Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

So sánh sách giáo khoa văn tuyển cấp II trong cuộc cải cách giáo dục năm 1950 và sách giáo khoa ngữ văn trung học cơ sở trong cuộc cải cách giáo dục năm 2000 (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

BÙI THỊ HẠNH

SO SÁNH SÁCH GIÁO KHOA VĂN TUYỂN CẤP II
TRONG CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC NĂM 1950
VÀ SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ
TRONG CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC NĂM 2000

Chuyên ngành: Lí luận và PPDH bộ môn Văn - Tiếng Việt
Mã số: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Mai Diễn

THÁI NGUYÊN - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và
được sự hướng dẫn khoa học của TS. Hoàng Mai Diễn. Các nội dung nghiên
cứu, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố dưới
bất kỳ hình thức nào. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin chịu hoàn
toàn trách nhiệm về nội dung luận văn của mình.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn


Bùi Thị Hạnh

i


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu để triển khai luận văn này, tác giả luận văn
đã thực sự gặp nhiều khó khăn trong việc lựa chọn tên luận văn, tài liệu nghiên
cứu, cách thức triển khai và trình bày một công trình nghiên cứu khoa học.
Nhưng được sự chỉ bảo, định hướng của các giáo sư, nhà khoa học về lĩnh vực
giáo dục Ngữ văn, đặc biệt là hướng dẫn tận tình, tỉ mỉ của TS Hoàng Mai
Diễn, bản thân đã nỗ lực hoàn thành luận văn đúng thời hạn và được bảo vệ
trước Hội đồng khoa học.
Chúng tôi trân trọng được gửi lời cảm ơn đến các nhà khoa học về giáo dục
Ngữ văn như GS.TS Lê A, PGS. TS Vũ Nho, PGS. TS Nguyễn Văn Lộc, PGS. TS
Nguyễn Huy Quát, PGS. TS Đỗ Ngọc Thống …các cán bộ, giảng viên Khoa Ngữ
văn, Phòng Đào tạo của Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu và các giáo viên dạy học
môn Ngữ văn Trường THCS Nguyễn Văn Cừ, thành phố Uông Bí tỉnh Quảng
Ninh đã giúp đỡ tôi, cảm ơn bạn bè đồng nghiệp và người thân trong gia đình
đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, như trên đã nói đề tài được thực hiện trong thời gian tương
đối ngắn và chúng tôi chưa thực sự có kinh nghiệm nên khó tránh khỏi các
sai sót. Vì vậy chúng tôi thực sự mong các độc giả thông cảm và gửi các ý
kiến đóng góp.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016
Tác giả


Bùi Thị Hạnh

ii


MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan ....................................................................................................i
Lời cảm ơn .......................................................................................................ii
Mục lục............................................................................................................iii
Danh mục các chữ viết tắt ..............................................................................iv
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.........10
1.1. Quan niệm về sách giáo khoa................................................................... 10
1.2. Chức năng của sách giáo khoa ................................................................. 11
1.2.1. Chức năng thông tin kiến thức .............................................................. 13
1.2.2. Chức năng hướng dẫn chỉ đạo cho học sinh học tập .............................. 15
1.2.3. Chức năng kích thích hứng thú học tập ................................................. 16
1.2.4. Chức năng giáo dục nhân văn ............................................................... 16
1.3. Yêu cầu chung về sách giáo khoa ............................................................ 17
1.3.1. Yêu cầu về nội dung ............................................................................. 18
1.3.2. Yêu cầu về cấu trúc............................................................................... 21
1.3.3. Yêu cầu về hình thức ............................................................................ 25
1.4. Sơ lược về lịch sử phát triển sách giáo khoa Ngữ văn ở Việt Nam........... 26
Chương 2. SO SÁNH CẤU TRÚC, NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC CỦA
SÁCH GIÁO KHOA VĂN TUYẾN VÀ SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN .34
2.1. So sánh cấu trúc của sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn .. 34
2.1.1. So sánh cấu trúc chung của sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa
Ngữ văn.......................................................................................................... 34

2.1.2. So sánh cấu trúc bài học trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo
khoa Ngữ văn ................................................................................................. 47

iii


2.2. So sánh nội dung dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách
giáo khoa Ngữ văn.......................................................................................... 50
2.2.1. So sánh mục tiêu dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn tuyển và
sách giáo khoa Ngữ văn.................................................................................. 50
2.2.2. So sánh hệ thống văn bản đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn tuyển và
sách giáo khoa Ngữ văn.................................................................................. 56
2.2.3. So sánh hệ thống phụ trợ dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn
tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn.................................................................... 63
2.3. So sánh hình thức trình bày trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo
khoa Ngữ văn ................................................................................................. 71
2.3.1. Hình thức trình bày trong sách giáo khoa Văn tuyển............................. 72
2.3.2. Hình thức trình bày trong sách giáo khoa Ngữ văn ............................... 73
2.3.3. Điểm giống nhau và khác nhau về hình thức trình bày trong sách giáo
khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn.................................................... 74
Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH VÀ
BIÊN SOẠN SÁCH GIÁO KHOA MÔN NGỮ VĂN TRONG TƯƠNG LAI76
3.1. Kiến nghị về việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn
Trung học cơ sở .............................................................................................. 76
3.1.1. Kiến nghị mục tiêu xây dựng chương trình ........................................... 76
3.1.2. Kiến nghị về xây dựng nội dung chương trình ...................................... 79
3.1.3. Kiến nghị về đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập....................... 82
3.2. Kiến nghị về việc biên soạn sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở .... 83
3.2.1. Kiến nghị về cấu trúc của sách giáo khoa.............................................. 83
3.2.2. Kiến nghị về hình thức trình bày sách giáo khoa Ngữ văn .................... 88

KẾT LUẬN ....................................................................................................94
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................95
PHỤ LỤC

iv


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt

Viết đầy đủ

SGK

Sách giáo khoa

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1.1. Đối với giáo dục phổ thông, SGK có một vai trò quan trọng trong
quá trình dạy học.
SGK là nơi cung cấp kiến thức, tri thức bên cạnh đó còn nêu ra các ý
tưởng dạy học. SGK là tài liệu thể hiện một cách cụ thể nội dung và phương
pháp giáo dục của mỗi môn học trong nhà trường phổ thông. Theo quan điểm
biên soạn mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện nay, SGK còn là công cụ tự
học tập, tự phát triển nhân cách của HS. SGK là một thành tựu khoa học, là
công trình khoa học sư phạm thể hiện những mục tiêu giáo dục. Tổ chức
UNESCO từng nhấn mạnh “SGK là một trong ba yếu tố quyết định nhất đến
chất lượng giáo dục của một quốc gia bên cạnh yếu tố giáo viên và hệ thống tổ
chức giáo dục, hệ thống chương trình” [54. tr 5].
Để làm việc với SGK, GV phải hiểu được những nội dung bài học cơ
bản, cấu trúc bài học và quan điểm biên soạn bộ sách qua từng thời kì. Đồng
thời bộ SGK mới cũng thể hiện sự tiến bộ hơn so với bộ SGK cũ. Mỗi bộ SGK
chứa đựng những kiến thức cơ bản thích hợp với nhận thức của HS, là bộ sách
dùng chung cho GV và HS. SGK có mục đích nhằm hình thành, phát triển
phương pháp tự học cho HS, nâng cao năng lực làm việc độc lập, hỗ trợ đổi
mới phương pháp dạy học ở từng cấp học theo hướng phát huy tính tích cực
chủ động của HS.
Như vậy SGK có vai trò quan trọng trong quá trình học tập và nghiên
cứu của GV và HS.
1.2. Để có thể dạy tốt bộ SGK mới GV phải có cái nhìn tổng thể, có sự
so sánh, phân tích đánh giá với bộ SGK cũ. Việc lựa chọn bộ SGK Văn
tuyển năm 1950 để so sánh vì đây là bộ SGK đầu tiên của Việt Nam trong
cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất sau năm 1945. Nghiên cứu, so sánh bộ
SGK Văn tuyển năm 1950 với bộ SGK Ngữ văn hiện nay giúp chúng ta thấy
1


được những ưu, nhược điểm của hai bộ sách. Qua đó rút kinh nghiệm để xây

dựng bộ SGK sắp tới.
Nghị quyết số 44- NQ – CP ngày 09/06/2014 Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI có viết: “Khuyến khích cá nhân, tổ chức tham gia biên
soạn sách giáo khoa (sách in và sách điện tử) trên cơ sở chương trình giáo dục
phổ thông đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, sử dụng thống nhất
trong toàn quốc. Xây dựng hệ thống ngân hàng bài giảng điện tử để giáo viên
có thể tham khảo trong quá trình dạy học”.
1.3. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8
khoá XI đã xác định mục tiêu của giáo dục: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh
mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công
cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con
người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng
sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và
làm việc hiệu quả.
Xây dựng nền giáo dục mở, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo
dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao
chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc
tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản
sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên
tiến trong khu vực”.
Giáo dục là nhân tố hàng đầu cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Tiến hành
đổi mới giáo dục, vấn đề tự học giữ vai trò quan trọng. Để tiến hành việc tự học,
người học và người dạy không thể thiếu sự hỗ trợ của bộ sách giáo khoa .
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Sách giáo khoa là sách soạn theo chương
trình dùng để dạy và học trong nhà trường” [59. tr 924].
Điều lệ trường Trung học, điều 23 ghi “Sách giáo khoa Trung học bao
gồm sách bài học và sách bài tập theo danh mục được Bộ Giáo dục và Đào tạo

2



quy định để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở
trường Trung học” [11. tr 144].
Vì lí do trên chúng tôi chọn đề tài “So sánh sách giáo khoa Văn tuyển
cấp II trong cuộc cải các giáo dục năm 1950 và sách giáo khoa Ngữ Văn Trung
học cơ sở trong cuộc cải cách giáo dục năm 2000” để xem xét một cách tương
đối toàn diện về hai bộ SGK này. Đồng thời chúng tôi cũng có tiến hành đối
chiếu, so sánh hai bộ SGK để thấy được những điểm giống và khác nhau giữ
hai bộ sách. Chúng tôi hy vọng đề tài nghiên cứu này sẽ góp phần nhỏ bé vào
việc biên soạn bộ SGK Ngữ văn trong tương lai.
2. Lịch sử vấn đề
Những công trình nghiên cứu chuyên sâu về hai bộ SGK Văn tuyển cấp
II và SGK Ngữ văn không nhiều. Có thể nêu ra một số công trình của các nhà
nghiên cứu sau:
Bài viết “Một số vấn đề về đánh giá chương trình, SGK Ngữ văn hiện
hành và đề xuất định hướng biên soạn chương trình, SGK mới” của GS.
Nguyễn Minh Thuyết in trong “Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về dạy
học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam”, trong bài viết tác giả đề cập
đến vấn đề quan niệm đối tượng, tên gọi, ưu điểm và hạn chế của môn Ngữ
văn trong nhà trường phổ thông. Môn Ngữ văn là một môn học tích hợp
nhằm kết hợp năng lực phân tích với việc hình thành 4 kĩ năng nghe – nói –
đọc – viết vốn là hai quá trình gắn bó hữu cơ và hỗ trợ nhau hết sức tích
cực. Vấn đề biên soạn chương trình, SGK Ngữ văn mới cũng được tác giả
đề cập đến.
“Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thông” tác giả Đỗ Ngọc
Thống đã nêu ra những vấn đề về phát triển chương trình môn học Ngữ
văn, nội dung chương trình môn Ngữ văn qua trong nhà trường phổ thông
qua các thời kì lịch sử, quan niệm dạy học tác phẩm văn chương qua

3



chương trình và phát triển chương trình giáo dục phổ thông và chương trình
môn Ngữ văn trong bối cảnh mới.
Cuốn “Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách giáo
khoa” của Trần Bá Hoành. Tác giả nhận định CT phổ thông ở nước ta trải
qua ba lần thay đổi, mỗi lần thay đổi CT là mỗi lần biên soạn lại SGK. Bộ
SGK Ngữ văn được áp dụng “một chương trình - vài ba bộ SGK”. Theo tác
giả do những biến đổi bất lợi trong thực tế sử dụng ở từng địa phương thì
nên thống nhất một bộ SGK.
Tài liệu “Ngữ văn 6 sách giáo viên tập 1” do GS Nguyễn Khắc Phi làm
tổng chủ biên, tác giả đề cập đến chương trình Ngữ văn, cấu trúc nội dung và
mô hình SGK Ngữ văn Trung học cơ sở và một số vấn đề cần lưu ý trong việc
giảng dạy phân môn.
Nhan đề “Sách giáo khoa một số vấn đề lí luận và thực tiễn” là phần bốn
trong tài liệu “Nguyễn Khắc Phi tuyển tập”. GS. Nguyễn Khắc Phi giới thiệu
một số bài viết trao đổi về chương trình và SGK Ngữ văn bậc Trung học cơ sở,
nhấn mạnh một số điểm về phương pháp tiếp cận SGK mới nhằm phát huy ưu
thế của phương châm tích hợp trong quá trình dạy học bộ môn.
Trong cuốn “Những yêu cầu chủ yếu về nội dung và cấu trúc phương
pháp của sách giáo khoa phổ thông” (NXB Giáo dục – 1981) các tác giả có
nhận định SGK trên thế giới có nhiều chuyển biến cơ bản, từ những hình thức
sơ khai như viết trên đất sét, cuốn sách viết tay, cho đến những quyển SGK
hiện đại về mọi mặt nội dung và hình thức ra đời với những hình ảnh minh họa
màu sắc phong phú, tươi đẹp. Đáp ứng và phù hợp với những thành tựu văn
hóa, khoa học, kỹ thuật đặc biệt là những thành tựu về tâm lý, giáo dục học ở
các nước hiện đại trên thế giới. Chính vì vậy đối với nước ta trong giai đoạn
hiện nay cần gấp rút xây dựng một bộ SGK mới đáp ứng được yêu cầu cải cách
giáo dục. Bộ SGK Ngữ văn cũng cần có sự thay đổi phù hợp với hoàn cảnh đất
nước hiện nay.


4


“Giáo trình phương pháp dạy học văn Trung học cở sở” của GS. Nguyễn
Thanh Hùng, tác giả có nói đến những vấn đề về phương pháp dạy học môn
Ngữ văn, nguyên tắc tích hợp trong dạy học Ngữ văn ở Trung học cơ sở. Trong
chương 2 tác giả có nói về nguyên tắc tích hợp dạy học Ngữ văn ở nhà trường
phổ thông. Theo tác giả dạy học ba phân môn Văn học, Tiếng Việt và Tập làm
văn hòa trộn trong nhau, hợp nhất với nhau. Và “Việc sử dụng tích hợp ngang
và tích hợp dọc khi dạy học Ngữ văn cũng nên quan niệm một cách tương đối
linh hoạt không rập khuôn” [46. tr 23].
Tác giả Phan Trọng Luận trong cuốn “Văn học Giáo dục thế kỉ XXI” đưa
ra một số nhận xét về bộ SGK hiện nay. Theo tác giả bộ SGK hiện nay không
thể viết theo lối cũ. “Không ai lại cực đoan cho rằng những SGK chúng ta vừa
viết ra cho tiểu học và THCS hoàn toàn cũ kĩ nhưng thật sự nghiêm khắc và
khách quan thì không phải không còn những chỗ này, chỗ nọ, ở tác giả này hay
tác giả kia sự thay đổi vẫn còn manh mún chưa thực sự được hướng dẫn một
cách thật minh triết về yêu cầu hiện đại hóa phương pháp sự phạm trong từng
bài soạn SGK thế kỉ XXI. Một sự thay đổi có tính hệ hình về nguyên lí soạn
SGK hiện đại chưa thật định hình và thấu triệt” [49. tr 118].
Trong cuốn “Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thông” tác
giả Đỗ Ngọc Thống đã tiến hành khảo sát SGK môn Văn từ Cách mạng tháng
Tám đến nay. Tác giả đưa ra nhận định “chúng tôi nhận thấy sự thay đổi, cải
cách chương trình, tên gọi môn học cũng có sự thay đổi” [67. tr 22]. Trước
đây bộ SGK Văn có tên là “Văn tuyển”, năm 1956 có tên gọi là “Quốc văn”,
đến năm 1979 bộ SGK lúc này có tên gọi ngắn gọn là “Văn”, hiện nay bộ
SGK có tên gọi là “Ngữ văn”. Bộ SGK Ngữ văn trung học chính thức đầu tiên
đã được biên có tên là “Văn tuyển” xuất bản từ lớp 5 đến lớp 9. Bậc trung học
cơ sở bao gồm sáu cuốn có tên đầy đủ là: Văn tuyển lớp 5 (tập 1, 2), Văn

tuyển lớp 6 (tập 1, 2), Văn tuyển lớp 7 (tập 1, 2). Bộ SGK Văn Tuyển được
xuất bản đầu tiên vào năm 1955.

5


Tác giả cũng đã so sánh chương trình, SGK Ngữ văn với các bản chương
trình SGK môn Văn ở Việt Nam thuộc những lần cải cách giáo dục trước đó.
Qua sự so sánh đó ta thấy có sự khác nhau căn bản trong việc xác định
mục tiêu dạy học. “Chương trình, SGK trước đây nhấn mạnh mục tiêu giáo dục
tư tưởng tình cảm của môn Văn, hoặc là tư tưởng, đạo đức chính trị, hoặc là
những tình cảm nhân văn cao đẹp và theo đó là sự coi trọng đặc biệt đến kiến
thức (cái cần dạy cho HS) thì chương trình, SGK lần này lại nhấn mạnh trước
hết đến mục tiêu rèn luyện năng lực văn học cho HS và cái nhấn mạnh hàng
đầu chính là kĩ năng (dạy như thế nào)” [54. tr 242].
Bộ SGK Ngữ văn bậc Trung học cơ sở được biên soạn theo chương trình
THCS ban hành kèm theo Quyết Định số 03/2002/QĐ- BCD & ĐT ngày 24
tháng 1 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào tạo, cụ thể theo hướng
“tích hợp” ba phân môn Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn gộp vào một bộ
sách có tên gọi là Ngữ văn.
Qua việc khảo sát các công trình nghiên cứu trên, có thể thấy vấn đề so
sánh hai bộ SGK chưa có công trình nào đi sâu vào tìm hiểu chi tiết và có hệ
thống. Tuy nhiên những đánh giá, ý kiến và nhận định nêu trên là cơ sở giúp
chúng tôi thực hiện luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn nhằm giúp giáo viên và học sinh hiểu rõ những vấn đề lí luận cơ
bản về SGK, đồng thời tiến hành so sánh hai bộ SGK “Văn tuyển” với bộ SGK
“Ngữ văn”. Luận văn còn chỉ ra những điểm khác nhau giữa hai bộ sách và ưu
nhược điểm của chúng, từ đó rút ra kinh nghiệm cho việc biên soạn bộ SGK sau

này. Qua đó, giúp GV và HS sử dụng tốt hơn, phát huy các chức năng cơ bản của
bộ SGK trong quá trình giảng dạy.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn so sánh hai bộ SGK “Văn tuyển” cấp II và “Ngữ văn” Trung
học cơ sở để thấy được điểm giống và khác nhau, ưu điểm và nhược điểm của

6


từng bộ SGK. Từ đó đưa ra đề xuất, kiến nghị trong việc xây dựng chương
trình và biên soạn sách giáo khoa Ngữ văn trong thời gian tới phù hợp với định
hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Bộ SGK Văn tuyển cấp 2 bao gồm:
+ “Văn tuyển lớp 5” (tập 1, 2) do tác giả: Nguyễn Tiến Cường - Nguyễn
Đăng Châu - Nguyễn Đăng Ngọc - Nguyễn Nghĩa Dân - Hoàng Trọng Oanh,
Bộ Giáo dục phổ thông xuất bản lần thứ nhất năm 1955.
+ “Văn tuyển lớp 6” (tập 1, 2) Nguyễn Nghĩa Dân - Nguyễn Đăng Châu Nguyễn Đăng Ngọc, Bộ Giáo dục phổ thông xuất bản lần thứ nhất năm 1955.
+ “Văn tuyển lớp 7” (tập 1, 2) Nguyễn Đăng Ngọc - Hoàng Trọng Hanh
- Nguyễn Nghĩa Dân, Bộ Giáo dục phổ thông xuất bản lần thứ nhất năm 1955.
- Bộ SGK Ngữ văn bậc Trung học cơ sở bao gồm:
+ “Ngữ văn 6” (tập 1) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn
Đình Chú (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng
Việt) – Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Bùi Mạnh Nhị - Nguyễn
Quang Ninh – Đỗ Ngọc Thống biên soạn.
“Ngữ văn 6” (tập 2) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn
Đình Chú (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng
Việt) – Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Nguyễn Văn Long –
Nguyễn Quang Ninh – Đỗ Ngọc Thống biên soạn.

+ “Ngữ văn 7” (tập 1) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) - Nguyễn
Đình Chú- Nguyễn Minh Thuyết- Đỗ Kim Hồi- Nguyễn Văn Long- Bùi Mạnh
Nhị- Lê Xuân Thại - Đỗ Ngọc Thống biên soạn.
“Ngữ văn 7” (tập 2) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn
Đình Chú (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng

7


Việt) – Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Đỗ Kim Hồi – Nguyễn
Văn Long – Bùi Mạnh Nhị - Đỗ Ngọc Thống biên soạn.
+ “Ngữ văn 8” (tập 1) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) - Nguyễn
Hoàng Khung (Chủ biên phần Văn) - Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần
Tiếng Việt) - Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) - Lê A- Diệp Quang
Ban- Hồng Dân - Đỗ Kim Hồi - Bùi Mạnh Hùng - Lê Quang Hưng - Lê Xuân
Thại- Lã Nhâm Thìn - Đỗ Ngọc Thống - Phùng Văn Tửu biên soạn.
“Ngữ văn 8” (tập 2) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn
Hoành Khung (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần
Tiếng Việt) – Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Lê A – Diệp
Quang Ban – Hồng Dân – Đỗ Kim Hồi – Bùi Mạnh Hùng – Lê Quang Hưng –
Lê Xuân Thại – Lã Nhâm Thìn – Đỗ Ngọc Thống – Phùng Văn Tửu biên soạn.
+ “Ngữ văn 9” (tập 1) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) - Nguyễn
Văn Long (Chủ biên phần Văn) - Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng
Việt) - Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) - Diệp Quang Ban - Hồng
Dân - Bùi Mạnh Hùng - Lê Quang Hưng - Lã Nhâm Thìn - Đỗ Ngọc Thống Trịnh Thị Thu Tiết - Phùng Văn Tửu biên soạn.
“Ngữ văn 9” (tập 2) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn Văn
Long (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng Việt)
– Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Lê A – Diệp Quang Ban – Lê
Quang Hưng – Lê Xuân Thại – Đỗ Ngọc Thống – Phùng Văn Tửu biên soạn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu, tìm hiểu và so sánh hai bộ SGK “Văn tuyển
năm 1955” bao gồm: Văn tuyển lớp 5, 6 và 7 (tập 1 và 2). Bộ SGK “Ngữ văn năm
2002” bậc Trung học cơ sở bao gồm: Ngữ văn lớp 6, 7, 8 và 9 (tập 1 và 2).
5. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp sử dụng trong luận văn là:
+ Phương pháp nghiên cứu lí thuyết, nghiên cứu liên ngành, phân tích
tổng hợp các tài liệu có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài đang
được triển khai.

8


+ Phương pháp so sánh đối chiếu nhằm đưa ra những kết luận, những quan
điểm về bộ SGK từ đó đề xuất ý kiến cá nhân xây dựng bộ SGK mới sau 2015.
6. Đóng góp của đề tài
6.1. Luận văn hệ thống hóa về SGK nhằm giúp giáo viên và học sinh
hiểu những vấn đề cơ bản, khái quát về hai bộ sách.
6.2. Luận văn là cơ sở lí luận để giáo viên và học sinh phát huy vai trò
tích cực của bộ SGK, sử dụng trong giảng dạy thực tế một cách hiệu quả. Từ
việc phân tích, so sánh cấu trúc hai bộ SGK luận văn đề ra một số ý kiến đóng
góp thiết kế bộ SGK mới sau năm 2015.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung của đề tài.
1.1. Quan niệm về sách giáo khoa
1.2. Chức năng của sách giáo khoa
1.3. Yêu cầu chung về sách giáo khoa
1.4. Sơ lược về lịch sử phát triển sách giáo khoa Ngữ văn ở Việt Nam
Chương 2: So sánh cấu trúc, nội dung và hình thức của sách giáo
khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn.

2.1. So sánh cấu trúc của sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa
Ngữ văn
2.2. So sánh nội dung dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn tuyển
và sách giáo khoa Ngữ văn
2.3. So sánh hình thức trình bày trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách
giáo khoa Ngữ văn
Chương 3: Một số kiến nghị về xây dựng chương trình và biên soạn
sách giáo khoa môn Ngữ văn trong tương lai
3.1. Kiến nghị về việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông môn
Ngữ văn Trung học cơ sở
3.2. Kiến nghị về việc biên soạn sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở

9


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Trong chương 1 này, tác giả luận văn sẽ tổng hợp một số vấn đề chung
liên quan đến đề tài như khái niệm, chức năng, yêu cầu của sách giáo khoa và
sơ lược về lịch sử phát triển SGK Ngữ văn ở Việt Nam.
1.1. Quan niệm về sách giáo khoa
SGK là một tài liệu dạy học quan trọng trong nhà trường phổ thông,
nhưng cho đến nay khái niệm về SGK chưa có sự thống nhất.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Sách giáo khoa là sách soạn theo
chương trình dùng để dạy và học trong nhà trường” [59. tr 924].
Luật Giáo dục, chương 2 mục 2 điều 29 quy định: “Sách giáo khoa cụ
thể hóa yêu cầu về nội dung kiến thức và kĩ năng quy định trong chương trình
giáo dục của các môn học ở những lớp của giáo dục phổ thông, đáp ứng yêu
cầu về phương pháp giảng dạy phổ thông. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo

ban hành chương trình phổ thông, duyệt sách giáo khoa để sử dụng chính thức,
ổn định của Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục phổ thông và
sách giáo khoa” [10. tr 16].
Điều lệ trường Trung học, điều 23 ghi “Sách giáo khoa Trung học bao
gồm sách bài học và sách bài tập theo danh mục được Bộ Giáo dục và Đào tạo
quy định để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở
trường Trung học” [11. tr 144].
Tác giả Trần Bá Hoành đưa ra quan niệm về SGK như sau: “SGK theo
cách hiểu thông thường là sách viết cho học sinh, căn cứ và chương trình đã
được xác định chính thức” [43. tr 189].
Trong cuốn sách “Những yêu cầu chủ yếu về nội dung và cấu trúc
phương pháp của sách giáo khoa phổ thông”, tác giả…… đưa quan niệm về
SGK như sau: “Sách giáo khoa trường phổ thông là một loại hình sách dành
cho học sinh nghiên cứu học tập với sự chỉ đạo của giáo viên. Đó là cách học
tập chính thức, có tính tiêu chuẩn đối với học sinh, giúp các em nắm vững

10


kiến thức, rèn luyện kĩ năng và tư duy một cách tích cực, có ý thức để phát
triển nhân cách và đào luyện mình thành con người mới xã hội chủ nghĩa
Việt Nam” [55. tr 10].
TS Trần Đức Tuấn trong bài viết “Sách giáo khoa và vấn đề nghiên cứu
sách giáo khoa ở Việt Nam” đưa ra khái niệm về SGK (được hiểu là một bộ
SGK) “là loại sách dùng riêng cho các trường phổ thông, là phương tiện dạy
học đặc biệt do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn thẩm định, duyệt và
sử dụng chính thức, thống nhất ổn định trong giảng dạy, học tập ở nhà trường
và các cơ sở giáo dục khác nhằm thực hiện những mục tiêu cơ bản của giáo dục
phổ thông” [54.tr 37].
Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng các khái niệm trên đều

đề cập đến những nội dung cụ thể sau: SGK là sách soạn theo chương trình
trong nhà trường phổ thông, được biên soạn với mục đích dạy và học nhằm
cung cấp những kiến thức và kĩ năng cho HS.
1.2. Chức năng của sách giáo khoa
Chức năng của SGK đã được đề cập đến trong một số cuốn sách và bài
viết cụ thể sau:
Trong cuốn sách “Những yêu cầu chủ yếu vế nội dung và cấu trúc
phương pháp của sách giáo khoa phổ thông”, (NXB Giáo dục – 1981) các tác
giả đã đưa ra ba chức năng của SGK:
1. Chức năng thông tin: Đây là chức năng thông báo những nội dung:
khoa học, tài liệu, bao gồm phương pháp của bộ môn khoa học, phương pháp
tư duy và và phương pháp học tập bộ môn.
2. Chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập: SGK phải góp phần phát triển tư
duy, năng lực độc lập học tập và sáng tạo. Ngoài ra SGK còn phát triển kỹ năng và
năng khiếu, giúp HS có thể tự học, tự rèn luyện, và tự kiểm tra đánh giá.
3. Chức năng kích thích hứng thú học tập: Ngoài hai chức năng trên,
SGK phổ thông còn có nhiệm vụ kích thích HS lòng say mê học tập, yêu thích
bộ môn và thấy được vui, hạnh phúc trong lao động, học tập và khám phá.
11


Bài viết “Sách giáo khoa và vấn đề nghiên cứu sách giáo khoa ở Việt
Nam” trong cuốn “Sách giáo khoa trong xã hội hiện đại” TS. Trần Đức Tuấn đã
chỉ ra SGK có hai chức năng sau:
1. Chức năng trung tâm (định hướng và hỗ trợ phát triển bền vững): SGK
những kiến thức, những vấn đề, những kĩ năng, những viễn cảnh và những giá
trị phát triển bền vững về 3 phương diện: môi trường, kinh tế và xã hội phải
được thể hiện đầy đủ rõ nét trong chương trình SGK.
2. Các chức năng cơ bản gồm 4 chức năng: thông tin/ tái tạo, định hướng
tổ chức dạy học (Điều khiển), tạo động cơ, gây hứng thứ và kiểm tra, đánh giá.

Trong bài viết tác giả đã đưa ra một số ý kiến của các tác giả ở châu Âu
về chức năng của SGK: “Trong những thập kỉ cuối thế kỉ thứ XX, khi đề cập
các chức năng của SGK nhiều tác giả ở châu Âu thường nhấn mạnh đến các
chức năng sư phạm và lí luận dạy học và thống nhất khi cho rằng các chức
năng tái tạo (thông tin), chức năng điều khiển, chức năng luyện tập và kiểm
tra, chức năng tạo động cơ, gây hứng thú học tập là những chức năng rất cơ
bản của SGK” [54. tr 38].
Tuy nhiên, các tác giả còn đề cập đến một số chức năng khác nữa. Dưới
đây là kết quả nghiên cứu chức năng của SGK của một số tác giả:
Hacker
(CHLB Đức,

Sujew (Liên Xô cũ,
1983)

1980, 1992)

Quan niệm
chung ở CHDC

Sorina (Liên Xô
cũ, 1983)

Đức (1980)

1. Tái hiện

1. Chuyển đạt thông

1. Thông tin


1. Thông tin/

2. Điều khiển

tin

2. Điều khiển

Chuyển đạt thông

3. Ôn tập, kiểm tra, 2. Củng cố, tự kiểm tra 3. Củng cố kết

tin

đánh giá

3. Tự giáo dục,

quả

2. Điều khiển

4. Cấu trúc

Liên kết/ phối hợp

4. Kích thích

3. Tự giáo dục,


5. Tạo động cơ

4. Nghiên cứu

5. Hợp lí hóa tổ Liên kết/ phối hợp

6. Phân hóa

giáo dục/ phát

chức DH

triển

4. Nghiên cứu giáo
dục/ phát triển

12


Trong cuốn sách “Các vấn đề sách giáo khoa” (NXB Giáo dục- 1998) tác
giả đưa ra hai chức năng của SGK:
1. Chức năng thông tin tức là chức năng cung cấp kiến thức cho HS.
2. Chức năng dạy học và phát triển. Là chức năng hướng dẫn phương pháp
học tập, nghiên cứu, trên cơ sở củng cố và phát triển năng lực tư duy của HS.
Trong luận văn này, tác giả luận văn quan niệm SGK gồm có bốn chức
năng sau: chức năng thông tin kiến thức, chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập,
chức năng kích thích hứng thú học tập và chức năng giáo dục nhân văn.
1.2.1. Chức năng thông tin kiến thức

Chức năng thông tin kiến thức là chức năng truyền thống, chức năng
quan trọng nhằm thông báo nội dung khoa học, nội dung tài liệu, phương pháp
dạy học. Một số quan điểm cho rằng chức năng thông tin kiến thức là chức
năng duy nhất còn các chức năng khác có thể không cần thiết, chỉ là sự kéo
theo. Trong quá trình giảng dạy, GV phải thực hiện được chức năng thông tin,
bản thân GV phải hướng dẫn HS kích thích hứng thú học tập cho HS. Vì vậy,
SGK cần được tổ chức tốt hệ thống thông tin kiến thức nhằm phục vụ cho việc
giảng dạy và học tập của GV và HS.
Chức năng thông tin thể hiện qua nội dung SGK, được trình bày dưới
dạng kênh hình (hình ảnh, sơ đồ, biểu đồ…) và kênh chữ. Thông thường, sách
giáo khoa bậc Tiểu học kênh hình và kênh chữ gần như tương đương nhau. Còn
SGK Trung học cơ sở và Trung học phổ thông kênh hình chiếm số lượng ít hơn
kênh chữ. Kênh chữ trong SGK giữ vai trò chủ đạo trong việc thực hiện chức
năng thông tin. Lượng kênh hình trong SGK phải có sự tính toán phù hợp sao
cho HS lĩnh hội kiến thức một cách phù hợp và không để HS phân tán. Kênh
chữ và kênh hình là những thông tin được dùng chủ yếu trong SGK ở các cấp
học. Vì vậy, chúng cần phải được thể hiện chính xác, khoa học, hài hòa về mặt
thẩm mỹ, phù hợp với tâm lí từng cấp học và đặc biệt phải mang tính sư phạm.
Các thông tin trong SGK qua kênh chữ và kênh hình thường đa dạng, phong
13


phú được đưa ra dưới dạng gợi mở, đòi hỏi ở người học tư duy linh hoạt mới có
thể giải quyết vấn đề được đặt ra. Kênh hình bao gồm ảnh chụp, tranh ảnh, hình
vẽ, sơ đồ, các hình ảnh khá rõ nét chi tiết mang tính cân đối thẩm mỹ…phù hợp
với kênh chữ, thể hiện đúng đối tượng nghiên cứu, phù hợp với môi trường sư
phạm. Kênh hình có khả năng kích thích hứng thú học tập, tạo tâm thế học tập
cho HS, nó có giá trị rất lớn về vấn đề nhận thức của HS.
Nội dung và lượng thông tin trong SGK gồm những đơn vị kiến thức
môn học. Kiến thức không bao giờ đứng yên mà luôn vận động, kiến thức trong

SGK thì phải ổn định, lâu dài. Giải quyết vấn đề này chức năng thông tin phải
hướng đến tính khoa học, ổn định, tính vừa sức và tính hấp dẫn. SGK là bộ
sách được biên soạn phù hợp với từng cấp học, chính vì vậy lượng kiến thức
phải đảm bảo vừa sức với học sinh từng cấp học. Kiến thức được thể hiện ở
nhiều mức độ khác nhau như: khái niệm, quy luật, định lí, định nghĩa, quy
tắc…SGK cấp trên không thể dùng được cho cấp dưới và ngược lại. Đặc biệt
đơn vị kiến thức được đưa vào SGK phải phù hợp với từng lứa tuổi, đặc điểm
tâm lí của HS. Khác với những loại sách khác kiến thức trong SGK phải
được lựa chọn, đưa vào chương trình những kiến thức phổ thông cơ bản,
chuẩn mực và ổn định. Số lượng, chất lượng và sự bố trí, sắp xếp thông tin
trong mỗi bài học phải đảm bảo yêu cầu vừa sức với mỗi HS. Tiến trình
những kiến thức được chuyển tải qua nội dung các môn học ở các khối lớp
từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao.
SGK không những cung cấp thông tin kiến thức mà còn chỉ dẫn các cách
lĩnh hội những kiến thức đó, trang bị cho HS phương pháp tư duy, học tập, rèn
luyện kỹ năng thực hành. SGK trong nhà trường phổ thông đã trở thành tài liệu
định hướng, hỗ trợ phương pháp dạy và học cho GV và HS.
Hệ thống bài tập, câu hỏi trong SGK phải bám sát nội dung bài học, vừa
kích thích hứng thú học tập của HS, giúp HS tự nghiên cứu, tìm ra phương
pháp tự học. Qua đó tạo điều kiện cho HS khai thác kiến thức mới của bài học,

14


làm xuất hiện tình huống có vấn đề. GV hướng dẫn HS quan sát, tìm tòi, giải
thích và phân tích cách giải quyết vấn đề một cách hợp lí. Vì vậy nội dung
thông tin trong mỗi cuốn SGK phải được xây dựng theo một hệ thống, một
phương pháp nhất định.
1.2.2. Chức năng hướng dẫn chỉ đạo cho học sinh học tập
So với các loại sách khác, SGK thể hiện tương đối rõ chức năng hướng

dẫn chỉ đạo học tập.
SGK hiện đại cần tập trung giúp học sinh có được phương pháp tự học
để góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy, HS chuyển từ học tập thụ động
sang học tập chủ động tích cực. SGK cần chuyển trình bày kiểu thông báo, giải
thích sang cách tổ chức chỉ đạo hoạt động học tập. Việc đổi mới này giúp GV
phát triển các phương pháp dạy học tích cực, tạo hứng thú cho HS trong quá
trình học tập góp phần phát triển tư duy, năng lực học tập sáng tạo và phát triển
những kỹ năng cho HS.
Cấu trúc bài học trong SGK mới chủ yếu xoay quanh thiết kế các hoạt
động học tập khám phá. Hoạt động học tập khám phá thể hiện ở nhiều dạng
khác nhau như trả lời câu hỏi, điều vào phiếu học tập, lập bảng, lập sơ đồ, đóng
kịch, thảo luận về một vấn đề, các bảng đáp số, những bài đọc thêm… Tương
ứng với các hoạt động trên GV có các hình thức tố chức hoạt động: cá nhân,
theo cặp, theo nhóm, sắm vai…
GV là người dẫn dắt HS, đưa HS vào các tình huống cụ thể, buộc HS
phải làm việc, tư duy, tự mình tìm ra đáp án. Thông qua các hoạt động học tập
đó HS xây dựng được cho bản thân khả năng tìm tòi, khám phá, phát hiện các
tình huống có vấn đề, khả năng làm việc cá nhân và theo nhóm. Cách học tập
này kích thích khả năng tự học cho HS, thúc đẩy các em tự khám phá bài học,
tự trau dồi những kiến thức của bản thân. Nếu SGK đem kiến thức cho HS dưới
dạng sẵn có, HS sẽ khó nắm vững kiến thức, khả năng ghi nhớ chỉ là máy móc
theo công thức nhất định.

15


Chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập ở mỗi bài học trong SGK nhằm
hình thành kiến thức, kỹ năng, thái độ, mục tiêu học tập cho HS. Chức năng
hướng dẫn chỉ đạo học tập luôn đi cùng với chức năng thông tin kiến thức, qua
đó trang bị cho HS những phương pháp tư duy, phương pháp học tập và kỹ

năng vận dụng thực hành. Chính vì vậy, kiến thức trong SGK được xây dựng
theo những hệ thống về phương pháp và trình tự nhất định để HS sử dụng hệ
thống kiến thức làm tư liệu học tập dưới chỉ đạo, dẫn dắt của GV.
1.2.3. Chức năng kích thích hứng thú học tập
Bản thân SGK đã chứa đựng nhiều yếu tố kích thích hứng thú học tập,
tìm tòi, ham hiểu biết và tính tích cực tư duy cho HS. Trong cuốn sách huy tính
tích cực học tập của học sinh như thế nào” K.Đ.Usinxki có viết: “…môn học
phải giới thiệu cho chúng ta điều mới lạ có tác dụng hoặc bổ sung, hoặc xác
nhận, hoặc bác bỏ, hoặc phân tích cái đã có sẵn trong đầu óc chúng ta; tóm
lại, đó là cái mới lạ có thể làm thay đổi một cái gì đó trong các dấu vết đã hằn
sâu trong chúng ta” [76. tr 71].
Để thực hiện chức năng này, chương trình và SGK cần có sự ổn định
tương đối ở các cấp học. Nội dung SGK cần được gọn nhẹ, đảm bảo cho HS
nắm vững những kiến thức cơ bản, hiện đại, tiên tiến về phương pháp giảng
dạy. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ SGK phổ thông sao cho HS dễ nhớ, dễ hiểu.
Hình ảnh minh họa phải hấp dẫn, màu sắc hài hòa phù hợp với tâm lí HS. Ngôn
ngữ trong sử dụng trong SGK đảm bảo sự chính xác, giàu hình ảnh, chuẩn mực,
chuẩn về chính tả, về viết hoa, phiên âm và phù hợp với lứa tuổi HS.
Như vậy mới tạo sự hứng thú, kích thích học tập, say mê sáng tạo và
nâng cao sự hiểu biết cho HS.
1.2.4. Chức năng giáo dục nhân văn
SGK thực hiện các nguyên tắc chung như đảm bảo mục tiêu giáo dục,
đặc trưng bộ môn, phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh. Một cuốn
SGK thông thường không chỉ nhằm truyền thụ kiến thức cơ bản, mà có thể còn

16


phát triển khả năng nhận biết cho HS. Nhận biết những vấn đề cơ bản trong xã
hội, gia đình, văn hóa, dân tộc…Chức năng giáo dục nhân văn được biểu hiện

rõ trong SGK các môn khoa học xã hội và nhân văn. Chức năng giáo dục tư
tưởng, tình cảm đạo đức không chỉ thông qua những bài học mà còn thông qua
những tranh ảnh minh họa trong SGK. Chức năng giáo dục thẩm mỹ của tranh
ảnh bao hàm cả chức năng giáo dục tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho HS.
SGK giáo dục HS về nhân cách, đạo đức, tình yêu quê hương đất nước, đem lại
cho HS tinh thần say mê học tập, khám phá thế giới, nó phải đồng bộ và phù
hợp với mục tiêu chương trình.
1.3. Yêu cầu chung về sách giáo khoa
Những yêu cầu đối với SGK đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến
trong nhiều tài liệu khác nhau:
Trong cuốn sách “Những yêu cầu chủ yếu về nội dung và cấu trúc phương
pháp của sách giáo khoa phổ thông”, tác giả đã đưa ra 3 yêu cầu của SGK:
1. Những yêu cầu về nội dung. Về nội dung SGK, cần quán triệt 5 yêu
cầu: biên soạn theo đúng yêu cầu của chương trình bộ môn, SGK phải đảm bảo
kiến thức khoa học cơ bản nhất, nội dung phải đảm bảo thấm nhuần thế giới
quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng, nội dung phải đảm bảo tính thực
tiễn và nội dung phải được viết theo quan điểm giáo dục kỹ thuật tổng hợp.
2. Các yêu cầu về cấu trúc phương pháp của SGK. Yêu cầu về cấu trúc và
phương pháp cần đảm bảo tính vừa sức, đảm bảo cách trình bày và phát triển tư
duy, rèn luyện con người thông minh, sáng tạo, đảm bảo cách trình bày nhất quán
đối với từng loại kiến thức trong một cuốn SGK, thuộc một bộ môn trong một cấp
học và phải đặc biệt quan tâm đến các thành phần ngoài bài học của SGK.
3. Một số yêu cầu về hình thức trình bày và minh họa đối với SGK mới:
về hình thức trình bày cần đảm bảo những yêu cầu sau: hình thức cân đối, hài
hòa, phải có tác dụng hướng dẫn tốt và phù hợp với yêu cầu vệ sinh về mắt. Về
hình ảnh minh họa cần đảm bảo các chức năng như: chức năng thông tin, chức

17



giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức và giáo dục thẩm mỹ. Ngoài ra còn đáp ứng
một số tiêu chuẩn cơ bản như: tính khoa học, tính sư phạm và tính thẩm mỹ.
Trong bài viết “Những yêu cầu đặt ra đối với sách giáo khoa” in trong
cuốn “Sách giáo khoa trong xã hội hiện đại”, ThS. Bùi Tất Tươm chỉ ra, SGK
cần phải đảm bảo 4 yêu cầu sau:
1. Nội dung tri thức truyền thụ phải cơ bản, chính xác và hiện đại. Những
tri thức đã trở thành không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại của xã hội văn
minh và không thể vắng mặt trong SGK phổ thông. Tốt nghiệp Trung học cơ
sở, HS không viết sai chính tả, không nói sai ngữ pháp, không dùng sai từ…
2. Về cách thức trình bày nội dung. Người biên soạn phải phát huy cao
độ những ưu điểm đã đạt được trong SGK mới hiện nay. Một bộ SGK viết đủ
rõ và một bộ sách giáo viên viết đủ cho GV thống nhất nội dung dạy là một
điều cần thiết.
3. Về hình thức sách giáo khoa. Hình thức cần đáp ứng yêu cầu như: bìa
cứng, trình bày đẹp, có màu sắc đường nét hợp với lứa tuổi HS. Giấy trắng hơn,
kênh hình được tăng cường, kiểu chữ và cỡ chữ cũng cần phải quan tâm đúng mức.
4. Khâu phát hành và tổ chức sử dụng sách giáo khoa phải đảm bảo
những yêu cầu đề ra.
Trong luận văn này, tác giả luận văn quan niệm SGK cần phải đảm
bảo được 3 yêu cầu sau: Yêu cầu về nội dung, yêu cầu về cấu trúc và yêu cầu
về hình thức.
1.3.1. Yêu cầu về nội dung
SGK là một phương tiện dạy học dùng trong trường phổ thông, cho một
đối tượng rộng lớn, đa dạng về các ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội.
SGK trình bày những nội dung cơ bản, chính xác, khoa học và hiện đại, biên
soạn theo một chương trình giáo dục đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trong cuốn “Sách giáo khoa trong xã hội hiện đại”, TS Vũ Văn Thành
có suy nghĩ như sau trong bài “Hiểu đúng vai trò của sách giáo khoa để soạn và

18



dạy cho tốt” có viết: “Sách giáo khoa là quyển sách quy định nội dung cơ bản
của môn học trong chương trình, dựa vào đấy giáo viên dạy cho học trò phương
pháp củng cố và phát triển kiến thức, tiếp tục học tập để làm việc có hiệu quả”
[54. tr 54]. Yêu cầu về nội dung được thể hiện cụ thể như sau:
1.3.1.1. Nội dung SGK phải được biên soạn theo đúng yêu cầu của
chương trình giáo dục phổ thông đã được ban hành
Đây là yêu cầu chung, có tính tất yếu. SGK không thể tách rời chương
trình giáo dục phổ thông của môn học
Nội dung cần phải đảm báo tính hệ thống: Tức là tuân theo hệ thống các
chương, các mục được sắp xếp hợp lí đảm bảo tính khoa học, sư phạm. Không
thể đảo lộn trật tự, hệ thống, cấu trúc theo quan điểm cá nhân. Đảm bảo quan
điểm khoa học, quan điểm học thuật do chương trình quy định. Không thể tự ý
đưa thêm vào chương trình những quan điểm học thuật trái với quy định, lạc
hậu, lỗi thời, không hợp với thuần phong mĩ tục, mang tính phản động.
SGK phải luôn bám sát các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng
và nhà nước trong cải cách giáo dục. Mục tiêu của việc đổi mới biên soạn SGK
phổ thông nhằm xây dựng chương trình, phương pháp giáo dục, nâng cao chất
lượng dạy và học. Đổi mới nội dung SGK phải được thực hiện đồng bộ theo
đúng tiêu chuẩn đặt ra.
1.3.1.2. Sách giáo khoa phải đảm bảo kiến thức khoa học cơ bản
Những kiến thức, phương pháp khi đưa vào SGK phải được chọn lọc,
sắp xếp hết sức cẩn thận theo một trình tự khoa học hợp lí.
Việc lựa chọn sắp xếp kiến thức phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Cần phân biệt đơn vị và yếu tố kiến thức: đơn vị kiến thức được hiểu là
kiến thức cơ bản như khái niệm, qui tắc, qui luật, định lý, định luật…Đơn vị
kiến thức là do chương trình quy định. Cuốn “Những yêu cầu chủ yếu về nội
dung và cấu trúc phương pháp của sách giáo khoa phổ thông” các tác giả có
viết: “Có thể thống nhất với nhau rằng đơn vị kiến thức là một kiến thức cơ bản


19


×