Bộ giáo dục và đào tạo
Bộ nông nghiệp và ptnt
Tr-ờng đại học lâm nghiệp
-----------------------
đào xuân tới
Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc
rừng tự nhiên ở một số tỉnh miền núi phía bắc
từ số liệu các oĐVNCST
Luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp
Hà Nội, 2010
Bộ giáo dục và đào tạo
Bộ nông nghiệp và ptnt
Tr-ờng đại học lâm nghiệp
-----------------------
đào xuân tới
Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc
rừng tự nhiên ở một số tỉnh miền núi phía bắc
từ số liệu các oĐVNCST
Chuyên ngành: Lâm học
Mó s: 60.62.60
Luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp
Ng-ời h-ớng dẫn khoa học:
Gs.ts. vũ tiến hinh
Hà Nội, 2010
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước,
nhu cầu gỗ và lâm sản ngày càng tăng, kéo theo việc khai thác và sử dụng rừng
quá mức, công tác quản lý bảo vệ rừng kém hiệu quả ở nhiều địa phương khiến
các khu rừng giảm sút nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Diễn thế
rừng đi theo chiều hướng tiêu cực bởi sự thiếu hụt các loài cây có giá trị, đất
đai bị thoái hoá, rừng có sức sản xuất thấp và kém ổn định. Sự mất rừng kéo
theo sự suy thoái về các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác, đặc biệt là nguồn
tài nguyên nước. Hiện nay, nhiều nơi đã xảy ra tình trạng thiếu nước nghiêm
trọng. Vì vậy, cuộc sống và sự phát triển kinh tế của các cộng đồng dân cư
trong khu vực bị ảnh hưởng, gây khó khăn cho công tác phát triển rừng.
Để khắc phục tình trạng trên, Đảng, nhà nước và ngành Lâm nghiệp đã
đưa ra nhiều chủ trương chính sách nhằm phát triển bền vững tài nguyên rừng
như: chủ trương hạn chế khai thác tiến tới đóng cửa rừng tự nhiên nhằm bảo vệ
khoanh nuôi phục hồi rừng, chương trình bảo vệ 9,3 triệu ha rừng hiện có,
chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng... Trong quản lý rừng, tác động lâm sinh
là biện pháp kỹ thuật then chốt để cải thiện và làm cho rừng có cấu trúc phù
hợp nhất với mục đích quản lý, nhằm đáp ứng được các yêu cầu đặt ra cho từng
loại hình kinh doanh rừng. Tuy nhiên, do thiếu những nghiên cứu cơ bản về hệ
thống cấu trúc và tái sinh rừng nên ở nhiều nơi người ta không dám tác động
vào rừng bằng bất kỳ biện pháp kỹ thuật nào hoặc nếu có thì hiệu quả của các
biện pháp kỹ thuật cũng không cao gây nhiều hậu quả tiêu cực tới rừng.
Trên quan điểm sinh thái, đặc điểm cấu trúc thể hiện rõ mối quan hệ
qua lại giữa các thành phần của hệ sinh thái rừng và giữa chúng với môi
trường. Mỗi khu vực, mỗi điều kiện sinh thái khác nhau sẽ cho những khu
rừng có tính đặc thù khác nhau cần được nghiên cứu. Khu vực miền núi phía
bắc, diện tích rừng tự nhiên nhiều nhưng hiện nay đang bị suy giảm nghiêm
2
trọng cả về số lượng lẫn chất lượng, các biện pháp kỹ thuật áp dụng ở đây chủ
yếu là khoanh nuôi, bảo vệ mà ít có biện pháp tác động mang tính đột phá
phát huy tối đa sức sản xuất cũng như các chức năng có lợi khác của rừng,
đồng thời vẫn bảo tồn nguồn gen và tính đa dạng sinh học.
Thực tiễn đã chứng minh rằng, các giải pháp nhằm phục hồi rừng, quản
lý rừng bền vững chỉ có thể giải quyết thoả đáng một khi có sự hiểu biết đầy
đủ về bản chất quy luật sống của hệ sinh thái rừng. Do vậy, việc nghiên cứu
đặc điểm cấu trúc ở từng khu vực sẽ giúp cho các nhà Lâm học có thể chủ
động trong việc xác lập kế hoạch và các biện pháp kỹ thuật tác động chính
xác vào rừng, góp phần quản lý kinh doanh rừng lâu bền. Xuất phát từ yêu
cầu và thực tiễn đó, đề tài: "Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng tự
nhiên ở một số tỉnh miền núi phía bắc từ số liệu các OĐVNCST" được thực
hiện nhằm góp phần bổ sung những hiểu biết mới về cấu trúc và tái sinh tự
nhiên quần xã thực vật rừng, tính đa dạng sinh vật và hướng phát triển bền
vững hệ sinh thái rừng tự nhiên.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Cấu trúc rừng tự nhiên đã được rất nhiều tác giả trong và ngoài nước đề
cập những năm gần đây, các công trình nghiên cứu về vấn đề này nhằm xây
dựng các cơ sở khoa học phục vụ quản lý, bảo vệ, kinh doanh rừng hợp lý, có
hiệu quả cao, đạt yêu cầu về kinh tế lẫn môi trường sinh thái. Tuy nhiên, với
sự đa dạng và phong phú của hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới tại Việt Nam thì
vấn đề nghiên cứu cấu trúc rừng vẫn là một ẩn số đối với các nhà nghiên cứu,
có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước như sau:
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Phân loại rừng phục vụ kinh doanh
Công việc rất cần thiết và thường được làm đầu tiên trong kinh doanh
rừng tự nhiên là phân loại rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên nhiệt đới có cấu trúc
phức tạp. Phân loại rừng nhằm mục tiêu xác định các đơn vị kinh doanh để đi
tới hoạt động kinh doanh rừng có hiệu quả cao.
- Theo Phùng Ngọc Lan (1986) [22], trên thế giới có nhiều trường phái
phân loại rừng khác nhau như:
* Trường phái Liên Xô cũ và một số nước Đông Âu
G.F.Môrôdôp (1912) tiến hành phân loại rừng dựa vào 5 nhân tố hình
thành là: (1) Đặc tính sinh thái học của loài cây cao; (2) Hoàn cảnh địa lý; (3)
Quan hệ giữa các thực vật tạo nên quần lạc và quan hệ qua lại giữa chúng với
khu hệ động vật rừng; (4) Nhân tố lịch sử, địa chất; (5) Tác động của con người.
P.S. Pôgrepnhiac, xuất phát từ quan điểm của G.F.Môrôdôp phân loại
rừng tự nhiên thành 3 cấp: (1) Kiểu lập địa: là cấp phân loại lớn nhất, bao gồm
mọi khu đất có điều kiện thổ nhưỡng giống nhau, kể cả khu đất có rừng hay
không có rừng. (2) Kiểu rừng: là tổng hợp những khu đất có điều kiện thổ
4
nhưỡng và khí hậu giống nhau. (3) Kiểu lâm phần: bao gồm những khoảnh
rừng giống nhau cả về điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và quần lạc thực vật rừng.
* Trường phái Bắc Âu: có 2 quan điểm khác nhau
+ Quan điểm sinh thái học: Phân loại kiểu rừng căn cứ vào hai nhân tố là độ
ẩm và độ phì. Độ ẩm chia làm 5 cấp: rất khô, khô, hơi ẩm, ẩm, ướt; độ phì
chia làm 4 cấp: xấu, tốt, giàu, rất giàu. Sự kết hợp các chỉ tiêu độ ẩm, độ phì,
cùng với các loài cây gỗ và thực vật thảm tươi chỉ thị là cơ sở để phân loại
kiểu rừng.
+ Quan điểm địa lý thực vật: Phân loại kiểu rừng dựa vào đặc trưng chủ yếu
là tổ thành thực vật và coi quần hợp thực vật là đơn vị phân loại cơ bản.
- Theo Hoàng Kim Ngũ (2005) [26] về cách Phân loại rừng ở Trung
Quốc: Các nhà sinh thái học và lâm học Trung Quốc đã tham khảo những
nguyên tắc và phương pháp phân loại của một số nhà sinh thái thực vật nước
ngoài, đã áp dụng phương pháp phân loại đẳng cấp, nguyên tắc sinh thái quần
xã, đặc trưng tổng hợp của bản thân quần xã làm căn cứ như: tổ thành loài của
quần xã, kết cấu ngoại mạo, phân bố địa lý, động thái diễn thế, môi trường sinh
thái để chia ra các cấp phân loại khác nhau. Đơn vị phân loại chủ yếu là 3 cấp:
(1) Loại hình thực bì (đơn vị cấp cao); (2) Quần hệ (đơn vị cấp trung); (3) Quần
xã (đơn vị cơ bản). Trên mỗi cấp lại chia ra các cấp phụ. Căn cứ phân loại đơn
vị cấp cao chủ yếu dựa vào ngoại mạo, kết cấu và đặc trưng sinh lý, sinh thái,
cấp trung và dưới cấp trung chủ yếu căn cứ vào tổ thành loài.
Nhìn chung, mỗi cách phân loại tuỳ thuộc vào kiểu rừng và mục đích
kinh doanh mà lựa chọn nhân tố chủ đạo phân loại khác nhau.
1.1.2. Nghiên cứu về cấu trúc rừng
1.1.2.1. Cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng là quy luật sắp xếp tổ hợp của các thành phần cấu tạo nên
quần xã thực vật rừng theo không gian và thời gian, là một hình thái biểu hiện
5
bên ngoài của những mối quan hệ qua lại bên trong giữa thực vật rừng với nhau
và giữa chúng với môi trường sống. Nghiên cứu cấu trúc rừng để biết được
những mối quan hệ sinh thái bên trong của quần xã, từ đó có cơ sở để đề xuất
các biện pháp kỹ thuật tác động phù hợp, đáp ứng mục tiêu kinh doanh rừng.
Những năm gần đây, vấn đề duy trì và điều tiết cấu trúc rừng đã được
bàn luận và có rất nhiều quan điểm khác nhau, đặc biệt là việc đề xuất các biện
pháp tác động hợp lý đối với rừng tự nhiên. Các phương thức lâm sinh ra đời
và được thử nghiệm nhiều nơi trên thế giới như phương thức chặt cải thiện tái
sinh (RIF, 1927), phương thức rừng đều tuổi của Malaysia (MUS, 1945),…
Richard P.W (1952) [32], đã phân biệt tổ thành thực vật rừng mưa
thành hai loại: rừng mưa hỗn hợp có tổ thành loài cây rất phức tạp và rừng
mưa đơn ưu có tổ thành loài cây đơn giản và trong những điều kiện đặc biệt
thì rừng mưa đơn ưu chỉ bao gồm một vài loài cây.
Baur G.N (1964) [1], đã nghiên cứu về cơ sở sinh thái học trong kinh
doanh rừng mưa, tác giả đi sâu nghiên cứu các nhân tố cấu trúc rừng, các biện
pháp kỹ thuật lâm sinh áp dụng cho rừng mưa tự nhiên. Các phương thức xử
lý mà tác giả đưa ra đều có 2 mục tiêu rõ rệt: (1) nhằm cải thiện rừng nguyên
sinh vốn thường hỗn loài và không đồng tuổi bằng cách đào thải những cây
quá thành thục và cây phi mục đích để tạo không gian dinh dưỡng và ánh
sáng hợp lý cho các cây có giá trị sinh trưởng, phát triển. (2) tạo lập tái sinh
bằng cách xúc tiến tái sinh, thực hiện tái sinh nhân tạo sau khi khai thác, chăm
sóc nuôi dưỡng rừng. Từ đó, tác giả đã đưa ra nguyên lý tác động xử lý lâm
sinh nhằm đem lại rừng đều tuổi, rừng không đều tuổi và các phương thức xử
lý cải thiện rừng mưa.
Odum E.P (1971) [27], đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái trên cơ
sở thuật ngữ hệ sinh thái của Tansley A.P, năm 1935. Các sinh vật và hoàn
cảnh bên ngoài của chúng luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và ở trạng
6
thái thường xuyên có tác động. Từ đó, khái niệm về hệ sinh thái được làm
sáng tỏ là cơ sở nghiên cứu các nhân tố cấu trúc trên quan điểm sinh thái học.
1.1.2.2. Mô tả hình thái cấu trúc rừng
Richards P.W (1952) [32] cho rằng, đặc điểm nổi bật của rừng mưa
nhiệt đới là tuyệt đại bộ phận thực vật đều thuộc thân gỗ. Rừng mưa thường
có nhiều tầng, trong rừng mưa nhiệt đới ngoài cây gỗ lớn, cây bụi và cây thân
cỏ còn có nhiều loài cây leo đủ hình dạng và kích thước, cùng nhiều thực vật
phụ sinh trên thân hoặc cành cây.
Catinot R (1965) [6], nghiên cứu những cấu trúc sinh thái thông qua
việc mô tả phân loại và đưa ra những khái niệm dạng sống, tầng phiến. Biểu
diễn các đặc trưng cấu trúc rừng mưa và hình thái của chúng bằng những
phẫu đồ rừng.
Rollet (1971) (theo Phạm Ngọc Giao, 1995) [9], đã mô tả cấu trúc hình
thái rừng mưa bằng các phẫu đồ, biểu diễn các mối tương quan giữa chiều cao
vút ngọn và đường kính ngang ngực, tương quan giữa đường kính tán với
đường kính ngang ngực bằng các hàm hồi quy.
Kraft (1884) (theo Phùng Ngọc Lan, 1986) [22], tiến hành phân chia
những cây rừng trong một lâm phần thành 5 cấp dựa vào khả năng sinh
trưởng, kích thước và chất lượng của cây rừng. Phân cấp Kraft với các tiêu
chuẩn phân cấp rõ ràng đơn giản và dễ áp dụng, phản ánh được tình hình phân
hoá cây rừng.
Như vậy, khi nghiên cứu về tầng thứ, hầu hết các tác giả đưa ra những
nhận xét mang tính định tính, chưa thực sự phản ánh được sự phức tạp về cấu
trúc của rừng tự nhiên nhiệt đới.
1.1.2.3. Nghiên cứu về quy luật phân bố số cây theo cỡ đường kính (N/D1.3)
Quy luật phân bố số cây theo cỡ đường kính là một quy luật kết cấu cơ
bản của lâm phần và đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Các công trình nghiên
7
cứu quy luật này, hầu hết dùng phương pháp giải tích, tìm các phương trình
toán học dưới dạng nhiều phân bố xác suất khác nhau.
+ Meyer (1934) (theo Phạm Ngọc Giao, 1995) [9], mô tả phân bố
N/D1.3 bằng phương trình toán học có dạng đường cong giảm liên tục và được
gọi là phương trình Meyer hay hàm Meyer.
+ Rollet (1971) (theo Phạm Ngọc Giao, 1995) [9], mô phỏng quy luật phân
bố số cây theo đường kính thân cây ở vị trí 1,3 m dưới dạng phân bố xác suất.
+ Tiếp đó nhiều tác giả dùng phương pháp giải tích để tìm phương trình
của đường cong phân bố. Bally (1973) (theo Phạm Ngọc Giao, 1995) [9], sử
dụng hàm Weibull, Schiffel biểu thị đường cong cộng dồn phần trăm số cây
bằng đa thức bậc ba. Diatchenko, Z.N (theo Phạm Ngọc Giao, 1995) [9], sử
dụng phân bố Gamma biểu thị phân bố số cây theo đường kính lâm phần
Thông ôn đới. Loetsch (1973) (theo Phạm Ngọc Giao, 1995) [9], dùng hàm
Beta để nắm phân bố thực nghiệm. J.L.F Batista và H.T.Z Docouto (1992)
(theo Phạm Ngọc Giao, 1995) [9], trong khi nghiên cứu 19 ô tiêu chuẩn với
60 loài của rừng nhiệt đới ở Maranhoo-Brazin đã dùng hàm Weibull mô
phỏng phân bố N/D1.3. Nhiều tác giả khác dùng hàm Hyperbol, hàm Poisson,
hàm Logarit chuẩn, hàm Pearson…
1.1.3. Nghiên cứu về tái sinh rừng
Khi điều tra tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng cách lấy mẫu ô
vuông theo hệ thống của Lowdermilk (1927) (theo Phùng Ngọc Lan, 1986)
[22], các ô đo đếm điều tra tái sinh có diện tích từ 1 - 4 m2. Do diện tích điều
tra nhỏ nên việc đo đếm được dễ dàng nhưng yêu cầu số lượng ô phải đủ lớn
và trải đều trên diện tích khu rừng mới phản ánh trung thực tình hình tái sinh
rừng, điều này cũng được thừa nhận ở các công trình nghiên cứu sau này.
Barnard (1955) (theo Phùng Ngọc Lan, 1986) [22], để giảm sai số trong
khi thống kê tái sinh tự nhiên, tác giả đã đưa ra phương pháp “điều tra chuẩn
8
đoán”, theo phương pháp này kích thước ô đo đếm có thể thay đổi tùy theo
giai đoạn phát triển của cây tái sinh.
Bara (1954), Budowski (1956) (theo Phùng Ngọc Lan, 1986) [22] cho
rằng, dưới tái sinh rừng nhiệt đới nói chung có đủ lượng cây tái sinh có giá trị
kinh tế, nên việc đề xuất các biện pháp lâm sinh để bảo vệ lớp cây tái sinh này
là cần thiết. Nhờ những nghiên cứu này, nhiều biện pháp tác động vào lớp cây
tái sinh đã được xây dựng và đem lại hiệu quả đáng kể.
Van Steenis (1956) (theo Phùng Ngọc Lan, 1986) [22] cho rằng, hai
đặc điểm tái sinh phổ biến ở rừng nhiệt đới đó là tái sinh phân tán liên tục và
tái sinh vệt (tái sinh lỗ trống). Hai đặc điểm này không chỉ thấy ở rừng
nguyên sinh mà còn thấy ở rừng thứ sinh, một hiện tượng khá phổ biến ở
nhiều nước nhiệt đới.
Baur G.N (1964) [1], khi nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố sinh
thái đến tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới. Tác giả có nhận xét, trong rừng nhiệt
đới nếu thiếu ánh sáng thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của cây con, còn đối
với sự nảy mầm và phát triển của cây mầm thì ảnh hưởng là không rõ ràng.
Các công trình nghiên cứu về tái sinh rừng sau này, nhiều tác giả có
nhận xét: Thảm cỏ và cây bụi có ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của
cây tái sinh, mặc dù ở những quần thụ kín tán, thảm cỏ và cây bụi kém phát
triển nhưng chúng vẫn ảnh hưởng đến cây tái sinh; Với rừng mưa nhiệt đới số
lượng loài cây trên một đơn vị diện tích và mật độ tái sinh thường khá lớn. Số
lượng loài cây có giá trị về kinh tế không nhiều, đây là những loài được ưu
tiên trong kinh doanh rừng, các loài cây ít có giá trị kinh tế thường không
được quan tâm, khi tác động các biện pháp kỹ thuật thường tiến hành loại bỏ
những loài cây này, mặc dù chúng có vai trò sinh thái quan trọng.
Khi nghiên cứu về tái sinh, hầu hết các tác giả đều dựa trên cơ sở thu
thập số liệu tái sinh trên ô dạng bản để phân tích, đánh giá. Cần kết hợp cả ba
9
chỉ tiêu: mật độ, sức sống, khả năng sinh trưởng của cây con để đánh giá,
nhưng khi phân tích có thể tách riêng.
Như vậy, các công trình nghiên cứu được đề cập trên đây phần nào làm
sáng tỏ việc nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên. Đó là những cơ sở
để lựa chọn cho việc nghiên cứu cấu trúc và tái sinh rừng trong đề tài này.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Phân loại rừng phục vụ kinh doanh
Năm 1960 để phục vụ cho công tác điều tra, điều chế rừng gỗ mỏ
Quảng Ninh, các nhà khoa học Việt Nam đã ứng dụng phương pháp phân loại
rừng của Loeschau để phân loại rừng theo trạng thái hiện tại. Đây là hệ thống
phân loại được sử dụng trong thời gian dài và phổ biến ở Việt Nam. Viện
Điều tra - Quy hoạch rừng, đã dựa trên hệ thống phân loại của Loeschau, cải
tiến cho phù hợp hơn với đặc điểm rừng tự nhiên Việt Nam và cho đến nay
vẫn áp dụng hệ thống này vào việc phân loại trạng thái rừng hiện tại phục vụ
công tác quy hoạch, thiết kế kinh doanh rừng tự nhiên.
Thái Văn Trừng (1978) [37], dựa trên quan điểm sinh thái đã xây dựng
hệ thống phân loại thảm thực vật, chia rừng tự nhiên Việt Nam thành 14 kiểu
thảm thực vật. Theo tác giả: không thể dùng quần hợp thực vật làm đơn vị
phân loại cơ bản như các tác giả đã sử dụng ở vùng ôn đới. Ông đề xuất dùng
kiểu thảm thực vật làm đơn vị phân loại cơ bản và lấy hình thái, cấu trúc quần
thể làm tiêu chuẩn phân loại. Nhóm nhân tố sinh thái tham gia tác động trong
quá trình hình thành các kiểu thảm thực vật gọi là những nhóm nhân tố sinh
thái phát sinh, bao gồm: Địa lý - địa hình; Khí hậu - thuỷ văn; Đá mẹ - thổ
nhưỡng; Khu hệ thực vật; Sinh vật và con người. Phân loại rừng của Thái Văn
Trừng có cơ sở khoa học chắc chắn, có cơ sở thực tiễn tại nước ta. Tuy nhiên,
đơn vị phân loại còn quá lớn, trong quá trình kinh doanh rừng cần thiết phải
chia nhỏ hơn nữa.
10
Vũ Đình Huề (1984) [16], dựa trên hệ thống phân loại rừng của
Loeschau, phân chia trạng thái rừng phục vụ công tác kinh doanh rừng căn cứ
vào trạng thái hiện tại.
Vũ Biệt Linh (1984) [23], dựa vào mục đích, nội dung, phương thức
kinh doanh phân chia rừng, đất rừng nhằm tổ chức và định hướng tác nghiệp
kinh doanh theo các đối tượng khác nhau để đạt được hiệu quả cao nhất.
Vũ Đình Phương (1988) [29], khi xác định cấu trúc quần thể rừng phù
hợp cho từng đối tượng và mục tiêu điều chế đã dựa vào các đặc trưng: nhóm
sinh thái tự nhiên, giai đoạn phát triển và suy thoái của rừng, khả năng tái tạo
rừng bằng con đường tái sinh tự nhiên, đặc điểm địa hình, đặc điểm thổ
nhưỡng để phân chia rừng thành những lô khác nhau phục vụ điều chế rừng.
Bảo Huy (1993) [18], dựa trên hệ thống phân loại của Loeschau phân
chia trạng thái rừng hiện tại của lâm phần Bằng lăng ở Tây nguyên. Thông
qua trị số IV% tác giả cũng xác định các loại hình xã hợp thực vật với các ưu
hợp khác nhau.
Đào Công Khanh (1996) [20], dựa vào tổ thành các loài cây mục đích để
phân loại rừng phục vụ cho việc xác định các biện pháp kỹ thuật lâm sinh.
Lê Sáu (1996) [33], dựa trên bảng phân loại Loeschau để phân loại trạng
thái các lâm phần rừng kín thường xanh ở Kon Hà Nừng.
Hầu hết nghiên cứu của các tác giả những năm gần đây khi phân chia
rừng đều dựa trên hệ thống phân loại của Loeschau, được Viện Điều tra - Quy
hoạch rừng cải tiến cho phù hợp hơn với đặc điểm rừng tự nhiên Việt Nam.
Như vậy, việc phân loại tài nguyên rừng ở Việt Nam là rất cần thiết cho
nghiên cứu, cũng như phục vụ sản xuất kinh doanh. Tuỳ mục tiêu và đối
tượng cụ thể mà áp dụng các phương pháp phân chia khác nhau, nhằm đạt
hiệu quả cao nhất trong kinh doanh rừng.
11
1.2.2. Nghiên cứu về cấu trúc rừng
Các công trình nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên của nước ta rất
phong phú. Hầu hết các tác giả khi nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên, việc
làm đầu tiên thường được tiến hành là phân loại rừng, tiếp đó là xác định cấu
trúc tổ thành rừng. Các nghiên cứu của các tác giả như: Thái Văn Trừng
(1978) [37], Vũ Đình Huề (1984) [16], Đào Công Khanh (1996) [20], Vũ Thị
Thuần (2004) [36], Võ Văn Sung (2005) [34], Nguyễn Văn Hoàn và Lê Ngọc
Công (2006) [15], Cao Thị Thu Hiền (2008) [12]… Để xác định tổ thành
rừng, các tác giả đều sử dụng chỉ số IV% làm chỉ tiêu biểu thị hệ số tổ thành.
Thông qua công thức tổ thành, đề xuất các giải pháp kỹ thuật lâm sinh tổng
hợp trong công tác bảo vệ và khoanh nuôi phục hồi rừng.
Khi nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng, hầu hết các tác giả đi sâu vào
việc tìm ra hàm toán học thích hợp, mô phỏng tốt các quy luật phân bố thực
nghiệm và các quy luật tương quan. Trong các quy luật phân bố thì quy luật
phân bố số cây theo đường kính (N/D1.3) là quy luật được quan tâm đặc biệt,
vì thông qua quy luật này, có thể biết được những quy luật cấu trúc cơ bản
của lâm phần về kết cấu mật độ và tầng thứ, để qua đó có những giải pháp tác
động thích hợp vào rừng, nhằm điều chỉnh cấu trúc rừng, dẫn dắt rừng đến
cấu trúc có thể đáp ứng được các mục tiêu mong muốn. Phải kể đến các công
trình nghiên cứu sau:
Đồng Sỹ Hiền (1974) [11], kết quả nghiên cứu về rừng tự nhiên hỗn
giao khác tuổi, cho thấy: dạng tổng quát của phân bố N/D1,3 là phân bố giảm,
nhưng do quá trình khai thác chọn thô không theo quy tắc nên đường thực
nghiệm thường có dạng hình răng cưa và tác giả đã chọn hàm Meyer để mô
phỏng quy luật phân bố số cây theo đường kính.
Nguyễn Hải Tuất (1986) [40], sử dụng phân bố khoảng cách mô tả phân
bố N/D1.3 thực nghiệm dạng một đỉnh ở ngay sát cỡ đường kính bắt đầu đo.
12
Bảo Huy (1993) [18], khi nghiên cứu rừng nửa rụng lá, rụng lá Bằng
lăng ở Đắc Lắc - Tây Nguyên đã sử dụng rất nhiều hàm phân bố lý thuyết để
mô tả cho quy luật phân bố N/D1.3 thực nghiệm, tác giả kết luận: phân bố
khoảng cách thích hợp hơn các dạng phân bố khác.
Các nghiên cứu của tác giả Lê Sáu (1996) [33], Trần Cẩm Tú (1999)
[39], Trần Văn Con (1999) [7], Võ Văn Sung (2005) [34], lại cho rằng hàm
Weibull thích hợp hơn cả.
Qua việc tham khảo tài liệu liên quan cho thấy, việc nghiên cứu phân
bố N/D1.3 trong thời gian gần đây không chỉ dừng lại ở mục đích phục vụ
công tác điều tra như xác định tổng diện ngang, trữ lượng mà còn xây dựng
cơ sở khoa học cho các giải pháp lâm sinh trong nuôi dưỡng, làm giàu rừng.
1.2.3. Xây dựng mô hình cấu trúc mẫu
Những năm gần đây, vấn đề xây dựng mô hình cấu trúc mẫu đã được
nhiều tác giả đề cập, xuất phát từ những nghiên cứu cơ sở, các quy luật kết
cấu, từ đó đề xuất các giải pháp tác động, nhằm đem lại hiệu quả cao nhất
trong kinh doanh rừng, tiêu biểu phải kể đến các công trình:
Nguyễn Hồng Quân (1983) [30], sử dụng hàm mũ theo dạng Meyer,
xây dựng mô hình cấu trúc cho các kiểu rừng để phân cấp các lâm phần chặt
chọn bằng cách thay đổi hệ số góc của phương trình khi điều kiện hoàn cảnh
thay đổi.
Vũ Biệt Linh (1984) [23], đưa ra kết cấu chuẩn và coi đó là kết cấu
được lấy làm mức cần phải đạt được trong mục tiêu tạo rừng cho mỗi loại
rừng mục đích.
Nguyễn Văn Trương (1984) [38], trong nghiên cứu cấu trúc phục vụ
công tác khai thác nuôi dưỡng rừng, tác giả đã đề xuất mô hình cấu trúc mẫu
định lượng bằng toán học. Theo tác giả, mô hình cấu trúc mẫu là những mô
13
hình hoàn thiện nhất đã có trong tự nhiên và trên cơ sở khắc phục những tồn
tại lớn mà sự ngẫu nhiên của thiên nhiên mang lại.
Nguyễn Ngọc Lung (1985) [24], khi tổng kết những cơ sở bước đầu để
xây dựng quy phạm khai thác gỗ, tác giả nhận xét: trong thực tiễn sản xuất,
sau khi phân chia rừng ra các loại, mỗi loại thuần nhất về một số mặt nào đó
như tổ thành, tầng thứ, phân bố N/D1.3… có thể chọn được một loại trong lô
tốt nhất, có trữ lượng cao, năng suất cao, sinh trưởng tốt, tổ thành hợp lý nhất,
có đủ thế hệ cây gỗ và cho sản lượng ổn định, ta coi đó là mẫu chuẩn tự nhiên
và đây cũng chính là cái mà con người cần hướng tới trong quá trình kinh
doanh rừng.
Phùng Ngọc Lan (1986) [22], cho rằng: mô hình cấu trúc mẫu là mô
hình có khả năng tận dụng tối đa tiềm năng của điều kiện lập địa, có sự phối
hợp hài hoà giữa các nhân tố cấu trúc để tạo ra một quần thể rừng có sản
lượng, tính ổn định và chức năng phòng hộ cao nhất, nhằm đáp ứng mục tiêu
kinh doanh nhất định.
Vũ Đình Phương (1987) [28], khi nghiên cứu cấu trúc rừng và vốn rừng
trong không gian và thời gian, cho rằng: cần phải tìm trong tự nhiên những
cấu trúc mẫu có năng suất cao đáp ứng mục tiêu kinh tế trong từng khu vực.
Bảo Huy (1993) [18], xuất phát từ lý thuyết mẫu chuẩn tự nhiên của
Nguyễn Ngọc Lung, đã lựa chọn và xác lập các mô hình N/D mẫu cho từng
đơn vị phân loại của rừng Bằng lăng ở Tây Nguyên. Từ đó, tác giả đã đề xuất
điều chỉnh cấu trúc N/D theo cấu trúc mẫu hoặc đồng dạng trong phạm vi bé
hơn đường kính giới hạn khai thác.
Phạm Văn Điển (2006) [8], trong báo cáo tư vấn về quản lý rừng cộng
đồng, tác giả đưa ra mô hình cấu trúc rừng chuẩn là mô hình: thứ nhất, phân
bố tiết diện ngang thân cây trên bề mặt đất tương đối đồng đều, chênh lệch
không quá hai lần giữa các ô thứ cấp; thứ hai, phân bố số cây theo cỡ đường
14
kính tuân theo luật giảm hàm Meyer và đảm bảo tổng tiết diện ngang, trữ
lượng rừng đạt tới một trị số nhất định sao cho rừng không bị suy thoái.
Bảo Huy (2007) [19], ứng dụng mô hình rừng ổn định trong quản lý
rừng cộng đồng để khai thác và sử dụng bền vững gỗ củi ở các trạng thái rừng
tự nhiên. Dựa vào cấu trúc N/D có dạng phân bố giảm, thiết lập mô hình rừng
ổn định nhằm phục vụ cho việc quản lý rừng cộng đồng. Theo tác giả, mô
hình rừng ổn định có dạng đồng dạng chuẩn trên cơ sở vốn rừng tối thiểu
được tính bằng tổng tiết diện ngang.
Trong Dự án Chương trình thí điểm lâm nghiệp cộng đồng cuối năm
2007, Cục Lâm nghiệp đã sử dụng thuật ngữ rừng mong muốn để chỉ rừng có
cấu trúc nhất định trong từng giai đoạn diễn thế, có phân bố N/D, tổng tiết
diện ngang (G), trữ lượng (M) đảm bảo rừng không bị suy thoái và cho phép
khai thác rừng với cường độ thấp.
Tóm lại, khi xây dựng mô hình cấu trúc mẫu hầu hết các tác giả thường
quan tâm nhiều nhất là phân bố N/D1.3, nó là cơ sở cho việc khai thác và nuôi
dưỡng thông qua việc điều chỉnh cấu trúc này.
Như vậy, việc nghiên cứu cấu trúc rừng ở nước ta đã được quan tâm và
có nhiều đóng góp nhằm nâng cao hiểu biết về rừng, nâng cao hiệu quả trong
nghiên cứu cũng như sản xuất kinh doanh rừng.
1.2.4. Nghiên cứu về tái sinh rừng
Ở nước ta, kết quả về nghiên cứu tái sinh thường được đề cập trong các
công trình nghiên cứu về thảm thực vật, với đối tượng chủ yếu là tái sinh tự
nhiên. Các công trình nghiên cứu cần điểm qua là:
Thái Văn Trừng (1978) 37, cho rằng: ánh sáng là nhân tố sinh thái
khống chế và điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên trong thảm thực vật rừng.
Nếu các điều kiện khác của môi trường sống như đất rừng, nhiệt độ, độ ẩm
dưới tán rừng chưa thay đổi thì tổ hợp các loài cây tái sinh không có những
15
biến đổi lớn và cũng không diễn thế một cách tuần hoàn trong không gian và
theo thời gian mà diễn thế theo những phương thức tái sinh có quy luật nhân
quả giữa sinh vật và môi trường.
Vũ Đình Huề, Phạm Đình Tam (1989) 17, qua kết quả khảo nghiệm
quy phạm khai thác đảm bảo tái sinh vùng Hương Sơn, Hà Tĩnh có nhận xét:
một trong những đặc điểm tái sinh phổ biến ở rừng nhiệt đới đó là hiện tượng
tái sinh lỗ trống, số lượng cây tái sinh xuất hiện khá nhiều dưới những lỗ
trống khác nhau, lỗ trống càng lớn cây tái sinh càng nhiều và hơn hẳn những
nơi kín tán.
Vũ Tiến Hinh (1991) 13], cho rằng: hệ số tổ thành tính theo phần trăm
số cây của tầng tái sinh và tầng cây cao có liên hệ chặt chẽ. Đa phần các loài
có hệ số tổ thành tầng cây cao càng lớn thì hệ số tổ thành tầng tái sinh cũng
vậy. Do khó nhận biết tên cây của tầng tái sinh, nên có thể sử dụng quan hệ
giữa hệ số tổ thành tầng tái sinh và tầng cây cao để xác định hệ số tổ thành
tầng tái sinh. Từ đó, nếu biết mật độ chung của những cây tái sinh có triển
vọng của lâm phần, sẽ xác định được số lượng tái sinh của từng loài. Trong
điều chế rừng có thể sử dụng kết quả này để sơ bộ xem xét những loài cây
mục đích nào chưa đủ số lượng tái sinh cần phải tra dặm hạt và những loài
nào chỉ cần thông qua biện pháp xúc tiến tái sinh là đủ.
Trần Xuân Thiệp (1996), nghiên cứu vai trò của tái sinh và phục hồi
rừng tự nhiên ở các vùng thuộc miền Bắc - Việt Nam. Tác giả kết luận: ở
vùng Tây Bắc, dù vùng thấp hay vùng cao tái sinh tự nhiên khá tốt về số
lượng cây: từ 500-8.000 cây/ha. Rừng Tây Bắc thể hiện rõ các mặt ảnh hưởng
đến chất lượng tái sinh: nghèo về trữ lượng, diễn thế ở nhiều vùng xuất hiện
nhóm cây ưa sáng chịu hạn hoặc rụng lá, kích thước nhỏ và nhỡ là chủ yếu,
nhóm loài cây lá kim rất khó tái sinh phục hồi trở lại do thiếu lớp cây mẹ.
Vùng trung tâm tác giả cho biết sự nghèo kiệt nhanh chóng của rừng đưa đến
16
số lượng và chất lượng tái sinh tự nhiên thấp. Vùng Đông Bắc, số lượng cây
tái sinh trong rừng tự nhiên biến động bình quân từ 8.000 đến 12.000 cây/ha.
So với các vùng khác, vùng này khả năng tái sinh tự nhiên tốt.
Như vậy, khi nghiên cứu về tái sinh rừng hầu hết các tác giả đề cập tới
vấn đề tái sinh tự nhiên. Thực tế cho thấy, với điều kiện rừng tự nhiên nước ta
hiện nay nhiều khu vực vẫn phải lấy tái sinh tự nhiên làm chủ đạo, còn tái
sinh nhân tạo mới chỉ được triển khai trên quy mô hẹp. Vì vậy, những nghiên
cứu đầy đủ về tái sinh tự nhiên cho từng vùng, từng đối tượng rừng cụ thể là
hết sức cần thiết nếu muốn đề xuất biện pháp kỹ thuật chính xác và đáp ứng
mục tiêu kinh doanh rừng hiện nay.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về cấu trúc rừng đều nhằm xác định
được đặc điểm cấu trúc tầng cây cao và tầng cây tái sinh, trên cơ sở đó đề
xuất các biện pháp kỹ thuật lâm sinh tác động, để quản lý, sử dụng rừng một
cách hiệu quả và bền vững nhất. Đề tài được thực hiện nhằm góp phần vào
mục tiêu chung đó.
17
Chương 2
MỤC TIÊU - NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Về lí luận
Góp phần hoàn thiện cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xác định cấu
trúc rừng tự nhiên ở Việt Nam.
2.1.2. Về thực tiễn
- Xác định được một số đặc điểm cấu trúc tầng cây cao và tầng cây tái sinh
- Đề xuất được một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh cho phục hồi và
phát triển rừng tự nhiên.
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.1. Phân loại trạng thái rừng
2.2.2. Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc tầng cây cao
- Xác định công thức tổ thành
- Đánh giá mức độ phong phú và đa dạng loài
- Quy luật phân bố số loài theo đường kính ngang ngực
- Quy luật phân bố số cây theo đường kính ngang ngực
- Hình thái phân bố cây rừng trên mặt đất.
2.2.3. Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc tầng cây tái sinh
- Xác định công thức tổ thành
- Mật độ cây tái sinh và mật độ cây tái sinh có triển vọng
- Quy luật phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao
- Chất lượng cây tái sinh ở các cỡ chiều cao
- Nguồn gốc cây tái sinh
- Hình thái phân bố cây tái sinh.
2.2.4. Đề xuất các biện pháp kĩ thuật lâm sinh nhằm phục hồi và phát
triển rừng
18
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Mô tả các ô điều tra
2.3.1.1. OĐVNCST 330 - 59
OĐVNCST 330 - 59 nằm ở xã Thanh Sơn, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc
Giang. Dạng địa hình đồi núi thấp, độ cao tuyệt đối 300 m, độ dốc trung bình
250. Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm núi thấp, trạng thái ưu thế IIB+ Nứa,
độ tàn che trung bình 0,6. Rừng có chức năng phòng hộ. Loài cây ưu thế là
Trâm sừng. Cây bụi ưu thế là Bọ tếch, Trọng đũa, Xương gà, có chiều cao
trung bình 1,5 - 2 m. Thảm tươi ưu thế là Cỏ lông lợn, Dương xỉ cao 0,4 m. 10
năm trước là rừng trung bình, hiện nay là rừng phục hồi.
2.3.1.2. OĐVNCST 330 - 65
OĐVNCST 330 - 65 nằm ở xã Đồn Đạc, huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng
Ninh. Dạng địa hình núi thấp, độ cao tuyệt đối 286 m, độ dốc trung bình 250.
Thuộc kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm núi thấp. Trạng thái ưu thế IIIA1+
Vầu. Loài cây ưu thế là Chẹo trắng, Trâm, Mán đỉa, Vầu, độ tàn che trung bình
0,7. Cây bụi ưu thế là Trọng đũa, Chìa vôi có chiều cao trung bình 1 m. Thảm
tươi ưu thế: Cỏ lá, Cỏ 3 cạnh, cao 0,5 - 1m. Thực vật ngoại tầng: Song, Mây,
chiều cao từ 1 - 3m. 10 năm trước đây rừng gỗ bị khai thác quá mức làm cho
chất lượng rừng bị suy giảm nghiêm trọng. Hiện nay rừng đã đạt khoảng 400 500 cây/ha, rừng đã và đang được phục hồi trên toàn vùng, cây gỗ dần dần thay
thế cây Vầu, Nứa.
2.3.1.3. OĐVNCST 336 - 36
OĐVNCST 336 - 36 nằm ở xã Quang Minh, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn
La. Kiểu rừng kín thường xanh, mưa ẩm núi trung bình. Trạng thái ưu thế IIIA2.
Loài cây ưu thế Kháo vàng, Côm tầng, Dẻ gai độ tàn che 0,6. Cây bụi ưu thế là
Trọng đũa, Ớt rừng, Cọc rào có chiều cao trung bình 1,3 m, độ che phủ 20%.
Thảm tươi ưu thế: Sa nhân, Dương xỉ, Cỏ lá có chiều cao 0,5m, độ che phủ
19
30%. 10 năm trước đây là rừng gỗ do khai thác quá mức làm cho chất lượng
rừng bị suy giảm nghiêm trọng. Hiện nay đang dần được phục hồi và ở trạng
thái IIIA2.
2.3.1.4. OĐVNCST 316 -10
OĐVNCST 316 -10 nằm ở bản Giăng, xã Mường Mô, huyện Mường Tè,
tỉnh Lai Châu. Kiểu rừng kín lá rộng thường xanh, trạng thái ưu thế IIIA2 và
IIIA3, độ tàn che trung bình 0,6. Rừng có chức năng phòng hộ. Loài cây ưu thế
là Thổ lộ, Thành ngạnh, Ràng ràng mít. Cây bụi ưu thế là Me rừng, Trọng đũa
có chiều cao trung bình 1,4 m, phân bố rải rác, độ che phủ < 30%. Thảm tươi
ưu thế là Cỏ lá tre, Dương xỉ chiều cao trung bình 0,5 m, phân bố đều, độ che
phủ > 30%. 10 năm trước rừng bị khai thác kiệt quệ. Hiện nay rừng đã tái sinh
và phục hồi với nhiều loài cây ưa sáng mọc nhanh.
2.3.2. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu phục vụ đề tài được kế thừa từ nguồn số liệu điều tra trên các ô
định vị nghiên cứu sinh thái (OĐVNCST) của Viện Điều tra - Quy hoạch rừng.
Dưới đây trình bày sơ lược phương pháp điều tra trên OĐVNCST.
2.3.2.1. Lập ô đinh vị nghiên cứu sinh thái (ô điều tra cơ bản)
Lập OĐVNCST trên diện tích rừng thuộc phạm vi nghiên cứu. Diện tích
OĐVNCST là 100 ha (1000 x 1000m). Lấy 1/4 diện tích OĐVNCST phía
Đông Bắc (diện tích 25 ha) làm ô điều tra cơ bản (OĐTCB), ranh giới ô được
đo đạc bằng địa bàn 3 chân (hình 2.1). Trên đó, tiến hành lập mạng lưới ô
vuông (50 x 50m) để phân chia các lô trạng thái rừng (hình 2.2).
Hình 2.2, OĐTCB được phân thành 3 trạng thái (IIB, IIIA1, IIIA2), ranh
giới giữa các trạng thái là các đường đứt nét. Trong OĐTCB này sự phân chia
các trạng thái chỉ mang tính chất minh hoạ, thực tế trên 1 OĐTCB có thể
thuộc cùng một trạng thái.
20
1000 m
500 m
2-IIIA1
(2)
25 ha
1-IIB
(4)
(3)
3-IIIA2
Hình 2.1: Sơ đồ lập OĐVNCST
Hình 2.2: Sơ đồ lập OĐTCB
2.3.2.2. Lập ô đo đếm
Sau khi phân chia trạng thái rừng ở các OĐTCB, tiến hành lập ô đo đếm
(OĐĐ) số lượng 3 ô, diện tích mỗi ô là 1 ha (100 x 100m), ranh giới giữa các ô
được đo bằng địa bàn 3 chân, sai số khép kín cho phép là 1/200.
Trong mỗi OĐĐ phân thành 25 phân ô, được đánh số thứ tự từ 1 đến 25
theo nguyên tắc từ trái sang phải từ trên xuống dưới, mỗi phân ô có diện tích
400m2 (20 x 20m) (hình 2.3).
20 m
5
1
2
3
4
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
Hình 2.3: Sơ đồ lập OĐĐ
20 m
21
2.3.2.3. Thu thập số liệu trên hệ thống ô đo đếm
Đối tượng điều tra là các cây gỗ thuộc tầng cây cao (cây có đường kính
ngang ngực từ 6 cm trở lên). Trên hệ thống các OĐĐ (3 ô), ở mỗi ô trong hệ
thống các phân ô lẻ (1, 3, 5, ..., 25) có đánh dấu toạ độ từng cây, tên cây và số
hiệu về đường kính ngang ngực (D1.3), chiều cao vút ngọn (HVN), chiều cao
dưới cành (HDC), đường kính tán (DT) và phân cấp phẩm chất, còn lại ở các
phân ô chẵn (2, 4, 6, ..., 24) chỉ có số hiệu tên cây, đường kính ngang ngực và
phân cấp phẩm chất.
+ Đường kính ngang ngực (D1.3): Được đo bằng thước kẹp kính cách
mặt đất 1,3 m theo 2 hướng (Đông tây - Nam bắc) của tất cả các cây có đường
kính từ 6 cm trở lên trong ô tiêu chuẩn, độ chính xác được lấy tròn là 0,2 cm.
+ Chiều cao vút ngọn (Hvn) và chiều cao dưới cành (Hdc): Được đo
bằng thước đo cao Blumless hay Sun-to của tất cả các cây đã đo D1.3, độ
chính xác đến 0,2 m.
+ Đường kính tán (DT): Đo đường kính tán của tất cả các cây trong ô
tiêu chuẩn bằng cách đo gián tiếp thông qua hình chiếu tán của cây trên mặt
đất theo hai hướng (Đông bắc - Tây nam), độ chính xác lấy tròn 0,1 m.`
Kết quả điều tra được ghi vào mẫu biểu sau:
Biểu 2.1: Điều tra thống kê tầng cây cao
Số hiệu OĐVNCST:..
Số hiệu OĐTCB:.......
Địa điểm:...................
Số hiệu
OĐĐ
...
Số hiệu
cây
...
Trạng thái rừng:. Vị trí:.................... Tác động:...............
Tàn che:............. Độ cao:................. Ngày điều tra:……
Tiểu khu:............ Độ dốc:………… Người điều tra:…..
Tên
cây
...
D1.3 (cm)
ĐT NB
HVN
(m)
HDC
(m)
DT (m)
ĐT NB
Phẩm
chất
Ghi
chú
22
2.3.2.4. Điều tra ô dạng bản
Trong mỗi phân ô đo đếm mang số hiệu lẻ, lập một ô dạng bản diện tích
16 m2 (4 x 4m) ở góc phía Tây - Bắc của phân ô đo đếm. Trong ô dạng bản tiến
hành điều tra những cây gỗ có D1.3 < 6 cm. Điều tra các chỉ tiêu: Tên loài,
chiều cao, đường kính tán, chất lượng, nguồn gốc. Kết quả được ghi vào biểu
mẫu sau:
Biểu 2.2: Điều tra tầng cây tái sinh
Số hiệu OĐVNCST:.................................
Số hiệu OĐTCB:.......................................
Phân TT Loài Hvn
Tuổi
OĐĐ cây cây (dm)
…
Kiểu rừng:……….……………………
Trạng thái rừng:………………………
Đường kính
tán
ĐT NB TB
Chất lượng
Nguồn gốc
Tốt Xấu TB Hạt Chồi
…
2.3.3. Phương pháp xử lý số liệu
2.3.3.1. Phân loại trạng thái rừng hiện tại
Đề tài sử dụng phương pháp phân loại của Loeschau (1960) được Viện
Điều tra Quy hoạch rừng nghiên cứu và bổ sung. Căn cứ vào tổng tiết diện
ngang (ΣG=m2/ha), trữ lượng (ΣM=m3/ha), độ tàn che (P) và một số thông tin
điều tra ngoài thực địa, tiến hành phân chia trạng thái cho từng ô đo đếm. Cụ
thể tiêu chuẩn phân chia các trạng thái rừng như sau:
+ Kiểu trạng thái II: Rừng non phục hồi sau nương rẫy hoặc sau khi
khai thác trắng, kiểu rừng này là rừng cây gỗ có đường kính nhỏ, chủ yếu là
những cây tiên phong hoặc có tính chất tiên phong ưa sáng mọc nhanh, có thể
chia thành 2 kiểu phụ:
23
- Kiểu phụ IIA: Rừng phục hồi còn non và đặc trưng bởi lớp cây tiên
phong ưa sáng, mọc nhanh, thường đều tuổi và có kết cấu 1 tầng, đường kính D
< 10 cm; ΣG < 10 m2/ha, rừng có trữ lượng nhỏ. Thuộc đối tượng nuôi dưỡng.
- Kiểu phụ IIB: Rừng cây tiên phong phục hồi phát triển đã lớn, đặc
trưng tổ thành gồm những cây tiên phong hoặc có tính chất tiên phong ưa
sáng, mọc nhanh, thành phần loài phức tạp, đã có sự phân hoá về tầng thứ và
tuổi. Đường kính cây cao phổ biến bình quân D > 10 cm; ΣG > 10 m2/ha.
Thuộc đối tượng nuôi dưỡng.
+ Kiểu phụ trạng thái III: Trạng thái đã qua khai thác chọn, là kiểu
trạng thái đã bị tác động của con người ở nhiều mức độ khác nhau, làm cho
kết cấu rừng có sự thay đổi. Tuỳ theo mức độ tác động, khả năng tái sinh và
cung cấp lâm sản mà có thể phân loại trạng thái rừng khác nhau:
- Kiểu phụ IIIA: Rừng thứ sinh qua khai thác chọn kiệt, đang phục hồi,
khả năng khai thác bị hạn chế, cấu trúc rừng bị phá vỡ hoặc thay đổi cở bản,
trạng thái này có thể chia thành một số trạng thái:
Dạng trạng thái IIIA1: Rừng mới qua khai thác chọn kiệt, cấu trúc rừng
đã bị phá vỡ hoàn toàn, tán rừng bị phá vỡ thành từng mảng lớn, tầng trên còn
sót lại một số cây cao nhưng phẩm chất xấu, nhiều dây leo bụi rậm, tre nứa
xâm lấn. Độ tàn che P < 0,3; ΣG < 10 m2/ha; ΣGD>40 < 2 m2/ha; trữ lượng <
80 m3/ha. Tuỳ thuộc vào mật độ tái sinh mà nó có thể chia nhỏ hơn nữa.
Dạng trạng thái IIIA2: Rừng qua khai thác kiệt bắt đầu phục hồi, đặc
trưng của trạng thái này là đã hình thành tầng giữa vươn lên chiếm ưu thế với
lớp cây đại bộ phận có đường kính 20 - 30 cm. Rừng có 2 tầng trở lên, tầng
trên tán không liên tục được hình thành chủ yếu từ những cây cũ còn lại, còn
có những cây to khoẻ vượt tán. Độ tàn che của rừng P = 0,3 - 0,5; ΣG = 10 15 m2/ha; ΣGD>40 < 2 m2/ha; trữ lượng từ 80 - 120 m3/ha. Cũng tuỳ vào mật
độ tái sinh có thể chia nhỏ hơn nữa.