Tải bản đầy đủ (.docx) (256 trang)

Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam theo tiêu chuẩn Basel II

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 256 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TÀI CHÍNH

häc viÖn tµi chÝnh


LÊ THỊ HẠNH

QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
THEO TIÊU CHUẨN BASEL II
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 62.34.02.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS Lê Văn Luyện
2. TS. Vũ Quốc Dũng

HÀ NỘI - 2017


2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và tài liệu trong Luận án là trung thực. Tất cả những nội dung tham khảo và kế
thừa đều được trích dẫn và tham chiếu đầy đủ.

Hà Nội, ngày



tháng
Tác giả

Lê Thị Hạnh

năm 2017


3

LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ sự biết ơn tới giáo viên hướng dẫn khoa học PGS.TS Lê
Văn Luyện và TS Vũ Quốc Dũng đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo và đồng hành
cùng tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận án.
Tác giả cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo của Học Viện Tài Chính đặc biệt là
các thầy cô giáo của Khoa Tài chính- ngân hàng, Khoa sau đại học đã hỗ trợ cho tác giả
trong việc tìm kiếm tài liệu, góp ý chỉnh sửa luận án.
Xin chân thành cảm ơn các Quý Ông/Bà lãnh đạo, các chuyên gia, nhân viên
ngân hàng nhà nước, ngân hàng Vietcombank, đã có hỗ trợ hữu ích trong việc thu
thập dữ liệu, thông tin và hoàn thành bảng hỏi phục vụ Luận án.
Cuối cùng, Tác giả xin được gửi lòng tri ân sâu sắc tới gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp đã luôn quan tâm, động viên và khích lệ Tác giả để hoàn thành Luận
án này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017


Tác giả

Lê Thị Hạnh


4

MỤC LỤC


5

DANH MỤC VIẾT TẮT
AIRB

Phương pháp đánh giá nội bộ nâng cao

CBRC

Cơ quan giám sát ngân hàng Trung Quốc

CIC

Trung tâm thông tin tín dụng

EAD

Rủi ro vỡ nợ


EL

Tổn thất dự kiến

FIRB

Phương pháp đánh giá nội bộ cơ bản

FSA

Cơ quan giám sát ngân hàng Nhật Bản

IRB

Phương pháp đánh giá nội bộ

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

NHTMNN

Ngân hàng thương mại Nhà nước

OECD


Tổ chức hợp tác và phát triển Kinh tế

PD

Xác suất vỡ nợ

RRTD

Rủi ro tín dụng

TCTD

Tổ chức tín dụng

UL

Tổn thất ngoài dự kiến


6

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH
1. Bảng:
. Biểu đồ:
3. Hình:


7

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO và đang trong tiến trình hội
nhập quốc tế. Với xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá mạnh mẽ này, hoạt động kinh
doanh Ngân hàng được xem là một trong những lĩnh vực hết sức nhạy cảm, phải
mở cửa gần như hoàn toàn theo các cam kết quốc tế. Trong bối cảnh chung đó,việc
các NHTM Việt Nam sẽ phải đối mặt với những thách thức như thế nào, tận dụng
cơ hội ra sao và bằng cách nào để có thể biến thách thức thành cơ hội, biến những
khó khăn thành lợi thế của bản thân, muốn thế thì toàn bộ các thành viên trong hệ
thống NHTM Việt Nam phải chủ động nhận thức để tham gia vào quá trình hội
nhập. Một trong những điều ước quốc tế được các nhà quản trị ngân hàng đặc biệt
quan tâm chính là hiệp ước quốc tế về an toàn vốn trong hoạt động ngân hàng –
còn được biết thông dụng với tên gọi Hiệp ước Basel. Ra đời cách đây hơn 20
năm, hiệp ước này được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng làm chuẩn mực
để đánh giá và giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng nước mình. Hiệp ước
này hiện nay đã có phiên bản mới với tên gọi The New Basel Capital Accord,
cập nhật, đổi mới một số nội dung hơn so với phiên bản thứ nhất trước đó. Riêng
đối với Việt Nam, việc ứng dụng hiệp ước Basel này trong công tác giám sát và
quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng vẫn còn nhiều vướng mắc, nên vẫn chỉ mới
dừng lại ở việc lựa chọn một số tiêu chí đơn giản trong phiên bản thứ nhất để vận
dụng và vẫn chưa tiếp cận nhiều với phiên bản hai. Điều này thực tế cũng gây
khó khăn ít nhiều cho quá trình hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam.
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam là 1 trong 10 ngân hàng đầu tiên
được NHNN lựa chọn triển khai Basel II tại Việt Nam. Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam đã chủ động phân tích và xây dưng lộ trình tổng thể triển khai
Basel II. Tuy nhiên, với những khó khăn về việc thay đổi phương thức và cơ chế
quản lý hình thành từ lâu để có thể áp dụng hiệp ước trong hoạt động của mình,
Vietcombank vẫn chưa thể hoàn thiện được việc áp dụng hiệp ước Basel II trong
công tác quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng.



8

Xuất phát từ thực tế về yêu cầu ứng dụng hiệp ước Basel II trong hoạt động
quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng cũng như từ thực tế hiệu quả còn hạn chế của
công tác quản trị rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn của hiệp ước Basel II tại Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam, tác giả đã lựa chọn đề tài “Quản trị rủi ro tín dụng
tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam theo tiêu chuẩn Basel II” làm đề
tài nghiên cứu luận án của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan
Quản trị rủi ro tín dụng đã có nhiều công trình, đề tài ở nước ngoài và trong
nước dưới dạng bài nghiên cứu trên tạp chí, luận văn, luận án... dưới những hướng
khác nhau như:
*Hướng thứ nhất là nhân tố ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng ngân hàng
(Das and Ghosh (2007), Zribi and Boujelbène (2011), Funda (2014), Trần Chí
Chinh (2012), Võ Thị Quý và Bùi Ngọc Toản (2014)...). Các nghiên cứu này sử
dụng phương pháp nghiên cứu định lượng kết hợp với nghiên cứu định tính, phân
tích dữ liệu chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng. Các nghiên cứu chỉ ra
rằng các yếu tố vĩ mô (sự tăng trưởng GDP) có ảnh hưởng tới RRTD (Das and
Ghosh, 2007; Funda , 2014; Võ Thị Quý và Bùi Ngọc Toản, 2014). Ngoài ra nhân tố
quy mô của ngân hàng, tăng trưởng tín dụng, chi phí hoạt động của ngân hàng (Das
and Ghosh, 2007), nhân tố rủi ro tín dụng trong quá khứ có độ trễ 1 năm ( Võ Thị
Quý và Bùi Ngọc Toản, 2014), nhân tố tỷ lệ lạm phát, lãi suất, chỉ số ISE-100, tỷ
giá ngoại tệ, cung tiền M2, tỷ lệ thất nghiệp (Funda, 2014) đều có ảnh hưởng tới
RRTD của ngân hàng. Hay Zribi and Boujelbène (2011) nghiên cứu trường hợp
Tunisia, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng sở hữu công làm tăng rủi ro tín dụng ngân
hàng và việc tuân thủ quy định bảo đảm an toàn về vốn làm giảm rủi ro tín dụng.
Một nghiên cứu thực nghiệm ở Trung Quốc chỉ ra rằng sự tụt giảm mạnh của tài sản
không sinh lời có ảnh hưởng tích cực mạnh mẽ tới nợ xấu của ngân hàng
(Thiagarajan và cộng sự, 2011). Nguyễn Quốc Anh và Nguyễn Hữu Thạch (2015)
xem xét các yếu tố tác động đến RRTD thông qua tỷ lệ nợ xấu của 26 NHTM Việt

Nam từ năm 2003-2015 kết quả đã chỉ ra tỷ lệ nợ xấu năm trước cao có ảnh hưởng


9

nghịch chiều tới tỷ lệ nợ xấu năm hiện tại, ROE quan hệ nghịch chiều với nợ xấu,
ngân hàng có quy mô lớn có nguy cơ rủi ro tín dụng cao hơn.
Hướng nghiên cứu này chủ yếu là sử dụng phương pháp định lượng, sử dụng
số liệu sơ cấp thu thập từ khảo sát phân tích để chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng tới
RRTD của ngân hàng mà không kết hợp với số liệu thứ cấp thu thập từ thực trạng
quản trị rủi ro tín dụng mà các ngân hàng đang áp dụng. Các nhân tố ảnh hưởng
RRTD được chỉ ra ở mỗi nghiên cứu cũng có sự khác nhau và ngoài ra trên thực tế
còn có các nhân tố khác ảnh hưởng tới RRTD. Mặt khác nữa mỗi ngân hàng lại có
đặc thù riêng, có chính sách quản trị rủi ro tín dụng riêng.
*Hướng nghiên cứu thứ hai là mối quan hệ giữa quản trị rủi ro tín dụng
với khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại (Li and Zou (2014), Aduda and
Gitonga (2011), ...). Berger and DeYoung (1997) nghiên cứu ở Mỹ đã chỉ ra rằng dư
nợ xấu có ảnh hưởng tới chi phí, hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, khi
dư nợ xấu tăng thì làm cho chi phí xử lý dư nợ xấu tăng, làm giảm hiệu quả hoạt
động của ngân hàng và ngược lại khi ngân hàng dành ít chi phí cho việc kiểm tra,
giám sát thu hồi nợ thì sẽ làm dư nợ xấu tăng. Aduda and Gitonga (2011) ở Kenya
chỉ ra tỷ lệ nợ xấu- NPLR có ảnh hưởng tới khả năng sinh lời (ROE) của ngân hàng.
Hay Gizaw và cộng sự (2015) kết quả nghiên cứu chỉ ra nợ xấu (NPLR), tỷ lệ trích
lập dự phòng (LLPR), hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) có ảnh hưởng tích cực tới
khả năng sinh lời của ngân hàng (ROE, ROA). Kết quả nghiên cứu này phù hợp với
nghiên cứu của Sabeza và cộng sự (2015) ở Rwanda khi cho rằng quản trị rủi ro tín
dụng có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sinh lời của ngân hàng. Có một sự khác
biệt so với nghiên cứu trước trong nghiên cứu của Li and Zou (2014) là quản trị rủi
ro tín dụng không có ảnh hưởng tới lợi nhuận của ngân hàng, hệ số CAR có ảnh
hưởng không đáng kể với ROE và ROA.

Hướng nghiên cứu này bằng việc sử dụng dữ liệu sơ cấp, thứ cấp đã phân
tích dữ liệu chỉ ra có mối quan hệ giữa quản trị rủi ro tín dụng và khả năng sinh lời
của ngân hàng. Tuy nhiên các tiêu chí để đo lường rủi ro tín dụng, khả năng sinh
lời của các ngân hàng cũng có sự khác nhau trong mỗi nghiên cứu. Mặt khác nữa


10

để quản trị rủi ro hạn chế được những tổn thất về lợi nhuận cho ngân hàng thì đòi
hỏi các ngân hàng phải căn cứ vào điều kiện, đặc thù của mỗi ngân hàng để xây
dựng các chính sách quản trị rủi ro tín dụng tuân thủ theo các tiêu chuẩn Basel
phù hợp.
*Hướng nghiên cứu thứ ba là quản trị rủi ro tín dụng của các ngân hàng
thương mại (Wang (2013), Afande (2014), Jonathan (2012)...). Theo Wang (2013)
đánh giá quản trị rủi ro tín dụng ở Trung Quốc tiếp cận từ phía khách hàng bằng
việc phân tích chỉ tiêu tài chính, phi tài chính của khách hàng, tìm nguyên nhân dẫn
tới sự thất bại trong kinh doanh của khách hàng từ đó ngân hàng đưa ra chính sách
hạn chế rủi ro tín dụng. Bằng việc phân tích chính sách tín dụng, quản trị rủi ro tín
dụng ở NHTM Kenya, Afande (2014) đã chỉ ra rằng để hệ thống quản trị rủi ro của
ngân hàng có hiệu quả là việc ngân hàng phải thiết lập một chính sách tín dụng cụ
thể, rõ ràng, thực hiện thống nhất từ trên xuống dưới tới các phòng giao dịch tới
từng cán bộ tín dụng; hỗ trợ quản lý; thông tin về chính sách tín dụng được hướng
dẫn tới từng cán bộ tín dụng, sàng lọc các khách hàng tiềm năng, sử dụng đội ngũ
nhân viên được đào tạo tốt, đánh giá liên tục tính thanh khoản của khách hàng vay
và sử dụng các công nghệ hỗ trợ trong phân tích tín dụng và ngoài ra các ngân hàng
phải tuân thủ tiêu chuẩn Basel II. Bekhet and Eletter (2014) chỉ ra rằng việc đo
lường lượng hóa rủi ro tín dụng là quan trọng với bất kể ngân hàng nào. Nghiên cứu
đã xây dựng mô hình đánh giá rủi ro tín dụng sử dụng phương pháp chấm điểm
ANN (Artificial neural networks) gồm các biến quan sát như: chấm điểm tín dụng;
yếu tố nhân khẩu học, mức độ thu nhập của người vay…để ước lượng rủi ro tín

dụng tránh tổn thất có thể xảy ra đối với ngân hàng. Một nghiên cứu ở Trung Quốc
về quản trị rủi ro tín dụng của Li (2015) cho rằng ngân hàng có quy trình cho vay
thực hiện chặt chẽ theo đúng quy định của ngân hàng thì sẽ giảm được rủi ro tín
dụng, tăng khả năng sinh lời cho ngân hàng. Ở Việt Nam, nghiên cứu của Lê Thị
Huyền Diệu (2010), Nguyễn Đức Tú (2012) đã xây dựng mô hình quản lý rủi ro tín
dụng, từ đó phân tích các điều kiện thực tiễn để áp dụng tại các NHTM Việt Nam.
Dương Ngọc Hào (2015) dựa vào việc phân tích dữ liệu thu thập được từ ba nhóm
ngân hàng và đánh giá rủi ro tín dụng theo các tiêu chí như hoạch định, tổ chức thực


11

hiện, giám sát, điều chỉnh sau giám sát từ đó chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân của
những hạn chế và đưa ra các giải pháp phù hợp cho các NHTM. Từ việc phân tích
nợ xấu và đánh giá quản lý rủi ro ở ngân hàng ANZ và đưa ra khuyến nghị cho
NHTM Việt Nam về việc quản lý RRTD (Tô Minh Thông, 2013).
Theo hướng nghiên cứu này, các nghiên cứu chỉ dừng ở việc sử dụng các số
liệu thứ cấp phân tích các chính sách quản trị rủi ro tín dụng mà các ngân hàng đang
áp dụng chỉ ra những tồn tại, hạn chế và đưa ra các giải pháp khuyến nghị cho các
ngân hàng về công tác quản trị rủi ro tín dụng mà chưa đề cập tới việc các ngân
hàng có áp dụng Hiệp ước Basel trong quản trị rủi ro tín dụng không và việc áp
dụng Basel trong quản trị rủi ro tín dụng của các ngân hàng như thế nào.
*Hướng nghiên cứu thứ tư là quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II:
Denis và cộng sự (2007) ở Đức đã chỉ ra rằng để quản lý tốt hơn rủi ro tín
dụng, đảm bảo an toàn vốn thì việc sử dụng dữ liệu theo tiêu chuẩn Basel II sẽ hiệu
quả hơn với dữ liệu của mô hình quản lý nội bộ của ngân hàng. Tuy nhiên, việc thực
hiện quản lý rủi ro tín dụng, đảm bảo an toàn vốn theo tiêu chuẩn Basel II rất tốn
kém chi phí, các ngân hàng cần phải có điều kiện nhất định và để hiệu quả quản lý
rủi ro tín dụng, đảm bảo an toàn vốn và lợi nhuận là tối ưu. Nghiên cứu này chỉ ra
rằng các ngân hàng cần có sự tích hợp sử dụng dữ liệu theo tiêu chuẩn Basel II và

hệ thống quản lý nội bộ của ngân hàng. Quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II là cần
thiết hữu hiệu đối với các ngân hàng (Vasile and Roxana, 2010). Quản trị rủi ro tín
dụng ứng dụng phương pháp đánh giá nội bộ (IRB) theo Basel II cho phép các ngân
hàng xác định các yêu cầu về vốn theo các mức độ rủi ro, quy định các thành phần
rủi ro: xác suất vỡ nợ (PD), mất vốn do vỡ nợ (LGD), rủi ro vỡ nợ (EAD) và kỳ
hạn hiệu lực (EM). Các ngân hàng thực hiện quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II sẽ
giảm thiểu được tổn thất, nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng nhưng để thực
hiện được điều này là vấn đề khó khăn cho các ngân hàng. Jonathan (2012) với
nghiên cứu quản trị rủi ro tín dụng trường hợp ngân hàng nông nghiệp ở Ghana, đã
chỉ ra rằng ứng dụng Basel II trong quản trị rủi ro tín dụng là hiệu quả đối với ngân
hàng. Nghiên cứu đã xây dựng mô hình điểm tín dụng có áp dụng Basel II trong


12

quản trị rủi ro tín dụng ở ngân hàng Ghana bằng việc sử dụng dữ liệu lịch sử thanh
toán, đặc điểm nhân khẩu học và kỹ thuật thống kê. Điều này lần nữa được khẳng
định trong nghiên cứu của Fadun (2013) về việc áp dụng Basel II trong việc quản trị
rủi ro ở ngân hàng Nigeria khi cho rằng Basel II là công cụ hữu ích cho các ngân
hàng nhằm tăng cường và thiết lập các quy chế quản lý vốn, rủi ro và giám sát ngân
hàng. Các ngân hàng Nigeria thực hiện quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II có
những hạn chế nhất định, để tăng cường hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng theo Basel
II thì các ngân hàng Nigeria cần phải tăng vốn, tăng cường mức độ cung cấp, dự trữ
và kiểm soát nội bộ. Để áp dụng Basel II thì các ngân hàng ở Nigeria cần phải nâng
cao hệ thống công nghệ thông tin, mô hình dữ liệu và mô hình kinh doanh nhưng
việc áp dụng Basel II đòi hỏi chi phí lớn do đo các ngân hàng cần phải có sự chuẩn
bị, cân nhắc kỹ lưỡng về chi phí.
Ở Việt Nam, có một số nghiên cứu về vấn đề này như Nguyễn Thị Kiều Minh
(2015), Phan Thị Linh (2016)... Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kiều Minh (2015)
bằng việc phân tích các dữ liệu thu thập về hoạt động tín dụng, áp dụng Basel II ở

NHTM Việt Nam, nghiên cứu chỉ ra rằng để tiếp tục phát triển thì các ngân hàng
thương mại cần có áp dụng phương pháp quản lý rủi ro hợp lý, phải cân nhắc giữa
lợi nhuận và rủi ro để đạt được tối đa hóa lợi nhuận cùng với giảm thiểu rủi ro và
cần tăng cường vai trò giám sát để tăng tính hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Việc triển khai Basel II đối với 10 ngân hàng được NHNN lựa chọn thí điểm thì gặp
không ít những khó khăn và thách thức như chi phí triển khai thực hiện, thông tin
dữ liệu (Nguyễn Văn Thọ và Nguyễn Ngọc Linh, 2015). Việc áp dụng chuẩn mực
vốn theo tiêu chuẩn vốn Basel II sẽ tạo động lực và định hướng trong việc nâng cao
năng lực quản lý rủi ro và quản lý, phân bổ vốn theo tiêu chuẩn quốc tế. Phan Thị
Linh (2016) nghiên cứu về quản trị rủi ro trên cơ sở ứng dụng BASEL II tại các
ngân hàng thương mại nhà nước. Nghiên cứu chỉ ra rằng việc thực hiện theo Basel
II là bước đi cần thiết và không thể không làm nhằm bảo đảm sự ổn định cho hệ
thống ngân hàng nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Tuy nhiên các NHTM
Nhà nước triển khai và thực hiện ứng dụng Basel II đang gặp những khó khăn nhất


13

định như chi phí thực hiện triển khai và ứng dụng Basel II lớn, nợ xấu của ngân
hàng đang có xu hướng tăng cao. Khác với các nghiên cứu ở trên về phương pháp
nghiên cứu, nghiên cứu thực nghiệm về việc ứng dụng hiệp ước Basel II trong công
tác quản trị rủi ro tín dụng tại Sacombank Đồng Nai của Nguyễn Quan Luật (2012)
đã sử dụng kết hợp cả phương pháp nghiên cứu định lượng, định tính. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng ứng dụng Hiệp ước Basel
II tại Sacombank Đồng Nai là thanh tra giám sát, nhân lực, thông tin, nội tại ngân
hàng, hệ thống và nội dung. Từ đó nghiên cứu đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng tín dụng của ngân hàng.
Hướng nghiên cứu về quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II, các nghiên cứu
đều chỉ ra rằng việc thực hiện theo Basel II trong quản trị rủi ro tín dụng là cần thiết
cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng và ổn định cho hệ thống ngân

hàng. Việc triển khai và thực hiện quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II các ngân
hàng gặp không ít những khó khăn thách thức và để ứng dụng Basel trong quản trị
rủi ro thì các ngân hàng cần phải có điều kiện cần thiết nhất định. Các nghiên cứu
nhìn chung vẫn chưa đi sâu phân tích đánh giá thực trạng việc ứng dụng Basel II,
tiến trình thực hiện, nội dung thực hiện, mức độ ứng dụng basel II trong công tác
quản trị rủi ro tín dụng và hoặc có nghiên cứu nhưng là ở nước ngoài hoặc ở một chi
nhánh ngân hàng Việt Nam.
Ngoài các nghiên cứu theo các hướng ở trên thì còn có một số nghiên cứu rủi
ro tín dụng theo các hướng khác như nâng cao chất lượng tín dụng ở ngân hàng
Vietcombank (Nguyễn Thị Thu Đông, 2012), quản lý nợ xấu của NHTM Việt Nam
(Nguyễn Thị Hoài Phương, 2012).
Như vậy, qua quá trình tổng quan các nghiên cứu về vấn đề quản trị rủi ro tín
dụng cho thấy có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước dưới nhiều hướng nghiên
cứu khác nhau, mỗi hướng nghiên cứu có cách tiếp cận khác nhau, có ưu điểm và
hạn chế.
Luận án này của tôi nghiên cứu theo hướng quản trị rủi ro tín dụng theo
Basel II. Bởi theo như tổng quan cho thấy: (1) Rủi ro tín dụng là rủi ro quan trọng


14

nhất, được các ngân hàng quan tâm hàng đầu. (2) Các nghiên cứu đều khẳng định
quản trị rủi ro theo Basel II là cần thiết và hữu hiệu cho các ngân hàng. (3) Việc
triển khai và thực hiện quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II đang gặp nhiều khó
khăn và thách thức.
Mặt khác nữa, tổng quan nghiên cứu cũng cho thấy: (1) Ngân hàng
Vietcombank là ngân hàng nằm trong số 10 ngân hàng thí điểm áp dụng phương
pháp quản trị vốn và rủi ro theo tiêu chuẩn Basel II, với lộ trình áp dụng từ tháng
2/2016 và hoàn thành việc thí điểm vào năm 2018. (2) Việc triển khai và thực hiện
quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II ở Việt Nam trong đó có Vietcombank đang gặp

nhiều khó khăn và thách thức như chi phí triển khai Basel II, thiếu dữ liệu lịch sử,
quy định của NHNN về tỷ lệ an toàn vốn. (3) Chưa có công trình nghiên cứu nào
đầy đủ về quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II ở NHTM Việt Nam và nhất là Ngân
hàng Vietcombank, có thì mới chỉ dưới dạng bài nghiên cứu trên tạp chí hoặc bài
luận văn. (4) Mặc dù có những công trình nghiên cứu ở trên thế giới về quản trị rủi
ro tín dụng theo Basel II nhưng đặc điểm NHTM Việt Nam cũng như ngân hàng
Vietcombank có điểm khác với ngân hàng trên thế giới như về quy mô vốn, về đặc
điểm khách hàng, về ứng dụng công nghệ thông tin...do đó không thể áp kết quả
nghiên cứu vào Việt Nam.
Do đó, “Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt
Nam theo tiêu chuẩn Basel II” được tác giả lựa chọn nghiên cứu.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín
dụng của NHTM theo tiêu chuẩn Basel II.
- Phân tích đánh giá thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Vietcombank giai
đoạn 2011-2016, trên cơ sở tham chiếu với các tiêu chuẩn của Basel II để đánh giá
những kết quả và hạn chế của quá trình quản trị RRTD tại ngân hàng này, tạo cơ sở
cho các đề xuất.
- Đưa ra đề xuất nhằm gợi ý cho các nhà quản trị Vietcombank trong chiến
lược quản trị rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn Basel II.


15

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quản trị rủi ro tín dụng tại Vietcombank theo tiêu chuẩn Basel II.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian nghiên cứu: Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho
vay các tổ chức, cá nhân tại ngân hàng Vietcombank.

- Về thời gian nghiên cứu: giai đoạn 2011-2016
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, nghiên cứu này kết hợp cả phương pháp
nghiên cứu định tính với phương pháp định lượng, phương pháp thống kê, so sánh,
phân tích. Cụ thể như sau:
- Phương pháp nghiên cứu định tính: phương pháp này được thực hiện trong
giai đoạn phát triển bảng hỏi và giai đoạn thảo luận kết quả nghiên cứu.
Kết quả của nghiên cứu định tính là thiết kế được bảng hỏi khảo sát để sử
dụng cho nghiên cứu định lượng và giúp cho nghiên cứu giải thích kết quả khảo sát
sau này được sát thực hơn.
- Phương pháp nghiên cứu định lượng: Phương pháp này được sử dụng trong
giai đoạn điều tra và phân tích dữ liệu đánh giá về thực trạng ứng dụng Basel II
trong công tác quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
- Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, suy luận, logic: Phương pháp
này được sử dụng trong việc thu thập các số liệu ở các báo cáo thống kê của ngân
hàng Vietcombank, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để phân tích, đánh giá và đưa ra
các giải pháp kiến nghị nhằm tăng cường công tác quản trị rủi ro tín dụng theo
Basel II ở ngân hàng Vietcombank.
6. Những đóng góp mới của luận án
6.1. Về mặt lý luận
- Làm phong phú thêm sự hiểu biết về rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro tín
dụng, các quy định về quản trị rủi ro tín dụng của Basel II và sự cần thiết phải
đáp ứng Basel II trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng.


16

6.2. Về mặt thực tiễn
Kết hợp việc phân tích các dữ liệu, số liệu thu thập được từ các báo cáo của
ngân hàng Vietcombank với dữ liệu thu thập được thông qua khảo sát các đối tượng

là nhà quản lý, nhân viên ngân hàng trong lĩnh vực tín dụng, tác giả chỉ ra được
những hạn chế trong việc thực hiện quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II ở
Vietcombank là nội dung Basel II phức tạp, nhân viên ngân hàng chưa có nhận thức
đầy đủ về lợi ích của Basel II, NHNN chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về việc
thực hiện Basel II, Vietcombank chưa đáp ứng các điều kiện thực hiện theo Basel II
(hệ thống cơ sở dữ liệu, nhân lực, tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp, năng
lực giám sát). Các phát hiện của nghiên cứu đưa ra gợi ý cho ngân hàng
Vietcombank trong việc hoạch định các chiến lược, chính sách quản trị rủi ro tín
dụng theo tiêu chuẩn Basel II.
7. Kết cấu của luận án
Về cấu trúc, ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án được chia thành ba chương:
Chương 1: Tổng quan về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng của ngân
hàng thương mại theo tiêu chuẩn Basel II
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Vietcombank
theo tiêu chuẩn Basel II.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện cho quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng
Vietcombank theo tiêu chuẩn Basel II


17

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ
RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
THEO TIÊU CHUẨN BASEL II
1.1. Rủi ro và Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Quan niệm về rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Có nhiều quan niệm về rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Crouhyi (2001) chỉ ra rằng yếu tố cơ bản của rủi ro là có thể ảnh hưởng đến

hành vi tài chính. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng liên quan đến
sự không chắc chắn về hoạt động nhận tiền gửi, cho vay và đầu tư hàng ngày của
ngân hàng. Rose (2002), Kealhofer (2003) đều cho rằng rủi ro là một phần của ngân
hàng, và khó có thể tránh được, bởi vì ngân hàng không thể đoán trước được khả
năng trả nợ trong tương lai của các khách hàng một cách chính xác. Rủi ro được
định nghĩa là những bất trắc có thể dẫn tới thua lỗ hoặc thiệt hại về lợi nhuận. Rủi
ro là khả năng xảy ra các biến cố không lường trước, khi xảy ra sẽ làm cho kết quả
thực tế khác kết quả kì vọng theo kế hoạch (Bessis, 2002). Hay theo Bohn and Stein
(2009) chỉ ra rằng rủi ro là khả năng các giá trị tài sản có thể bị mất đi trong một
khoảng thời gian cụ thể.
Như vậy, có nhiều cách quan niệm khác nhau về rủi ro trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng, theo tác giả thì rủi ro trong hoạt động kinh doanh
ngân hàng là những tổn thất có thể xảy ra mà ngân hàng không lường trước
được, trong phạm vi không gian và thời gian nhất định.

1.1.1.2. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, rủi ro luôn luôn tồn tại và bản
thân mỗi ngân hàng không thể triệt tiêu rủi ro mà phải đương đầu với rủi ro. Có
nhiều cách phân chia rủi ro của NHTM.


18

Theo Ủy ban Basel (1999) cho rằng rủi ro của các tổ chức tài chính được
phân thành tám loại: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh
khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý và rủi ro danh tiếng.
Hay Steinwand (2000) cho rằng rủi ro lớn phải mà các tổ chức tài chính vi
mô phải đối mặt như sau:
Bảng 1.1: Rủi ro chính các tổ chức tài chính vi mô phải đối mặt
Rủi ro tài chính

Rủi ro tín dụng
Rủi ro giao dịch
Rủi ro danh mục
Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thị trường

Rủi ro hoạt động
Rủi ro giao dịch
Rủi ro nguồn nhân lực
Rủi ro thông tin và công nghệ
Rủi ro gian lận
Rủi ro pháp lý và sự
tuân thủ

Rủi ro lãi suất
Rủi ro tỷ giá
Rủi ro danh mục đầu tư

Rủi ro chiến lược
Rủi ro quản trị
Hiệu quả giám sát và cấu
trúc quản trị kém
Rủi ro danh tiếng
Rủi ro kinh doanh bên ngoài
Rủi ro sự kiện

Nguồn: Steinwand (2000)
Những loại rủi ro mà các tổ chức tài chính phải đối mặt gồm có năm loại như
rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro hệ
thống (Altman, 1998)

Rủi ro
thị trường
Rủi ro
tín dụng

Rủi ro
thanh khoản

Tổ chức tài chính
Rủi ro hoạt động

Rủi ro
hệ thống

Hình 1.1: Thành phần của rủi ro
Nguồn: Altman, 1998


19

Khác với cách phân loại ở trên, theo Angelopoulos and Mourdoukoutas
(2001) rủi ro có thể được phân loại thành hai nhóm: rủi ro truyền thống và phi
truyền thống rủi ro. Rủi ro truyền thống là rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro
chính trị và pháp lý và rủi ro hoạt động. Rủi ro phi truyền thống là rủi ro thị trường,
rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro xử lý nợ (liquidation risk), rủi ro về giá, rủi ro
danh mục đầu tư và rủi ro tài chính phái sinh.
Rủi ro thanh khoản

Rủi ro tín dụng
Rủi ro truyền thống

Rủi ro chính trị và pháp lý

Rủi ro hoạt động

Rủi ro thị trường
Rủi ro

Rủi ro lãi suất

Rủi ro ngoại hối

Rủi ro phi truyền thống

Rủi ro xử lý nợ

Rủi ro về giá

Rủi ro danh mục đầu tư

Rủi ro tài chính phái sinh

Hình 1.2: Rủi ro truyền thống và rủi ro phi truyền thống
Nguồn: Angelopoulos and Mourdoukoutas, 2001


20

Có nhiều loại rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng, theo Bessis (2002)
các ngân hàng phải đối mặt với các loại rủi ro: Rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro
thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro khác.

• Rủi ro hối đoái:
Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu khi
tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính.
Tỷ giá hối đoái thường xuyên dao động, sự thay đổi này cùng với trạng thái
hối đoái của ngân hàng tạo ra thi nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên,
những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho ngân hàng.
• Rủi ro lãi suất:
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra tổn thất khi lãi suất thay đổi ngoài dự tính
của ngân hàng.
Lãi suất của ngân hàng (cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay) thường
xuyên biến động với mức độ khác nhau có thể dẫn đến tổn thất. Rủi ro lãi suất và
rủi ro tín dụng có liên quan chặt chẽ với nhau.
• Rủi ro thanh khoản:
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi nhu cầu
thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến.
Rủi ro thanh khoản làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản như
phải huy động vốn với lãi suất cao hơn, hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán.
• Rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do
khách hàng vay không trả nợ đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi.
Rủi ro tín dụng ở hai góc độ là rủi ro từ huy động vốn và rủi ro trong cho vay.
• Các rủi ro khác:


21

Ngoài các loại rủi ro ở trên thì theo Bessis (2002) thì còn có các loại rủi ro
khác như rủi ro thị trường, rủi ro lệch hạn, rủi ro tính thanh khoản thị trường, rủi ro
hoạt động
Như vậy, trong hoạt động của ngân hàng các ngân hàng phải đối mặt với

nhiều loại rủi ro trong đó rủi ro lớn mà các ngân hàng phải đối mặt là rủi ro tín
dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối và việc hiểu các thành phần rủi
ro cho phép các ngân hàng có chính sách quản trị rủi ro phù hợp. Trong các loại rủi ro
các ngân hàng phải đối mặt thì rủi ro tín dụng là loại rủi ro quan trọng nhất, đây là loại
rủi ro phụ thuộc cả về phía khách hàng và ngân hàng (Wang, 2013).

1.1.2. Quan niệm rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM
Rủi ro tín dụng là rủi ro rõ ràng nhất mà các nhà quản lý ngân hàng cần phải
giải quyết vì nó được coi là nguyên nhân của phần lớn các thất bại của ngân hàng
(Fraser và cộng sự, 2001). Rủi ro tín dụng dẫn đến thất bại của nhiều ngân hàng trên
thế giới (Greuning and Bratanovic, 2003).
Rủi ro tín dụng được định nghĩa là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín
dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng thu nhập dự tính mang lại từ
khoản cho vay của ngân hàng không thể thực hiện được đầy đủ về mặt số lượng và
thời hạn (Saunders, 1994).
Theo Ủy ban Basel và giám sát ngân hàng (1999) thì rủi ro tín dụng được định
nghĩa là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác không thực hiện được các
nghĩa vụ của mình theo các điều khoản đã thỏa thuận. Theo như cách định nghĩa này
thì rủi ro tín dụng của ngân hàng là người vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ
theo các điều khoản đã ghi trong hợp đồng tín dụng.
Theo Bessis (2002) khái niệm rủi ro tín dụng là rủi ro đối tác vi phạm nghĩa
vụ trả nợ.
Greuning and Bratanovic (2003) rủi ro tín dụng được định nghĩa là cơ hội mà một
con nợ hoặc một tổ chức phát hành công cụ tài chính sẽ không có khả năng trả lãi và
/hoặc trả nợ gốc theo các điều khoản đã cam kết khi phát hành. Nó có nghĩa là thanh toán


22

nợ có thể được trì hoãn hoặc cuối cùng không trả được, nó có thể gây ra vấn đề về dòng

tiền mặt và ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân hàng. Rủi ro tín dụng là khu
vực quan trọng nhất trong quản lý rủi ro.
Hay theo Duffie và Singleton (2003) định nghĩa rủi ro tín dụng là xác suất vỡ
nợ hoặc giảm giá trị trên thị trường gây ra bởi sự giảm chất lượng tín dụng của tổ
chức cho vay hoặc đối tác.
Theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN do NHNN Việt Nam ban hành ngày
21/01/2013 “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là tổn thất có khả năng xảy
ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng
không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ
của mình theo cam kết”
Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về rủi ro tín dụng và theo tác giả
Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là khoản lỗ tiềm tàng xảy ra khi khách
hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi đầy đủ về số lượng và thời
gian theo như thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.

1.1.3. Các thành tố cấu thành rủi ro tín dụng của NHTM
Rủi ro tín dụng là rủi ro quan trọng nhất của ngân hàng. Đó là rủi ro đối tác
sẽ vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Theo nhà kinh tế học Bessis (2002), rủi ro tín dụng
được cấu thành bởi các thành phần như thể hiện ở hình 1.3 dưới đây:
* Rủi ro vỡ nợ
Rủi ro vỡ nợ là khi người đi vay không thể đáp ứng được nghĩa vụ trả nợ. Vỡ
nợ gây ra thua lỗ một phần hoặc toàn phần đối với khoản tiền được cho vay. Vỡ nợ
có thể do chậm trễ trong nghĩa vụ trả nợ, tái cấu trúc nghĩa vụ trả nợ do sụt giảm uy
tín đáng kể của người vay hay do phá sản.
* Rủi ro giảm uy tín
Rủi ro giảm uy tín là rủi ro tín dụng xảy ra khi người đi vay là người phát
hành trái phiếu, hay cổ phiếu bị giảm uy tín. Điều này người đi vay chưa chắc đã vỡ
nợ nhưng nguy cơ cao vỡ nợ. Sự sụt giảm uy tín sẽ gây ra thay đổi giá trị thị trường



23

và có thể gây ra lỗ. Vì vậy, điều này là nguyên nhân gây ra rủi ro không trả được nợ
và tăng rủi ro vỡ nợ


24

NHỮNG CƠ SỞ ĐỘC LẬP
Rủi ro vỡ nợ
Rủi ro giảm uy tín
Rủi ro nguy cơ
Rủi ro tín dụng
Những cơ sở độc lập

Rủi ro đối tác
Rủi ro hồi phục
Rủi ro tương quan hoặc tập trung

DANH MỤC ĐẦU TƯ
Rủi ro chênh lệch
Rủi ro tín dụng
Danh mục đầu tư

Rủi ro quốc gia

Hình 1.3. Cấu thành rủi ro tín dụng
Nguồn: Joel Bessis (2002)
* Rủi ro nguy cơ
Nguy cơ là độ lớn của lượng tiền có thể gặp rủi ro. Đối với khoản vay đó là số

tiền cho vay cộng với lãi suất. Rủi ro nguy cơ bắt nguồn từ những nguy cơ tương lai lượng tiền nợ - có nhiều bất trắc. Rủi ro này xảy ra khi người đi vay có sự thương
lượng với ngân hàng về số tiền vay, thời gian vay và ngân hàng chấp nhận cho vay
hết hạn mức trong một khoảng thời gian nhất định.
* Rủi ro đối tác
Rủi ro đối tác là loại hình rủi ro tín dụng liên quan tới công cụ phái sinh (hợp
đồng hoán đổi). Rủi ro phái sinh xảy ra khi lãi suất thị trường biến động, rủi ro thua
lỗ từ người này sang người kia tùy thuộc vào biến động thị trường. Hơn nữa, giá trị


25

hợp đồng hoán đổi là không chắc chắn vì nó dao động theo thị trường. Rủi ro đối
tác là rủi ro hai chiều cộng với bất trắc nguy cơ do biến động thị trường.
* Rủi ro hồi phục
Rủi ro hồi phục là sự bất trắc xuất phát từ thời điểm vỡ nợ. Do đó rủi ro phục
hồi là sự ngẫu nhiên trong thu nhập từ sự vỡ nợ của người đi vay. Về mặt kinh tế, sự
phục hồi không được biết trước nó phụ thuộc vào những đảm bảo và điều kiện kinh
tế của người đi vay, món nào ưu tiên được trả nợ trước.
* Rủi ro tương quan và tập trung
Rủi ro tương quan là rủi ro xảy ra khi ngân hàng cho nhiều khách hàng vay vốn
với lượng vốn nhỏ nhưng nếu các khách hàng cùng vỡ nợ thì cũng gây ra thua lỗ lớn
cho ngân hàng. Rủi ro tập trung là rủi ro xảy ra khi ngân hàng tập trung vốn lớn cho
một vài khách hàng có uy tín tốt nhưng nếu khách hàng không trả được nợ thì gây ra
thua lỗ lớn cho ngân hàng mặc dù xác suất là thập. Cả rủi ro tương quan và tập trung
thì đều tạo ra khoản thua lỗ lớn cho ngân hàng.
* Rủi ro chênh lệch:
Rủi ro chênh lệch là loại rủi ro tín dụng, áp dụng với các công cụ vốn thị
trường, thường là trái phiếu. Chênh lệch tín dụng là chênh lệch giữa lợi nhuận rủi ro
cao của một trái phiếu so với lợi nhuận không rủi ro. Chênh lệch tín dụng phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, liên quan tới việc bất trắc trong trả nợ trái phiếu. Chênh lệch tín

dụng đền bù cho rủi ro tín dụng mà nhà đầu tư gặp phải.
* Rủi ro quốc gia
Đây là rủi ro về cuộc khủng hoảng quốc gia, rủi ro quốc gia phát hành trái
phiếu vỡ nợ. Những khoản nợ này trở thành tái cấu trúc khoản nợ, gây ra những bất
trắc về thời gian trả nợ. Trong nhiều trường hợp rủi ro quốc gia còn có nghĩa là rủi
ro chuyển khoản- việc không chuyển tiền từ quốc gia đó nữa và điều này sẽ gây rủi
ro cho tất cả các doanh nghiệp của quốc gia đó bất kể xếp hạng tín dụng của doanh
nghiệp đó ra sao.


×