Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Xây dựng hệ thống trò chơi phát triển vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 101 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
=============

VŨ THỊ LỤA

XÂY DỰNG HỆ THỐNG TRÒ CHƠI
PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ 4 - 5 TUỔI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp phát triển ngôn ngữ

Người hướng dẫn khoa học:
TS. Lê Thị Lan Anh

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2,
các thầy cô giáo khoa Giáo dục Mầm non và các thầy cô giáo trong tổ bộ môn
phương pháp phát triển ngôn ngữ đã giúp đỡ em trong quá trình học tập tại trường
và tạo điều kiện cho em thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới cô giáo - TS. Lê Thị Lan Anh
- người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành khóa luận này.
Trong quá trình nghiên cứu, không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế.
Kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và các bạn để đề tài
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 19 tháng 4 năm 2017


Sinh viên

Vũ Thị Lụa


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những số liệu và
kết quả trong khóa luận là hoàn toàn trung thực. Đề tài chưa được công bố trong bất
cứ một công trình khoa học nào khác.
Hà Nội, ngày 19 tháng 4 năm 2017
Sinh viên

Vũ Thị Lụa

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài .................................................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................................................... 3
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................................................... 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................................................ 4
6. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................................................. 4
7. Cấu trúc khóa luận ............................................................................................................................. 4
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÂY DỰNG TRÒ CHƠI
PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ 4 - 5 TUỔI ........................................................5
1.1. Cơ sở lí luận về xây dựng trò chơi phát triển vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi .................................... 5
1.1.1. Các khái niệm .................................................................................................................. 5
1.1.2. Phân loại trò chơi ........................................................................................................... 10

1.1.3. Ý nghĩa của trò chơi học tập đối với sự phát triển vốn từ của trẻ 4 - 5 tuổi ............... 11
1.1.4. Vai trò của trò chơi đóng vai theo chủ đề đối với sự phát triển ngôn ngữ ................. 12
1.1.5. Trò chơi dân gian với sự phát triển vốn từ của trẻ ....................................................... 12
1.1.6. Vai trò của ngôn ngữ đối với sự phát triển của trẻ....................................................... 14
1.1.7. Đặc điểm tâm sinh lí của trẻ 4 - 5 tuổi.......................................................................... 16
1.1.8. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ 4 - 5 tuổi .......................................................... 19
1.1.9. Phát triển vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi................................................................................. 21
1.2. Thực trạng việc sử dụng trò chơi nhằm phát triển vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi ở trường mầm
non ..........................................................................................................................................................26
1.2.1. Khái quát khảo sát thực trạng........................................................................................ 26
1.2.2. Phân tích kết quả khảo sát thực trạng ........................................................................... 27
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1………………………………………………………….31
Chương 2. HỆ THỐNG TRÒ CHƠI PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ


4 - 5 TUỔI .................................................................................................................32
2.1. Nguyên tắc khi xây dựng trò chơi cho trẻ..................................................................................32
2.1.1. Trò chơi phải mang ý nghĩa giáo dục ........................................................................... 32
2.1.2. Trò chơi luôn khơi gợi và tạo sự hứng thú với trẻ ....................................................... 32
2.1.3. Trò chơi phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ.............................................. 32
2.2. Hệ thống trò chơi và cách tổ chức trò chơi phát triển vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi ....................32
2.2.1. Nhóm trò chơi học tập phát triển vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi .......................................... 32
2.2.2. Nhóm trò chơi đóng vai theo chủ đề phát triển vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi ................... 45
2.2.3. Nhóm trò chơi dân gian phát triển vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi........................................ 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2..........................................................................................67
Chương 3. THỂ NGHIỆM SƯ PHẠM .....................................................................68
3.1. Mục đích thể nghiệm....................................................................................................................68
3.2. Địa điểm thể nghiệm ....................................................................................................................68
3.3. Nội dung và phương pháp thể nghiệm ......................................................................................68
3.4. Kết quả thể nghiệm.......................................................................................................................68

3.4.1. Kết quả thể nghiệm ở trẻ ............................................................................................... 68
3.4.2. Ý kiến của giáo viên ...................................................................................................... 70
3.5. Giáo án thể nghiệm.......................................................................................................................70
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3..........................................................................................94
KẾT LUẬN ...............................................................................................................95
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục Mầm non có một vị trí đặc biệt quan trọng, là khâu đầu tiên trong hệ
thống giáo dục quốc dân, là bậc học đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách con
người. Chăm sóc- giáo dục trẻ ngay từ những năm đầu tiên của cuộc sống là một
việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp chăm lo đào tạo
và bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những con người tương lai của đất nước.
Theo chương trình giáo dục Mầm non ở Việt Nam, phát triển cho trẻ là phát
triển ở tất cả các mặt: nhận thức, thể chất, ngôn ngữ, tình cảm - xã hội và thẩm mỹ.
Trong đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất.
Trong công tác giáo dục Mầm non cho đất nước, chúng ta thấy ngôn ngữ đã góp
phần đào tạo các cháu trở thành những con người phát triển toàn diện. Mặt khác,
ngôn ngữ là một hiện tượng lịch sử xã hội, ngôn ngữ lời nói có vai trò to lớn trong
đời sống tâm lí con người, nó là phương tiện quan trọng để trẻ lĩnh hội nền văn hóa
dân tộc, để giao lưu với những người xung quanh, để tư duy, để tiếp thu khoa học,
để bồi dưỡng tâm lí. Vì vậy, việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non là cần thiết
và vô cùng quan trọng. Và một trong những nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ
được chúng ta chú trọng, đó là phát triển vốn từ.
Từ vựng là một yếu tố vô cùng quan trọng trong sự phát triển của trẻ, đặc biệt
là kĩ năng nói. Việc có một vốn từ vựng phong phú sẽ giúp ích cho trẻ rất nhiều. Vì
trẻ luôn tự nắm bắt những gì mà trẻ nghe được từ mọi người xung quanh trong môi
trường sống trực tiếp của trẻ. Khi trẻ có một vốn từ vựng phong phú thì trẻ sẽ nói

tốt hơn và có khuynh hướng học tốt hơn những trẻ cùng lứa có vốn từ hạn hẹp. Và
với vốn từ đã có, trẻ có thể tự bày tỏ cảm xúc, cảm nghĩ của bản thân với mọi người
xung quanh một cách hiệu quả. Từ đó nâng cao khả năng giao tiếp của trẻ.
Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mầm non, vì trẻ lứa tuổi này học mà
chơi, chơi mà học. Hoạt động vui chơi có ảnh hưởng lớn đến các mặt phát triển của
trẻ. Trò chơi là một phương tiện giáo dục toàn diện cho trẻ và được giáo viên sử
dụng nhiều trong quá trình dạy học. Khi tham gia vào trò chơi, trẻ sẽ được lĩnh hội

1


ở cả hai mặt vui chơi và nhận thức. Chơi đối với trẻ không chỉ đơn thuần là giải trí,
thư giãn, mà nó còn liên quan đến việc phát triển ngôn ngữ và trí tuệ; trẻ sẽ vừa
được chơi vừa được lĩnh hội kiến thức có trong trò chơi mà không cảm thấy bị gò
bó, căng thẳng. Trẻ được phát triển ngôn ngữ, được sử dụng vốn từ ngữ đã biết của
mình để thể hiện cảm xúc, thái độ của mình một cách tự nhiên nhất trong quá trình
chơi. Vì vậy, việc phát triển vốn từ thông qua trò chơi là hết sức quan trọng và cần
được chú trọng ở trường mầm non.
Hiện nay, ở các trường mầm non, việc sử dụng trò chơi trong dạy học rất phổ
biến. Tuy nhiên thường thì các trò chơi sẽ được sử dụng cho các hoạt động học như
hoạt động làm quen với môi trường xung quanh, hoạt động làm quen với các biểu
tượng toán, hoạt động tạo hình,… Còn ở hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ còn
rất hạn chế. Và trò chơi kích thích sự phát triển vốn từ của trẻ cũng vậy, nó còn khá
ít, thường thì công việc phát triển vốn từ chỉ được thực hiện khi cô trao đổi với trẻ
hoặc thông qua các cuộc đối thoại giữa trẻ với người lớn. Trong khi đối với trẻ ở lứa
tuổi mẫu giáo, công việc phát triển vốn từ là một việc hết sức quan trọng và đáng
được quan tâm ở trường mầm non.
Trẻ thơ như một tờ giấy trắng, những gì ta viết lên đó có ảnh hưởng rất lớn
đến cuộc sống của trẻ. Bản thân là một sinh viên sư phạm ngành Giáo dục Mầm
non, là một cô giáo mầm non tương lai tôi luôn trăn trở về những gì mình sẽ viết lên

những tờ giấy trắng tinh khôi ấy, làm thế nào để trẻ có thể phát triển tốt nhất. Và
điều mà tôi quan tâm đầu tiên là sự phát triển ngôn ngữ của trẻ.
Từ những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “Xây dựng
hệ thống trò chơi phát triển vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi”.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình hình thành và
phát triển của loài người nói chung và của trẻ em nói riêng. Do đó, trên thế giới đã
có rất nhiều tác giả nghiên cứu về ngôn ngữ và sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Tuy
nhiên, mỗi tác giả đều nghiên cứu chuyên sâu ở một lĩnh vực khác nhau. Nhưng có
thể nói rằng khi nghiên cứu về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo, các tác giả

2


đều nghiên cứu đến đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ, hình thức phát triển ngôn
ngữ và các phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Có nhiều tác giả cũng đã nghiên cứu về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ thông
qua trò chơi.
Việc sử dụng trò chơi trong dạy học không phải là vấn đề mới được đặt ra mà
ngay từ đầu thế kỉ XX, nhà tâm lí học Thụy Sỹ J. Paget đã rất quan tâm đến phương
pháp này “thông qua hoạt động vui chơi để tiến hành hoạt động học tập”.
Trong cuốn Tâm lí học trẻ em lứa tuổi mầm non, NXB Đại học sư phạm 2007,
Nguyễn Ánh Tuyết đi sâu nghiên cứu ảnh hưởng của trò chơi với sự phát triển của
trẻ mầm non, mà trung tâm là trò chơi đóng vai theo chủ đề.
Đồng tác giả Trần Hòa Bình và Bùi Lương Việt, trong cuốn Trò chơi dân gian trẻ
em, NXB Giáo dục 2007 cho rằng văn hóa truyền thống của bất kì dân tộc nào cũng có
một bộ phận hợp thành đó là những trò chơi dân gian. Và theo tác giả, trò chơi dân gian
đặc biệt gần gũi với trẻ em, trong cuốn sách này, tác giả đã sưu tầm được gần 80 trò
chơi dân gian trẻ em và có hướng dẫn cách thức tổ chức trò chơi.
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết, qua cuốn Giáo dục mầm non - những vấn đề lí

luận và thực tiễn, đã đưa ra nhận định của mình về hoạt động vui chơi, trò chơi và
trò chơi dân gian; những đặc điểm, vai trò của trò chơi dân gian đối với sự phát
triển của trẻ.
Như vậy, các nhà nghiên cứu đã rất quan tâm tới trẻ em và dày công nghiên
cứu những ảnh hưởng của trò chơi đối với trẻ. Tuy nhiên, xét về cơ bản chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu về hệ thống trò chơi phát triển vốn từ cho trẻ. Vì
vậy, chúng tôi có thể khẳng định đề tài “ Xây dựng hệ thống trò chơi phát triển
vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi” là một đề tài mới mẻ và có khả năng khơi nguồn cho
chiều hướng nghiên cứu mới.
3. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng được hệ thống trò chơi phát triển vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Trò chơi phát triển vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi.
- Phạm vi: Trong khuôn khổ khóa luận, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc nghiên
cứu trò chơi phát triển vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi.

3


5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài.
- Đề xuất hệ thống trò chơi phát triển vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi.
- Thể nghiệm sư phạm.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong khóa luận chúng tôi sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp điều tra

- Phương pháp thử nghiệm
- Phương pháp thống kê toán học
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung của khóa luận gồm 3 chương:
- Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn về xây dựng trò chơi phát triển vốn từ
cho trẻ 4 - 5 tuổi
- Chương 2. Hệ thống trò chơi phát triển vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi
- Chương 3. Thể nghiệm sư phạm

4


Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÂY DỰNG TRÒ CHƠI
PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ 4 - 5 TUỔI
1.1. Cơ sở lí luận về xây dựng trò chơi phát triển vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi
1.1.1. Các khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ
Ngôn ngữ chỉ sinh ra và phát triển trong xã hội loài người, có ngôn ngữ và khả
năng sử dụng ngôn ngữ là đặc trưng quan trọng để phân biệt con người và động vật.
Nó là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của các thành viên trong xã hội loài
người, nhờ có ngôn ngữ con người có thể trao đổi cho nhau những hiểu biết và
truyền tải kinh nghiệm. Trong giao tiếp, người nói và người nghe hiểu được nhau là
bởi vì giữa họ có một cái chung. Cái chung đó bao gồm các từ, âm thanh, các mô
hình tạo câu, các thành phần của câu, các quy tắc hoạt động, sử dụng… Cái chung
đó chính là ngôn ngữ.
Ngôn ngữ mang tính xã hội, ngôn ngữ không chỉ tồn tại cho riêng một cá
nhân, một người nào đó mà cho cả cộng đồng. Ngôn ngữ chính là phương tiện giao
tiếp và là công cụ tư duy của con người. Dưới góc độ xã hội học, ngôn ngữ còn là
một hiện tượng xã hội đặc biệt bởi nó không phụ thuộc vào kiến trúc thượng tầng
nào cho nên khi cơ sở hạ tầng nào đó bị phá vỡ kéo theo sự sụp đổ của kiến trúc

thượng tầng tương ứng nhưng ngôn ngữ vẫn là nó. Mặt khác, ngôn ngữ không mang
tính giai cấp, nó ứng xử bình đẳng với mọi người trong xã hội. Ngôn ngữ giúp con
người giao tiếp trong mọi hoạt động, giúp con người biểu lộ cảm xúc, bày tỏ
nguyện vọng của mình với người khác. Các nhà tâm lí học cũng cho rằng ngôn ngữ
là một quá trình tâm lí, “Ngôn ngữ là con người sử dụng thực tiễn tiếng nói để giao
tiếp với người khác”, ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp giữa các thành
viên trong cùng một thế hệ, cùng sống một thời kì, mà còn là phương tiện giao tiếp
giữa các thế hệ, là phương tiện để con người truyền đi những thông điệp cho các thế
hệ tương lai. Do đó, chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng của ngôn ngữ đối với
xã hội của loài người.
Dưới góc độ của các nhà sinh lí học, ngôn ngữ là tín hiệu của hệ thống tín hiệu

5


thứ hai, hệ thống các đường liên hệ tạm thời, là cơ sở cho tư duy trừu tượng (Theo
thuyết phản xạ của Paplốp). Còn đối với các nhà ngôn ngữ học, ngôn ngữ là một hệ
thống bao gồm các bộ phận: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp.
V.Lênin cũng đã viết: “Con người muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng.
Giao tiếp là một đặc trưng quan trọng của con người. Ngôn ngữ là phương tiện giao
tiếp quan trọng nhất”. Ngôn ngữ còn giúp con người tích lũy kiên thức, phát triển tư
duy, giúp con người giao tiếp được với mọi người xung quanh, là phương tiện giúp
con người điều chỉnh, lĩnh hội những giá trị đạo đức mang tính chuẩn mực. Nhờ có
ngôn ngữ mà con người mới có thể hiểu nhau hơn và cùng chung sống, hòa nhập
với nhau như một gia đình.
Như vậy, ngôn ngữ là một hệ thống dấu hiệu đặc biệt, được dùng làm phương
tiện giao tiếp quan trọng nhất và là phương tiện tư duy của con người.
1.1.1.2. Khái niệm trò chơi
Vui chơi là một hoạt động lí thú nhưng cũng rất phức tạp. Các nhà khoa học
đã có quan niệm khác nhau về trò chơi của trẻ em lứa tuổi mầm non.

Trong từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1992, chữ “trò” được hiểu là một hình
thức mua vui bày ra trước mặt mọi người. Chữ “chơi” là một từ chung để chỉ các
hoạt động lúc nhàn rỗi, ngoài giờ làm việc nhằm mục đích giải trí là chính. Từ đó,
trò chơi được hiểu là những hoạt động làm thỏa mãn những nhu cầu của con người,
trước hết là vui chơi, giải trí.
Nhà tâm lí học Thụy Sĩ G.Piaget coi trò chơi là một trong những hoạt động trí
tuệ của trẻ, tạo ra sự thích nghi của trẻ với môi trường. Theo ông, sự thích nghi thực
chất là sự thiết lập mối cân bằng giữa cơ thể với môi trường. Sự cân bằng này diễn
ra trong quá trình đồng hóa và điều ứng. Còn với bác sĩ người Áo S.Freud đã cho
rằng trò chơi là sự giải tỏa những dồn nén, đem lại cho con người những hứng khởi,
bù đắp những thiếu hụt, khiếm khuyết.
Các nhà tâm lí học, giáo dục học Macxit coi trò chơi như là một hoạt động đặc
trưng của xã hội loài người, phản ánh cuộc sống lao động, sinh hoạt của con người.
Trò chơi của trẻ em không có nguồn gốc sinh học mà có nguồn gốc xã hội, được

6


truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua con đường giáo dục. Theo
G.V.Plêkhanov, trò chơi là cầu nối các thế hệ với nhau, là phương tiện chuyển tải
thành tựu văn hóa từ đời này sang đời khác. Còn với ông Đ.B.Enconhin cho rằng,
nhu cầu và sự ham hiểu biết về thế giới xung quanh chính là nguồn gốc, động lực
giúp trẻ tích cực hoạt động trong trò chơi.
Một số nghiên cứu về trò chơi của các nhà tâm lí học, giáo dục học phương
Tây như Vallon, N.Khrixtencer… cũng chỉ ra rằng, trò chơi của trẻ là sự phản ánh
cuộc sống, là hoạt động của chúng được quy định bởi những điều kiện xã hội. Trẻ
nhắc lại những ấn tượng đã được trải nghiệm vào trò chơi một cách có chọn lọc.
Theo họ, trò chơi không phải là bất biến, nó phản ánh hiện thực xã hội luôn vận
động và phát triển.
Theo thuyết Sức dư thừa, Ph.Siller và được G. Spencer phát triển : “Trò chơi

là sự bắt chước các hoạt động thực của bản thân và người lớn”[6, 212].
Theo thuyết Trò chơi trị liệu Arian Sumo Seipt trình bày trong cuốn “Niềm
hạnh phúc của con bạn”: Trò chơi là phương tiện để làm bình thường hóa các quan
hệ của đứa trẻ với thực tế xung quanh, xua tan đi những nỗi bực tức, bướng bỉnh.
Trò chơi có thể giúp đứa trẻ loại bỏ khỏi nhân cách một loạt những điểm yếu như
tính nhõng nhẽo, ích kỉ [6, 216].
Như vậy, trò chơi trẻ em là một hoạt động tâm lí, có cấu trúc và cách thức
hành động đặc thù, trong đó trẻ phản ánh tích cực, sáng tạo các sự vật, hiện tượng
trong môi trường xung quanh thông qua việc vận dụng tri thức, kinh nghiệm đã lĩnh
hội được một cách độc đáo, tự nguyện và tự do. Qua đó, đem lại sự phát triển
những nét tâm lí cơ bản và nhân cách toàn diện.
1.1.1.3. Khái niệm trò chơi học tập
Mỗi dạng trò chơi ở mẫu giáo có sắc thái nhất định và có tác dụng nhất định
đối với sự hình thành và phát triển tâm lí - nhân cách. Sự phân biệt ý nghĩa, tác
dụng của mỗi loại trò chơi đối với sự phát triển tâm lí - nhân cách của trẻ chỉ mang
tính tương đối. Nhìn chung, mọi trò chơi đều hướng đến sự phát triển của trẻ. Tuy
nhiên, mỗi trò chơi có một thế mạnh riêng. Theo Nguyễn Ánh Tuyết: “Trò chơi là

7


phương tiện để trẻ học làm người”. Đúng vậy, mọi trò chơi ở trẻ mẫu giáo đều diễn
ra sự học. Song mỗi trò chơi giúp trẻ học một kiểu.
Trò chơi học tập thực chất là một trò chơi có định hướng đối với sự phát triển
trí tuệ của trẻ mẫu giáo.Theo E.I.Chikhieva “Trò chơi đó được gọi là trò chơi học
tập hay trò chơi dạy học là vì trò chơi đó gắn liền với một mục đích dạy học nhất
định và đòi hỏi cần phải có tài liệu dạy học phù hợp kèm theo”. Còn
P.G.Xamarucova cho rằng, loại trò chơi được xem là trò chơi học tập “đó là những
trò chơi có nhiệm vụ chủ yếu là giáo dục và phát triển trí tuệ cho trẻ em”.
Từ những điều trên, các nhà nghiên cứu về trò chơi, đặc biệt là về sự phân loại

về trò chơi của trẻ em mẫu giáo cho phép chúng tôi khẳng định, trò chơi học tập
thuộc nhóm trò chơi có luật, thường do người lớn nghĩ ra cho trẻ chơi và dùng nó
vào mục đích giáo dục và dạy học, hướng tới việc phát triển hoạt động trí tuệ cho trẻ.
1.1.1.4. Khái niệm trò chơi dân gian
Trò chơi dân gian là một lĩnh vực được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa quan tâm.
Họ nghiên cứu trò chơi dân gian dưới nhiều góc độ khác nhau: xã hội, sinh học, văn
hóa, nhưng lại chưa thống nhất để đưa ra cho trò chơi dân gian một định nghĩa chung
mà chỉ thống nhất về nguồn gốc xuất xứ và đặc điểm của trò chơi dân gian.
Hai tác giả Trần Hòa Bình và Bùi Lương Việt trình bày trong cuốn Trò chơi
dân gian trẻ em: “Nền văn hóa truyền thống của dân tộc nào cũng có một bộ phận
hợp thành, đó là những trò chơi dân gian. Những trò chơi này không chỉ xuất hiện
trong những lễ hội đặc trưng mà còn diễn ra thường xuyên trong đời sống sinh hoạt
của từng cộng đồng”. Giống như nhiều dân tộc khác trên thế giới, dân tộc Việt Nam
cũng có những những trò chơi dân gian của mình. Nó xuất hiện cùng với lao động
và sau lao động, vì nhu cầu nghỉ ngơi, vui chơi giải trí được nảy sinh từ trong lao
động. Đồng thời những trò chơi dân gian này đã thể hiện rõ nét ước muốn của cả
cộng đồng dân cư đối với kết quả lao động.
Ngược dòng thời gian và tìm về với lịch sử, chúng tôi thấy: mọi cuộc vui hóa
trang, nhảy múa của người xưa đều là những trò chơi mô phỏng hoạt động sản xuất,
những hành vi ứng xử của con người với thiên nhiên và xã hội trong đời sống sinh

8


hoạt hằng ngày. Nếu như lao động nhằm mục đích duy trì cuộc sống thì trò chơi bổ
sung cho lao động để tạo nên lòng tin, ước vọng của con người vào cuộc sống và
kết quả lao động của họ. Ý nghĩa này của trò chơi nói chung và của trò chơi dân
gian nói riêng vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay.
Vậy theo chúng tôi, trò chơi dân gian là những trò chơi có nguồn gốc từ trong
lao động sản xuất, từ nhu cầu vui chơi giải trí và từ những ước vọng của con người.

Qua đó, trò chơi dân gian mô phỏng lại những hoạt động sản xuất, hành vi ứng xử
của con người trong đời sống sinh hoạt hằng ngày. Nó phản ánh những mối quan
hệ giữa con người với thiên nhiên, với xã hội và giữa những con người với nhau.
1.1.1.5. Khái niệm trò chơi đóng vai theo chủ đề
Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo. Trẻ rất hứng thú khi được
tham gia vào trò chơi. Và điển hình là trò chơi đóng vai theo chủ đề.
Khi tham gia vào trò chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ được thỏa mãn nguyện
vọng là sống và hoạt động như người lớn. Trò chơi này mô phỏng lại hoạt động lao
động của người lớn và những mối quan hệ qua lại giữa họ trong xã hội. Chẳng hạn
trò chơi “bệnh viện” mô phỏng mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân. Trong trò
chơi, lần đầu tiên những mối quan hệ giữa người với người được thể hiện một cách
khách quan trước đứa trẻ. Qua trò chơi, trẻ hiểu mỗi người trong xã hội đều có
nghĩa vụ và quyền lợi của mình.
Bách khoa toàn thư mở cũng định nghĩa: “Trò chơi phân vai (Role playing
game - RPG) là một nhóm lớn các trò chơi, trong đó người chơi hóa thân thành các
nhân vật trong một hoàn cảnh hư cấu”. Người chơi diễn xuất bằng lời hay văn bản,
hoặc bằng cách ra quyết định theo một cấu trúc đã được định sẵn để phát triển nhân
vật hay một tình tiết các hành động của người chơi có thể hoặc không tuân theo một
hệ thống các quy định và hướng dẫn.
Theo diễn đàn hỗ trợ giảng dạy và chăm sóc trẻ em: “Trò chơi phân vai là một
hoạt động tự nhiên dành cho những đứa trẻ thích thú với môi trường xung quanh
gần gũi của chúng, con người trong cuộc sống và đối tượng mà đứa trẻ tiếp xúc
hàng ngày”.
Như vậy, trò chơi đóng vai theo chủ đề là mô hình quan hệ xã hội của người

9


lớn và là phương tiện định hướng cho trẻ vào mối quan hệ đó. Hay nói cách khác,
trò chơi đóng vai theo chủ đề là trẻ ướm thử vào vị trí của người nào đó và bắt

chước hành động của người đó.
1.1.2. Phân loại trò chơi
Trò chơi cho trẻ em là một lĩnh vực được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Nhưng hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất nào về việc phân loại các trò chơi.
Lấy thời gian làm tiêu chí phân loại thì có thể chia thành 2 loại:
Thứ nhất là trò chơi dân gian cổ truyền như đánh truyền, ô ăn quan, lộn cầu vồng…
Thứ hai là trò chơi hiện đại như đá bóng, ném bóng, cờ vua…
Theo quan điểm của Liên Xô (cũ), trò chơi của trẻ mẫu giáo được phân loại
thành hai nhóm chính:
Nhóm 1: Nhóm trò chơi sáng tạo bao gồm:
- Trò chơi đóng vai theo chủ đề
- Trò chơi lắp ghép - xây dựng
- Trò chơi đóng kịch.
Nhóm 2: Nhóm trò chơi có luật bao gồm:
- Trò chơi học tập
- Trò chơi lao động.
Trong cuốn Lí luận và phương pháp hướng dẫn trẻ làm quen với môi trường
xung quanh, Hoàng Thị Phương phân loại trò chơi thành 3 loại:
Thứ nhất, trò chơi học tập bao gồm:
- Trò chơi với các vật liệu tự nhiên
- Trò chơi với tranh ảnh
- Trò chơi dùng lời
Thứ hai, trò chơi vận động.
Thứ ba, trò chơi sáng tạo.
Trong khuôn khổ khóa luận nghiên cứu về những trò chơi phát triển vốn từ
cho trẻ, chúng tôi phân loại trò chơi thành những loại sau:
- Trò chơi học tập

10



- Trò chơi đóng vai theo chủ đề
- Trò chơi dân gian
1.1.3. Ý nghĩa của trò chơi học tập đối với sự phát triển vốn từ của trẻ 4 - 5 tuổi
Ngay từ thời xa xưa, trò chơi học tập của trẻ mẫu giáo đã xuất hiện. Mỗi một
dân tộc đều nghĩ ra cho con em của mình những trò chơi và đồ chơi lí thú, hấp dẫn
nhằm thông qua chúng để giáo dục và dạy trẻ học tập, như dạy tiếng mẹ đẻ, dạy trẻ
học đếm, làm tính, cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh… Những công
trình nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới đều thống nhất cho rằng, trò
chơi học tập có một ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục và phát triển nhân
cách nói chung và trí tuệ của trẻ mẫu giáo nói riêng.
Việc dạy học cho trẻ mẫu giáo bằng các trò chơi học tập đã tạo cho chúng khả
năng giải quyết nhiệm vụ nhận thức dưới hình thức chơi nhẹ nhàng, không bị áp
đặt, nâng cao hứng thú của trẻ, phát triển khả năng tập trung chú ý, tạo điều kiện
thuận lợi cho những hành động có định hướng phù hợp với lời chỉ dẫn của giáo viên
và đảm bảo cho việc lĩnh hội tri thức, kỹ năng một cách tốt hơn. Những nhiệm vụ
chơi và hành động chơi đòi hỏi trẻ tích cực huy động các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
của mình để đạt được kết quả mà trò chơi đã đặt ra.
Trò chơi học tập có ý nghĩa rất quan trọng, nó là phương tiện để phát triển trí
tuệ, giáo dục một số phẩm chất đạo đức cho trẻ. Trong lĩnh vực phát triển trí tuệ, trò
chơi học tập chính là một phương tiện phát triển ngôn ngữ, sự tập trung chú ý của
trẻ mẫu giáo. Trong quá trình chơi, trẻ phải sử dụng các giác quan và ngôn ngữ (nói
to) của mình để thực hiện các thao tác chơi, nhiệm vụ chơi. Do đó, ngôn ngữ của trẻ
trở nên mạch lạc và phát triển, trẻ 4 - 5 tuổi sẽ biết chú ý đến nhiệm vụ và luật chơi
hơn. Tuy nhiên, chúng vẫn thích thú đến quá trình chơi nhiều hơn là kết quả chơi.
Chính quá trình chơi đó đã giúp trẻ tích cực nhận thức được nội dung chơi và giúp
trẻ sử dụng vốn từ để giải quyết vấn đề một cách phong phú hơn. Các trò chơi học
tập bằng lời nói kết hợp với hành động chơi đa dạng khi tham gia chơi càng làm
tăng phần hấp dẫn với trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi. Khi chơi loại trò chơi này, trẻ học
cách dựa vào những biểu tượng đã có và dùng lời nói giải quyết nhiệm vụ nhận thức


11


trong những hoàn cảnh mới. Trên cơ sở những dấu hiệu chung dần dần trẻ hiểu
được ý nghĩa tổng quát của từ và chúng có thể độc lập thực hiện nhiệm vụ trí tuệ,
như miêu tả đồ vật, phân biệt dấu hiệu đặc trưng của đồ vật, đoán đồ vật qua sự
miêu tả, tìm sự giống và khác nhau giữa các vật… Việc sử dụng trò chơi học tập với
việc phát triển vốn từ giúp trẻ hứng thú với việc học từ mới, ôn lại các từ cũ và khắc
sâu hơn; bên cạnh đó, trẻ còn được chơi, quên đi nhiệm vụ chính là học, giúp trẻ
tránh buồn chán và mệt mỏi, ngoài ra chính những trò chơi học tập đó sẽ giáo dục
trẻ những kĩ năng sống.
1.1.4. Vai trò của trò chơi đóng vai theo chủ đề đối với sự phát triển ngôn ngữ
Trong suốt lứa tuổi mấu giáo, ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh. Vốn từ được
mở rộng (từ 300 - 400 từ ở lứa tuổi ấu nhi lên đến 3000 - 4000 từ ở lứa tuổi mẫu
giáo). Cấu trúc ngữ pháp được hoàn thiện dần, trẻ phát âm chính xác hơn.
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo diễn ra trong mối quan hệ phức tạp
hóa hoạt động của trẻ, trong trò chơi đóng vai theo chủ đề - khi trẻ giao tiếp với
những người xung quanh và các bạn cùng chơi.
Trẻ chơi cùng các bạn trong nhóm. Để đảm nhận tốt vai chơi và để các bạn
hiểu được mục đích vai chơi, trẻ phải nắm vững ý nghĩa của từ vựng thông dụng,
phát âm gần đúng cách phát âm của người lớn. Đặc biệt, trẻ phải biết cách dùng ngữ
điệu phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp và nắm được hệ thống ngữ pháp phức tạp (quy
luật ngôn ngữ, nói năng mạch lạc, thoải mái).
Ví dụ: khi trẻ đóng vai là cô giáo, trẻ biết mình là cô giáo nên nói năng phải
dịu dàng, rõ ràng học sinh mới dễ hiểu.
Tuy nhiên thông qua các vai chơi, trẻ chủ yếu nắm vững phong cách ngôn ngữ
sinh hoạt và chỉ ở một mức độ nào đó là phong cách nghệ thuật. Cho nên đứa trẻ
phải học thêm nhiều ở nhà trường, ở sách vở,... để nắm vững sâu sắc hơn tiếng mẹ
đẻ của mình.

1.1.5. Trò chơi dân gian với sự phát triển vốn từ của trẻ
Phát triển vốn từ là một quá trình lâu dài của việc lĩnh hội vốn từ mà con
người đã tích lũy trong lịch sử và cuộc sống. Tham gia vào trò chơi dân gian, trẻ em
có điều kiện tiếp xúc với thế giới ngôn ngữ vô tận với những nội dung đa dạng,

12


phong phú: thiên nhiên, xã hội, văn hóa.
Đặc biệt, với trẻ lứa tuổi mầm non thì vốn từ còn rất hạn hẹp, nên khi được
tham gia vào những trò chơi dân gian là cơ hội lớn để trẻ được mở rộng vốn từ, hiểu
biết của mình.
Thật vậy, đến với thế giới tự nhiên trong trò chơi dân gian trẻ được làm quen
với một hệ thống vốn từ khá đầy đủ, không chỉ là những loài vật gần gũi như con
trâu, con nghé, con chó, con mèo… hay như những ngọn cỏ, cành cây ở góc vườn
mà còn là những hiện tượng tự nhiên là mưa, là gió… Tất cả hiện lên trong trò chơi
dân gian của trẻ thơ thật sinh động, hấp dẫn, trẻ không cần phải làm quen qua tranh
ảnh, sách báo mà trong khi chơi, với óc sáng tạo, trí tượng tượng phong phú và sự
lặp lại có chu kì của trò chơi dân gian đã giúp các em rèn luyện và tích lũy cho mình
một vốn từ nhất định về chủ đề thiên nhiên.
Đến với bất kì một trò chơi nào đó, trẻ cũng phải sử dụng vốn từ đã có của
mình để quy ước với nhau về nội dung, cách chơi và các đồ dùng sử dụng trong trò
chơi. Đó cũng là lúc trẻ sử dụng vốn ngôn ngữ để phát huy khả năng ứng xử, giao
tiếp với bạn chơi.
Xã hội trong trò chơi dân gian trước hết là những mối quan hệ trong gia đình
rồi đến mối quan hệ rộng hơn ngoài xã hội; xã hội còn được khắc họa qua các vốn
từ về quê hương, đất nước, về những nét sinh hoạt chung của người dân: lao động,
hội họp, lễ tết… Bởi trước hết, trò chơi dân gian luôn là nét văn hóa không thể thiếu
trong những ngày tết và trong các lễ hội.
Thông qua trò chơi dân gian, trẻ tích lũy được cho bản thân một vốn từ về xã

hội thật bổ ích. Đặc biệt, vốn từ về xã hội hiện lên sâu sắc và rõ nét khi các em tham
gia trò chơi dân gian mang tính mô phỏng: trẻ được hóa thân thành bác nông dân đi
cày cấy; hay trẻ được trở thành một ông thầy thuốc, một bà mẹ bảo vệ đàn con khi
chơi trò Rồng rắn lên mây. Ở xứ sở của trò chơi mô phỏng, các em được trải
nghiệm với cảm xúc thật, với những mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên và
xã hội. Đồng thời, khi hòa mình vào xứ sở này, trẻ có cơ hội được mở rộng nhận
thức về xã hội. Cái xã hội thu nhỏ đó là điều kiện để trẻ làm quen với những cuộc

13


giao tiếp và mở rộng vốn từ của mình, đưa vốn từ ngữ đó và những tình huống cụ
thể trong cuộc sống: như khi chơi trò Rồng rắn lên mây, trẻ đứng đầu hàng đóng
làm mẹ đưa đàn con đi hỏi thăm thầy thuốc, mặc cả và chống lại thầy thuốc để bảo
vệ đàn con… Ở đây vừa thể hiện sự quan tâm, tình yêu với mọi người trong gia
đình, vừa là một cuộc giao tiếp giữa bệnh nhân và thầy thuốc - mối quan hệ thường
gặp trong xã hội.
Từ đó, chúng tôi thấy rằng trò chơi dân gian là một hình thức giáo dục có tác
động mạnh mẽ đến sự lĩnh hội và phát triển vốn từ của trẻ mầm non. Trò chơi dân
gian tạo điều kiện cho các em có cơ hội được mở rộng nhận thức về thế giới xung
quanh. Khi các em tiếp thu được tri thức mới thì vốn từ cũng được tăng lên rõ rệt.
Hay nói cách khác, trò chơi dân gian tạo điều kiện cho việc lĩnh hội và phát triển
vốn từ của trẻ mầm non.
1.1.6. Vai trò của ngôn ngữ đối với sự phát triển của trẻ
1.1.6.1. Vai trò của ngôn ngữ đối với việc phát triển trí tuệ
Ngôn ngữ có vai trò rất lớn đối với việc phát triển trí tuệ cho trẻ.
Ngôn ngữ là phương tiện nhận thức thế giới xung quanh, là cơ sở của mọi sự
suy nghĩ, là công cụ của tư duy.
Trẻ có nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh. Thông qua ngôn ngữ, lời nói của
người lớn, trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng và hiểu những đặc điểm, tính

chất, cấu tạo, công dụng… của chúng và trẻ học được từ tương ứng (từ và hình ảnh
trực quan đi vào nhận thức của trẻ cùng một lúc). Ngôn ngữ giúp trẻ mở rộng hiểu
biết về thế giới xung quanh. Từ ngữ giúp cho việc củng cố những biểu tượng đã
được hình thành.
Sự phát triển của ngôn ngữ giúp cho hoạt động trí tuệ, các thao tác tư duy ngày
càng được hoàn thiện, kích thích trẻ tích cực, sáng tạo hoạt động trí tuệ.
Có nhiều phương tiện để nhận thức thế giới xung quanh nhưng ngôn ngữ là
phương tiện nhận thức hữu hiệu. Thông qua ngôn ngữ trẻ nhận thức thế giới xung
quanh chính xác, rõ ràng và sâu hơn. Ngôn ngữ giúp trẻ tích cực, sáng tạo trong
hoạt động trí tuệ. Do đó, việc phát triển trí tuệ không thể tách rời với việc phát triển

14


ngôn ngữ.
1.1.6.2. Vai trò của ngôn ngữ đối với việc phát triển đạo đức
Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong việc hình thành và điều chỉnh những hành vi
của trẻ.
Thông qua ngôn ngữ trẻ biết những gì nên, không nên…, qua đó rèn luyện
những phẩm chất đạo đức tốt ở trẻ, dần dần hình thành ở trẻ những khái niệm ban
đầu về đạo đức (ngoan - hư, tốt - xấu…).
Ngôn ngữ có tác dụng to lớn trong việc hình thành những phẩm chất đạo đức
tốt đẹp ở trẻ. Ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ vào việc trang bị cho trẻ những hiểu
biết về những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, rèn luyện cho trẻ những tình cảm và
hành vi đạo đức phù hợp với xã hội mà trẻ đang sống.
1.1.6.3. Vai trò của ngôn ngữ đối với việc phát triển thẩm mĩ
Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong quá trình tác động có mục đích, có hệ
thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp và hiểu đúng đắn cái đẹp trong
tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật, giáo dục cho trẻ lòng yêu cái đẹp
và năng lực tạo ra cái đẹp.

Thông qua ngôn ngữ, trẻ nhận thức được cái đẹp ở thế giới xung quanh. Qua
đó làm cho tâm hồn trẻ càng thêm bay bổng, trí tưởng tượng càng phong phú; đồng
thời, trẻ càng yêu quý cái đẹp, trân trọng cái đẹp và có ý thức sáng tạo ra cái đẹp.
Thông qua ngôn ngữ văn học, trẻ cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong ngôn
ngữ tiếng mẹ đẻ, cái đẹp trong hành vi, cái đẹp trong cuộc sống.
Có thể khẳng định rằng, ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ vào quá trình giáo
dục cho trẻ những tình cảm thẩm mĩ cao đẹp.
1.1.6.4. Vai trò của ngôn ngữ đối với việc phát triển thể lực
Để phát triển thể lực cho trẻ cần kết hợp nhiều phương pháp khác nhau. Trong
đó, ngôn ngữ đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
Trong các hoạt động góp phần phát triển thể lực như các trò chơi vận động,
các giờ thể dục, trong chế độ ăn… giáo viên đều cần dùng đến ngôn ngữ để hướng
dẫn trẻ thực hiện tốt những yêu cầu cần đạt.
Hoạt động nói năng liên quan đến cơ quan hô hấp, thính giác, bộ máy phát

15


âm… Quá trình phát âm là quá trình rèn luyện bộ máy cấu âm, rèn luyện phổi, khí
quản và các bộ phận khác của cơ thể.
Để có một thể lực tốt cần có một chế độ vệ sinh hợp lí. Ngôn ngữ cũng tham
gia vào quá trình chăm sóc, vệ sinh trẻ để trẻ phát triển thể lực.
1.1.7. Đặc điểm tâm sinh lí của trẻ 4 - 5 tuổi
1.1.7.1. Đặc điểm sinh lí của trẻ 4 - 5 tuổi
Ở trẻ mẫu giáo nhỡ, sự phát triển của cơ thể diễn ra chậm hơn so với giai đoạn
trước. Về số lượng: chiều cao trung bình hàng năm tăng được từ 5 - 8cm, cân nặng
tăng khoảng 1 - 1,5kg. Đồng thời trẻ có sự thay đổi rõ rệt về chất lượng thể chất:
Hệ tiêu hóa ngày càng hoàn thiện, quá trình hình thành men tiêu hóa được tăng
cường, sự hấp thu thức ăn ngày càng tốt hơn.
Hệ thần kinh ngày càng phát triển, khả năng hoạt động của các tế bào thần

kinh tăng lên, quá trình cảm ứng ở vỏ não phát triển, trẻ có thể tiến hành hoạt động
trong thời gian lâu hơn.
Hệ xương hoàn thiện dần, các mô cơ ngày càng phát triển, cơ quan điều khiển
vận động được tăng cường… Do vậy, trẻ có thể tiến hành hoạt động đòi hỏi sự khéo
léo của tay, chân, thân.
Cơ quan phát âm của trẻ đang dần được hoàn thiện: thanh quản gồm các sụn
phổi, sụn nhẵn và sụn thanh nhiệt. Bên trong thanh quản có lót một lớp niêm mạc,
trên bề mặt lớp niêm mạc ở mỗi bên có hai nếp gấp, đó là các dây thanh âm, giữa
hai bên thanh âm có một cái rãnh lõm xuống gọi là buồng thanh quản. Dây thanh
âm ở dưới gọi là dây nói, dây thanh âm giả ở trên đó là dây chủ yếu để thở.
Trẻ 4 - 5 tuổi dây thanh quản ngắn nên trẻ có giọng nói cao hơn giọng nói của
người lớn. Các khoang cộng hưởng phần trên của thanh quản, họng, khoang miệng,
mũi khá hoàn thiện, thể hiện ở các liên kết giữa các âm sắc trẻ thể hiện.
Dựa trên những đặc điểm đã nêu trên, ta có thể thấy được mức độ phát triển của
trẻ 4 - 5 tuổi rất mạnh mẽ nhưng còn nhiều chỗ chưa hoàn thiện. Do đó, cần lựa chọn
những hình thức và biện pháp cho phù hợp để giáo dục trẻ đạt hiệu quả tốt nhất.

16


1.1.7.2. Đặc điểm tâm lí của trẻ 4 - 5 tuổi
a) Hình thành “Xã hội trẻ em”
Trẻ mẫu giáo nhỡ đã hoàn thiện hoạt động vui chơi và hình thành “xã hội trẻ
em”. Có thể nói rằng, hoạt động vui chơi ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ đang phát triển tới
mức hoàn thiện, điều đó được thể hiện ở những đặc điểm sau:
Trong hoạt động vui chơi trẻ mẫu giáo nhỡ thể hiện rõ tính tự lực, tự do và chủ
động. Trong quá trình vui chơi trẻ bộc lộ toàn bộ tâm trí của mình, nhận thức, tình
cảm, ý chí, nói năng đều tỏ ra tích cực và chủ động, ít lệ thuộc và người lớn và hoàn
toàn tùy thuộc vào ý thích của mình. Tính tự lực, tự do của trẻ được thể hiện trong
việc lựa chọn chủ đề và nội dung chơi; trong việc lựa chọn bạn chơi; trong việc tự do

tham gia vào trò chơi mà mình thích và tự rút ra khỏi nhóm chơi mà mình đã chán.
Trong hoạt động vui chơi, trẻ mẫu giáo nhỡ đã thiết lập những quan hệ rộng
rãi và phong phú với các bạn cùng chơi. Một “xã hội trẻ em” được hình thành.
Hoạt động vui chơi, mà đặc biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề là loại hoạt
động cùng đầu tiên của trẻ. Không có sự phối hợp với nhau giữa các thành viên thì
không tạo thành trò chơi. Trẻ mẫu giáo nhỡ, việc chơi của trẻ đã tương đối thành
thạo và chơi với nhau trong nhóm bạn bè đã trở thành một nhu cầu bức thiết, vì đã
chơi là phải có vai nọ vai kia mới thú vị.
Ví dụ: Với chủ đề “bán hàng” thì trẻ phải đặt ra những nhân vật: người bán
hàng, người mua hàng, thậm chí có cả người lái xe chở người mua hàng đến…
Như vậy, các quan hệ trong trò chơi của trẻ mẫu giáo nhỡ đã được mở rộng,
trẻ còn biết liên kết các trò chơi theo các chủ đề khác nhau làm cho các mối quan hệ
trở nên phong phú hơn. Trẻ đã bắt đầu biết lắng nghe ý kiến của bạn và phục tùng ý
kiến của đại đa số ngay cả khi có mâu thuẫn với những ấn tượng và kinh nghiệm
riêng của mình.
Nhóm trẻ cùng chơi là một trong những cơ sở xã hội đầu tiên của trẻ em. Do
đó, người lớn cần tổ chức tốt hoạt động của nhóm trẻ lớp mẫu giáo cũng như ở gia
đình, khu tập thể, xóm dân cư, để tạo ra môi trường lành mạnh có tính chất giáo dục
đối với trẻ.

17


b) Tư duy trực quan hình tượng
Trẻ mẫu giáo nhỡ đang phát triển tư duy trực quan hình tượng. Đầu tuổi mẫu
giáo, trẻ đã biết tư duy bằng những hình ảnh trong đầu, do những biểu tượng còn
nghèo nàn và tư duy mới được chuyển từ bình diện bên ngoài vào bình diện bên
trong nên trẻ chỉ giải được một số bài toán hết sức đơn giản theo kiểu tư duy trực
quan hình tượng. Cùng với sự hoàn thiện hoạt động vui chơi và sự phát triển các
hoạt động khác (vẽ, nặn, xé, dán…) thì vốn biểu tượng của trẻ mẫu giáo nhỡ được

giàu thêm nhiều, chức năng kí hiệu phát triển mạnh, lòng ham hiểu biết và hứng thú
nhận thức tăng lên rõ rệt.
Tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh, đó là điều kiện thuận lợi nhất để
giúp trẻ cảm thụ tốt những hình tượng nghệ thuật được xây dựng nên trong các tác
phẩm văn học nghệ thuật do các văn nghệ sĩ xây dựng nên bằng những hình tượng
đẹp. Đồng thời cần giúp trẻ tạo ra những tiền đề cần thiết để làm nảy sinh những
yếu tố ban đầu của kiểu tư duy trừu tượng.
c) Sự phát triển đời sống tình cảm
Trong lứa tuổi ấu nhi cũng như lứa tuổi mẫu giáo thì tình cảm thống trị tất cả
các mặt trong hoạt động tâm lí của đứa trẻ, đặc biệt ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ thì đời
sống tình cảm của trẻ có một bước chuyển mạnh mẽ, vừa phong phú, vừa sâu sắc hơn
lứa tuổi trước đó. Ở tuổi mẫu giáo nhỡ, quan hệ của trẻ với mọi người xung quanh
được mở rộng ra một cách đáng kể, do đó tình cảm của trẻ cũng được phát triển về
nhiều phía đối với những người trong xã hội. Có thể coi đây là nguồn xúc cảm mạnh
mẽ nhất và quan trọng nhất trong đời sống tinh thần của trẻ mẫu giáo nhỡ.
Trẻ mẫu giáo nhỡ rất thèm khát sự trìu mến, thương yêu, đồng thời rất lo sợ
trước thái độ thờ ơ, lạnh nhạt của mọi người xung quanh đối với mình. Nó thực sự
vui mừng khi được bố mẹ, cô giáo hay bạn bè yêu thương, khen ngợi và cũng thực
sự đau buồn khi bị người khác ghét bỏ.
Ví dụ: Một trẻ không chịu ăn cơm khi bị các bạn không cho chơi cùng nhóm
nữa, hay một trẻ khóc òa lên khi thấy mẹ đón không được hồ hởi như thường ngày.
Tuổi mẫu giáo nhỡ đã có sự phát triển động cơ hành vi và hình thành hệ thống
thứ bậc các động cơ. Các động cơ đã xuất hiện trước đây như muốn tự khẳng định

18


muốn được sống và làm việc như người lớn, muốn nhận thức các sự vật và hiện
tượng xung quanh… đều được phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt những động cơ đạo
đức thể hiện thái độ của trẻ đối với những người khác có ý nghĩa hết sức quan trọng

trong sự phát triển các động cơ hành vi. Những động cơ này gắn liền với việc lĩnh
hội có ý thức những chuẩn mực về những quy tắc đạo đức hành vi trong xã hội.
Tuổi mẫu giáo nhỡ là chặng giữa của tuổi mẫu giáo. Nó đã vượt qua thời kì
chuyển tiếp từ ấu nhi lên để tiến tới một chặng đường phát triển tương đối ổn định.
Có thể coi đây là một thời kì phát triển rực rỡ của những nét tâm lí đặc trưng cho
tuổi mẫu giáo mà bao trùm lên tất cả tính hình tượng, tính dễ xúc cảm và tính đồng
cảm trong hoạt động tâm lí. Điều này khiến cho nhân cách của trẻ ở giai đoạn đầu
tiên của quá trình hình thành mang tính độc đáo, rõ nét nhất.
Những thuộc tính tâm lí cũng như những phẩm chất nhân cách đang phát triển ở
độ tuổi này là điều kiện hết sức quan trọng để tạo ra một sự chuyển tiếp mạnh mẽ ở
độ tuổi sau (mẫu giáo lớn) tiến dần vào thời kì chuẩn bị cho trẻ tới trường phổ thông.
Do đó, giáo dục cần tập trung hết mức để giúp trẻ phát triển những đặc điểm này.
1.1.8. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ 4 - 5 tuổi
1.1.8.1. Đặc điểm phát âm của trẻ 4 - 5 tuổi
Khả năng phát âm của trẻ tỉ lệ thuận theo lứa tuổi, trẻ càng lớn phát âm càng
chính xác và rõ ràng hơn. Tuy nhiên, trẻ ở đầu độ tuổi từ 4 - 5 tuổi có cách phát âm
chưa thật sự ổn định, ta vẫn có thể bắt gặp những hiện tượng nói lắp, nói ngọng,
thay thế những âm khó bằng những âm dễ như: rùa - dùa,… và giọng của trẻ còn
kéo dài, chưa gọn. Nhưng khi bước sang cuối độ tuổi, trẻ phát âm có nhiều tiến bộ
và phát âm đúng hầu hết các hình thức âm thanh của ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và phát
âm đúng cả sáu thanh điệu.
1.1.8.2. Đặc điểm vốn từ của trẻ 4 - 5 tuổi
Vốn từ của trẻ tăng nhanh theo lứa tuổi, trẻ 4 tuổi có thể sử dụng 1200 từ. Vốn
từ của trẻ không chỉ tăng nhanh về số lượng mà cả về chất lượng. Trẻ đã hiểu ý
nghĩa của nhiều từ loại khác nhau, không chỉ hiểu những từ có tính cụ thể như: chó,
mèo, lợn, gà… mà trẻ còn hiểu cả những từ có tính khái quát, trừu tượng như: gia

19



súc, gia cầm, hiền, dữ… Tuy nhiên, vốn từ của trẻ 4 - 5 tuổi vẫn là danh từ và động
từ chiếm ưu thế, còn tính từ và các loại từ khác còn ít sử dụng. Bên cạnh đó, trẻ ở
lứa tuổi này còn biết sử dụng các từ mang tính biểu cảm có hình ảnh, âm thanh, màu
sắc. Với số lượng và chất lượng vốn từ của trẻ tăng nhanh như vậy, ta có thể thấy
rằng môi trường sống, môi trường ngôn ngữ xung quanh trẻ rất phong phú và đa
dạng. Trình độ văn hóa, nghề nghiệp, sự hướng dẫn chỉ bảo trực tiếp của người lớn
sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển vốn từ của trẻ.
1.1.8.3. Đặc điểm ngữ pháp của trẻ 4 - 5 tuổi
Trẻ ở độ tuổi 4 - 5 tuổi đã có thể sử dụng câu có đầy đủ thành phần và cấu trúc
ngữ pháp. Câu nói của trẻ trở nên rõ ràng và có sự liên kết chặt chẽ giữa các từ
trong câu hơn. Trẻ 4 tuổi nói câu ghép chưa nhiều, khoảng 10% trong tổng số câu
nói, trong đó trẻ thường hay sử dụng câu ghép đẳng lập với các quan hệ đẳng lập
như: và, hay, còn… và trong câu ghép chính phụ, trẻ sử dụng câu ghép có quan hệ
nhân quả, câu ghép có quan hệ mục đích - sự kiện. Trẻ ở lứa tuổi này còn sử dụng
được các loại câu tường thuật, câu nghi vấn và câu cầu khiến. Còn ở những loại câu
khác ít khi xuất hiện hoặc không bao giờ xuất hiện ở trẻ. Tuy nhiên, trẻ 4 - 5 tuổi
vẫn còn có những hạn chế trong việc sắp xếp lời nói, diễn đạt đôi khi còn dài dòng
và lủng củng, nhất là trong quá trình tự nói.
1.1.8.4. Đặc điểm ngôn ngữ mạch lạc của trẻ 4 - 5 tuổi
Đối với trẻ 4 - 5 tuổi, sự phát triển lời nói mạch lạc chịu ảnh hưởng lớn của
việc tích cực hóa vốn từ (khối lượng lúc này đã đạt đến khoảng 700 từ) lời nói của
trẻ được mở rộng hơn, có trật tự hơn, mặc dù cấu trúc còn chưa hoàn thiện. Trẻ 4 - 5
tuổi bắt đầu được học đọc những câu chuyện nhỏ theo tranh, theo đồ chơi, theo mô
hình. Nhưng phần lớn câu chuyện của trẻ chỉ đơn thuần là mô phỏng lại mẫu của
người lớn.
Trong độ tuổi này diễn ra sự phát triển mạnh mẽ lời nói văn cảnh có nghĩa là
nói chỉ tự mình hiểu được. Tư duy của trẻ phát triển hơn, trẻ có thể nhận biết được
những dấu hiệu, đặc điểm, đặc trưng, có thể đưa ra những phân tích đầy đủ về sự
vật, hiện tượng. Bằng ngôn ngữ, trẻ có thể diễn đạt rõ ràng, mạch lạc ý nghĩ, sự hiểu


20


×