chính sách hỗn hợp
phải được kiểm nghiệm trong thực tế.
9
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
I. Thực trạng chính sách thương mại quốc tế của Việt nam
Xây dựng chính sách phát triển thương mại là đặc biệt quan trọng trong
công tác quản lý Nhà nước về thương mại, các nhóm chính sách thương mại
bao gồm: nhóm chính sách tài chính - tiền tệ, chính sách thuế, chính sách vốn,
chính sách phí và lệ phí, chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá, chính sách trợ
cước, trợ giá, chính sách giá trần, giá sàn; nhóm chính sách dự trữ, bảo hiểm, là
những chính sách lớn trong quản lý Nhà nước về thương mại. Việc sử dụng các
chính sách này là công cụ, là hành lang pháp lí cho các doanh nghiệp thương

mại hoạt động.
Trong một loạt các chính sách đổi mới phải kể đến Quyết định số 193-
HĐBT ngày 28/12/1988 của Hội đồng Bộ trưởng, nay là Chính phủ, lần đầu
tiên đã chính thức cho phép mọi công dân Việt Nam thuộc mọi thành phần
kinh tế đều có thể tham gia sản xuất, lưu thông hàng hoá trên thị trường
trong nước.
Sự ra đời của Luật Thương mại như đã nói ở trên, Luật Doanh nghiệp
và một loạt các bộ luật có liên quan khác, cũng như các Nghị định, Quyết
định, Chỉ thị, Thông tư cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành đều thể hiện sự
thông thoáng của ngành Thương mại.
- Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ quy
định về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với
nước ngoài. Với Nghị định này, chế độ giấy phép kinh doanh xuất nhập
khẩu đã được bãi bỏ, trừ những mặt hàng quản lý theo chuyên ngành hoặc
hạn chế xuất nhập khẩu. Do vậy, hầu hết các hàng hoá được làm thủ tục xuất
nhập khẩu trực tiếp tại hải quan và chịu sự điều tiết bằng thuế và các biện
pháp phi thuế chỉ còn được áp dụng đối với một số rất ít mặt hàng, quyền
kinh doanh và quyền tự chủ của các doanh nghiệp đã được mở rộng một
cách thông thoáng.
10
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
Tiếp theo, ngày 2/8/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
44/2001/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 57. Theo đó, không
phụ thuộc vào ngành nghề, ngành hàng ghi trong giấy chứng nhận đăng kí
kinh doanh, chỉ trừ những mặt hàng cấm kinh doanh và kinh doanh có điều
kiện, quyền kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã
được mở rộng và thuận lợi hoá một cách tối đa.
- Nghị định số 02/2002/NĐ-CP ngày 3/1/2002 (sửa đổi, bổ sung Nghị
định số 20) của Chính phủ quy định về phát triển thương mại miền núi, hải

đảo và vùng đồng bào dân tộc. Với những chính sách được quy định trong
các Nghị định này, đặc biệt là các chính sách về tín dụng, trợ cước, trợ giá,
bổ sung vốn lưu động cho doanh nghiệp thương mại miền núi, chính sách
đào tạo, bố trí, sử dụng và đãi ngộ cán bộ thương mại miền núi, hoạt động
thương mại tại các vùng có nhiều khó khăn này đã được khuyến khích phát
triển.
- Để đẩy mạnh xuất khẩu, Chính phủ đã ban hành cơ chế chính sách
khen thưởng xuất khẩu. Chính sách này ngày càng được hoàn thiện và bổ
sung tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xúc tiến thương mại, xuất khẩu
nhiều mặt hàng mới, mặt hàng khó xuất góp phần nâng cao kim ngạch xuất
khẩu.
- Đặc biệt, với Quyết định số 46/QĐ/TTg ngày 4/4/2001 của Thủ tướng
Chính phủ về quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001 - 2005, lần đầu
tiên đã ra đời một chính sách bảo đảm tính ổn định, tạo thuận lợi và thế chủ
động cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trong đó,
các điểm mấu chốt là: Tiếp tục mở rộng hơn nữa quyền chủ động của các
doanh nghiệp; Xây dựng lộ trình cắt giảm các biện pháp hạn chế định lượng,
áp dụng những công cụ bảo hộ mới được quốc tế thừa nhận.
- Ngày 20-03-2003, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 311/QĐ-
TTg phê duyệt Đề án tiếp tục tổ chức thị trường trong nước, tập trung phát
triển thương mại nông thôn đến năm 2010.
- Việc xây dựng Chiến lược Phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch
vụ thời kỳ 2001 – 2010, việc ban hành Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg ngày
27/10/2000 của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược xuất nhập khẩu, lần đầu
11
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
tiên Việt nam đã có được một chiến lược hoàn chỉnh trong việc phát triển
lĩnh vực thương mại Đây là một bước tiến quan trọng nhằm đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thương mại ở Việt nam. Theo hướng này, một số

địa phương đã tiến hành xây dựng quy hoạch phát triển thương mại đến năm
2010, xây dựng quy hoạch phát triển chợ, xây dựng chương trình phát triển
xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của địa phương mình. Tuy nhiên, việc triển
khai các hoạt động này nhìn chung vẫn còn chậm.
- Có thể khẳng định rằng, cũng giống như trong công tác xây dựng
chiến lược phát triển thương mại, công tác xúc tiến thương mại đã được Nhà
nước chú trọng phát triển, mặc dù vấn đề này đã được đề cập trong Luật Thương
mại.
Sự ra đời của Cục Xúc tiến thương mại tháng 7/2000 là một dấu mốc báo
hiệu công tác này của Việt nam đã bắt đầu được chú trọng đúng mức.
Thực trạng chính sách thương mại quốc tế của Việt nam được thể hiện
cụ thể như sau:
1. Về các chính sách thuế:
Kể từ khi làm đơn gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),
Chính phủ Việt Nam đã và đang chuyển đổi chính sách thuế quan trong
thương mại hàng hoá để đáp ứng các yêu cầu của WTO.
Qua đánh giá thực trạng chính sách thuế quan Việt Nam, điểm tổng
quát nhất nhận thấy được là hệ thống chính sách thuế chỉ mới được hình
thành và phát triển từ năm 1990. Do đó còn có những chính sách mang tính
ngắn hạn, tình thế, đối phó với những phát sinh trong giai đoạn hiện tại,
chưa ổn định, chưa đáp ứng được những yêu cầu dài hạn, đặc biệt là chưa
tranh thủ các quy tắc hội nhập quốc tế. Trong đó nội dung nổi bật của các
chính sách thuế quan được thể hiện ở các điểm sau:
- Thứ nhất, chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam được xây dựng
trên nguyên tắc bảo hộ sản xuất trong nước. Nếu ngành sản xuất nào cần
được bảo hộ để sản xuất trong nước thì thuế quan đối với sản phẩm cuả
ngành đó sẽ được nâng lên. Việt Nam còn chưa có chiến lược phát triển
những ngành kinh tế, công nghiệp có tiềm năng, có lợi thế cạnh tranh trong
12
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B

Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
tương lai nên càng khó lựa chọn thuế suất bảo hộ hợp lý cho những ngành
đó.
- Thứ hai, về cơ cấu thuế quan: Biểu thuế của Việt Nam vẫn còn nhiều
mức thuế suất, kể cả hàng công nghiệp cũng áp dụng nhiều mức thuế suất.
Tuy vậy, mức thuế suất của Việt Nam vẫn thấp, chưa thể hiện mức độ bảo
hộ vì một số mặt hàng nhập cần bảo hộ lại là đầu vào của các ngành sản
xuất. Ví dụ, thuế nhập khẩu của phôi thép được giữ (cho đến tận đầu năm
2003) ở mức 3%, vì nếu tăng thuế để bảo hộ ngành sản xuất phôi thép trong
nước thì lại làm cho các cơ sở cán thép dùng phôi thép nhập khẩu sẽ gặp khó
khăn do thuế nhập phôi thép cao, trong khi Việt nam vẫn chưa sản xuất đủ
cho nhu cầu.
- Thứ ba, hiện nay Việt Nam đã xây dựng được biểu thuế mới cập nhật
theo hệ thống điều hoà HS 8 chữ số để bắt đầu áp dụng từ 1/1/1999 và đang
tiếp tục cập nhật biểu thuế nhập khẩu theo hệ thống hài hoà HS 8 chữ số
năm 2002. Trong đàm phán, các nước yêu cầu phải sử dụng biểu thuế hài
hoà mới nhất.
- Thứ tư, kinh nghiệm và thực hiện cạnh tranh của các ngành sản xuất
công nghiệp trong nước còn rất non yếu. Các doanh nghiệp Việt Nam thiếu
vốn, công nghệ, kinh nghiệm thương trường quốc tế… Do vậy Việt Nam
chọn phương án quá độ, tạm thời, cho phép miễn giảm, dẫn đến một số điểm
vướng với quy chế đối xử quốc gia (NT) tồn tại trong hai luật thuế thuế tiêu
thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng.
- Thứ năm, vấn đề xác định giá trị hải quan: Hiện nay, việc xác định giá
tính thuế hải quan vẫn còn tồn tại bảng giá tối thiểu của Tổng cục Hải quan.
Điều này trái với quy định của WTO. Việc tính thuế nhập khẩu theo giá trị
giao dịch đòi hỏi phải hỗ trợ cho cơ quan hải quan các phương tiện kỹ thuật
và nâng cao năng lực cán bộ hải quan để thực hiện được.
- Thứ sáu, vấn đề minh bạch hoá chính sách thuế: Các chính sách, kể cả
chính sách thuế áp dụng cho thương mại hàng hoá công nghiệp vẫn được

đăng trên công báo. Tuy nhiên, cũng còn có trường hợp một số văn bản pháp
luật vẫn chưa được thông báo đầy đủ hoặc chưa kịp thơì hoặc thời gian từ
13
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
khi ban hành đến khi áp dụng quá ngắn làm cho các doanh nghiệp không đủ
thời gian chuẩn bị kế hoach sản xuất kinh doanh.
2. Các chính sách phi thuế:
Hiện nay, các ngành hàng công nghiệp ở Việt Nam việc sử dụng các
biện pháp phi thuế cũng nhằm để bảo vệ sản xuất trong nước và cũng rất đa
dạng, không ổn định theo thời gian. Các biện pháp này trái với các quy chế
WTO, cần được đưa vào kiểm soát để tiến tới loại bỏ theo phương thức
“thuế hoá các biện pháp phi thuế”.
- Một số biện pháp quản lý số lượng:
+ Các mặt hàng cấm nhập trong công nghiệp: Trong thời gian gần đây
Chính phủ đã có quyết định cấm xuất nhập khẩu một số hàng hóa như tại
Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 04/4/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2005. Việc cấm (Quyết định) này phù hợp với
thông lệ quốc tế và các qui định của GATT.
+ Hạn ngạch (quota) đối với một số mặt hàng công nghiệp:
Việc sử dụng hạn ngạch (quota) cho phép nhập khẩu với số lượng nhất
định cho từng khoảng thời gian nhất định các loại hàng hoá nhà nước cần
điều tiết ở thị trường trong nước. Các mặt hàng công nghiệp nhập khẩu
thường được áp dụng hạn ngạch là: nhiên liệu xăng dầu, linh kiện lắp ráp ô-
tô, xe máy, v.v. Một số mặt hàng công nghiệp Việt Nam xuất khẩu đến các
nước cũng phải chịu hạn ngạch là dệt may, da giầy…
- Cấp giấy phép để nhập khẩu (Non-automatic licenccing):
Một số mặt hàng công nghiệp khi nhập khẩu phải thực hiện việc xin
cấp giấy phép nhập khẩu là: ô- tô, xe máy, sắt thép, sản xuất giấy viết, giấy
in, xi măng (nhập clinker), rượu, phân bón, hoá chất, khoáng sản, hàng hoá

quản lý chuyên ngành Bộ Thương mại là cơ quan thay mặt Nhà nước xét
duyệt và cấp giấy phép này. Tuy nhiên, biện pháp này không phù hợp với
các quy định của WTO về thuận lợi hoá thương mại.
- Qui định đầu mối xuất nhập khẩu:
14
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
Cơ chế thị trường có điều tiết của Chính phủ đang áp dụng hiện nay tại
Việt Nam cho phép việc xuất nhập khẩu rộng rãi hơn, nhưng Nhà nước qui
định đầu mối xuất nhập khẩu. Ngoài các mặt hàng cam kết trong BTA, hiện
nay nhà nước vẫn quy định doanh nghiệp nhà nước được phép xuất nhập
khẩu như than, rượu, dược phẩm, vật tư và thiết bị hàng không.
- Quy định phụ thu (Surcharge):
Phụ thu là một trong những biện pháp quản lý giá thuộc rào cản phi
thuế (NTB). Việt Nam quy định phụ thu được áp dụng cho một số mặt hàng
như xăng dầu, sắt thép xây dựng, thuốc lá điếu, nhiên liệu…Phụ thu được sử
dụng như một công cụ bảo hộ sản xuất trong nước, cản trở việc nhập khẩu
các mặt hàng có thuế suất nhập khẩu thấp cạnh tranh với hàng sản xuất trong
nước về mặt giá thành. Theo yêu cầu của WTO, Việt nam sẽ phải loại bỏ
hoàn toàn hoặc ràng buộc các khoản phụ thu này.
- Thủ tục chứng từ thương mại:
Trong các thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá, Việt Nam yêu cầu hàng
loạt giấy tờ như: hoá đơn thương mại, vận đơn, biên bản đóng gói, hợp
đồng, bảng giá,chỉ tiêu được cấp, chứng nhận xuất xứ, giấy phép xuất nhập
khẩu, tư cách pháp nhân của người xuất nhập khẩu, tờ khai hải quan, giấy
phép tạm nhập tái xuất, giấy phép cho nhập miễn thuế giảm thuế (ví dụ
nguyên vật liệu, máy móc để xây dựng nhà máy liên doanh.v.v.). Trong
quá trình gia nhập WTO các thủ tục, giấy tờ xuất nhập khẩu sẽ được đơn
giản hoá, thống nhất với các qui định của WTO.
- Thủ tục hải quan:

Các quy định về mã số hải quan về thủ tục hải quan, giám sát hải quan
lệ phí hải quan đối với các hàng nhập khẩu không giống nhau gây khó khăn
cho việc theo dõi kiểm soát, nhận hàng nhập khẩu… Theo yêu cầu về thuận
lợi hoá thương mại, Việt nam sẽ phải thực hiện đơn giản hoá và thống nhất
hoá cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
3. Các chính sách khác:
- Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT):
15
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
Về cơ bản, Việt Nam đang áp dụng tiêu chuẩn của mình phù hợp với
tiêu chuẩn ISO. Tuy nhiên các phòng thí nghiệm, các trang bị kỹ thuật, đội
ngũ cán bộ kỹ thuật, đội ngũ luật sư của Việt Nam trong lĩnh vực này còn
thiếu kinh nghiệm để có thể tham gia phát hiện sai sót kỹ thuật, tố tụng, bảo
vệ cho luận cứ của mình khi dùng hàng rào cản kỹ thuật để bảo vệ chính
đáng cho việc xuất nhập khẩu sản phẩm công nghiệp. Là một nền kinh tế
mới đang phát triển, Việt Nam cần nhiều thời gian hơn để nhận thức, phổ
cập, điều chỉnh các tiêu chuẩn của mình, chuẩn bị cơ sở vật chất để áp dụng
chúng sao cho TBT không gây cản trở cho thương mại, trái lại còn thúc đẩy
thương mại nhờ có uy tín khi là một công cụ đắc lực bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng.
- Trợ cấp xuất khẩu trong công nghiệp:
Tuy không có các khoản trợ cấp trực tiếp từ ngân sách cho hoạt động
xuất khẩu, nhưng Việt Nam áp dụng một số ưu đãi đối với các doanh
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu như đối với hàng dệt may, da giầy Điều
này vi pham hiệp định trợ cấp công nghiệp và các biện pháp đối kháng của
WTO.
- Các chính sách hạn chế thương mại liên quan đến đầu tư (TRims):
Hiệp định TRIMs quy định các nước thành viên không được áp dụng
các biện pháp hạn chế đầu tư liên quan thương mại (TRims), cụ thể:

+ Buộc doanh nghiệp phải sử dụng một lượng nhất định các sản phẩm
trong nước khi sản xuất. ở đây việc áp dụng chính sách nội địa hoá là không
thích hợp với TRIMs,
+ Yêu cầu lượng sản phẩm nhập khẩu giới hạn theo lượng sản phẩm
xuất khẩu của doanh nghiệp,
+ Hạn chế nhập khẩu của doanh nghiệp bằng cách bắt buộc cân đối
ngoại tệ giữa lượng ngoại tệ nhập khẩu và lượng ngoại tệ làm ra.
Ngoài việc phải bỏ chính sách nội địa hoá, Việt Nam phải bỏ các biện
pháp như: các ưu đãi đầu tư cho các dự án sử dụng nguyên liệu, vật tư có sẵn
tại Việt Nam, có tỷ lệ nội địa hoá cao; các dự án xuất khẩu ít nhất 80% sản
phẩm sản xuất; sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu, vật tư trong nước (có
16
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
giá trị 30% chi phí sản xuất trở lên); chế biến khoáng sản khai thác tại Việt
Nam…được hưởng các ưu đãi như đối với các dự án thuộc danh mục dự án
đặc biệt khuyến khích đầu tư.
Những qui định trên sẽ dần được loại bỏ tuỳ thuộc vào thoả thuận với
các nước trong WTO và thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, nhưng nhìn
chung Việt Nam cố gắng xoá bỏ từ năm thứ 5-7 sau khi gia nhập WTO.
Hiện nay, Việt nam đang tiến hành rà soát các văn bản pháp luật hiện
hành so với các quy định của WTO và xây dựng chương trình cải cách pháp
luật cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
II. Tồn tại và hạn chế
Gia nhập WTO là một xu thế tất yếu của nền kinh tế Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Tiến trình đàm phán để gia nhập
WTO của Việt Nam đã thành công và kết thúc tốt đẹp. Việt Nam đã chính
thức gia nhập WTO vào ngày 07 tháng 11 năm 2006. Việc gia nhập WTO
đem lại nhiều thuận lợi cho các nước thành viên nói chung và Việt Nam nói
riêng tuy nhiên vẫn đang còn nhiều tồn tại và hạn chế trong chính sách

thương mại Việt nam.
1. Cải cách luật pháp của Việt Nam liên quan đến thương mại chưa tỏ ra
có hiệu lực để có thể tham gia vào “sân chơi” mới
Hiện nay, hệ thống luật pháp của Việt Nam vẫn liên kết nhiều với các
cơ quan chính trị của đất nước. Sau hơn một thập kỷ cải cách từng phần và
từng buớc, hệ thống luật pháp của Việt Nam vẫn kém phát triển và không có
khả năng thực hiện và cưỡng chế thực thi các quy định của luật. Vấn đề
đáng lo ngại nhất là năng lực pháp luật rất hạn chế trong việc đòi được đền
bù thông qua bất cứ cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế nào, chẳng hạn như
luật WTO. Cuộc chiến cá tra và cá basa với Mỹ chỉ là bước khởi đầu cho
những tranh chấp thương mại mà sẽ xảy ra nhiều hơn khi Việt Nam hội nhập
sâu hơn vào kinh tế quốc tế. Vấn đề ở đây là phải tạo ra một hệ thống luật
pháp công bằng, minh bạch, đồng bộ và hợp lý để giải quyết hiệu quả các
vấn đề nảy sinh khi tham gia vào WTO.
17
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
Mặc dù Việt Nam có những tiến bộ trong cải cách chính sách thương
mại trong thời kỳ đổi mới, nhưng những điều chỉnh chính sách theo quy tắc
quốc tế còn diễn ra khá chậm chạp. Theo yêu cầu của WTO, Việt Nam sẽ
phải áp dụng các quy tắc chống bán phá giá, giảm trợ cấp sản xuất và xuất
khẩu, những quy định về quyền sở hữu trí tuệ, quy định nghiêm ngặt về
nhãn mác sản phẩm, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, luật bản quyền
tác giả, mẫu mã kích cỡ sản phẩm, những quy định về sự bảo hộ các ngành
công nghiệp non trẻ…Ngoài những quy định về nhãn hiệu thương mại, luật
bản quyền tác giả và việc bảo vệ các thiết kế công nghiệp, Việt Nam chưa hề
có các luật lệ khác liên quan đến những quy định nghiêm ngặt của WTO.
Trong khi đó, các thành viên WTO lại rất quan tâm đến vấn đề này và coi đó
là nội dung quan trọng trong các cuộc đàm phán gia nhập WTO của Việt
Nam.

2. Quá trình cải cách chính sách thương mại còn chậm, hiệu quả chưa
cao và chưa thực sự đi sâu vào doanh nghiệp
BTA được xây dựng và thoả thuận dựa trên các nguyên tắc và chuẩn
mực của WTO. Việc xây dựng và ban hành các chính sách kinh tế thương
mại của Việt Nam nhằm thực hiện các cam kết trong BTA là cơ sở để thực
hiện các Hiệp định của WTO khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức
này.
Một trong những yêu cầu của WTO là các nước thành viên phải có chính
sách thương mại đầy đủ, rõ ràng, minh bạch và phù hợp với các Hiệp định của
WTO.
Để chuẩn bị gia nhập WTO, Việt Nam đã hoàn thành việc minh bạch
hoá các chính sách thương mại và trên thực tế Việt Nam đã tiến hành sửa
đổi, bổ sung một loạt các văn bản có liên quan như: Luật doanh nghiệp, Luật
lao động, Luật thuế, Ban hành Quy định về việc xác định giá tính thuế nhập
khẩu hàng hoá, Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong
thương mại quốc tế Việc cải cách tư pháp của Việt Nam như trên được
Ban thư ký WTO và các thành viên khác của tổ chức này đánh giá cao. Tuy
nhiên, quá trình cải cách tư pháp đang được tiến hành chậm, chưa toàn diện
và hiệu quả chưa cao.
18
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
Điều quan trọng hơn là các cải cách về chính sách thương mại của Việt
Nam cho phù hợp với quy định của WTO chưa được các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế trong cả nước quan tâm triệt để. Số doanh nghiệp quan
tâm đến các chính sách hội nhập và sẵn sàng tham gia hội nhập còn ở mức
thấp. Có ý kiến cho rằng: Sẵn sàng gia nhập WTO chủ yếu là ở các cơ quan
quản lý Nhà nước, nhiều doanh nghiệp còn rất mơ hồ và thậm chí không quan
tâm đến vấn đề này.
Một vấn đề quan trọng khác nữa là việc tổ chức phổ biến và hướng

dẫn thi hành chính sách và pháp luật của các cơ quan chức năng là chưa hiệu
quả, nội dung của các văn bản pháp luật đến với doanh nghiệp chưa được
kịp thời, rành mạch và chính xác. Nhiều trường hợp với cùng một văn bản
pháp luật nhưng mỗi doanh nghiệp, mỗi người lại hiểu theo các nội dung
khác nhau và cách áp dụng cũng khác nhau. Chính vì vậy nên khi doanh
nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ vẫn còn nhiều mắc míu.
3. Mức thuế quan và các hàng rào phi thuế quan của Việt Nam còn cao
Điều này có tác dụng bảo hộ các doanh nghiệp và các ngành công
nghiệp non trẻ trong nước, tuy nhiên đã làm cho biểu thuế của Việt Nam
phức tạp, chồng chéo, khó quản lý và tạo điều kiện thuận lợi cho việc trốn
thuế, lậu thuế. Ngoài ra, việc áp dụng tính giá tính thuế tối thiểu như hiện
nay của Việt Nam chưa phù hợp với những quy định của WTO. Hiện tại,
chúng ta vẫn sử dụng các công cụ phi thuế quan như cấm, tạm ngưng, hạn
ngạch, chỉ tiêu, giấy phép không tự động, phụ thu và những công cụ này
sẽ phải cắt giảm và tiến tới xoá bỏ khi gia nhập WTO.
Hơn nữa, các biện pháp khuyến khích xuất khẩu của ta tuy nhiều
nhưng chưa thực sự đi vào chiều sâu, có chỗ có nơi còn chưa thông suốt và
chưa nhất quán, cá biệt có một số biện pháp nếu duy trì trong thời gian quá
lâu, có khả năng sẽ gây tác dụng ngược bởi làm tăng sức ỳ của doanh
nghiệp. Trong một số lĩnh vực, sự tham gia của Nhà nước là tương đối sâu,
trong khi lẽ ra phải nâng cao vai trò của doanh nghiệp và hiệp hội doanh
nghiệp sâu và rộng hơn nữa.
Nhìn chung, cải cách thuơng mại của Việt Nam trước khi gia nhập
WTO đã đạt được một số kết quả nhưng chưa hoàn chỉnh. Quyền kinh
19
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
doanh thương mại được mở rộng cho tất cả các thành phần kinh tế trong
nước và nước ngoài. Đồng Việt Nam đã thoát khỏi thời kỳ định giá cao và
dần lấy lại giá trị thực tế của mình. Đây là những nhân tố chủ yếu của tự do

hoá thương mại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Xuất khẩu các
sản phẩm chế tạo tập trung nhiều lao động, đặc biệt là may mặc, giày dép,
hàng nông sản đã tăng rất mạnh. Việt Nam đang hội nhập dần vào hệ
thống sản xuất toàn cầu bởi vì các công ty nước ngoài có thể tìm thấy lợi thế
kết hợp giữa chi phí lao động thấp và môi trường đầu tư nước ngoài tự do.
Vai trò ngày càng tăng của các công ty xuyên quốc gia trong việc tham gia
vaò hoạt động xuất khẩu phản ánh sự phụ thuộc của Việt Nam ngày càng
sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn duy trì những nhân tố bảo hộ cơ bản. Tỷ lệ
thuế quan trung bình là thấp, nhưng chúng vẫn khá cao trong một số loại
hàng hoá quan trọng. Chúng có tác dụng bảo hộ thị trường đối với một số ít
hàng hoá cơ bản, ví dụ như ôtô, xe máy, hàng điện tử Các biện pháp phi
thuế quan ở mức độ tối thiểu cũng đã được sử dụng để bảo hộ các ngành
công nghiệp non trẻ trong nước. Quan trọng hơn, trong khi Việt Nam đã
giảm dần sự bảo hộ của thị trường hàng hoá trong nước thông qua những cải
cách như đã đề cập, thì chúng ta lại tỏ ra rất chậm trễ trong việc nâng cao
sức cạnh tranh của ngành công nghiệp và mở cửa thị trường dịch vụ cho các
công ty nước ngoài. Điều này cũng gây ra tác động mạnh đối với các công ty
nước ngoài về quyền sở hữu trí tuệ và các nguyên tắc khác - vốn không phù
hợp với tiêu chuẩn WTO - buộc Việt Nam phải thực hiện để chính thức trở
thành thành viên của WTO.
20
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ SAU KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
1. Điều chỉnh luật pháp trong nước phù hợp với các nguyên tắc và các
tiêu chuẩn của WTO

Việt Nam cần ban hành và sửa đổi khoảng hơn 100 luật cho phù hợp
với WTO. Với tốc độ làm luật như hiện nay, Việt Nam có thể cố gắng đạt
được mục tiêu này. Tuy nhiên, các luật của Việt Nam phần lớn là luật
khung, không thể thực hiện khi chưa có các văn bản dưới luật quy định chi
tiết. Luật ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế của Việt Nam năm 2005
khẳng định nguyên tắc trong trường hợp có tranh chấp, các điều ước quốc tế
được ưu tiên xem xét so với luật trong nước. Việt Nam có thể phê chuẩn và
áp dụng thẳng các quy định của các Hiệp định WTO. Tuy nhiên, rất nhiều
thành viên WTO không thể hài lòng với những tuyên bố, mà muốn được bảo
đảm từ phía Việt Nam, việc thực thi các quy định WTO được pháp luật
trong nước ghi nhận. Việt Nam cần sớm có các quy định về cấm nhập khẩu
các sản phẩm đã bị cấm ở thị trường nước ngoài, các quy định về nhãn hiệu
hàng hoá thân thiện môi trường, các quy định cụ thể về thuế và phí môi
trường, về các chứng cứ khoa học cho việc áp dụng các biện pháp hạn chế
phù hợp với các quy định của WTO. Cần xây dựng kế hoạch cụ thể về việc
sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường. Việc nhanh chóng áp
dụng các quy định của WTO tạo điều kiện bảo vệ các doanh nghiệp Việt
Nam chống lại việc lợi dụng các yêu cầu môi trường tạo rào cản bảo hộ các
sản phẩm trong nước từ phía các nước khác.
2. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách chính sách thương mại
Bên cạnh những nỗ lực nhằm thay đổi các chính sách kinh tế - thương
mại cho phù hợp với quy định của WTO, Chính phủ Việt Nam cần có biện
pháp để tuyên truyền, phổ biến và giúp doanh nghiệp thực hiện đúng những
21
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
chính sách mới có liên quan đến việc thúc đẩy tiến trình gia nhập WTO của
Việt Nam.
Nhìn chung, trong thời gian đầu thực hiện Hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa kỳ và đang đàm phán tích cực để gia nhập WTO, việc cải cách

hệ thống pháp luật và chính sách thương mại cho phù hợp với các cam kết
song phương và đa phương thực sự đang trở thành một thách thức lớn. Với
hệ thống chính sách thương mại và các chính sách vĩ mô có liên quan của
Việt Nam còn nhiều bất cập và thiếu đồng bộ như hiện nay thì hoàn điều
chỉnh những chính sách thương mại cũ và xây dựng các chính sách thương
mại mới cho phù hợp các cam kết về thương mại hàng hoá và thương mại
dịch vụ trong BTA và thích ứng với các nguyên tắc của WTO, đồng thời
hướng dẫn thực hiện có hiệu quả các chính sách nêu trên là công việc cấp
thiết, cần có sự quan tâm cả của cả Chính phủ lẫn doanh nghiệp .
3. Tích cực chuẩn bị các phương án để đàm phán tiếp trong các cuộc
đàm phán song phương và đa phương về các lĩnh vực thuế, phi
thuế, mở cửa thị trường dịch vụ, đầu tư
Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc cam kết thực
hiện các lộ trình trong khuôn khổ của ASEAN, APEC và Hiệp định thương
mại Việt – Mỹ, nhưng để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới - WTO, dự
kiến vào khoảng năm 2005 thì chúng ta còn phải tiến hành nhiều cuộc đàm
phán song phương và đa phương. Do vậy việc chuẩn bị các phương án để
đàm phán là cần thiết. Khi xây dựng các phương án đàm phán tiếp theo cần
tuân thủ các nguyên tắc và lộ trình đã được xác định trước, đồng thời có tính
đến thực tiễn của kinh tế quốc tế và kinh tế trong nước. Những lĩnh vực cần
tập trung vẫn là: Thuế quan, phi thuế quan, các vấn đề về hàng nông sản,
thương mại dịch vụ, các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại và sở
hữu trí tuệ.
4. Phối hợp điều chỉnh để chính thức hoá và công bố công khai các lộ
trình cam kết về điều chỉnh chính sách và các công cụ của chính sách
Trong quá trình thực hiện các điều chỉnh chính sách và các công cụ của
chính sách, đặc biệt là chính sách thương mại có thể nảy sinh những điểm
không thống nhất, không đồng bộ và không hợp lý do vậy trong quá trình
22
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B

Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
chính thức hoá đưa vào thực hiện cần có sự điều chỉnh. Vai trò phối hợp và
cầm chịch trong việc điều chỉnh này là Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế
quốc tế và Chính phủ. Nói một cách khác là cần có một chiến lược tổng thể
và một lộ trình tổng thể về điều chỉnh chính sách trong quá trình hội nhập.
Sau khi có sự điều chỉnh cần công bố công khai, rộng rãi cho các ngành, các
doanh nghiệp biết để có sự chuẩn bị và chủ động tham gia vào lộ trình hội
nhập.
5. Xúc tiến nhanh việc xây dựng các chiến lược của các ngành, các
doanh nghiệp cho phù hợp với những điều chỉnh về chính sách
Căn cứ vào các lộ trình hội nhập đã được công bố các ngành và các
doanh nghiệp cần xây dựng các chiến lược cụ thể của ngành và của doanh
nghiệp cho tương thích với các lộ trình đã cam kết.
Trong quá trình xây dựng chiến lược cần lưu ý:
Thứ nhất: các cam kết có thể sẽ căn cứ vào thực tiễn năng lực sản xuất
và cung cấp hàng hoá của chính các ngành hay doanh nghiệp trong khoảng
thời gian trước mắt 3 đến 5 năm. Ví dụ các cam kết về hạn ngạch dệt may,
hoặc thuỷ sản trong khuôn khổ Hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Do đó, khi
xây dựng chiến lược cần phải lưu ý ngay từ những năm đầu cần khai thác
hết năng lực sản xuất kinh doanh hiện có, đồng thời với việc đầu tư để mở
rộng các năng lực sản xuất kinh doanh mới.
Thứ hai: Phải tính đến vấn đề chuyển đổi ngành nghề, hoặc đa dạng
hoá sản phẩm dịch vụ trong chiến lược. Bởi lẽ có những sản phẩm và dịch
vụ sẽ không phù hợp hoặc tỏ ra không có khả năng cạnh tranh trong quá
trình thực hiện lộ trình hội nhập.
23
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
KẾT LUẬN
Việt nam chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế

giới vào ngày 7/11/2006 vừa qua. Nền kinh tế Việt Nam đã chuyển sang một
giai đoạn mới - giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Để có thể hoà nhập và
đứng vững trong môi trường cạnh tranh quốc tế như vậy, Việt Nam không
còn cách nào khác là tự vươn lên, tự hoàn thiện chính mình về mọi mặt, đặc
biệt là về mặt cơ chế chính sách.
Chính sách thương mại quốc tế là một yếu tố quan trọng góp phần vào
sự thành công trong tiến trình đàm phán thương mại gia nhập WTO. Thực tế
Việt Nam đã đạt được khá nhiều cải cách trong chính sách thương mại quốc
tế. Tuy nhiên, chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam vẫn chưa thực
sự hoàn chỉnh và thống nhất với luật pháp và thông lệ quốc tế. Đây là một
điều bất lợi cho Việt Nam trong quá trình trao đổi thương mại quốc tế, gây
khó khăn cho Việt Nam trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế.
Vì vậy, với đề tài: “Giải pháp hoàn thiện chính sách thương mại
quốc tế của Việt nam sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới
(WTO)” đã đưa ra hướng đi, giải pháp nhằm khắc phục được những hạn chế,
tồn tại trong chính sách thương mại của Việt nam. Tuy em đã hết sức cố
gắng vận dúng sự hiểu biết của mình để hoàn thành bài viết song vẫn không
tránh khỏi những thiếu sót và những điểm hạn chế. Đây là bài tiểu luận đầu
tay, em rất mong được sự thông cảm của thầy giao.
24
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B
Trường Đại hoc Kinh Tế Quốc Dân Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
25
Phothilath Sikhotchounlamaly CH17B

×