Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bình luận về vấn đề bảo lưu và thực tiễn bảo lưu điều ước quốc tế tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.77 KB, 16 trang )

Đề số 7: Bình luận về vấn đề bảo lưu và thực tiễn bảo lưu điều ước quốc tế tại
Việt Nam
A.

MỞ ĐẦU
Nhà nước ra đời là một quá trình lịch sử mang tính tất yếu khách quan,

cùng với đó pháp luật được hình thành và được xem như một công cụ đắc lực để
nhà nước thực hiện chức năng của mình - quản lí xã hội. Tuy nhiên, không đơn
thuần trong phạm vi lãnh thổ mà về lí luận cũng như thực tiễn đã chứng minh,
nhà nước muốn tồn tại và phát triển cần phải thiết lập, mở rộng quan hệ với các
nhà nước khác. Chính nhu cầu đó làm hình thành các nguyên tắc, quy phạm điều
chỉnh các quan hệ này đó chính là Luật quốc tế. Khi tham gia các quan hệ quốc
tế, các quốc gia phải tuân theo các quy định của pháp luật quốc tế, về quyền lợi
và trách nhiệm pháp lí quốc tế phải gánh vác. Một trong những nội dung của
quan hệ pháp luật quốc tế mà các quốc gia được điều chỉnh đó là vấn đề bảo lưu
điều ước quốc tế. Để tìm hiểu về chế định này cũng như các khái cạnh liên quan,
bài tập nhóm lần này, chúng em xin phân tích, bình luận một số mặt của chế định
bảo lưu điều ước quốc tế. Qua đó, liên hệ thực tiễn bảo lưu điều ước quốc tế ở
Việt Nam.
B.
I.

NỘI DUNG
Một số vấn đề lý luận về bảo lưu điều ước quốc tế

1. Cơ sở quy định bảo lưu diều ước quốc tế
1.1. Cơ sở lý luận
Hiện nay, vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế được ghi nhận ở Công ước viên
1969 về luật điều ước quốc tế và Công ước viên 1986 về luật điều ước quốc tế
giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế hoặc giữa các tổ chức quốc tế.


Công ước viên 1969 về luật điều ước quốc tế được ký kết giữa các quốc
gia, có hiệu lực ngày 27 tháng 1 năm 1980. Công ước viên 1969 quy định việc
1


ký kết, gia nhập, thực hiện điều ước và làm rõ vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế.
Đây là văn bản pháp lý quan trọng nhất trong hệ thống các văn bản pháp lý quốc
tế quy định về chế định bảo lưu điều ước quốc tế.
Công ước Viên năm 1986 về luật điều ước quốc tế được ký kết giữa quốc
gia với tổ chức quốc tế và giữa tổ chức quốc tế với nhau. Tuy hiện nay, Công ước
Viên 1986 chưa có hiệu lực nhưng trong tương lai, công ước sẽ là khung pháp lý
quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia cũng như các tổ chức quốc
tế tham gia vào việc ký kết và thực hiện điều ước quốc tế nói chung và bảo lưu
điều ước quốc tế nói riêng.
Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật của các quốc gia cũng có các quy định
làm cơ sở pháp lý cho việc bảo lưu điều ước quốc tế tại quốc gia mình. Quy định
bảo lưu điều ước quốc tế được xây dựng khác nhau tùy thuộc vào điều kiện,
đường lối, chủ trương của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, bảo lưu điều ước quốc tế
được quy định trong Luật điều ước quốc tế 2016.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Các quốc gia khác nhau khi tham gia vào một quan hệ điều ước cụ thể
luôn có sự khác biệt về chế độ kinh tế, chính trị. Việc một quy phạm điều ước
phù hợp với lợi ích của nhóm quốc gia này nhưng lại không phù hợp với lợi ích
của một hoặc một số nhóm quốc gia khác là điều không thể tránh khỏi. Để dung
hòa được lợi ích, ý chí của các bên khi tham gia các điều ước quốc tế đa phương
không hề đơn giản. Vì vậy, luật pháp quốc tế và luật pháp quốc gia các nước đều
ghi nhận chế định bảo lưu nhằm làm hài hòa lợi ích của các quốc gia khi tham
gia điều ước, đồng thời, tạo điều kiện để các quốc gia tham gia vào các quan hệ
điều ước đó.


2


2. Khái niệm
Theo điểm d khoản 1 Điều 2 Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc
tế ghi nhận: "Bảo lưu điều ước quốc tế là hành động đơn phương bất kể cách viết
hoặc tên gọi như thế nào của một quốc gia đưa ra khi ký, phê chuẩn, phê duyệt
hoặc gia nhập điều ước đó, nhằm qua đó loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực của một
hoặc một số quy định của điều ước trong việc áp dụng chúng đối với quốc gia
đó".
Hoặc theo khoản 15 Điều 2 Luật Điều ước quốc tế 2016 của pháp luật Việt
Nam, bảo lưu được hiểu là “tuyên bố của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hoặc bên ký kết nước ngoài khi ký, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập
điều ước quốc tế nhiều bên nhằm loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực pháp lý của một
hoặc một số quy định trong điều ước quốc tế.”
Như vậy có thể thấy qua định nghĩa trên, bảo lưu điều ước quốc tế là tuyên
bố đơn phương của quốc gia khi tham gia điều ước quốc tế, nhằm mục đích loại
trừ hoặc thay đổi hiệu lực của một số quy định của điều ước đó đối với quốc gia
đã đưa ra tuyên bố. Quốc gia không thể bảo lưu sau khi họ đã chấp nhận các điều
ước quốc tế; bảo lưu phải được thực hiện tại thời điểm mà điều ước ảnh hưởng
đến quốc gia đó.
Cơ sở để xác định một tuyên bố đơn phương có phải là bảo lưu hay không
chính là việc nó có làm thay đổi hiệu lực của một số quy định của điều ước đối
với quốc gia đã đưa ra tuyên bố đó hay không. Người ta có thể dễ dàng phân biệt
được tuyên bố bảo lưu với các tuyên bố đơn phương khác chỉ nhằm giải thích
hoặc thể hiện quan điểm cụ thể của một quốc gia đối với một điều ước nhất định.
3. Đặc điểm
Thứ nhất, bảo lưu điều ước quốc tế là một tuyên bố đơn phương: Bảo lưu
điều ước quốc tế là một tuyên bố đơn phương chứ không phải là một thỏa thuận
3



mang tính chất song phương hay đa phương. Qua tuyên bố bảo lưu, quốc gia thể
hiện quan điểm của mình về việc loại bỏ hoặc thay đổi hiệu lực của một số quy
định của điều ước trong việc áp dụng đối với quốc gia.
Thứ hai, chủ thể đưa ra bảo lưu là các thành viên của điều ước quốc tế:
Chủ thể đưa ra bảo lưu điều ước quốc tế phải là thực thể tham gia vào những
quan hệ pháp luật quốc tế một cách độc lập, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ quốc tế
và có khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do chính các chủ thể
đưa ra khi bảo lưu. Do đó, chỉ có các quốc gia thành viên mới có thể đưa ra bảo
lưu để việc tham gia điều ước không gây bất lợi cho quốc gia trong quan hệ quốc
tế đồng thời phù hợp với hoàn cảnh khách quan cũng như quan điểm, chính sách
của quốc gia.
Thứ ba, lợi ích của các quốc gia thành viên, luật điều ước quốc tế thừa
nhận bảo lưu là quyền của các chủ thể khi tham gia ký kết điều ước quốc tế. Việc
vận dụng tốt quyền bảo lưu sẽ góp phần giúp các quốc gia thực hiện tốt nghĩa vụ
điều ước với tư cách là thành viên của điều ước quốc tế đồng thời bảo đảm được
quền lợi của quốc gia.
Thứ tư, thời điểm đưa ra bảo lưu điều ước quốc tế: Đối với những bảo lưu
được quốc gia đưa ra trước thời điểm thực hiện các hành vi ràng buộc với điều
ước quốc tế, bảo lưu đươc thực hiện ngay khi quốc gia tiến hành biểu thị sự chấp
nhận ràng buộc với một điều ước quốc tế. Như vậy, thời điểm đưa ra bảo lưu
điều ước quốc tế có thể là khi ký, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hay gia nhập.
4. Ưu điểm và nhược điểm của bảo lưu điều ước quốc tế
4.1. Về ưu điểm
Thứ nhất, bảo lưu điều ước quốc tế giúp thu hút thêm thành viên tham gia.
Việc bảo lưu điều ước quốc tế giúp các quốc gia thành viên tránh được việc thực
thi một số điều khoản gây bất lợi cho quốc gia đó, bảo đảm được lợi ích quốc gia
4



và thể hiện được tính tự chủ, ý chí chủ quan của mình. Chính vì vậy đã tạo điều
kiện cho một số thành viên ký kết điều ước mà vẫn có lợi cho mình, từ đó thu hút
được sự quan tâm cũng như tham gia của họ.
Thứ hai, việc bảo lưu giúp dung hoà đặc thù đa dạng giữa các quốc gia
cũng như tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia trong
quan hệ quốc tế. Các quốc gia khi tham gia bảo lưu điều ước quốc tế sẽ đều đạt
được mục đích mà mình mong muốn khi tham gia kí kết. Các quốc gia đó có
quyền quyết định tham gia đàm phán và thỏa thuận về nội dung của điều ước
quốc tế, bảo lưu những quy định nào có thể gây tổn hại, trái với pháp luật hay
phong tục tập quán cũng như chấp nhận một phần hay toàn bộ nội dung của điều
ước.
Thứ ba, thông qua điều kiện của việc bảo lưu cũng thể hiện được nguyên
tắc tự nguyện giữa các quốc gia. Các quốc gia có quyền yêu cầu bảo lưu điều
ước nếu cảm thấy chưa hoặc không phù hợp và phải được quốc gia khác chấp
nhận, đồng nghĩa với đó chính là quốc gia đó có thể đồng ý hoặc không đồng ý
việc nước khác yêu cầu bảo lưu điều ước. Không những thế còn tạo ra một cơ
chế bảo lưu linh hoạt, không tốn quá nhiều thủ tục và giúp cho việc bảo lưu điều
ước diễn ra nhanh hơn và phát huy hết vai trò của nó.
4.2. Về nhược điểm
Thứ nhất, việc thực hiện được bảo lưu một điều ước quốc tế thì rất phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của quốc gia đề ra bảo lưu, từ đó ảnh hưởng đến tính
trọn vẹn của điều ước quốc tế. Việc bảo lưu điều ước quốc tế tuy cần có sự đồng
ý của các quốc gia khác nhưng nó vẫn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của quốc
gia đề ra bảo lưu, giữa quốc gia đưa ra bảo lưu và quốc gia không đồng ý bảo lưu
thì dẫn đến một phần điều ước không có hiệu lực, điều này có thể ảnh hưởng đến
mục đích của điều ước cũng như tính toàn văn của điều ước đó.
5



Thứ hai, chế định bảo lưu làm ảnh hưởng đến tính thống nhất của điều ước
và tạo ra những phức tạp trong việc viện dẫn và thi hành điều ước. Một điều ước
trước khi được thông qua thì nó phải đáp ứng được các yêu cầu cũng như những
người đặt ra đã cố gắng tạo nên một mạch liên kết, logic và thống nhất giữa nội
dung các điều khoản của điều ước. Tuy nhiên nếu bảo lưu dù chỉ một phần nhỏ
cũng có khả năng làm ảnh hưởng đến tính thống nhất của các điều khoản khác
nói riêng và cả điều ước nói chung. Bên cạnh đó không có quy định cụ thể nào
về việc viện dẫn, giải thích và áp dụng điều ước nên cũng có những khó khăn
nhất định trong việc này.
5. Ý nghĩa của bảo lưu điều ước quốc tế
Khi tham gia vào các quan hệ điều ước quốc tế cụ thể, các quốc gia khác
nhau thì sự phát triển về kinh tế, chính trị sẽ khác nhau, lợi ích cũng sẽ khác
nhau. Để đảm bảo sự hài hòa về lợi ích của các quốc gia khi tham gia vào các
điều ước, luật pháp quốc tế và luật pháp quốc gia các nước về điều ước đều ghi
nhận chế định bảo lưu.
Bảo lưu nhằm mục đích loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực một số điều khoản
của điều ước có thể ảnh hưởng đến lợi ích của các quốc gia tham gia ký kết điều
ước. Vì những lý do khách quan về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, bảo lưu
cho phép một quốc gia khi tham gia vào điều ước sẽ không tham gia một điều
khoản hay một quy định nào đó.
Một điều ước quốc tế là để phục vụ lợi ích của mọi người, nó giúp các
quốc gia liên kết với nhau một cách chặt chẽ, thúc đẩy cho quá trình toàn cầu
hoá. Các thành viên trong điều ước cần có thái độ thiện chí để xây dựng các điều
ước, hướng tới lợi ích chung nhưng không thể vì một số điều khoản không phù
hợp với lợi ích của quốc gia mình mà không tham gia vào điều ước đó nữa. Do
vậy, quyền bảo lưu giúp các chủ thể dễ dàng tham gia vào điều ước hơn.
6


Các quốc gia có thể đưa ra bảo lưu khi tham gia vào điều ước quốc tế để

nhằm thực hiện chính sách đối ngoại.
Như vậy, bảo lưu là giải pháp pháp lý để đảm bảo hài hòa lợi ích riêng
của các quốc gia với lợi ích chung khi tham gia vào các điều ước; đồng thời, góp
phần tăng cường hơn số lượng thành viên tham gia để điều ước có điều kiện hình
thành và phát huy vai trò điều chỉnh các quan hệ quốc tế nảy sinh, tăng cường
các quan hệ hợp tác quốc tế trên hầu khắp các lính vực của các chủ thể luật quốc
tế.
II. Quy định của pháp luật quốc tế về bảo lưu điều ước quốc tế
1. Điều kiện bảo lưu
Bảo lưu là quyền của các chủ thể của luật quốc tế. Tuy nhiên căn cứ vào
thực tiễn bảo lưu và quy định tại Điều 19 Công ước viên 1969 thì khi ký, phê
chuẩn, chấp nhận, phê duyệt hoặc khi gia nhập một điều ước, một quốc gia có
thể đề ra một bảo lưu trừ các trường hợp sau:
Thứ nhất, đối với một số điều ước song phong không thể có việc một bên
đưa ra tuyên bố bảo lưu một số điều khoản của điều ước. Các điều ước quốc tế
song phương chỉ có thể được kí kết và thực hiện khi có sự đồng thuận của hai
bên tham gia. Nếu một trong hai bên không có khả năng hoặc không mong muốn
thực hiện một điều khoản nào đó của điều ước thì các bên sẽ phải đàm phán,
thương lượng để đi đến một thỏa thuận cuối cùng. Nếu thương lượng thất bại thì
điều ước đó sẽ không ra đời.
Thứ hai, không thực hiện việc bảo lưu đối với những điều ước quốc tế đa
phương cấm bảo lưu. Quốc gia nào muốn trở thành thành viên của điều ước đó
thì phải thuân thủ toàn bộ điều ước, nếu không có khả năng hực hiện dù chỉ với
một số điều khoản thì cũng không thể là thành viên của điều ước đó được. Sở dĩ
có lệnh cấm như vậy là các công ước này ảnh hưởng đến hoạt động lập pháp của
7


các nước tham gia, vì vậy nó cần thiết để cố gắng đảm bảo áp dụng thống nhất
các quy tắc giữa các quốc gia vs nhau, ngay cả khi các điều khoản cấm bảo lưu

này sẽ ngắn cản một số quốc gia trở thành các bên tham gia điều ước.
Thứ ba, chỉ được phép bảo lưu những điều khoản mà điều ước quốc tế đa
phương cho phép bảo lưu. Trong tường hợp này, một quốc gia không thể sử dụng
quyền bảo lưu để thay đổi hiệu lực của những điều khoản khác ngoài những điều
khoản mà điều ước đó cho phép.
Thứ tư, quyền bảo lưu của quốc gia còn bị hạn chế bởi những bảo lưu
không phù hợp với đối tượng và mục đích của điều ước quốc tế. Bảo lưu gắn liền
với chủ quyền của mỗi quốc gia khi tham gia điều ước quốc tế, tức là mỗi quốc
gia đều có quyền bảo lưu điều ước quốc tế mà không cần có sự đồng ý của các
bên còn lại, nhưng quyền này chỉ được thực hiện khi bảo lưu phù hợp với nội
dung, đối tượng và mục đích của điều ước.
2. Thủ tục bảo lưu điều ước quốc tế
Khi điều ước quốc tế đặt ra vấn đề bảo lưu thì cách thức, trình tự tiến hành
bảo lưu rất quan trọng, tránh cho các bên xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp vì thế
những quy định về thủ tục bảo lưu thường được quy định cụ thể.
Với điều ước quốc tế có quy định về thủ tục bảo lưu thì các bên là thành
viên phải theo quy định của điều ước quốc tế đó. Tuy nhiên, nếu điều ước quốc
tế không có quy định thì các bên tiến hành thỏa thuận về thủ tục bảo lưu trên cơ
sở không trái với những quy phạm, nguyên tắc chung của luật quốc tế, nếu các
bên không thỏa thuận và đều là thành viên của Công ước Viên năm 1969 về luật
điều ước quốc tế giữa các quốc gia hoặc thể hiện rõ sự chấp thuận áp dụng Công
ước như một tập quán thì thủ tục bảo lưu sẽ được tiến hành như sau:
Thứ nhất, thủ tục tuyên bố bảo lưu. Trong trường hợp điều ước quốc tế
cho phép bảo lưu và quy định rõ điều khoản nào được bảo lưu thì việc bảo lưu
8


đới với điều khoản đó phải tuân thủ thủ tục bảo lưu, cụ thể theo Điều 23 Công
ước Viên năm 1969 thì tuyên bố bảo lưu phải lập thành văn bản và thông báo cho
các quốc gia thành viên khác của điều ước. Khi đó, quốc gia sẽ chỉ tuyên bố bảo

lưu trong phạm vi mà điều ước cho phép.
Cùng với đó, một bảo lưu được tuyên bố tại thời điểm ký kết cần được phê
chuẩn, chấp thuận, phê duyệt, phải được thành viên đề ra bảo lưu chính thức
khẳng định khi quốc gia đó biểu thị sự đồng ý và ràng buộc của điều ước đó. Khi
đó, bảo lưu coi như được đề ra vào ngày mà bảo lưu đó được khẳng định.
Thứ hai, thủ tục về chấp nhận bảo lưu, phản đối bảo lưu. Khi một quốc gia
đưa ra bảo lưu, các quốc gia thành viên khác có thể thể hiện quan điểm của mình
thông qua việc chấp thuận hoặc phản đối bảo lưu theo thủ tục nhất định được
quy định tại Điều 20 Công ước Viên năm 1969, theo đó sự phản đối bảo lưu và
sự đồng ý với bảo lưu phải được thể hiện dưới hình thức văn bản và thông báo
một cách công khai cho các quốc gia thành viên, riêng trường hợp đồng ý bảo
lưu có thể được thể hiện dưới dạng im lặng, cụ thể: trong trường hợp điều ước
quốc tế cho phép bảo lưu và quy định rõ điều khoản nào được bảo lưu thì không
cần tới sự đồng ý rõ ràng và riêng biệt từ phía các quốc gia ký kết khác trừ khi
điều ước quy định rõ về việc chấp thuận này. Riêng với trường hợp điều ước
quốc tế không có điều khoản quy định liên quan đến bảo lưu thì việc bảo lưu
phải được tất cả các quốc gia thành viên chấp nhận nếu số quốc gia đàm phán có
hạn hoặc việc thi hành toàn bộ điều ước là điều kiện dẫn tới sự chấp nhận ràng
buộc của các bên đối với điều ước. Một bảo lưu coi như được một quốc gia chấp
nhận nếu quốc gia đó không phản đối trong vòng 12 tháng kể từ ngày nhận được
thông báo về bảo lưu, trong trường hợp điều ước quốc tế là văn kiện về thành lập
tổ chức quốc tế thì bảo lưu phải được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền
của tổ chức đó.

9


Bên cạnh đó, việc chấp nhận rõ ràng một bảo lưu hoặc phản đối một bảo
lưu, nếu được đề ra trước khi có sự khẳng định bảo lưu đó thì việc chấp nhận và
phản đối bảo lưu không cần phải khẳng định lại nữa

Thứ ba, thủ tục rút bảo lưu, rút phản đối bảo lưu. Theo Điều 22 Công ước
Viên năm 1969 nếu điều ước quốc tế không có quy định khác hoặc không có
thỏa thuận nào khác thì quốc gia tuyên bố bảo lưu có quyền rút bảo lưu trong bất
kỳ thời gian nào. Trong trường hợp này, sự đồng ý từ phía các quốc gia công
nhận bảo lưu là không cần thiết. Tuy nhiên, việc rút bảo lưu chỉ có hiệu lực với
thành viên khác khi thành viên này nhận được thông báo rút bảo lưu. Bên cạnh
đó, tuyên bố về phản đối bảo lưu cũng có thể được quốc gia tuyên bố hủy bỏ vào
bất kỳ thời gian nào nhưng phải đựợc thể hiện dưới hình thức văn bản và có hiệu
lực khi thành viên đưa ra bảo lưu nhận được thông báo rút phản đối bảo lưu của
thành viên phản đối bảo lưu.
3. Hệ quả pháp lí của bảo lưu điều ước quốc tế
Khi tham gia ký kết, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập các điều ước
quốc tế đa phương thì bảo lưu điều ước quốc tế đó là hành động đơn phương của
mỗi quốc gia. Việc mỗi quốc gia thực hiện các hành động khác nhau trong từng
giai đoạn để nhằm loại trừ hoặc thay dổi hiệu lực của một hoặc một số quy định
trong việc áp dụng chúng với quốc gia này không có nghĩa là đưa các điều khoản
bị bảo lưu ra khỏi điều ước quốc tế. Nói cách khác, các điều khoản bị bảo lưu
vẫn tồn tại là một bộ phận cấu thành của điều ước quốc tế đó. Tuy nhiên, do đây
là điều ước quốc tế đa phương nên khi một quốc gia thực hiện quyền bảo lưu thì
quan hệ đối với các quốc gia thành viên còn lại sẽ thay đổi trong phạm vi có bảo
lưu. Điều 21 Công ước Viên 1969 về luật điều ước quốc tế đã quy định rõ về
vấn đề này. Theo đó:
Trong quan hệ giữa quốc gia đưa ra bảo lưu và quốc gia chấp thuận bảo
lưu thì trừ các điều khoản bảo lưu, còn lại vẫn điều chỉnh bởi các quy định của
10


điều ước quốc tế. Nói cách khác nếu một quốc gia chấp thuận việc một quốc gia
bảo lưu một hoặc một số điều khoản thì đối với điều khoản bị bảo lưu sẽ thay đổi
theo nội dung tuyên bố bảo lưu đã nêu.

Còn đối với quốc gia bảo lưu và quốc gia phản đối bảo lưu thì sẽ tùy thuộc
vào sự bày tỏ của bên phản đối bảo lưu mà quan hệ điều ước giũa hai bên có thể
vẫn duy trì nhưng điều khoản bị bảo lưu sẽ không được áp dụng hoặc giữa hai
bên sẽ không còn tồn tại quan hệ điều ước nếu bên phản đối bảo lưu tỏ rõ ý định
này.
Trong quan hệ giữa các quốc gia thành viên khác thì bảo lưu không làm thay đổi
các quy định của điều ước đối với các bên khác tham gia điều ước trong những
quan hệ giữa họ với nhau. Các quốc gia vẫn phải thực hiện đầy đủ quy định của
điều khoản bảo lưu cũng như tất cả quy định của điều ước quốc tế.
III. Thực tiễn bảo lưu điều ước quốc tế ở Việt Nam
1. Thực tiễn chung về bảo lưu điều ước quốc tế trên thế giới
Khi tham gia vào điều ước quốc tế nhưng lại bị ràng buộc bởi một số điều
khoản không mong muốn, khi đó chế định bảo lưu điều ước quốc tế là biện pháp
hữu hiệu được nhiều quốc gia lựa chọn. Chế định này cho phép mỗi thành viên
giải quyết hài hòa lợi ích riêng của mình với lợi ích chung với các thành viên
khác, qua đó góp phần phát triển điều ước trên nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ.
Thực tế, có những quy định thường được bảo lưu trong điều ước quốc tế:
Thứ nhất, bảo lưu quy định về hạn chế sự tham gia của một số quốc gia
vào điều ước quốc tế. Cụ thế, một số điều ước quốc tế quy định các quốc gia
không phải là thành viên của Liên hợp quốc hoặc không thỏa mãn một số điều
kiện nhất định thì không thể tham gia điều ước. Ví dụ như: Công ước về xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt chủng tộc, Công ước về tội phạm chiến tranh và tội ác
chống nhân loại năm 1968, Công ước Viên về quan hệ ngoại giao năm 1961….
11


Vì tính chất phân biệt đối xử một cách bất bình đẳng, không phù hợp với nguyên
tắc cơ bản của Luật Quốc tế - nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc
gia nên nhiều quốc gia đã thực hiện bảo lưu đối với những điều khoản có quy
định như vậy.

Thứ hai, bảo lưu liên quan đến giải thích và áp dụng pháp luật. Khi tham
gia điều ước quốc tế, quốc gia có nghĩa vụ phải thực hiện theo các quy định của
điều ước. Tuy nhiên cũng có nhiều quốc gia lựa chọn bảo lưu như một giải pháp
để áp dụng luật quốc gia thành viên. Cụ thể như quy định tại điều 19 của CISG
(Công ước Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế) về việc bảo
lưu không áp dụng Điều 11 của công ước về hình thức hợp đồng thương mại
quốc tế.
Thứ ba, bảo lưu quy định về lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp. Đây
là quy định thường được các quốc gia thành viên bảo lưu nhất. Bởi các quốc gia
sẽ không bị ràng buộc với quy định về cơ quan giải quyết tranh chấp của điều
ước quốc tế. Nhiều điều ước quốc tế đa phương đã quy định về việc sử dụng
trọng tài hoặc tòa án để giải quyết tranh chấp khi có bất kỳ một bên tranh chấp
yêu cầu như: Công ước Viên về luât điều ước quốc tế giữa các quốc gia năm
1969, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Công
ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979…Các quốc
gia lựa chọn việc bảo lưu như vậy để phù hợp với thực tiễn đồng thời, khi có
tranh chấp hoặc bất đồng việc lựa chọn một biện pháp giải quyết cụ thể nên tùy
thuộc vào sự thỏa thuận giữa các quốc gia liên quan.
Nhiều trường hợp, các quốc gia còn bảo lưu về việc áp dụng điều ước đối
với một bộ phận lãnh thổ quốc gia hay là tuyên bố áp dụng điều ước trên cơ sở
nguyên tắc hiến pháp và pháp luật quốc gia.

12


2. Thực tiễn bảo lưu điều ước quốc tế ở Việt Nam
Cùng với xu hướng tất yếu của thế giới – xu hướng hợp tác hóa, toàn cầu
hóa, Việt Nam ngày càng trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế, vì thế
mà vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế ở nước ta ngày càng được xem trọng và là
một giải pháp hữu hiệu để thúc đầy việc kí kết, gia nhập các điều ước của Việt

Nam. Luật điều ước quốc tế năm 2016 chính là cơ sở pháp lí quan trọng nhất
trực tiếp điều chỉnh các vấn đề liên quan đến ký kết, thực hiện điều ước quốc tế,
đặc biệt, văn bản pháp lý này đã dành Chương III từ Điều 47 đến Điều 51 để quy
định về những vấn đề cơ bản về bảo lưu điều ước quốc tế ở Việt Nam: thẩm
quyền bảo lưu, trình tự thủ tục chấp nhận, phản đối bảo lưu hoặc rút bảo lưu, rút
phản đối bảo lưu...
Trên cơ sở các số liệu từ Ban thư ký Liên hợp quốc, Việt Nam đã bảo lưu
với khoảng hơn 20 điều ước quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, nội dung của
các tuyên bố bảo lưu mà Việt Nam thường tập trung vào đó là:
Thứ nhất, bảo lưu các điều khoản liên quan đến thẩm quyền giải quyết
tranh chấp. Cụ thể với những điều ước có điều khoản quy định về thẩm quyền
giải quyết tranh chấp của Toà án công lí quốc tế Liên hợp quốc trong trường hợp
phát sinh tranh chấp giữa các thành viên liên quan đến giải thích, áp dụng điều
ước, Việt Nam thường tuyên bố không bị ràng buộc bởi điều khoản giải quyết
tranh chấp này. Hay nói cách khác, nước ta không thừa nhận thẩm quyền đương
nhiên của Tòa án Công lý Quốc tế trong việc giải quyết tranh chấp hay bất đồng
giữa các thành viên. Một ví dụ gần gũi nhất đó chính là việc Việt Nam bảo lưu
bảo lưu điều 33 khi tham gia công ước Berne 1886 về quyền tác giả. Khoản 1
Điều này có quy định: “Mọi tranh chấp giữa hai hay nhiều nước thành viên Liên
hiệp liên quan đến cách giải thích hoặc áp dụng Công ước này mà không giải
quyết được bằng thương lượng, có thể một trong những nước hữu quan đưa ra
Toà án công lý quốc tế bằng cách nộp đơn khiếu nại theo đúng quy định của Toà
13


án, trừ khi các nước này thoả thuận tìm một cách giải quyết khác...” Đây chính là
cơ chế giải quyết tranh chấp mà Công Ước quy định cho các quốc gia thành viên
để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện bảo hộ quyền tác
giả. Tuy nhiên, nếu thực hiện theo cơ chế giải quyết này, sẽ rất mất thời gian, và
chi phí để giải quyết thêm vào đó là sự phức tạp của các thủ tục quốc tế. Bên

cạnh đó, do các điều kiện kinh tế - xã hội tại thời điểm gia nhập Công ước, như
pháp luật Việt Nam quy định về quyền tác giả chưa hoàn thiện cũng như hạn chế
cùa xã hội đối với vấn đề quyền bảo hộ của tác giả còn hạn chế, đời sống chính
trị lúc còn nhiều bất ổn... cho nên việc Việt Nam bảo lưu Điều 33 Công ước Bern
khi có tranh chấp về cách giải thích và áp dụng Công ước này thì thay vì tìm đến
Toà án công lý quốc tế, các bên sẽ thỏa thuận thương lượng tìm ra một cách giải
quyết tốt nhất.
Thứ hai là bảo lưu những điều khoản có sự khác biệt với các quy định của
pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước hoặc điều kiện thực tiễn của Việt
Nam chưa đáp ứng được. Việc bảo lưu những điều khoản này xuất phát từ những
nguyên tắc ký kết và thực hiện điều ước quốc tế quy định tại Điều 3 Luật Điều
ước quốc tế năm 2016. Dù trong bất kì mối quan hệ quốc tế song phương hoặc
đa phương nào thì chủ quyền quốc gia vẫn luôn phải được đặt lên hàng đầu.
Những quy định trong Hiến pháp, pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà
nước chính là một trong những biểu hiện của chủ quyền quốc gia, đồng thời là
công cụ để giữ vững chủ quyền đó. Bên cạnh việc ký kết, tham gia vào điều ước
quốc tế thì việc xem xét có trái với pháp luật quốc gia không cũng hết sức quan
trọng, với những quy định trái này thì Việt Nam sẽ bảo lưu. Như khi nước ta gia
nhập hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì nước ta đã bảo lưu điều 11 của
công ước liên quan đến hình thức của hợp đồng.
Thứ ba, Đối với việc bảo lưu những điều khoản mà điều kiện thực tiễn của
Việt Nam chưa đáp ứng được, phổ biến nhất những tuyên bố liên quan đến các
14


điều khoản về dẫn độ trong các điều ước quy định việc các quốc gia thành viên
có thể coi điều ước là cơ sở trực tiếp để dẫn độ như các điều ước quốc tế trong
lĩnh vực hình sự quốc tế bao gồm Công ước của Liên hợp quốc về chống tham
nhũng, Công ước quốc tế về chống việc bắt giữ con tin, Công ước về cấm đánh
bom khủng bố, Công ước về cấm tài trợ cho hoạt động khủng bố. Cụ thể khi Việt

Nam gia nhập Công ước Chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia vào năm
2012, nước ta đã tuyên bố bảo lưu đối với Điều 16 của Công ước này vì quy định
của pháp luật Việt Nam về việc dẫn độ tội phạm chưa thật sự hoàn thiện, phạm vi
hợp tác song phương, đa phương còn hẹp, số lượng các điều ước song phương
được ký kết giữa Việt Nam và các quốc gia khác có liên quan trực tiếp đến dẫn
độ tội phạm còn rất hạn chế, mà chủ yếu vẫn dựa trên các hiệp định tương trợ tư
pháp.
Ngoài ra, Việt Nam còn bảo lưu quy định liên quan tới quy chế thành viên
của điều ước quốc tế, hay bảo lưu liên quan đến việc áp dụng điều ước quốc tế...
Việc đề ra bảo lưu trên tất yếu sẽ làm thay đổi những quy định trong quan
hệ giữa Việt Nam và các bên khác trong chừng mực mà bảo lưu đã nêu ra, bên
cạnh đó phần nào gây khó khăn phần nào cho việc thực hiện các điều luật trong
nước.Tuy nhiên, đối với nhiều thành viên của công ước không có điều kiện thực
hiện đầy đủ công ước, thì bảo lưu là một phương thức giải quyết hài hòa lợi ích
của các quốc gia đề ra bảo lưu nhằm thực hiện một cách đầy đủ công ước; qua
đó góp phần tăng cường số lượng thành viên tham gia điều ước quốc tế.
C. KẾT LUẬN
Như vậy, qua việc tìm hiểu quy định của pháp luật quốc tế về chế định bảo
lưu, giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát về một số vấn đề lý luận liên quan như:
cơ sở hình thành, bản chất pháp lí, các điều kiện và thủ tục tiến hành và ý nghĩa
pháp lý… Có ý nghĩa rất quan trọng trong việc trang bị cơ sở pháp lí trong việc
áp dụng pháp luật trong thực tiễn, đặc biệt là trong mối quan hệ pháp luật quốc
15


tế. Ngày nay, xu hướng toàn cầu hóa, tăng cường thiết lập quan hệ ngoại giao với
các nước kahcs trên thế giới, các tổ chức quốc tế và quan hệ đa phương, các quốc
gia nói chung và Việt Nam nói riêng, cần nghiên cứu và áp dụng có hiệu quả chế
định bảo lưu điều ước quốc tế này nhằm đem lại lợi ích tốt nhất cho quốc gia,
dân tộc; hài hòa với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế.


MỤC LỤC

16



×